Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội của đảng và nhà nước ta vào lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.25 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2011

TÊN CÔNG TRÌNH
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ -XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC-LÊNIN TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số:LLCT
Thuộc nhóm nghành khoa học:khoa học xã hội 2b
Họ và tên sinh viên:1)Nguyễn Văn Dũng
2)Nguyễn Thúy Quỳnh

Nam/Nữ:Nam

Dân tộc : Kinh

Nam/Nữ:Nữ

Dân tộc: Kinh

Lớp :Bk3.13

Năm thứ :1/5

K55 nhóm ngành 03

Tel: 01649953103


Giáo viên hướng dẫn: Ths Hoàng Thị Bình
Khoa lý luận chính trị
1


LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới đất nước để đi lên chủ nghĩa xã
hội ,nên việc nghiên cứu và vận dụng lý luận hình thái kinh tế -xã hội của chủ
nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước là rất quan
trọng.Mục tiêu của đất nước ta là tới năm 2020 cơ bản trở thành một nước công
nghiệp ,bởi vậy việc nghiên cứu và vận dụng lý luận vào thực tiễn càng cần được
thúc đẩy và thực hiện tích cực .Hơn nữa việc nghiên cứu lý luận và áp dụng vào
thực tiễn giúp chúng ta chứng minh được rằng sự sụp đổ của các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu và người anh cả Liên xô không phải là sự đổ hoàn toàn của chủ
nghĩa xã hội ,của lý luận hình thái-kinh tế xã hội chủ nghĩa như các thế lực chống
xã hội chủ nghĩa đã nói vào những năm cuối của thế kỉ hai mươi.Sự sụp đổ đó chỉ
là sự bài trừ bác bỏ mô hình kinh tế tập chung của xã hội chủ nghĩa khi hoàn cảnh
lịch sử thay đổi,còn lý luận hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa của Mác-Lênin luôn
đúng trong mọi hoàn cảnh lịch sử vấn đề là chúng ta cần áp dụng nó đúng đắn
vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia .Hiện nay do vai trò lịch sử
của chủ nghĩa tư bản vẫn chưa hết nên sự đấu tranh và chứng minh tính đúng
đắn của lý luận vẫn luôn rất gay gắt giữa các nước theo xã hội chủ nghĩa và các
nước tư bản,có rất nhiều các nhà kinh tế học trên thế giới quan tâm tới vấn đề này
và có nhiều dự đoán khác nhau về thời gian mà chủ nghĩa xã hội thành công trên
toàn thế giới.Trong nước có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vận dụng lý
luận vào thực tiễn nước ta của đảng và nhà nước và tất cả các công trình đều
chung một mục đích đó là cung cấp cho chúng ta thêm kiến thức về lý luận sau đó
là chúng ta tìm hiểu xem lý luận ấy đã được ứng dụng vào thực tiễn như thế nào
và hiệu quả của việc vận dụng đó ra sao.Công trình này của chúng em cũng với
một mong muốn và mục đích như vậy,từ việc nghiên cứu đề tài chúng em hiểu

thêm được về lý luận và sự vận dụng lý luận vào thực tiễn của đảng ta.Với tư
cách là thế hệ tiếp bước tương lai của đất nước,tiếp tục kế thừa và phát huy “tài
sản” của Ông cha đã để lại ,chèo lái con thuyền “đất nước” trên hành trình cập
bến “xã hội chủ nghĩa” chúng em muốn đóng góp cho đất nước với tất cả lòng
nhiệt huyết và kiến thức mà mình có được trong quá trình học tập,tích lũy vì sự
2


phát triển giàu mạnh của tổ quốc.Đề tài nghiên cứu lý luận trong phạm vi sự vận
dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình lãnh
đạo công cuộc đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam.Để nghiên cứu làm rõ các
khía cạnh của đề tài,thì đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
xã hội nhân văn như:Phương pháp thống kê,phương pháp lịch sử,logic,tổng
hợp.Đề tài đóng góp vào làm chứng minh tính đúng đắn của lý luận hình thái kinh
tế-xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng hợp lý có hiệu quả vào thực tiễn của đảng
và nhà nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước.Đề tài góp phần bổ trợ thêm
cho môn triết học ,từ đó giúp sinh viên hiểu rõ hơn về lý luận hình thái kinh tế -xã
hội và thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ của mình đóng góp vào công cuộc công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Đề tài gồn ba phần:Phần lời mở đầu ,phần nội dung ,phần kết luận.
Phần lời mở đầu gồm 2 trang
Phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1:Khái quát chung về hình thái kinh tế-xã hội.
Chương 2: Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa
Mác- -Lênin vào công cuộc đổi mới của đảng và nhà nước ta.
Phần kết luận :Gồm 2 trang

3



CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI
I CẤU TRÚC CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI.
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản
xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân
con người. Ba quá trình sản xuất này, gắn bó chặt chẽ với nhau,tác động qua lại
lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tổn tại và phát triển của xã
hội. Theo Ph.Ăngghen : "Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người và xã hội
loài vật là ở chỗ: Loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại biết sản
xuất ra của cải vật chất ".
Như vậy, sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao
động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo
ra của cải vật chất,để thỏa mãn với nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.,
thực chất của quá trình sản xuất vật chất chính là quá trình con người thực hiện
việc cải biến môi trường tự nhiên nhằm mục đích sáng tạo ra những điều kiện vật
chất cần thiết để sinh tồn và phát triển.
4


Con người cũng sản xuất ra nhiều của cải vật chất, sáng tạo ra toàn bộ các mặt
của đời sống xã hội. Từ điều kiện đó, tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp
quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo…. đều được hình thành, biến đổi trên cơ sở
sản xuất .Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi
tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời cũng làm biến đổi bản thân mình.Bên cạnh đó
con t vật chất. Từ khái quát lịch sử phát triển của nhân loại Mác đã kết luận:" Việc
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp vào mỗi một giai đoạn phát
triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó

người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền và thậm chí
là cả những quan điểm tôn giáo của con người”. Sự phát triển của sản xuất vật
chất quyết định đến sự biến đổi và phát triển các mặt của đời sống xã hội từ thấp
đến cao. Chính vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản
xuất vật chất của xã hội.

2.

Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục giới
tự nhiên bằng tất cả sức mạnh của mình trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội,
hay là cái nói lên cái năng lực của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của
cải xã hội.
Lực lượng sản xuất được tạo thành do có sự kết hợp giữa lao động với tư
liệu sản xuất, mà trước hết là với công cụ lao động kết hợp với nhau .
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và tái
sản xuất xã hội bao gồm ba mặt: các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất , các
quan hệ trong tổ chức quản lí và sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm
sản xuất.

5


Trong một xã hội, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn tồn tại trong
mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau không thể tách rời. Sự biến đổi của lực
lượng sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ, và xét cho cùng nó bắt đầu từ sự biến
đổi và phát triển đó, mà trước hết là công cụ lao động . Cùng với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thì quan hệ sản xuất cũng được hình thành và phát triển sao
cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất . Đương nhiên, khi trình độ của

lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của nó cũng biến đổi theo . Trình độ của
lượng sản xuất là khái niệm nói lên khả năng của con người thực hiện quá trình
biến đổi và thích nghi với giới tự nhiên nhằm bảo đảm cho sự sinh tồn và phát
triển của mình thông qua công cụ lao động . Trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là sản phẩmcủa sự kết hợp giữa các nhân tố:

•Trình độ của công cụ lao động
•Trình độ tổ chức lao động xã hội
•Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất
•Trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người
•Trình độ phân công lao động
Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm nêu lên tính chất xã hội hoá của tư
liệu sản xuất và của lao động . Ứng dụng với sự phát triển của nền sản xuất xã
hội được thể hiện thông qua sự phát triển của công cụ lao động, thì tính chất xã
hội cũng biến đổi theo . Tuy vậy, trong nền sản xuất xã hội đôi khi trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất không đi đôi với tính chất xã hội hoá của nó . Mặt
khác tinh chất của nó còn phản ánh khả năng chinh phục giới tự nhiên của con
người, và khả năng này chỉ đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lượng sản xuất . Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu
thành quan hệ sản xuất tạo điều kiện đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển .
Như vậy, lực lượng sản xuất quyết định đến sự hình thành và phát triển của quan
hệ sản xuất, một khi lực lượng sản xuất biến đổi dù sớm hay muộn thì quan hệ
sản xuất cũng phải biến đổi sao cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
mới. Tuy vậy, quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lượng
6


sản xuất . Quan hệ sản xuất tác động trở lại với lực lượng sản xuất, quy định mục
đích xã hội của sản xuất, tác động đến khuynh hướng phát triển của công nghệ .

Trên cơ sở đó hình thành nên một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm
sự phát triển của một lực lượng sản xuất . Khi quan hệ sản xuất phù hợp, phát
triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì sẽ thúc đẩy sự phát của lực
lượng sản xuất, trong trường hợp ngược lại, quan hệ sản xuất - nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Và nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc “tiên
tiến” nhưng lại là một cách giả tạo thì cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không
phát triển được.
Như vậy quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến có tác động tới toàn bộ quá trình phát triển
của lịch sử loài người từ xã hội công xã nguyên thuỷ đến xã hội cộng sản tương
lai và là quy luật cơ bản nhất trong hệ thống các quy luật xã hội .

3. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng .
Trong hình thái kinh tế- xã hội khái niệm cơ sở hạ tầng được sử dụng để chỉ
tổng thể những quan hệ sản xuất hiện thực tạo thành một kết cấu kinh tế của xã
hội. Theo cách định nghĩa như vậy, khi nói đến cơ sở hạ tầng của một xã hội thì
thực chất là nói đến cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội đó và do vậy mà ta cũng có
thể gọi tắt là cơ sở kinh tế của xã hội đó.
Để hiểu sâu về cơ sở hạ tầng của một xã hội ta co thể phân tích theo cấu trúc
hai lớp: đó là chiều sâu và bề nổi hiên thực của nó. Theo cấu trúc chiều sâu thì cơ
sở hạ tầng của một xã hội đó là hệ thống đan xen các loại hình quan hệ sản xuất
được dựa trên ba phương diện sở hữu: tổ chức, quản lí, và phân phối của quá
trình sản xuất và tái sản xuất của một xã hội. Bề nổi của những quan hệ đó chính
là tổng thể cơ cấu và hoạt động của một cơ cấu kinh tế trong hiện thực khách
quan. Như vậy, ta cũng có thể định nghĩa cách khác về cơ sở hạ tầng đó là chỉ hệ
7


thống cơ cấu kinh tế hiện thực được xác lập trên cơ sở hệ thống những quan hệ

sản xuất của xã hội.
Kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, đạo dức, tôn giáo, nghệ thuật,….. cùng với những thiết chế xã hội tương
ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội các đoàn thể xã hội, ….. được hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Nói một cách dễ hiểu thì kiến trúc thượng tầng
là khái niệm dùng để chỉ khái quát toàn bộ những phương diện còn lại của xã hội tức là phương diện về mối quan hệ giữa con người với con người trên các lĩnh
vực tư tưởng cùng với các tổ chức, thiết chế chính trị- xã hội.
Từ khái niệm về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, có thể thấy rằng
chúng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội. Sự phân tích hai phương
diện này trong lí luận hình thái kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin đã cho ta
thấy không những cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện
chứng, đan xen vào nhau mà còn cho ta thấy nguyên lí về tính quyết định của cơ
sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, và một nội dung hết sức cơ bản của
nguyên lí này đó là:" Kinh tế quyết định đến chính trị, mà chính trị lại là biểu hiện
tập trung của kinh tế ". Có thể nói đây là một trong những nguyên lí hết sức cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội, ta có thể phân tích trên bốn phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất: Cơ sơ hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội tồn tại trong tính
quy định thống nhất với nhau. Kiến trúc thượng tầng là các hình thức chính trị,
pháp luật,….. của các quan hệ kinh tế và hoạt động kinh tế hiện thực của xã hội.
Ngược lại,cơ sở hạ tầng lại là cơ sở kinh tế để hình thành nên những quan hệ và
hoạt động chính trị, pháp luật,.…..trong hiện thực đời sống của xã hội. Trong thực
tế xã hội những quan hệ và hoạt động kinh tế sẽ không thể thực hiện được nếu
như nó thiếu những hình thức chính trị, pháp luật nhất định. Chẳng hạn, quan hệ
sở hữu tư liệu sản xuất trong cơ sở hạ tầng sẽ không thể được đảm bảo trong
8


thực tế nếu như nó thiếu đi một hình thức pháp lí và thiết chế hoạt động của một

loại hình thức nhà nước tương ứng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội đó.
Thứ hai: Trong mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì
vai trò quyết định thuộc về cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Hay nói khác thì cơ
sở kinh tế là nhân tố quyết định đến chính trị, nhà nước,…. Tính quyết định này có
thể được phân tích trên hai phương diện : Một là cơ sở hạ tầng nào thì tất yếu sẽ
làm nảy sinh kiến trúc thượng tầng ấy. Hai là khi cơ sở hạ tầng có những biến đổi
nhất định của các nhân tố thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Thứ ba: Các nhân tố thuộc kiến trúc thượng tầng đều có thể tác động đến
cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội với những mức độ khác nhau và với những
phương thức khác nhau. Sự tác động đó có thể diễn ra theo hai khả năng đó là
tích cực và tiêu cực. Hai khả năng này tùy thuộc vào sự phù hợp hay không phù
hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng và mức độ cùng phạm vi phù
hợp của nó.
Thứ tư: Mối quan hệ giữa cơ sơ hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội là mối quan hệ biện chứng, chúng vừa có khả năng thống nhất với nhau, lại
vừa có khả năng đối lập, xung đột với nhau. Chính sự vận động của mâu thuẫn
này cũng là một quy luật cơ bản của xã hội. Sở dĩ như vậy là vì có cơ sở hạ tầng
kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển của lượng sản xuất, trong khi đó các
nhân tố của kiến trúc thượng tầng lại trực tiếp phụ thuộc vào các nhận thức chủ
quan của con người, của các tập đoàn, các lực lượng và các giai cấp trong xã hội.
Cũng chính vì vậy mà một khi có mâu thuẫn giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở
hạ tầng của xã hội thù cần có những cuộc cải cách và cao hơn là những cuộc
cách mạng đóng vai trò là phương thức thực hiện sự điều chỉnh mối quan hệ đó
để tạo ra sự thống nhất mới giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng của xã
hội.
Như vậy, về nhu cầu khách quan tính tất yếu của quy luật là kiến trúc
thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng của xã hội. Thế nhưng trong thực tế
9



luôn luôn có khả năng diễn ra sự không phù hợp giữa chúng và nguyên tắc xử lí
sự không phù hợp ấy phải là làm cho kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ
tầng và chỉ có nguyên tắc như vậy, thì mới có khả năng tạo ra tác động tích cực
của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng, nhờ đó khiến cho cơ sở hạ tầng có
được tác dụng tích cực đối với sự bảo tồn và phát triển các lực lượng sản xuất
của xã hội.

II.

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về hình thái kinh tế xã
hội.
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lich sử dùng để chỉ
xã hội ở những giai đoạn phát triển, những hình thái khác nhau và những hình
thái cụ thể của sự vận động xã hội, là một chỉnh thể thống nhất của cơ
sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, thích ứng với một giai đoạn nhất định của
sự phát triển của lượng sản xuất.
Hình thái kinh tế xã hội bao gồm hình thái kinh tế, hình thái chính trị và hình
thái ý thức, đó là sự thống nhất lịch sử cụ thể. Hình thái kinh tế là cơ sở của hình
thái xã hội, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đến sự phát
triển của xã hội từ thấp đến cao.
Mác và Lênin đã thường sử dụng phạm trù " hình thái xã hội" và hình thái "
kinh tế - xã hội " với ý nghĩa tương đồng, đồng thời cũng đã giải thích về " tổng
hòa quan hệ sản xuất ", đó là phương diện cơ bản của hình thái kinh tế xã hội. Và
kiến trúc thượng tầng được dựng trên cơ sở kinh tế là bộ phận không thể phân
cắt của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Một hình thái xã hội nhất định nói
chung đều phải lấy hình thức chế độ xã hội để biểu hiện ra. Xã hội loài người ngày
10



càng không ngừng phát triển , sự biến đổi và tiến bộ có tính căn bản của xã hội là
thông qua bằng việc thực hiện thay thế các quan hệ sản xuất ấy.
Có thể nói rằng: Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có
cấu trúc phức tạp trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng,
tác động qua lại lẫn nhau và thống nhất với nhau. Trong đó quan hệ sản xuất là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt với các chế độ xã hội khác.

2. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên.
Xã hội loài người đã phải trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.
Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vân động, phát triển khách quan của xã hội
C.Mác đã đi đến kết luận : " Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên ".
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau để tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định đến kiến trúc
thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động khách quan đó mà
các hình thái kinh tế - xã hội luôn vận động và phát triển từ thấp đến cao.

Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển đó đã quyết định đến sự thay đổi của
quan hệ sản xuất. Khi quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng
11


thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình
thái kinh tế xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Qúa trình đó được diễn ra một cách

khách quan chứ không phải theo một ý muốn chủ quan. Theo quan niệm của
V.I.Lênin thì :" Chỉ có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và
đem những quan hệ sản xuất vào hình thai kinh tế xã hội ".
Trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển xã hội loài người, sự thay thế và
phát triển từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là đến xã hội cộng sản. Có
được sự phát triển như vậy là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội,
trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Đúng như C.Mác đã viết :" Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lí về chính trị và những hình thái
ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó.
Như vậy xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã
hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện
thực mà trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học đạo đức, tôn giáo….. cùng với những thiết chế xã hội như nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội được hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định. Như vậy, trong một xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng
mang tính giai cấp, trong đó nhà nước có vai trò cực kì quan trọng. Đó là tiêu biểu
cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống
trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt trong đời sống xã
hội.
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo
thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội
12


cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng đẻ chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch

sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng
tương ứng được xây dựng trên những trình độ của những lực lượng sản xuất thì
người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Sự tác động khách quan của các quy luật đã làm cho các hình thái kinh tế xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung
của nhân loại. Song con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ chi phối bởi
các quy luật chung ấy mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính
trị, về truyền thống, văn hóa, điều kiện quốc tế ….. Chính vì vậy mà lịch sử phát
triển của nhân loại là hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi một dân tộc đều có một
nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải
qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, nhưng cũng có những dân tộc
bỏ qua một hay một hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Tuy nhiên việc bỏ qua đó
cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên, chứ không theo một ý muốn chủ
quan.
Như vậy sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên của sự phát triển xã hội. Qúa trình đó không những diễn ra theo con
đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

3.

Gía trị khoa học của lí luận hình thái kinh tế - xã hội.

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội.
Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học một
phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
đã chỉ ra : Sản xuât vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, và phương thức sản
xuất quyết định đến các mặt của đời sống xã hội, cho nên không thể xuất phát từ
13



ý thức, tư tưởng từ ý chí chu quan của con người để giải thích các hiện tượng
trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất
Học thuyết cũng chỉ ra rằng : Xã hội không phải là sự kết hợp một cách
ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân với nhau mà là một cơ thể sống động, các
mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ
sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định đến các quan hệ xã hội khác, đó còn là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội, để phân kì lịch sự một cách
đúng đắn và khoa học
Học thuyết còn chỉ ra : Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ
không theo một ý muốn chủ quan nào cả. Vì thế cho nên V.I.Lênin đã quan niệm
rằng : " Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng, một cơ thể mà
muốn nghiên cứu thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản
xuất cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và cũng cần phải nghiên
cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội đó.
Ngày nay có quan điểm cho rằng cần thay thế lý luận đó bằn cách tiếp cận
khác ,nhất là cách tiếp cận theo nền văn minh.Ông Alvin Toffler ,nhà tương lai học
nổi tiếng người Mĩ,ông phân chia lịch sử nhân loại thành ba nền văn minh:Văn
minh nông nghiệp,văn minh công nghiệp,văn minh hậu công nghiệp .
+Nền văn minh nông nghiệp là nền văn minh có nền kinh tế khép kín,tự cung
tự cấp,dân cư sống thành làng mạc,chủ yếu làm nông nghiệp.
+Nền văn minh công nghiệp được bắt đầu từ năm 1650-1750,nó được thực
hiện bởi cuộc cách mạng khoa học kĩ thật.Nền văn minh này có sự phân công lao
động sâu sắc,công nghiệp giữ vai trò thống trị nền kinh tế.

14



+Nền văn minh hậu công nghiệp bắt đầu ở Mĩ sau đó lan rộng tới
Nhật,Anh,Pháp..vào những năm 50 của thế kỉ XX,nền văn minh này gắn liền với
những ngành khoa học,công nghiệp mới như Lượng tử,tin học ,sinh học phân
tử,công nghệ gen,năng lượng mặt trời…
Cách phân chia như vậy ,mặc dầu có đề cập đến các mặt khác của đời sống xã
hội ,nhưng cách phân chia ấy lại tập chung chủ yếu vào sự phát triển của sản xuất
,vào trình độ phát triển của kinh tế.Suy cho cùng cách phân chia ấy dựa vào trình
độ phát triển cơ bản của lực lượng sản xuất và phân chia các thời đại kinh tế
trong việc xem xét kinh tế của mỗi nước.Cách tiếp cận đó còn quá phiến
diện,không nêu ra được cơ sở để phân chia các chế độ xã hội ,cũng không chỉ ra
được mối quan hệ giữa các mặt trong xã hội và quy luật thay thế xã hội này bằng
xã hội khác cao hơn.Chính vì vậy nó không thể thay thế được lý luận hình thái
kinh tế -xã hội.

CHƯƠNG 2:
SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI
KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀO CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
1. Tính tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
15


Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế -xã hội của chủ nghĩa Mác-lênin vào
việc đề ra chiến lược cho cách mạng nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội là rất quan
trọng.Đường lối cách mạng do chủ tịch HỒ CHÍ MINH và đảng ta nêu ra là sự vận
dụng sang tạo hình thái kinh tế-xã hội vào điều kiện Việt Nam.Đây là sư lựa chọn
hướng đi đúng đắn và xác định mục tiêu chính xác cho sự phát triển đi lên của
đất nước.Việc lựa chọn và xác định này đã được đảng và nhà nước ta xác định
ngay từ những ngay đầu thành lập .Sau nay thực tế đã chứng minh được rằng sự

lựa chọn và xác định ấy luôn đúngvới mọi sự biến động của đất nước.trong sách
lược vắn tắt và luận văn chính trị của đảng ta năm 1930 đã ghi rõ cánh mạng Việt
Nam sẽ đi theo con đường tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới chủ nghĩa cộng sản ,bỏ qua giai đoạn của chủ nghĩa tư bản.Chúng ta lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn không qua giai đoạn của
chủ nghĩa tư bản không có nghĩa là chúng ta gạt bỏ tất cả quan hệ sở hữu cá thể
tư nhân chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể mà trái lại là tất cả những gì thuộc
về sở hữu tư nhân góp phần nào vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như
một bộ phận tự nhiên của quá trình xây dựng kinh tế xây dựng chủ nghĩa xã
hội.Nhưng cái mà chúng ta phải bỏ qua đó là măt chính trị của chế độ tư bản,tức
không thể hình thành một hệ thống giai cấp tư sản trong xã hội nước ta .Một chế
độ mà trong đó đa số phải phụ thuộc vào thiểu số đây là cái mà chúng ta đang
muốn gạt bỏ nó khỏi xã hội Việt Nam, bởi chế độ đó mang lại không biết bao
nhiêu sự áp bức bóc lột một cách dã man đối với nhân dân ta.Sự lựa chọn này là
kết quả trưc tiếp nảy sinh từ sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin,chủ nghĩa xã hội
khoa học ở Bác sau một thập niên (1911-1920).Khi Bác trở thành một người cộng
sản và những năm sau này Bác luôn nhất quán khẳng định rằng giải phóng giai
cấp ,giải phóng dân tộc chỉ có thể thưc hiện được bằng con đường cách mạng vô
sản,bằng công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ,xã hội cộng sản chủ nghĩa.Việt
Nam sẽ trở thành một nước tự do, độc lập,nhân dân được hưởng một cuộc sống
ấm no hạnh phúc thực sự chứ không phải là sự tự do,hạnh phúc ,độc lập giả dối
như những nước thực dân,đế quốc đã nói trong các bản tuyên ngôn độc lập của
họ.

16


Khi miền Bắc được giải phóng,trong khi đó miền Nam ruột thịt vẫn còn đang
chìm trong khói lửa của bọn đế quốc,khi đó đặt ra một câu hỏi đặt ra một câu hỏi
cho đảng và nhan dân ta:Miền Bắc có nên thực hiện ngay vào thời kì quá độ lên

chủ nghĩa xã hội hay không khi một nửa tổ quốc vẫn còn chưa được giải phóng?
Lúc ấy đảng và nhân dân ta khẳng định là phải đồng thời xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc ,vừa phải tiếp tục đấu tranh để giải phóng miền Nam,giải phóng
hoàn toàn đất nước.
Sau Khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng lại một câu hỏi nữa đặt ra cho
đảng ta đó là: Cả hai miền nam bắc cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội hay chỉ có miền
bắc?Khi ấy đảng ta đã đưa ra một quyết định rất đúng đắn là cả hai miền nam bắc
cung tiến lên xã hội chủ nghĩa.
Vào thập kỉ 80 của thế kỉ XX đất nước ta cùng với nhiều nước trên thế giới lâm
vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng,đặc biệt là hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa bấy giờ.Do vận dung không linh hoat lý luận hình thía kinh tế -xã hội nên
sau một thời gian khủng hoảng kinh tế không lâu thì chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và cả người anh cả Liên Xô đã chao đảo và hoàn toàn sụp đổ vào cuối
thập kỉ 80.Vào thời gian có tính chất sống còn đối với chế độ xã hội chủ nghĩa,nếu
như không vượt qua được cuộc khủng này thì tất cả những gì mà chúng ta đạt
được chỉ là con số không và hệ thống xã hội chủ nghĩa coi như sụp đổ hoàn
toàn.Hơn nữa chúng ta còn là ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc
nếu chúng ta bị sup đổ thì các thế lực thù địch sẽ lật đổ tất cả những nước đi theo
xã hội chủ nghĩa còn lại và đó cũng là điều mà các nước tư bản luôn mong
muốn.Và điều ấy đã không thẻ xảy ra bởi đảng ta đã đưa ra đươc quyết định đổi
mới canh tân đât nước vô cùng sáng suốt.Một quyết định và sách lược sáng suốt
đã được kịp thời đưa ra.Đảng ta quyết định đổi mới đất nước,chủ trương xây
dựng và phát triển nền kinh tế đa thành phần lấy kinh tế nhà nướ làm chủ đạo.Một
nềm kinh tế đa thành phần,vận hành theo cơ chế nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ,một cơ chế vô cùng độc đáo chưa từng xuất
hiện ở bất cứ nước nào trên thế giới và nó đã mang lại hiệu quả rõ rệt.Một lần
nữa thực tiễn đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đảng ta là
đúng đắn.
17



Có thể nói rằng những quyết sách của đảng ta ở trong thời kì này đã thể hiện
sự năng động sáng tạo về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn
cùng bản lĩnh chính trị vững vàng kiên định.Đổi mới để phát triển ,để thoát khỏi
tình trạng khủng hoảng ,để vượt qua sự kìm hãm của mô hình cũ-mô hình kinh tế
bao cấp.Chúng ta không chỉ đổi mới về mô hình kinh tế mà còn đổi mới về
phương pháp quản lý xóa bỏ tệ quan liêu tham nhũng , cơ chế cứng nhắc.Sự đổi
mới đó đã giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát triển của xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh,đúng với
quy luật khách quan ,phù hợp với quang cảnh ,điều kiện thực tế của đất nước với
xu thế,đặc điểm của thế giới hiện đại.Đổi mới là để xây dựng một xã hội chủ nghĩa
hiệu quả hơn,làm cho chủ nghĩa xã hội bộc lộ và khẳng định bản chất của nó từng
bước định hình và phát triển trong thực tế,làm cho đời sống vật chất ngày càng
tăng ,đời sống tinh thần ngày càng tốt,xã hội ngày càng văn minh tiến bộ.Nhân
dân có một cuộc sống ấm no hạnh phúc,được học hành phát triển hết những khả
năng của bản thân cống hiến cho đất nước,nhân dân thực sự làm chủ cuộc sống
của mình và xã hội.
Bao nhiêu khó khăn gian khổ mà đất nước chúng ta ,đất nước Việt Nam đã
trải qua đã cho chúng ta được đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan .Công
cuộc đổi mới của đảng ta đã xác lập một sự bình ổn mới làm cho đất nước đạt tới
sự phát triển bền vững.Chúng ta cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự năng
động hơn nữa ,tích cực hơn nữa,sáng tạo và phù hợp hơn nữa với tình hình kinh
tế -xã hội hiện nay.Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng sẽ là chế
độ phát triển và sử dụng tốt nhất những nguồn lực của chính mình ,trong đó sức
mạnh quyết định chính là nguồn lực con người.Đó là mục tiêu quan trọng nhất của
chủ nghĩa xã hội.

2. Những nhiệm vụ của thời kì đầu trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.


18


Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì tạo ra cơ sở vật chất và con
người cho chủ nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện này.Với điều kiện và hoàn
cảnh ở Việt Nam đã đặt ra cho chúng ta rất nhiều những nhiệm vụ khác nhau
nhằm thực hiện mục tiêu đề ra để phát triển đất nước.Trong thời kì này đảng và
nhà nước ta luôn nhấn mạnh thực hiện theo tư tưởng của Lênin đó là chúng ta
phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản ,nhất là hướng vào chủ nghĩa tư bản nhà nước
,làm khâu trung gian để chuyển một nước tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở
vật chất cho nền sản xuất lớn hiện đại .Tạo ra những điều kiện tất yếu về vật
chất, kĩ thuật, con người và khoa học công nghệ ,huy động mọi nguồm vốn, nguồn
lực lao động ,nâng cao tay nghề cho người lao động làm cho nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững.Két hợp với tổ chức thường xuyên cho mọi tầng lớp nhân
dân , đặc biệt là học sinh ,sinh viên về quan điểm và chủ chương thực hiện của
đảng để tránh đi lệch khỏi hướng xã hội chủ nghĩa mà đảng và nhà nước ta đã
xác định từ đầu.Quan tâm chăm lo tới đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Tại đại hội đảng lần thứ năm và việc thực thi nghị quyết đại hội chúng ta còn
thấy nhiều bế tắc trong quản lý,nền kinh tế tư nhân bị kìm hãm phát triển ,nói đúng
hơn là bị ngăn cấm triệt để.Quản lý kinh tế khi đưa ồ ạt nông dân miền Nam,Tây
Nguyên vào làm ăn tập thể,thể hiện tư tưởng bảo thủ ,trì trệ trong quan lý của
đảng và nhà nước.Kinh tế trong nước mất cân đối,kinh tế quốc doanh thua lỗ
nặng .Thời gian đó nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng quyệt quệ,đời sống
nhân dân rất khó khăn,khổ cực .Tất cả những điều ấy đã thay đổi toàn bộ,ta thấy
được điều đó trong nghị quyết đại hội VI của đảng . Trong văn kiện đại hội VI của
đảng đã nêu rõ “Mục tiêu về kinh tế , xã hội cho những năm còn lại của chặng
đường năm đầu đổi mới (1986-1990) là sản xuất đủ tiêu dùng có tích lũy ,bước
đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất …” “ứng dụng rộng
rãi các thành tựu khoa học kĩ thuật ,nhất là các thành tựu về cây trồng vật nuôi,tạo

ra vật liệu mới,sản phẩm mới từ nguyên liệu trong nước..” “sắp xếp ,bố trí lại cơ
cấu và bước đi trước mắt ,phù hợp với khả năng thực tế của đất nước…”. Đại hội
đảng lần thứ VI chú trọng tới vấn đề thiết yếu đó là “ Lương thực -thực phẩm”
“Hàng tiêu dùng “ “Hàng xuất khẩu” cùng nhiều vấn đề khác như khoa học kĩ
19


thuật ,đời sống của nhân dân .Với quá trình mới về sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước còn nhiều thách thức khó khăn trước mắt đảng và nhà
nước đã đề ra những nội dung cần thực hiện để thực hiện mục tiêu đó:
+ Tăng thêm tốc độ và tỉ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân.Đầu tư cho nền nông nghiệp để luôn đảm bảo về an ninh lương trong
nước.
+ Dựa trên sự thay đổi về công nghệ chúng ta phải chuyển dich cơ cấu
kinh tế để dần tới sự tăng trưởng nhanh và bền .
+ Khuyến khích và đào tạo những tài năng trẻ nhằm tạo ra nguồn nhân
lực có chất lượng cao cho đất nước .
+ Thực hiện chuyển giao công nghệ kết hợp với năng lực sáng tạo của
quần chúng.Muốn vậy cần phải nắm bắt đầy đủ chính xác các thông tin cần thiết
thông qua các công ty tư vấn trong và ngoài nước để đảm bảo công nghệ lựa
chọn là chính xác và phù hợp.Mở rông liên kết kinh doanh với nước ngoài với sự
giám sát chặt chẽ của nhà nước ta,để có thể khai thác công nghệ một cách trực
tiếp.
+ Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cần phải chấn chỉnh, đổi mới và có hiệu quả
khu vực doanh nghiệp nhà nước làm tốt vai trò hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần
kinh tế khác phát triển .
+ Thận trọng trong sự phát triển xã hội,mở rộng giao lưu văn hóa với các
nước trên thế giới,cần có biện pháp ngăn chặn sự thâm nhập của những văn hóa
không tốt kết hợp với giữ gìn bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc.

Liên tục đổi mới cơ chế của bộ may nhà nước tránh lặp lại cơ chế chuyên quyền
độc đoán trong bộ máy nhà nước đã từng mang lại hậu quả nghiêm trọng.
+Chống quan liêu độc đoán , chủ quan cá nhân.
+Phân biệt rõ chức năng ,thẩm quyền của các cấp các nghành.
+Phải đưa ra một hệ thống luật pháp chặt chẽ,hợp tình hợp lý,phù hợp
với những phong tục tập quán tốt.Phổ biến và thực thi nghiêm chỉnh mọi điều lệ
đã ra. Liên tục thăm dò và lấy ý kiến của nhân dân để hoàn thiệnhơn các bộ luật.
20


+Luật bảo vệ môi trường phải được thực thi và có sự kiểm tra giám sát cụ
thể sát sao,để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Kinh tế tập thể phải không ngừng được phát triển bởi đó là nền tảng của nền
kinh tế quốc dân.kinh tế tư nhân là một thành phần không thể thiếu ,nó là một
trong những động lực của nền kinh tế.Ngoài ra thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển .Các yếu tố thị trường được tạo lập
đồng bộ ,các loại hình thị trường từng bước được xây dựng và phát triển tuân
theo quy luật của nền kinh tế thị trường.Nhưng cần phải nâng cao năng lực của
cán bộ quản lý thị trường tránh để thị trường rơi vào tình thế không kiểm soát
được
.
Trong đó khoa học công nghệ luân giữ vai trò then trốt trong phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại ,bảo vệ tài nguyên môi trường ,nâng cao năng suất và
trình độ sản xuất tăng tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế.Sự phát
triển khoa học kĩ thuật đánh giá trình độ phát triển và dân trí của một quốc gia bởi
vậy mà khoa học kĩ thuật luôn được quan tâm và tạo điều kiện phát triển.Nghiên
cứu và áp dụng các thabhf tựu khoa học vào thực tiễn,trước hết là ưu tiên cho các
lĩnh vực như y tế,nông nghiệp,ngư nghiệp,lâm nghiệp và sau đó là các nghành
khác như hóa chất ,công nghệ thông tin,điện tử viễn thông…
Lập kế hoạch và thực thi việc xây dựng và tập trung phát triển các trung tâm

công nghiệp,trung tâm kinh tế của cả nước.Xây dựng cơ sở hạ tầng vững
chắc,đẩy mạnh quá trình đô thị hóa,nhưng tránh xây dựng đô thị ồ ạt thiếu chất
lượng gây hậu quả nghiêm trọng.Cải tạo ,nâng cấp và xây mới các hạng mục
công trình giao thông,cơ sở hạ tầng đô thị tạo điều kiện cho kinh tế phát triển
Đảng và nhà nước luôn cố gắng đưa ra các chính sách và tạo điều kiện cho
mọi công dân tham gia hoạt động sản xuất đóng góp cho sự phát triển của đất
nước.Chăm lo cho đời sống ,an sinh xã hội cho nhân dân đặc biệt là cho những
trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ,những người cô độc có hoàn cảnh khó
khăn.Quan tâm tới đời sống ,sức khỏe của các cựa chiến binh ,gia đình các liệt
21


sĩ ,gia đình có công với cách mạng ,họ là những người đóng góp tuổi thanh xuân
thậm chí là mạng sống của mình để mang lại cho chúng ta cuộc sống ấm no hạnh
phúc ngày hôm nay.
Thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ,tích cực giúp đỡ các gia đình gặp khó

khăn tạo điều kiện cho họ làm ăn kinh tế,giúp đỡ vốn hoặc cho vay dài hạn với lãi
suất thấp.Tạo điều kiện cho những người đã từng lầm đường lạc lối để họ làm lại
cuộc đời và hòa nhập với đời sống cộng đồng,không phạm lại sai lầm.Quan tâm
tới đời sống của các đồng bào dân tộc thiểu số,tạo điều kiện giúp đỡ cho họ làm
ăn,tuyên truyền phổ biến chủ trương của đảng cho họ.

3. Những thành tựu của đảng và nhân dân ta đã đạt được sau
hơn hai mươi năm đổi mới canh tân đất nước.
Sau hơn hai mươi năm kể từ nghị quyết của đảng và nhà nước ta tại đại hội lần
thứ VI,sự đồng lòng quyết tâm của nhân dân cùng đảng ,nhà nước chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu lớn về nhiều mặt.
*Về thưc hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế đất nước đạt được nhiều kết quả quan
trọng.

Nền kinh tế đã vượt qua khủng hoảng và đạt được mức tăng trưởng rất ấn
tượng, chất lượng ,hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và một số sản
phẩm có chuyển biến.Tốc độ tăng trưởng GDP thay đổi rất nhanh thể hiển qua số
liệu trong một số năm như sau.
+Giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng GDP còn chậm trung bình
tăng4,4%/năm,nhưng tới giai đoạn 1991-1995 GDP trung bình đã tăng 8,2% đất
nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh bắt đầu đẩy mạnh quá trình công
22


nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Năm 2005 đạt được tốc độ tăng trưởng cao
8,4%/ năm, năm 2007 là 7,87%.
Thu nhập bình quân của nhân dân cũng khá cao năm 2008 là
1024USD/người/năm đời sống nhân dân tăng cao hơn rất nhiều so với thời kì bao
cấp và những năm đầu của thời kì đổi mới.
Tiếp tục thực hiện tích cực chủ trương giữ vững nền độc lập ,tự chủ nền
kinh tế có tiến bộ đáng kể trong việc phát huy các nguồn lực của đất nước , của
các thành phần kinh tế cho đầu tư và phát triển.Kinh tế nhà nước vẫn giữ được
vai trò và vị trí quan trọng:
+Kinh tế nhà nước chiếm 38,4% trong tổng GDP của cả nước vào năm
năm 2005
+kinh tế dân doanh là 45,7%,kinh tế hợp tác xã là 6,8%,kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài là 15,9%.
Vào những năm 1986 nước ta còn là một nước thiếu lương trầm trọng phải
nhập khẩu nhiều,thì nhiều năm gần đây chúng ta đã hoàn toàn chủ động được
nguồnlương thực phục vụ trong nước không cần phải nhập khẩu hơn nữa chúng
ta còn là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
*Về giáo duc –đào tạo,khoa học công nghệ ,phát triển văn hóa xã hội.

Nước ta đã đạt chuẩn về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.Phát

triển văn hóa ,xây dựng nếp sống văn minh , lành mạnh toàn dân.Công tác chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng, quan tâm hơn rất nhiều,các cơ sở y
tế được xây mới với các trang thiết bị hiện đại.Lực lượng y bác sĩ được đào tạo
bài bản,có trình độ chuyên môn cao.Phong trào toàn dân tích cực luyện tập thể
23


dục thể thao được nhân dân hưởng ứng và tham gia tích cực.Công tác xóa đói
giảm nghèo tiếp tục đạt dược nhiều kết quả ,số hộ nghèo đã giảm từ 31,1% vào
năm 2006 xuống 23,43% vào cuối năm 2008.Khoa học công nghệ phát triển mạnh
ở nhiều lĩnh vực như :Công nghệ thông tin ,viễn thông với các tập đoàn nổi tiếng
như tập đoàn FPT tập đoàn Bưa Chính Viễn Thông ViệtNam,Viettell,Mobifone đây
là các tập đoàn các công ty đi đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở Việt nam.

Điện thoại di động thuần việt

Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của nước ta

(sản phẩm của FPT)

(tập đoàn VNPT)

Chúng ta đã xây dựng thành công và đưa vào sử dụng nhà máy lọc dầu Dung
Quất vào 6/1/2011,nhà máy lọc dầu Dung Quất giúp chúng ta giảm sức ép về tình
trạng giá xăng dầu tăng cao hiện nay và sự phụ thuộc vào nhập khẩu xăng dầu từ
nước ngoài ,tận dụng được nguồn tài nguyên có sẵn.Gần đây nhất đó là chúng ta
đã khánh thành đưa vào sử dụng nhà máy ethanol Đại Tân đay là nhà máy
ethanol lớn nhất Đông Nam Á .Ngoài việc giảm thiểu sức ép giá cả xăng dầu
đang leo thang nhà máy ethanol Đại Tân nói riêng và các nhà máy ethanol trên cả
nước nói chung góp phần lờn vào việc giảm thiểu các khí độc hại do động cơ của

các phương tiện thải ra môi trường.

24


Hình ảnh nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Nghãi) .

Tiếp thu các thành tựu khoa học của nhân loại và áp dung nó vào thực
tiễn .chúng ta có khá nhiều các thành tựu khoa học tàm cỡ thế giới như:Công
nghệ sinh học bioga giúp bảo vệ môi trường và đem lại lợi ích kinh tế,bào chế
thành công thuốc hạn chế sự phát triển của virut H5N1,nước ta là một trong bốn
nước trên thế giới đứng đầu về công nghệ robot chỉ sau Nhật Bản.Tốc độ phát
triển internet và viễn thông rất nhanh từ năm 2005 trở lại đây.Sản xuất được nhiều
sản phẩm có chất lượng tốt,sức cạnh tranh thị trường cao như thép,hàng dệt may.
*Về sự phát triển cơ sở hạ tầng đô thị ,các trung tân kinh tế và công nghiệp trọng
điểm.
Chúng ta có nhiều trung tâm kinh tế và công nghiệp lớn như Hà Nội,Tp.Hồ
Chí Minh khu công nghiệp Biên Hòa….cùng nhiều trung tâm kinh tế và công

25


×