Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Chương trình nghị sự 21 quốc gia về tài nguyên và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.01 KB, 65 trang )

CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ 21 QUỐC GIA VỀ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG (NRE AGENDA 21): (Dự
thảo lần 2)(10:13 11/05/2007)

MỞ ĐẦU
Hơn 30 năm trước (năm 1972) tại Stốckhôm, Thụy Điển, Liên hợp quốc (LHQ) đã
tổ chức Hội nghị quốc tế về môi trường và con người. Tại hội nghị này những
người đứng đầu thế giới đã nhất trí rằng " việc bảo vệ và cải thiện môi trường con
người cho các thế hệ ngày nay và mai sau là mục tiêu cấp bách của nhân lọai".
Hội nghị này đã đánh dấu sự ra đời của nhận thức về phát triển bền vững (PTBV).
Năm 1987 , Ủy ban thế giới về Môi trường và Phát triển đã công bố báo cáo
"Tương lai chung của chúng ta", trong đó đã phân tích mối liên hệ chặt chẽ giữa
môi trường và phát triển. Báo cáo này cũng đưa ra định nghĩa về PTBV là "sự phát
triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai". Năm 1987 được coi là thời điểm
hình thành khái niệm phát triển bền vững.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển họp vào tháng 6/1992
tại Rio De Janeiro đã thiết lập được ủy ban phát triển bền vững. Thành quả lớn
nhất của Hội nghị này là Chương trình nghị sự 21 – Một kế hoạch hành động chi
tiết cho PTBV toàn cầu của thế kỳ 21. Chương trình này bao gồm sự tổng hợp các
yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường. Hội nghị này đánh dấu sự cam kết toàn cầu vì
sự PTBV.
Tại Diễn đàn toàn cầu cấp Bộ trưởng Môi trường đầu tiên tổ chức tại Malmo tháng
05/2000 đã ra Tuyên bố Malmo kêu gọi biến các cam kết vì sự PTBV thành hành
động. Tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ vào tháng 9/2000, Tổng thư ký
LHQ đã nêu ra những thách thức và những khó khăn, lúng túng trong việc thực
hiện các cam kết vì PTBV. Diễn đàn Malmo -2000 được coi là lời kêu gọi hành
động vì PTBV.
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững được tổ chức tại
Johannesburg, Nam Phi, tháng 9/2002 đánh dấu một mốc quan trọng của loài
người trong nỗ lực tiến tới PTBV toàn cầu. Hội nghị đã khẳng định trách nhiệm
chung xây dựng 3 trụ cột của PTBV là : Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo


vệ môi trường ở cấp độ địa phương, quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững được tổ chức tại
Johannesburg, Nam Phi, 2-4/09/2002 các nước ASEAN đã trình bày 1 báo cáo về
PTBV trong khu vực .
Ở cấp khu vực ASEAN, trong thời gian qua đã có nhiều tuyên bố cấp Bộ trưởng


ASEAN về Môi trường và Phát triển bao gồm các tuyên bố tại Manila
(30/04/1981), Bangkok (29/11/1984); Jakarta (20/10/1987); Kuala Lumpur
(19/06/1990); Banda Seri Begawan (26/04/1994); Jakarta (18/09/1997); Kota
Kinabalu (07/10/2000).
Trong thời gian qua Chương trình nghị sự 21 của một số guốc gia (Trung Quốc,
Philipin, Hàn Quốc, Thuỵ Điển, Đan Mạch …) đã được hình thành. Mặc dù cách
tiếp cận của mỗi Quốc gia khác nhau, nhưng tất cả các chương trình đều dựa trên
điều kiện thực tế của mỗi nước và đề xuất các vấn đề ưu tiên nhằm đảm bảo phát
triển bền vững kinh tế, xã hội và môi trường.
Trong thời gian gần 20 năm qua, đất nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới và
quá trình CNH, HĐH nền kinh tế nhằm hoàn thành cơ bản các mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội, CNH, HĐH đất nước đến năm 2020, xây dựng đất nước phát triển
bền vững về kinh tế – xã hội và môi trường. Tuy nhiên, song hành với những
thành tựu phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng nền sản xuất công nghiệp quy mô
lớn, là các vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng tích lũy quy mô và nhu cầu cấp
bách, đòi hỏi phải có những chính sách mới về sự gắn kết chặt chẽ giữa nhu cầu
phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường nhằm phòng ngừa hiệu quả tệ nạn
ô nhiễm môi trường và phát triển bền vững.
Trong những năm qua Đảng và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản
pháp lý làm cơ sở đẩy mạnh phát triển bền vững tại Việt Nam. Một trong những
kế hoạch phát triển bền vững đầu tiên của Việt Nam là “ Kế hoạch Quốc gia về
MT và PTBV giai đoạn 1991-2000”. Ngày 17 tháng 04 năm 2004, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg phê duyệt “Định hướng chiến

lược PTBV ở Việt Nam” (Chương trình Nghị sự 21). Đây là một chiến lược
khung bao gồm những định hướng lớn làmcơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa
phương, các tổ chức và cá nhân phối hợp hành động nhằm đảm bảo PTBV đất
nước trong thế kỷ 21. Định hướng chiến lược PTBV gồm 5 phần, trong đó nêu lên
những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính
sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên. Định hướng chiến
lược được xây dựng trên 8 nguyên tắc cơ bản. Định hướng chiến lược cũng đề ra
19 vấn đề cần ưu tiên bao gồm 05 vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế, 4 vấn đề thuộc
lĩnh vực xã hội và 9 vấn đề thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
Định hướng chiến lược PTBV không thay thế các chiến lược, quy hoạch tổng thể
và kế hoạch hiện có, mà là căn cứ cụ thể hoá Chiến lược phát triển KT-XH đến
năm 2010, Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020, xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010. Dựa trên các nguyên tắc cơ bản, các
nội dung cần ưu tiên về PTBV, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hành động
của các cấp, các ngành, các địa phương đã và đang được xây dựng và triển khai
vào thực tiễn.


Trong những năm gần đây đã có nhiều văn bản pháp đã được ban hành nhằm định
hướng cho quá trình PTBV tại Việt Nam, bao gồm Quyết định số 256/2003/QĐTTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược
BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số
41/NQ-TU ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước; Luật BVMT sửa đổi (2005)…
Quan điểm, kế hoạch và cam kết thực hiện PTBV tại Việt Nam còn được thể hiện
trong Bài phát biểu của Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại Hội nghị Thượng đỉnh
thế giới về Phát triển bền vững được tổ chức tại Johannesburg, Nam Phi, 24/09/2002; Dự thảo văn kiện Đại hội X của Đảng.
Quá trình triển khai Dự án VIE/01/021 về "Hỗ trợ việc xây dựng và triển khai
Chương trình nghị sự Agenda 21 của Việt Nam" do UNDP, DANIDA và SIDA tài
trợ, Bộ KH &ĐT là cơ quan thực hiện đang triển khai 04 hợp phần chính là :(1).
Hỗ trợ về thể chế và chính sách thực hiện Agenda 21 của Việt Nam; (2). Triển

khai Agenda 21 tại các ngành và các địa phương; (3). Tăng cường năng lực và
nâng cao nhận thức về phát triển bền vững; (4). Nghiên cứu chính sách và hình
thành cơ sở dữ liệu về PTBV tại Việt Nam. Trong kế hoạch thực hiện hợp phần 4
của Agenda 21 của Việt Nam, Bộ KH &ĐT dự kiến sẽ hình thành khoảng 17 đề
tài nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực sau :(i). Phân tích mối liên kết giữa tăng
trưởng kinh tế và BVMT trong các chính sách hiện hành trên quan điểm PTBV;
(ii). Nghiên cứu và áp dụng các công cụ phân tích chi phí –lợi ích và kinh tế trong
việc đảm bảo PTBV; (iii). Giám sát và báo cáo tình hình phát triển bền vững ở
Việt Nam; (iv). Xây dựng cơ sở dữ liệu về PTBV tại Việt Nam.
Theo Thông tư hướng dẫn số 01/2005/TT-BKH ngày 09 tháng 03 năm 2005 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), việc xây dựng Chương trình Nghị
sự 21 của ngành TN-MT là cần thiết và cấp bách.
Chương trình Nghị sự 21 quốc gia về tài nguyên và môi trường được xây dựng
dựa trên cách tiếp cận, theo đó mỗi Bộ chủ chốt liên quan đến tài nguyên và môi
trường và mỗi tỉnh sẽ soạn thảo các hợp phần của mình trong chương trình. Các
hợp phần tài nguyên và môi trường đó sẽ được lồng ghép với toàn bộ các Chương
trình Nghị sự 21 và các chiến lược, kế hoạch hành động kinh tế-xã hội của ngành
và địa phương. Chương trình Nghị sự 21 quốc gia về tài nguyên và môi trường
không phải là chương trình chỉ một mình Bộ TN&MT hoặc các nhóm độc lập nào
xây dựng và thực hiện. Chương trình này sẽ được xây dựng trên cơ sở và là một
phần các hoạt động hàng ngày của các Bộ, ngành và địa phương tham gia. Chương


trình phải do chính các Bộ, ngành và địa phương xây dựng và triển khai thực hiện.
Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có thể xác định các nội dung
chính của Chương trình Nghị 21 ngành và địa phương về TN-MT như sau:
- Đánh giá thực trạng tài nguyên và môi trường ngành, địa phương; rút ra những
điểm mạnh, những yếu kém, tồn tại về các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi

trường, trên cơ sở đó đối chiếu với yêu cầu của các mục tiêu phát triển bền vững
nêu trong Định hướng Chiến lược phát triển bền vững của cả nước.
- Cụ thể hoá các quan điểm phát triển bền vững về TN-MT trong Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam trong việc xây dựng Chương trình
Nghị sự 21 về TN-MT của từng ngành và từng tỉnh, thành phố.
- Xác định hệ thống các mục tiêu, các chỉ tiêu phát triển bền vững về TN-MT của
ngành, của địa phương trên 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường.
- Dự báo nguồn lực phát triển và khả năng huy động các nguồn lực để thực hiện
Chương trình Nghị sự 21 quốc gia về TN-MT của ngành và địa phương. Từng Bộ,
ngành, địa phương cần xây dựng các chương trình, các dự án phát triển về TN-MT
cụ thể của ngành, địa phương mình.
- Xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Chương trình Nghị sự 21 quốc gia về
TN-MT của ngành và địa phương; bao gồm hệ thống các giải pháp thực hiện kế
hoạch phát triển bền vững TN-MT; hệ thống điều hành, giám sát; huy động đông
đảo các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể, các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững về TN-MT.

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH TN-MT VIỆT NAM
1.1. Vị trí Địa lý, điều kiện tự nhiên-Kinh tế xã hội của Việt nam.
- Xét về tọa độ Địa lý, Việt nam có điểm cực Bắc nằm ở vĩ độ 33 02 Bắc thuộc xã
Lũng cú, huyện Đồng văn, tỉnh Hà Giang. Điểm cực Nam có vĩ độ 8 030 Bắc thuộc
xóm Mũi huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Điểm cực Tây nằm ở 102 010 kinh Đông
thuộc xã Apa Chải, huyện Mường Tè, tỉnh Lai châu. Điểm cực Đông trên đất liền
nằm ở 109024 Kinh Đông trên bán đảo Hòn gốm, tỉnh khánh Hòa.
Ngoài lãnh thổ đất liền, Việt Nam còn có thềm lục địa có nhiều đảo và quần đảo
bao bọc, gần nhất là các đảo thuộc vịnh Hạ Long, xa nhất là các quần đảo hoàng sa
và Trường sa trong biển Đông, các đảo Phú Quốc và Thổ Chu ở vịnh Thái Lan.
- Về điều kiện tự nhiên: lãnh thổ và lãnh hải Việt nam hoàn toàn nằm trong vành
đai nhiệt đới Bắc bán cầu và nằm đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam á. Chịu

tác động sâu sắc của áp thấp Tây Thái Bình Dương về mùa hè và áp cao về mùa


Đông. Đặc điểm này gây ảnh hưởng bao trùm lên nhiều yếu tố môi trường tự
nhiên Việt nam, đặc biệt là các yếu tố khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn, thực vật.
Địa hình lãnh thổ đất nước với 3/4 diện tích là đồi núi, do lịch sử kiến tạo địa chất
vùng Đông Nam á phức tạp nên lãnh thổ bề mặt nước ta nhiều màu nhiều vẻ,
không đơn điệu nhưng nền móng lãnh thổ tương đối ổn định và vững chắc. Việt
nam nằm trong vành đai địa hóa Thái Bình Dương do vậy có nhiều mỏ kim loại,
đặc biệt là kim loại màu. Mặt khác do chịu ảnh hưởng của vận động kiến tạo
Himalaya gần đây, do vậy trên lãnh thổ Việt nam đã hình thành các vết nứt nẻ,
đoạn tầng, làm cho dung nham phun trào hình thành các vùng đất đỏ ngày nay.
Do vị trí địa lý lãnh thổ đất nước là một góc của lục địa châu Á, vừa tiếp nối với
bờ Đông, vừa tiếp nối với bờ Nam của lục địa khiến cho nước ta có sự gặp gỡ của
các loài động thực vật từ Trung Hoa xuống, từ Âns Độ sang làm cho lớp động,
thực vật nước ta thêm phong phú.
- Về điều kiện Kinh tế-xã hội: Với vị trí gần trung tâm Đông Nam Á, khiến cho
nước ta có thể liên hệ kinh tế, văn hóa với nhiều nước ở châu Á một cách thuận
lợi, có thể xây dựng những trục giao thông có ý nghĩa khu vực và quốc tế. Hiện
nay đây là khu vực được đánh giá có phát triển kinh tế năng động nhất toàn cầu.
1.2. Hiện trạng TN-MT tại Việt Nam
1.2.1. Các vấn đề tài nguyên Việt Nam
(1). Tài nguyên đất
- Hoang mạc hoá diễn ra trên diện rộng, đặc biệt là do cát di động ở dải cồn cát
ven biển Miền Trung với diện tích 430.000ha. Cồn cát ven biển chuyển dịch sâu
dần vào phía lục địa, hàng năm bồi lấp hàng chục ha diện tích đất nông nghiệp.
Hoang mạc hoá ở các tỉnh nam Trung Bộ: Ninh Thuận, Bình Thuận do khô hạn
kéo dài. Hoang hóa ở các tỉnh miền Tây Bắc: Lao Cai, Lai Châu, Sơn La và Hòa
Bình do rừng bị tàn phá, do canh tác nương rẫy. Thoái hoá đất do sức ép nghèo đói
và do mất rừng ở Tây Bắc đã thực sự trở thành điểm nóng.

- Diện tích đất bị thoái hoá do đá ong hoá ở rìa Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ, miền
gò đồi trung du Trung Bộ và vùng đồi đông Nam Bộ ngày càng gia tăng.
- Diện tích đất ngập nước tiếp tục bị lấn chiếm trái phép, bị thu hẹp nhiều, đặc biệt
ở dải đầm phá và vùng cửa sông các tỉnh ven biển miền Trung, các hồ chứa nước
thủy lợi, thuỷ điện trong nội địa, để nuôi trồng thuỷ sản và các hoạt động kinh tế
khác.
- Sự chuyển đổi đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng, đặc biệt là ở đồng bằng sông
Hồng, sang sử dụng cho mục đích công nghiệp và đô thị đang diễn ra quá nhanh,
quá nhiều, gây áp lực lớn đến vấn đề an toàn lương thực và sinh kế của nông dân,
làm nảy sinh một số vấn đề xã hội phức tạp.


- Diện tích đất dốc, đất rừng ở các tỉnh ven biển Trung Bộ và Tây Nguyên bị
chuyển đổi sang trồng sắn không hợp lý, không theo quy hoạch, làm cho thảm
rừng bị tàn phá nhiều, đất dốc càng bị xói mòn, rửa trôi mạnh, đất bị suy thoái
nặng, nghèo dinh dưỡng, khó có khả năng hồi phục.
- Xói mòn đất xảy ra trên diện rộng. Sử dụng phương trình tổng quát của
Wischmeier và Smith để tính lượng đất xói mòn:
A = R. K. L. S. C. P
A: Lượng đất bị mất do xói mòn (tấn/ha.năm)
R: Yếu tố mưa
K: Yếu tố khả năng xói mòn của đất
L: Yếu tố độ dài sườn
S: Yếu tố độ dốc sườn
C: Yếu tố phương thức canh tác
P: Yếu tố kiểm soát xói mòn
Cho thấy: Vùng đồi núi Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 khu vực đất bị xói mòn với
tốc độ lớn nhất, làm cho đất suy thoái nhanh và mạnh.
(2). Tài nguyên nước
- Tổng lượng tài nguyên nước trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm nước tại chỗ và

nước đến từ ngoài biên giới quốc gia là rất lớn, tính bình quân theo đầu người
hoàn toàn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt, nhưng nguy cơ thiếu nước
ngọt do hạn kéo dài nhiều tháng trong năm ở một số vùng nam Trung Bộ và Tây
Nguyên là vấn đề bức xúc, làm tăng nhanh quá trình hoang mạc hoá ở những vùng
đất này.
- Trữ lượng nước ngầm trong lòng đất, tuy thường xuyên được bổ cấp, nhưng
không phải là vô hạn. Việc khai thác không theo quy hoạch, khai thác quá mức
lượng nước ngầm tại các đô thị lớn, nhất là ở Hà Nội, đã tạo nên xu thế hạ thấp
mực nước ngầm không đảo ngược được, gây ra nguy cơ sụt lún mặt đất; ở thành
phố Hồ Chí Minh đó là xu thế mở rộng diện tích nước ngầm bị nhiễm mặn không
sử dụng được.
- Nguồn nước trên các dòng sông liên tỉnh chưa được quản lý tốt theo phương thức
quản lý lưu vực. Quản lý theo lưu vực mới chỉ là nhận thức và định hướng nghiên
cứu. Các dòng sông như Đồng Nai - Sài Gòn, sông Ba, sông Đáy, sông Cầu, sông
Hồng... đều chưa có quy hoạch sử dụng hợp lý nguồn nước và đảm bảo chất lượng
nước.


(3). Tài nguyên khoáng sản
- Sử dụng khoáng sản - loại tài nguyên không tái tạo, chưa tuân thủ định hướng
chính là khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm.
- Nhiều loại khoáng sản đưa đi xuất khẩu chủ yếu ở dạng quặng thô, quặng nguyên
khai, hoặc mới qua sơ tuyển như các loại quặng mangan ở Cao Bằng, quặng chì
kẽm ở Thái Nguyên, Bắc Cạn; quặng Inmenit - Titan ở ven biển các tỉnh Miền
Trung; quặng cromit ở Thanh Hoá…gây lãng phí lớn.
- Than đá Việt Nam phân bố ở nhiều nơi, nhưng tổng lượng tài nguyên than không
nhiều, trữ lượng đã được điều tra, đánh giá khoảng 3,5 tỷ tấn, song hàng năm khai
thác với khối lượng rất lớn (năm 2006 khoảng 40 triệu tấn), phần lớn là xuất khẩu,
không có ý đồ dự trữ chiến lược loại nhiên liệu hoá thạch này rất cần cho nền kinh
tế Việt Nam hôm nay và mai sau.

- Xuất khẩu nhiều loại khoáng sản thô qua đường tiểu ngạch không thể kiểm soát
được.
- Tổn thất về tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác còn quá lớn, nhất là
trong khai thác hầm lò. Nguyên nhân cơ bản là công nghệ khai thác còn lạc hậu, ý
thức tiết kiệm tài nguyên chưa được nâng cao.
- Môi trường sau khai thác mỏ khoáng sản chưa được kịp thời hoàn phục, nhất là
sau khai thác than ở Quảng Ninh và khai thác quặng Inmenit - Titan ở dải cồn cát
ven biển miền Trung. Khai thác vàng dạng thổ phỉ vẫn là hiểm hoạ tàn phá đất
rừng và tài nguyên rừng, gây ô nhiễm nước đầu nguồn bằng các chất độc hại: thuỷ
ngân, xianua và asen.
- Khoáng sản là loại tài nguyên không tái tạo, nhưng lại rất cần thiết cho nhu cầu
sử dụng trong nền kinh tế quốc dân trước mắt và lâu dài. Cho đến nay chưa lập
được danh mục các loại khoáng sản quan trọng, quý hiếm cần được ưu tiên dự trữ
và bảo vệ, các loại khoáng sản cấm hoặc được phép xuất khẩu.
1.2.2. Các vấn đề môi trường ở Việt Nam
(1). Môi trường đất
- Hoá chất nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật vẫn còn bị lạm dụng quá mức, chưa
hạn chế đợc sự gia tăng dư lượng của chúng trong đất, làm cho đất bị ô nhiễm,
hàm lượng của chúng trong đất và trong cây trồng nông nghiệp ở một số vùng tăng
cao.
- Một số khu vực ngoại ô đô thị và phụ cận các khu công nghiệp, nhất là ở Hà Nội,
đất bị ô nhiễm kim loại nặng, làm gia tăng hàm lượng kim loại nặng trong rau quả
lên mức đáng lo ngại.


- Nuôi tôm nước lợ trên cát và các thuỷ vực do chuyển đổi từ đất canh tác nông
nghiệp đang gây nhiễm mặn tại nhiều vùng ở ven biển Miền Trung và đồng bằng
sông Hồng.
(2). Mỗi trường nước
- Ô nhiễm môi trường nước ngày càng gia tăng về mức độ và diện phân bố. Một số

dòng sông như sông Nhuệ, sông Đáy, sông Thị vải, sông Tô Lịch Hà Nội, kênh
Nhiêu Lộc - Thị Nghè, kênh Tân Hoá - Lò Gốm thành phố Hồ chí Minh thực tế đã
thành thuỷ vực chết do quá tải vì nước thải sinh hoạt đô thị và nước thải công
nghiệp.
- Biên mặn trên các dòng sông lớn ở Miền Trung: sông Hương, sông Hàn, sông
Thu Bồn, sông Cái Nha Trang... có xu hướng lấn sâu vào phía lục địa trong mùa
khô. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của mực nước biển, do sự biến đổi khí
hậu toàn cầu, đặc biệt là do con người tàn phá rừng ở khưc vực đầu nguồn.
(3) Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam - vấn đề còn nhiều bất cập
Với tầm quan trọng của vấn đề ô nhiễm môi trường do chất thải rắn gây ra, tháng
7/1999 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quản lý chất thải rắn tại
các đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến 2020”, trong đó đa ra các mục tiêu cụ
thể, các giải pháp thực hiện rất rõ ràng, nhưng cho đến nay ô nhiễm do chất thải
rắn vẫn còn là vấn đề nan giải.
Theo các công trình nghiên cứu và các tư liệu đã công bố có thể thấy:
- Lượng chất thải rắn đô thị và khu công nghiệp bình quân đầu người trong cả nước năm 2000 là từ 0,52 kg/người-ngày đến 0,8 kg/người-ngày tuỳ thuộc vào loại
hình đô thị.
- Theo đánh giá của Bộ Công nghiệp, năm 2001 lượng chất thải rắn công nghiệp
chiếm khoảng 18% tổng lượng chất thải rắn cả nước, trong đó chất thải nguy hại
chiếm tỷ trọng 18 – 47% lượng chất thải công nghiệp tùy theo từng ngành sản
xuất.
- Tổng lượng chất thải rắn đô thị và khu công nghiệp ở Việt Nam ước tính trên 7
triệu tấn (năm 2002), trong số đó chất thải rắn sinh hoạt chiếm khoảng 80,3%, chất
thải rắn công nghiệp không nguy hại chiếm khoảng 12%. Các thành phố lớn phát
thải nhiều chất thải rắn là: Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 37% rác sinh hoạt và
30% rác công nghiệp; Thành phố Hà Nội chiếm 11% tổng lượng chất thải rắn sinh
hoạt và công nghiệp.


- Lượng chất thải rắn sinh hoạt bình quân đầu người ở Việt Nam năm 2002 đã đạt

đến 0,8kg/người-ngày, phát thải rác nhiều nhất là ở các đô thị loại 1: thành phố Hồ
Chí Minh 1,3 kg/ngời, tiếp theo là Hà Nội 0,98 kg/người, Đà Nẵng 0,76 kg/người.
Thành phần chất thải rắn sinh hoạt rất đa dạng và phức tạp. Nó phụ thuộc vào tốc
độ phát triển kinh tế – xã hội, mức độ đô thị hoá, mức sống, thói quen tiêu dùng
của người dân. Đặc điểm chung của chất thải rắn sinh hoạt là thành phần rác
nguồn gốc hữu cơ chiếm tỷ lệ cao (50-65%), có độ ẩm cao (35-45%) và chứa
nhiều vật liệu xây dựng: đất, cát, sỏi, đá vụn, gạch vụn.
- Thu gom CTR: Tuy lượng phát thải chất thải rắn bình quân đầu người ở các đô
thị Việt Nam còn thấp so với một số thành phố lớn trong khu vực: Băng Cốc 1,6
kg/người; Xingapo 2kg/người; Hồng Kông 2,2 kg/người, nhng tỷ lệ rác đợc thu
gom, xử lý ở nước ta còn quá thấp, đó là điều rất đáng quan tâm. Ví dụ theo số liệu
thống kê, năm 2002 tỷ lệ thu gom rác ở một số đô thị phía Bắc được trình bày
trong bảng 1.
Bảng 1 : Tỷ lệ thu gom rác ở một số đô thị phía Bắc (năm 2002)
Đô thị

Lượng rác phát sinh
(tấn/ngày)

Hà Nội
Hải Phòng
Hải Dương

1756
636
108

Lượng rác thu gom Tỷ lệ thu gom
(%)
(tấn/ngày)

1405
80
500
78,6
55
50,9

Việc thu gom chất thải rắn tại các thành phố thường do Công ty Môi trường đô thị
đảm nhận. ở một số đô thị như Lạng Sơn, Thái Bình, Buôn Ma Thuột… có các
Công ty tư nhân tham gia thu gom, vận chuyển chất thải rắn.
Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tổ chức và
quản lý của các địa phương. Tỷ lệ này dao động trong một khoảng lớn, từ 45% ở
Long An đến cao nhất là 90% ở Thừa Thiên Huế (năm 2003). Nhìn chung, tỷ lệ
thu gom chất thải rắn đô thị trong cả nước tăng dần, từ 65% năm 2000 lên 71%
năm 2003.
Xử lý và chôn lấp: Hiện tại trong cả nước đã có một số nhà máy chế biến phân
compost từ rác thải công suất 30-250 tấn/ngày nh ở Cầu Diễn, Hà Nội; Việt Trì,
Phú Thọ; Phúc Khanh, Thái Bình; Tân Thành, Bà Rịa - Vũng Tàu… Ngoài ra, còn
có một số nhà máy chế biến chất thải rắn đô thị thành phân bón và sản phẩm nhựa
như ở thị xã Ninh Thuận, ở thành phố Huế... Sản phẩm của các nhà máy này được
thị trường chấp nhận, khối lượng chất thải rắn còn phải chôn lấp sau chế biến


chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Mặt khác, gần đây nhất, tại thành phố Hồ Chí Minh, lượng khí phát ra từ bãi rác cũ Gò Cát đã được thu gom để chạy máy phát điện.
Tất cả các đô thị của nước ta đều có bãi chôn lấp rác với quy mô khác nhau, từ rất
lớn như bãi rác Tam Tân ở huyện Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh, bãi rác Nam
Sơn ở huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội, đến các bãi rác nhỏ cho các thị trấn. Phần
lớn, các bãi rác hiện có là bãi rác lộ thiên, hoặc nửa chìm nửa nổi. Ngoại trừ một
số bãi chôn lấp rác được thiết kế xây dựng hoàn chỉnh như bãi rác Thuỷ Phương
của thành phố Huế, bãi rác Nam Sơn của thành phố Hà Nội, còn lại phần lớn là

những bãi chôn lấp rác không đúng quy cách, đang gây ô nhiễm môi trường cho
vùng phụ cận bãi. Hơn thế nữa, trong quá trình phát triển đô thị, nhiều bãi chôn
lấp rác lại nằm ngay trong khu vực đô thị, điển hình là ở thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội, hoặc rất gần các khu dân cư đô thị như ở Bình Dương, Bình Định, Bắc
Ninh…
Nhìn chung, cho đến nay tỷ lệ thu gom chất thải rắn còn thấp, đa số các tỉnh thành
phố chưa có quy hoạch xử lý chất thải rắn; các bãi chôn lấp chất thải rắn chưa theo
đúng quy cách đảm bảo bảo vệ sinh môi trường. Vì vậy, chất thải rắn và nước rỉ từ
các bãi chôn lấp rác đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại nhiều địa
phương, có thể xem đây là một vấn nạn về môi trường.
(4) Bức xúc môi trường làng nghề
Theo tiêu chí “làng nghề là các làng nông thôn Việt Nam tồn tại hoạt động của các
nghề tiểu thủ công, phi nông nghiệp, có tối thiểu 30% số lao động của làng tham
gia và đóng góp ít nhất 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng”, thì
cả nước có khoảng 1450 làng nghề, trong đó có trên 300 làng nghề truyền thống,
phân bố trên 58/61 tỉnh thành thuộc cả ba miền (Xem bảng 2).
Bảng 2 : Phân bố các làng nghề ở Việt Nam
Khu vực
Miền Bắc
Miền Trung
Miền Nam
Tổng

Số tỉnh có nghề Số làng nghề (làng)
25/25
972
13/16
290
18/20
188

56/61
1.450

Phần trăm %
67
20
13
100

Tại các làng nghề trong cả nước hiện có khoảng 10 triệu lao động thường xuyên
và khoảng 4 triệu lao động thời vụ, chiếm khoảng 29% lực lượng lao động nông
thôn với thu nhập bình quân của lao động nghề gấp 3-4 lần thu nhập của lao động
thuần nông. Năm 2000, hoạt động tại các làng nghề cả nước đạt giá trị sản lượng
khoảng 40.000 tỷ đồng, trong đó tổng giá trị hàng xuất khẩu từ các làng nghề là


562 triệu USD với các mặt hàng như gốm sứ mỹ nghệ, mây tre đan, dệt lụa, gỗ mỹ
nghệ, thảm và đồ gỗ gia dụng.
Sản xuất tại các làng nghề chủ yếu là quy mô nhỏ, cơ sở sản xuất xen lẫn trong
khu dân cư tập trung. Phần lớn làng nghề không có ranh giới rõ rệt giữa khu sản
xuất và khu vực sinh hoạt dân cư. Công nghệ sản xuất thủ công, lạc hậu, các thiết
bị cũ chắp vá, thiếu đồng bộ, trình độ tay nghề không đồng đều, truyền nghề chủ
yếu qua kinh nghiệm và tự học, thiếu các thợ lành nghề được đào tạo toàn diện ở
các trường đào tạo nghề cơ bản và chính quy, do vậy năng suất lao động không
cao, phát sinh nhiều chất thải ra môi trường, làm cho ô nhiễm tại làng nghề càng
trở nên nghiêm trọng, ảnh hưởng tới đời sống con người và tới sự phát triển bền
vững của làng nghề.
Có nhiều cách phân loại về làng nghề, nhưng phân loại theo ngành sản xuất và loại
hình sản phẩm là hợp lý nhất vì nó có những đặc điểm chung về công nghệ, kỹ
thuật sản xuất, tiêu thụ nguyên nhiên liệu và nguồn phát sinh, cũng như dạng và

tính chất của chất thải và gây ô nhiễm môi trường (Xem bảng 3).
Bảng 3 : Phân loại các làng nghề Việt Nam
TT Phân loại
1

Chế biến lương thực, thực
phẩm
2
Dệt nhuộm, may mặc và
tơ tằm, đồ da
3
SX vật liệu xây dựng,
gốm, sành sứ thủy tinh
4
Thủ công mỹ nghệ
5
Chế biến lâm thổ sản
6
Cơ khí, chế tạo, đúc kim
loại
7
Tái chế chất phế thải, phế
liệu
8
Các ngành khác
Tổng cộng

Số lượng
(làng)
98


Phần
trăm %
6,75

319

22

741

51.1

95
55
51

6.55
3.79
3.51

6

0.43

85
1.450

5.86
100


Từ bảng phân loại trên có thể thấy rằng làng nghề rất đa dạng và ảnh hưởng của
hoạt động sản xuất làng nghề tới môi trường xung quanh có một số đặc điểm sau:
- Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là hình thái ô nhiễm tập trung trong phạm vi
một khu vực thôn, làng, xã… nông thôn. Khu vực này là tập hợp của nhiều nguồn


ô nhiễm dạng điểm (cơ sở sản xuất nhỏ) ảnh hưởng tực tiếp đến không gian liền kề
và các khu dân cư, gây tác động trực tiếp đến sức khoẻ cộng đồng.
- Ô nhiễm môi trường của làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất
theo nghề và loại hình sản phẩm, tác động trực tiếp tới tất cả các thành phần môi
trường nước, khí, đất của khu vực.
- Ô nhiễm môi trường làng nghề thể hiện rất rõ ở môi trường lao động không đạt
tiêu chuẩn như độ ồn, sánh sáng, độ rung, độ ẩm, nhiệt độ, bụi.
- Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề ảnh hưởng rõ rệt tới sức khoẻ của người lao
động và dân cư trong làng.
- Áp lực của phát triển kinh tế xã hội tại làng nghề là nguyên nhân dẫn tới sự ô
nhiễm và suy giảm chất lượng môi trường sống của khu vực có hoạt động làng
nghề.
- Công tác quản lý bảo vệ môi trường tại các làng nghề còn yếu kém, chưa có quy
hoạch môi trường, chưa có chương trình giáo dục môi trường, người lao động ít
hiểu biết về tác động của ô nhiễm và các biện pháp phòng tránh. Vì vậy, các sự cố
rủi ro môi trường thường xảy ra ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống làng nghề.
- Thiếu các chính sách và giải pháp của trung ương và địa phương về kinh tế, môi
trường, chính sách hỗ trợ nhằm cải thiện môi trường, có liên quan tới phát triển
bền vững làng nghề. Chưa có sự gắn kết giữa các tập tục, hương ước với công tác
cải thiện môi trường làng nghề. Chưa có các giải pháp quy hoạch, quản lý cũng
như giải pháp kỹ thuật nhằm xử lý chất thải, cải thiện từng bước môi trường làng
nghề.
Mặt khác có thể thấy rằng làng nghề là nét đặc trưng của xã hội kinh tế nông

nghiệp. ở nước ta làng nghề đã có truyền thống lâu đời, ngày nay làng nghề là nơi
bắt nguồn, là chỗ dựa để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn. Vì vậy bảo vệ môi
trường làng nghề, đảm bảo phát triển bền vững các làng nghề là việc rất quan
trọng và cấp thiết, nhưng công việc này không đơn giản, đòi hỏi phải có những
giải pháp đồng bộ.
(5). Những vấn đề chung về môi trường:
- Các cân nhắc về môi trường chưa được thể hiện rõ trong kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội các cấp. Việc lồng ghép môi trường và quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội mới chỉ là định hướng và trên nhận thức. Việc đánh giá môi trường chiến lược
đã được ghi vào Luật Bảo vệ môi trường 2005, nhưng tính khả thi không cao vì
chưa có một cơ chế phù hợp cho việc triển khai điều luật này trong thực tế.
- Công tác đánh giá tác động môi trường các dự án phát triển đến nay đã được
triển khai trên diện rộng khắp và đúng theo luật định, nhưng hiệu quả ngăn ngừa ô
nhiễm, giảm nhẹ tác động đến tài nguyên thì rất thấp. Nguyên nhân cơ bản là
không có chế tài đủ mạnh để buộc các chủ dự án, các cơ sở sản xuất thực hiện các
biện pháp giảm thiểu tác động môi trường và quan trắc môi trường sau khi báo cáo


đánh giá tác động môi trường đã được thẩm định và dự án được phép triển khai
hoạt động.
- Cơ chế, chính sách về môi trường thiếu đồng bộ, chưa nhất quán, chưa theo kịp
tốc độ phát triển của nền kinh tế, đặc biệt thiếu các cơ chế, các chế tài để thực hiện
các quy định của Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng
sản và các văn bản pháp lý khác liên quan. Chưa có cơ chế lồng ghép chính sách
về xóa đói giảm nghèo với chính sách về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Cũng
vậy, chưa có tiêu chí đánh giá hiệu quả công hưởng của 2 vấn đề này.
- Mức độ xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường còn thấp. Nhà nước đã tăng đầu
tư cho công tác môi trường lên đến 1% tổng chi ngân sách là khá lớn, nhưng vẫn
chưa đủ. Cần huy động, lôi cuốn nguồn đầu tư từ người dân, từ cộng đồng, các tổ
chức, các doanh nghiệp, từ các tổ chức ngoài chính phủ (NGO), tổ chức quốc tế

cho công cuộc bảo vệ môi trường.
- Nguyên tắc người gây tác hại đến tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường phải chi
trả để hoàn phục môi trường chưa được áp dụng triệt để, đặc biệt khó áp dụng đối
với các xí nghiệp nhà nước, nơi mà xí nghiệp còn hoạt động trong sự bảo hộ của
Nhà nước. Cần có chính sách điều tiết thích hợp.
- Ô nhiễm làng nghề ở nông thôn chưa có chiều hướng giảm bớt. Các làng nghề
đúc đồng, mạ kim loại, sản xuất chì, kẽm; Các làng nghề nuôi gia cầm; chế biến
thực phẩm với khí thải, nước thải, chất thải rắn chưa qua xử lý vẫn là nỗi lo cho
sức khoẻ của cộng đồng cư dân nông thôn và các vùng ngoại ô thành phố.
- Rác thải vẫn là vấn đề nhức nhối của các đô thị. Hiện có rất ít các bãi chôn lấp
rác hợp vệ sinh và các khu xử lý rác không gây ra ô nhiễm môi trường. Vấn đề
phân loại rác tại nguồn chưa có nơi nào thực hiện thành công. Chất thải nguy hại
là vấn đề quan ngại nhất đối với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Hiện nay
trên bình diện cả nước chưa có được một khu xử lý chất thải độc hại tập trung.
- Gia tăng tai biến thiên nhiên liên quan với biến đổi khí hậu toàn cầu. Xói lở bờ
biển do sóng, bão, đe doạ hệ thống đê biển ở đồng bằng Bắc bộ tại những nơi có ít,
hoặc không còn rừng ngập mặn như Kiến Thụy Hải Phòng; Hải Hậu, Nam Định;
Quảng Xương, Thanh Hoá là những điểm nóng thực sự.
- Gia tăng tai biến lũ quét, lũ ống ở miền núi; lũ lụt, xói lở bờ sông ở miền xuôi là
hiện tượng phổ biến. Nguyên nhân cơ bản là do rừng đầu nguồn bị tàn phá. - Sự cố môi trường ngày càng được phát hiện nhiều, gia tăng về cường độ,
tần suất xuất hiện và diện phân bố.

1.3. Xu thế biến đổi TN-MT tại Việt Nam
Việt Nam vẫn chú trọng vào khai thác tài nguyên thiên nhiên. Phát triển nền kinh
tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên tiếp tục là ưu tiên của Chính phủ, bao gồm mở
rộng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và du lịch. Các ngành công nghiệp đang


tăng trưởng lệ thuộc vào việc cung cấp nước sạch, năng lượng, các tài nguyên
khác và dịch vụ do các hệ thống thiên nhiên lành mạnh và năng suất cung cấp.

Đồng thời, nhiều cộng đồng trực tiếp lệ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt
những cộng đồng ở các vùng sâu vùng xa, miền núi, nông thôn và nghèo.
Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã, đang và sẽ làm tăng các nhu cầu sử
dụng tài nguyên thiên nhiên. Một số hệ thống thiên nhiên đã bị khai thác vượt quá
khả năng tái tạo và phục hồi. Việc sử dụng các thành phần môi trường phục vụ
phát triển không hợp lý, lãng phí, không thân thiện về mặt môi trường và thiếu
quan tâm đến tính bền vững. Nguyên nhân chính là do không quan tâm đúng mức
đến công tác quy hoạch, kế hoạch phân bổ hợp lý tài nguyên thiên nhiên cho phát
triển kinh tế ngay từ những giai đoạn đầu ra quyết định phát triển. Thường thì, quy
hoạch cần phải làm trước và các hành động phát triển diễn ra sau khi đã có quy
hoạch hợp lý và sau khi đã có cam kết. Một nguyên nhân khác làm cho phát triển
không bền vững là quá trình phát triển không được giám sát hợp lý để có đủ thông
tin phản hồi cần thiết phục vụ việc điều chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Tác động của toàn cầu hoá, những biến đổi môi trường quốc tế và khu vực và
thiên tai cũng ảnh hưởng xấu đến các mục tiêu phát triển bền vững, quản lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Chính phủ Việt Nam đang tăng tỷ lệ phân bổ ngân sách Nhà nước để quản lý hiệu
quả hơn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Chính phủ đang từng bước
xây dựng năng lực và đưa ra áp dụng các chính sách và các hệ thống. Tuy nhiên,
vẫn cần phải có sự điều phối tốt hơn giữa các ngành và các cấp, ban hành khung
tác nghiệp chi tiết hơn để thực hiện các chủ trương đề ra trong Chương trình Nghị
sự 21 của Việt Nam. Cần phải có một chương trình quốc gia về phát triển bền
vững tài nguyên và môi trường nhằm có định hướng tổng hợp, cụ thể và có tính hệ
thống trong sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường cho các cấp,
các ngành.

Chương 2
QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PTBV NGÀNH TN-MT TẠI VIỆT NAM
2.1. Quan điểm chỉ đạo PTBV ngành TN-MT
(1). Việt Nam đất hẹp (326.000km2), dân số đông (83,119 triệu người, năm 2005),

tài nguyên phong phú và đa dạng, nhưng cả tài nguyên không tái tạo và tài nguyên
tái tạo đều là hữu hạn, nhất là nếu tính theo đầu người, vì vậy khai thác tài nguyên
hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả là một định hướng chiến lược cơ bản.
(2). Chương trình nghị sự 21 Quốc gia về tài nguyên và môi trường là một bộ phận
cấu thành của Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm
phát triển chủ đạo trong Chương trình nghị sự 21 Quốc gia về tài nguyên và môi
trường là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Phát triển kinh tế xã hội


gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân
tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
(3). Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững, là yếu tố
không tách rời của quá trình phát triển, là một tiêu chí quan trọng để đánh giá phát
triển bền vững. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững.
(4). Bảo vệ tài nguyên và môi trường là trách nhiệm của Nhà nước và các ngành,
vừa là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người dân, của mọi tổ chức xã hội – chính
trị, của các doanh nghiệp, các tổ chức ngoài chính phủ. Bảo vệ môi trường là sự
nghiệp của quần chúng, vì vậy xã hội hoá công tác bảo vệ tài nguyên và môi
trường là phương thức và sức mạnh tổng hợp trong công tác bảo vệ môi trường, sử
dụng hợp lý tài nguyên.
(5). Bảo vệ tài nguyên và môi trường phải theo phương châm phòng ngừa ô
nhiễm, hạn chế suy thoái là chính; kết hợp với kiểm soát và xử lý ô nhiễm; gắn
khắc phục suy thoái với phát triển tài nguyên. Sử dụng đồng thời các công cụ quản
lý môi trường: a) Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo
vệ môi trường cho cán bộ và nhân dân; b) Áp dụng rộng rãi các công cụ kinh tế
trong bảo vệ môi trường. Thực hiện triệt để nguyên tắc người gây ô nhiễm môi
trường, người gây tổn hại, suy thoái tài nguyên phải chi trả để bồi thường và hoàn
phục; c) Tăng cường công cụ pháp luật trong quản lý Nhà nước về tài nguyên và
môi trường; d) Nâng cao hiệu qủa khoa học và công nghệ trong bảo vệ môi

trường.
2.2. Mục tiêu Chương trình PTBV ngành TN-MT
2.2.1. Mục tiêu tổng quát:
Hạn chế, tiến tới ngăn chặn ô nhiễm môi trường, nhằm đạt được mục tiêu thiên
niên kỷ: môi trường Việt nam có chất lượng cao, đảm bảo không khí sạch cho các
đô thị, nước sạch cho mọi người dân, thực phẩm sạch cho tất cả người tiêu dùng.
Khắc phục, tiến tới ngăn chặn sự suy thoái các dạng tài nguyên cơ bản là đất và
nước. Tác động đến các hệ sinh thái trong giới hạn sức chịu tải của chúng. Khai
thác các dạng tài nguyên không tái tạo, đặc biệt là khoáng sản, trong ngưỡng nhu
cầu sử dụng, đảm bảo cung ứng nguồn nguyên liệu lâu dài cho đất nước.
2.2.2. Mục tiêu cụ thể đến 2010:
- Xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bằng các biện
pháp thích hợp: khắc phục ô nhiễm; thay đổi công nghệ; di dời đến nơi có hệ
thống xử lý tập trung; đình chỉ hoạt động.


- Hạn chế, khắc phục mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm môi trường tại
những vùng, những khu vực đã bị ô nhiễm nặng.
- Phấn đấu phần lớn các xí nghiệp, nhà máy, cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ
sạch, thân thiện môi trường, sử dụng năng lượng sạch, đạt tiêu chuẩn môi trường
ISO 14.000.
- Hoàn thành việc xây dựng và vận hành các khu xử lý nước thải tập trung cho các
đô thị và các khu công nghiệp, đạt tiêu chuẩn môi trường; Xây dựng khu xử lý, bãi
chôn lấp rác hợp vệ sinh cho tất cả các đô thị từ cấp thị xã trở lên.
- Đảm bảo nước sạch cho phần lớn (90%) cư dân đô thị và nông thôn.
- Đảm bảo cân bằng sinh thái đối với các hệ sinh thái chính, quan trọng: hệ sinh
thái rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; hệ sinh thái đất ngập nước,
rừng ngập mặn, cửa sông ven biển; bảo vệ tốt các vùng sinh thái nhạy cảm.
- Giảm dần, tiến tới loại bỏ hoàn toàn việc xuất khẩu nhiên liệu hoá thạch (than đá,
dầu mỏ, khí đốt ở dạng thô).


2.3. Mục tiêu PTBV ngành TN-MT cho từng giai đoạn cụ thể
2.3.1. Mục tiêu PTBV ngành TN-MT trong Chiến lược BVMT quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020
Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 kèm theo danh mục 36 chương trình, kế hoạch, đề án, dự án ưu tiên cấp quốc
gia về BVMT.
2.3.2. Mục tiêu PTBV ngành TN-MT trong Nghị quyết Đại Hội X của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Nghị quyết Đại Hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 18-25/04/2006) đã xác
định các mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển bền vững KTXH nói chung và
ngành TN-MT nói riêng như sau :
(1). Về kinh tế :
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 2,1 lần
năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng GDP 7,5-8%/năm và
phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện
hành đạt khoảng 1.050 - 1.100 USD.
- Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010 : khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%;
công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 - 41%.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
- Tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 - 22%.
- Vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP.
- Mật độ điện thoại đạt 35 máy/100 dân; mật độ Internet đạt 12,6 thuê bao/100
dân.


(2). Về xã hội :
- Năm 2010, tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%/năm.
- Lao động nông nghiệp năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội.

- Tạo việc làm cho 8 triệu lao động; tỉ lệ thất nghiệp thành thị dưới 5%.
- Tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11% vào năm 2010.
- Năm 2010, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; giáo dục đại học và cao
đẳng đạt 200 sinh viên /10.000 dân; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao
động xã hội.
- Tỉ lệ bác sĩ đạt 7 người/10.000 dân.
- Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2010 đạt 72 tuổi.
- Tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16%o; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi
giảm xuống dưới 20%; tỉ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản dưới 60/100.000
trẻ đẻ sống.
(3). Về môi trường :
- Đưa tỉ lệ che phủ rừng vào năm 2010 lên 42 – 43%.
- Năm 2010, 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn được sử dụng nước
sạch.
- Năm 2010, 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch
hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 50% các cơ sở
sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô thị loại 3 trở lên,
50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý
nước thải; 80 - 90% chất thải rắn, 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt
tiêu chuẩn môi trường.
Định hướng phát triển ngành TN-MT trong giai đọan 2006-2010 trong lĩnh vực
TN-MT là tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên bao
gồm :
- Coi trọng việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong mọi hoạt
động kinh tế, xã hội. Thực hiện tốt Chương trình nghị sự 21
- áp dụng các biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi huỷ hoại hoặc gây ô
nhiễm môi trường, từng bước khắc phục tình trạng xuống cấp, cải thiện chất lượng
môi trường, đặc biệt tập trung khắc phục ô nhiễm ở các lưu vực sông, các đô thị và
khu công nghiệp, các làng nghề, nơi có đông dân cư và nhiều hoạt động kinh tế.
- Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá với bảo

vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
- Tăng cường quản lý, bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm; xây
dựng và thực hiện nghiêm các quy định về phục hồi môi trường các khu khai thác
khoáng sản và các hệ sinh thái đã bị xâm phạm, bảo đảm cân bằng sinh thái.
- Nhà nước tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách để thu hút đầu tư của xã hội
vào lĩnh vực môi trường; trước hết là các hoạt động thu gom, xử lý và tái chế chất


thải. Phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiễm môi
trường.
- Hoàn chỉnh pháp luật, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức
và trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội đối với việc phòng ngừa ô
nhiễm, bảo vệ và cải thiện môi trường. Thực hiện nguyên tắc người gây ra ô
nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc phải chi trả cho việc xử lý ô nhiễm.
- Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng - thủy văn; chủ
động phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
2.3.3. Mục tiêu, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006-2010
của ngành Tài nguyên và Môi trường
Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006-2010 của Ngành Tài nguyên và
Môi trường là: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đảm bảo
tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống một
cách bền vững theo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006-2010 của cả
nước góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia:
(1). Về kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2,1 lần so với
năm 2000. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 2006-2010 đạt
7,5-8%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3-3,2%, công nghiệp và xây dựng
tăng 9,5-10,2%, dịch vụ tăng 7,7-8,2%.1[1]

Ngành Tài nguyên và Môi trường cần đảm bảo việc sử dụng tài nguyên đất, nước
và khoáng sản đáp ứng yêu cầu phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững theo
các mục tiêu trên.
(2). Về xã hội
Tiếp tục thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ đã cam kết. Trong đó: Chấm dứt
hoàn toàn tình trạng hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới tương đương với
tiêu chuẩn quốc tế) xuống còn dưới 10-11% vào năm 2010.
Ngành Tài nguyên và Môi trường phải đảm bảo việc quản lý và sử dụng tài
nguyên đất, nước, khoáng sản đáp ứng được yêu cầu thực hiện chương trình xoá
đói, giảm nghèo.
(3). Về môi trường
- Năm 2010 đưa tỷ lệ che phủ rừng lên trên mức 43%.
- Phấn đấu đến 2010 đạt 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất
cả các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang
bị thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo xử lý chất thải, 50% cơ sở sản xuất kinh
doanh đạt tiêu chuẩn môi trường.
1


- Đến năm 2010, 100% các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước
thải tập trung, 90% chất thải rắn được thu gom; xử lý được trên 80% chất thải
nguy hại và 100% chất thải y tế.
- Phấn đấu đạt 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn sử dụng nước
sạch2[2].
Ngành Tài Nguyên và Môi trường phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan và các
địa phương tổ chức thực hiện các Chương trình đã được xác định trong Chiến lược
Bảo vệ Môi trường đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 để thực hiện các
mục tiêu trên.

Chương 3

NỘI DUNG PTBV NGÀNH TN-MT
3.1. Vấn đề thoái hoá đất, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất
3.1.1. Những thách thức đối với tài nguyên đất.
- Thoái hoá đất đang là xu thế phổ biến nhất đối với nhiều vùng rộng lớn ở Việt
Nam đặc biệt là vùng trung du và miền núi, những hiện tượng như xói mòn, rửa
trôi, bạc màu …
- Ở vùng đồng bằng thách thức lớn nhất là nạn ngập ún, lũ, phèn hoá, mặn hoá, xói
mòn và sạt lở bờ sông, bờ biển, ô nhiễm đất.
3.1.2. Những hoạt động ưu tiên nhằm chống tình trạng thoái hoá đất, sử dụng
hiệu quả và bền vững tài nguyên đất.
- Về cơ chế, chính sách, luật pháp: Bổ sung, hoàn chỉnh về hệ thống chính sách
luật pháp về đất đai; Tiến hành bổ sung và quy hoạch lại sử dụng đất hiệu quả và
bền vững; Xác lập rõ quyền sở hứu, sử dụng đất đối với các thành phần kinh tế.
Đối với đất lưu vực sông, đất dốc, đất ngập nước xây dựng và ban hành các chính
sách quản lý phù hợp; lồng ghép chính sách quốc gia với quốc tế trong việc chống
thoái hoá đất.
- Về kinh tế: Phát triển kinh tế trên cơ sở mô hình nông-lâm-ngư nghiệp liên hoàn
trên các vùng sinh thái khác nhau không chỉ đảm bảo về hiệu quả kinh tế mà còn
đảm bảo cân bằng sinh thái, ổn định lâu dài.
- Về xã hội: giảm áp lực dân số đối với tài nguyên đất thông qua điều hoà lại phân
bố dân cư; Đảm bảo các giải pháp an ninh lương thực, định canh định cư, giảm
nghèo đặc biệt là khu vực nông thôn và miền núi. Nâng cao nhận thức cộng đồng
2


về sử dụng và tiết kiệm đất; Đào tạo và huấn luyện nâng cao kiến thức sử dụng
đất; Phổ biến tuyên truyền các mô hình tiên tiến sử dụng đất bền vững
- Về kỹ thuật: áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, thâm canh sử dụng theo
chiều sâu; Thực hiện tuần hoàn hữu cơ trong đất; Quản lý lưu vực để bảo vệ đất và
nước; Tái tạo lớp phủ thực vật, bảo vệ và phát triển rừng; Bồi dưỡng “trẻ hoá” đất

nông nghiệp ở các vùng đồng bằng đông dân.

3.2. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
3.2.1. Những hạn chế và yếu kém đối với bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền
vững tài nguyên nước ở Việt nam.
- Nguồn tài nguyên nước của Việt nam phân bố không đều giữa các mùa trong
năm và giữa các vùng trong cả nước.
- Chưa có chiến lược dài hạn về quản lý tài nguyên nước quy mô quốc gia và từng
vùng.
- Mặc dù đã có những quy định quản lý tài nguyên nước nhưng thiếu đồng bộ,
thiếu các tiêu chuẩn và hạn mức sử dụng nước.
- Vốn đầu tư cho các công trình thuỷ lợi còn thấp, chưa chú trọng đầu tư công
nghệ cho xử lý nước thải. Chất lượng nước cấp cho sinh hoạt của người dân chưa
đảm bảo.
- Thiếu các chương trình giáo dục cộng đồng về sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo
vệ tài nguyên nước.
- Thuế, phí khai thác và sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý.
3.2.2. Những hoạt động ưu tiên nhằm bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền
vững tài nguyên nước.
- Về cơ chế, chính sách và luật pháp: Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng các chính
sách và luật pháp về bảo vệ, sử dụng và quản lý nguồn nước phù hợp với cơ chế
kinh tế thị trường; Nâng cao năng lực cho các cơ quan chính quyền trong việc
quản lý tài nguyên nước; Nghiên cứu phương án sử dụng nước lâu dài nhằm cân
đối nguồn nước trên quy mô quốc gia và từng vùng; Xây dựng và hoàn thiện tiêu
chuẩn môi trường nước quốc gia; Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về
tài nguyên nước; Xây dựng cơ sở giữ liệu phục vụ cho quản lý và bảo vệ tài
nguyên nước; Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc sử dụng, quản lý và bảo vệ
các nguồn nước trong lưu vực dùng chung giữa Việt nam và các nước láng giềng.



- Về kinh tế: Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án quản lý nguồn nước
các vùng đặc thù; Mở rộng và nâng cấp hệ thống thuỷ lợi các cấp; Sửa đổi và hoàn
thiện hệ thống thuế, phí khai thác và sử dụng nước theo nguyên tắc “người sử
dụng nước phải trả tiền” và “Người gây ô nhiễm nguồn nước phải trả tiền”; Tu bổ
các sông ngòi và nâng cấp hệ thống tưới tiêu bị xuống cấp, đầu tư trồng rừng đầu
nguồn nâng cao độ che phủ nhằm hạn chế lũ quét về mùa mưa và duy trì nguồn
nước ngầm về mùa khô.
- Về xã hội: thực hiện xã hội hóa trong khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài
nguyên nước, phát huy truyền thống cộng đồng tham gia bảo vệ duy trì chất lượng
nguồn tài nguyên nước ở địa phương. Nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc sử
dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ nguồn tài nguyên nước; khuyến khích cộng đồng
dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường và tiết kiệm tài nguyên nước
Có cơ chế quản lý nguồn tài nguyên nước phù hợp.
- Về kỹ thuật: Đẩy mạnh áp dụng các công nghệ xử lý nước thải, khuyến khích sử
dụng các công nghệ trong sản xuất giảm lượng nước thải, tái sử dụng nước thải,
tiết kiệm nước.

3.3. Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng
sản
3.3.1.Thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam.
- Khai thác thiếu quy hoạch, rất bừa bãi đối với các mỏ nhỏ, đã gây ra tình trạng
thất thoát tài nguyên khoáng sản, huỷ hoại môi trường đất, thảm thực vật và gây
nhiều sự cố môi trường như sụt lở, sập hầm lò khai thác…
- Phương thức khai thác, chế biến và sử dụng còn lãng phí, không tận thu được
hàm lượng khoáng sản hữu ích, không “thân thiện” với môi trường.
3.3.2. Những hoạt động ưu tiên.
- Về cơ chế, chính sách và luật pháp: Xây dựng quy hoạch thống nhất sử dụng các
nguồn tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường; Tổ chức trình tự khai thác mỏ
một cách hợp lý; Tài nuyên khoáng sản dưới lòng sông, cần khoanh khu vực khai
thác hợp lý, tránh làm sạt lở đất và thay đổi dòng chảy. Xây dựng và hoàn thiện

các công cụ kinh tế, hành chính và chế tài pháp luật nhằm thực hiện kiên quyết và
có hiệu quả hơn Luật khoáng sản; Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý khai thác và
sử dụng tài nguyên khoáng sản ở Trung ương và các địa phương. Có cơ chế quản
lý phù hợp tại khu vực khai thác khóang sản
- Về kinh tế: Trước khi khai thác khoáng sản cần có luận chứng kinh tế đảm bảo
việc khai thác đó có lãi ròng và hiệu quả, có tính ổn định trong một khoảng thời


gian nhất định. Trong đầu tư khai thác, phải tính toán một lượng tiền phù hợp cho
khâu phục hồi hoàn trả đất, tái tạo và cải thiện môi trường sinh thái ở các địa bàn
khai thác mỏ.
- Về xã hội: Hạn chế tối đa làm xáo trộn cuộc sống của người dân tại khu vực tiến
hành khai thác khoáng sản, thu hút lực lượng lao động địa phương tham gia vào
hoạt động này để đời sống của họ được nâng cao hơn trước. Không để các tệ nạn
xã hội phát sinh ở khu vực khai thác khoáng sản. Nâng cao nhận thức cho cộng
đồng dân cư; Khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ
mỏ khoáng sản, đặc biệt là các mỏ nhỏ, phân tán và các loại khoáng sản có độ
nhạy cảm cao về kinh tế, dễ gây ô nhiễm môi trường
- Về kỹ thuật: Đổi mới công nghệ khai thác, sàng tuyển và chế biến nhằm tiết
kiệm tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường; áp dụng các công nghệ tiên
tiến để sử dụng các loại quặng có hàm lượng thấp; Thu hồi các chất hữu ích từ các
bãi thải quặng; Thực hiện bồi hoàn các dạng tài nguyên sau khai thác như hoàn
thổ, trồng cây xanh, khôi phục thảm thực vật…

3.4. Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên
biển
3.4.1. Những trở ngại đối với việc bảo vệ môi trường biển.
- Thiếu một cơ chế quản lý và nguồn vốn đầu tư cho các công trình kỹ thuật và các
hoạt động ngăn chặn tác hại ô nhiễm môi trường.
- Phát triển thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của Việt nam,

song hiện tại phát triển ngành này còn nhiều hạn chế về quản lý và sử dụng hợp lý
nguồn lợi và bảo vệ môi trường, trình độ áp dụng khoa học công nghệ, nguồn vốn
đầu tư, tổ chức sản xuất và kinh doanh.
- Dải ven bờ chịu nhiều rủi ro do tác động xấu của thiên tai như bão, lụt, xói lở và
khả năng sóng thần.
- Sức ép dân số và tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh ở các vùng ven biển
gây ra nhiều hậu quả xấu đối với tài nguyên và môi trường biển.
3.4.2. Những hoạt động ưu tiên.
- Về cơ chế, chính sách và pháp luật: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển
và quản lý tài nguyên, môi trường biển theo quan điểm phát triển bền vững; Hình
thành một thể chế liên ngành, thống nhất quản lý vùng biển và bờ biển; Tiến dần
đến khoán, giao quyền sử dụng mặt biển trong phạm vi cho phép cho người sản
xuất nhằm tạo điều kiện thúc đẩy nghề nuôi trồng thuỷ sản; Tham gia và lập kế


hoạch thực hiện các hiệp định và chương trình hành động quốc tế và khu vực về
đánh cá, sử dụng bền vững và bảo vệ nguồn lợi biển, bảo vệ đa dạng sinh học
biển.
- Về kinh tế: Cần phải tính toán hiệu quả kinh tế trong các chương trình, dự án đối
với việc đẩy mạnh đánh bắt hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá hợp lý; Đầu tư
hiệu quả phát triển mạnh ngành nuôi, trồng thuỷ sản trong nước lợ, nước mặn ven
biển theo hướng hài hoà với môi trường, ổn định lâu dài; Phát triển dịch vụ hậu
cần nghề cá đáp ứng sự tăng trưởng không ngừng đối với ngành này.
- Về xã hội; Phát triển và đa dạng hoá các ngành nghề để tăng khả năng tạo việc
làm, xoá đói giảm nghèo cho các cộng đồng nghư dân ven biển. Nâng cao trình độ
văn hóa và nhận thức của ngư dân khu vực này đối với lợi ích của việc khai thác
sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển.
- Về kỹ thuật: ứng dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất các đội tàu đánh bắt xa bờ,
phương tiện đánh bắt hiện đại thân thiện môi trường, công nghệ trong bảo quản sử
dụng hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm sản phẩm nghề thuỷ sản.

- Về môi trường: Thiết lập và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển và ven biển;
Đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn môi trường ngành và quốc gia; Đẩy mạnh
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ bảo vệ môi trường biển và ven biển, công nghệ
ứng cứu sự cố môi trường biển.

3.5. Bảo vệ và phát triển rừng
3.5.1. Những áp lực đối với bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng.
- Tác động của chiến tranh lâu dài đã huỷ diệt nhiều hệ sinh thái rừng.
- Do nhu cầu thị trường về gỗ củi đã dẫn đến khai thác rừng bừa bãi, gây ra thiệt
hại, cạn kiệt đối với tài nguyên rừng, nhất là rừng đầu nguồn.
- Tình trạng du canh, phá rừng làm nương rẫy, áp lực của phát triển kinh tế trong
nông nghiệp làm giảm diện tích rừng.
- Nạn cháy rừng xảy ra thường xuyên, làm mất đi hàng chục ngàn ha mỗi năm.
- Công nghệ khai thác và chế biến gỗ còn lạc hậu, hiệu quả sử dụng gỗ thấp.
3.5.2.Những hoạt động ưu tiên.
- Về cơ chế, chính sách và pháp luật: Dựa trên cơ sở cơ chế vận hành của nền kinh
tế thị trường và hội nhập, củng cố hệ thống quản lý Nhà nước để hướng dẫn sử
dụng bền vững và bảo vệ tài nguyên rừng; tiếp tục đẩy mạnh việc giao đất khoán
rừng cho các hộ gia đình và tập thể theo Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và phát triển


rừng; Xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách, pháp luật nhằm thu hút đầu
tư cho việc phát triển và bảo vệ rừng.
- Về kinh tế: Tính toán hiệu quả kinh tế của các dự án trồng rừng để đầu tư có
trọng điểm, phát triển sản xuất hàng hóa đối với nghề trồng rừng gắn với các cơ sở
tiêu thụ sản phẩm gỗ. Hỗ trợ về vốn, khuyến khích kinh tế nhân dân trồng và bảo
vệ rừng, sử dụng có hiệu quả đất rừng được giao khoán; Xây dựng, ban hành và
hướng dẫn về miễn giảm thuế sử dụng đất, vay vốn với lãi suất ưu đãi cho việc
đầu tư thành lập trang trại; Thúc đẩy phát triển nông-lâm nghiệp sinh thái; Khuyến
khích sử dụng bền vững các sản phẩm rừng phi gỗ; Triển khai mạnh mẽ các dự án

trồng cây thuốc phù hợp với nhu cầu của thị trường.
- Về xã hội: Nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư địa phương trong việc duy trì
và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng tại nơi họ sinh sống. Thực hiện tốt chính sách
xóa đói giảm nghèo ở khu vực trung du, miền núi, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa
những địa bàn phân bố rừng chủ yếu của Việt nam. Tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho người dân địa phương dựa trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của địa phương
đó. Nâng cao nhận thức của người dân bản địa về lợi ích của việc duy trì và bảo vệ
nguồn tài nguyên rừng. Phát huy truyền thống văn hóa của người dân địa phương
trong việc duy trì và bảo vệ rừng đã có trước đây.
- Về kỹ thuật và công nghệ: Nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ mới trong sản xuất lâm nghiệp; Khuyến khích trồng các loại cây bản địa
trong tất cả các hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng; áp dụng công nghệ khai
thác và chế biến gỗ hiện đại, có hiệu quả sử dụng tài nguyên rừng cao; Khuyến
khích sử dụng các loại nhiên liệu để thay thế gỗ củi như than, khí ga và thuỷ điện
quy mô nhỏ; Nghiên cứu áp dụng các giải pháp kỹ thuật phòng và chống cháy
rừng và các thảm hoạ môi trường liên quan tới việc mất rừng.

3.6. Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp
3.6.1. Hiện trạng ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
- Ô nhiễm không khí chủ yếu do hoạt động giao thông vận tải, xây dựng và đun
nấu phục vụ nhân dân. Những ngành gây ô nhiễm không khí nhiều nhất là nhiệt
điện, sản xuất xi măng, gạch ngói, vôi, luyện kim, hoá chất, khai thác khoáng sản,
hoạt động sản xuất cơ bản vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- So với tiêu chuẩn cho phép, ô nhiễm bụi trong không khí ở các khu công nghiệp
thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5-3 lần. Nồng độ khí độc hại (SO 2, NO2,
CO) ở phần lớn các đô thị và khu công nghiệp đều nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép.


Tuy nhiên ở một số nhà máy và một số nút giao thông đô thị nồng độ các chất khí

độc hại đều vượt tiêu chuẩn cho phép. Vấn đề đáng quan tâm tại các khu công
nghiệp và đô thị là ô nhiễm trong các cơ sở sản xuất: ô nhiễm môi trường lao
động.
3.6.2. Những hoạt động ưu tiên.
- Về thể chế, chính sách và pháp luật: Thực hiện nghiêm ngặt đánh giá tác động
môi trường bắt buộc đối với các quy hoạch, các cơ sở sản xuất, các dự án phát
triển kinh tế-xã hội theo đúng quy định của luật pháp. Xử lý triệt để các cơ sở gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Về kinh tế: Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, Khuyến khích sử dụng năng
lượng sạch bằng các biện pháp kinh tế, áp dụng nguyên tắc "Người gây ô nhiễm
phải trả tiền". Có chế tài đủ mạnh đối với những cá nhân, tổ chức không chấp hành
các quy định nhằm hạn chế và giảm thiểu ô nhiễm không khí.
- Về xẫ hội: Tạo ra sự đồng thuận của xã hội phản đối những hành động gây ô
nhiễm môi trường không khí, ý thức bảo vệ môi trường không khí của người tham
gia giao thông, người làm xây dựng và hoạt động trong các cơ sở sản xuất cần
được nâng cao. Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho
chủ doanh nghiệp.
- Về khoa học, công nghệ: Khuyến khích sử dụng công nghệ sạch tại các cơ sở sản
xuất, nghiêm cấm nhập khẩu các công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.

3.7. Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại
3.7.1. Hiện trạng về công tác quản lý chất thải rắn.
- Năng lực thu gom chất thải rắn ở tất cả các đô thị và khu công nghiệp hiện nay
mới đạt 20-40%, riêng ở các thành phố lớn có thể lên tới 50-80%. Xử lý chất thải
rắn chủ yếu vẫn là hình thức chôn lấp không hợp vệ sinh.
- Những hạn chế trong quản lý chất thải rắn: Phân công trách nhiệm giữa các
ngành chưa rõ, cơ chế thực hiện vẫn mang nặng tính bao cấp, hình thức thu gom
chủ yếu vẫn mang tính thủ công, thiếu đầu tư nâng cấp các trang thiết bị, nhận
thức cộng đồng đang ở trình độ thấp. Triển khai chính sách xã hội hóa trong thu

gom, vận chuyển và xử lý chất thải còn thấp, công đoạn phân loại chất thải rắn tại
nguồn chưa thực hiện được, do vậy còn lãng phí chất thải cho tái chế và tái sử
dụng.
3.7.2. Những hoạt động ưu tiên.


×