Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lý. Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.83 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đề tài: Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lý. Phân tích khái quát
cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay.
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, để tạo ra tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững đếu phải có sự đầu tư đúng hướng; trong đó, cơ cấu đầu tư
phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược về cơ cấu kinh tế. Do đó, cần phải
có một cơ cấu đầu tư hợp lý, cơ cấu đó phải khai thác được lợi thế so sánh,
đáp ứng được những yêu cầu thị trường chung cho cả nước, phát huy nội lực
và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
Trong thời gian qua, tại các kỳ họp quốc hội, Đảng và Nhà nước ta cũng
đã và đang đề ra nhiệm vụ: Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ phát triển của
đất nước cần có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư một cách hợp lý đó là: Chuyển
dịch cơ cấu đầu tư gắn với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo
cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước; trong
khi nhấn mạnh vai trò quan trọng bậc nhất của tích luỹ nội bộ kinh tế, chúng
ta phải coi vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng, kết
hợp hai nguồn lực này trong một thể thống nhất để đầu tư phát triển; đó còn
là sự chuyển đổi cơ cấu đầu tư cần đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các
vùng, bên cạnh việc hình thành nên những vùng kinh tế trọng điểm cần có sự
quan tâm đến những vùng sâu, vùng xa, vùng còn khó khăn.
Trên thực tế, cơ cấu đầu tư của nước ta trong những năm gần đây đã có
sự dịch chuyển khả quan, đáp ứng được những yêu cầu và mục tiêu trên.
Tuy nhiên bên cạnh đó, cơ cấu đầu tư hiện nay cũng còn thể hiện nhiều mặt
hạn chế, bất cập. Do đó, việc nghiên cứu cơ cấu đầu tư, sự chuyển dịch cơ
cấu đầu tư, và từ những thực trạng về cơ cấu đầu tư của Việt Nam thời gian
qua từ đó có thể đưa ra những giải pháp để cơ cấu đầu tư dịch chuyển theo
hướng hợp lý là đúng đắn và cần thiết.
Nhóm chúng em xin được chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang
Phương đã giúp chúng em hoàn thành đề án này. Trong quá trình viết và
thảo luận bài viết này, chúng em không tránh khỏi những thiếu suất, mong


thầy và các bạn đóng góp bổ sung.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ
1.1 Cơ cấu đầu tư
1.1.1 Khái niệm cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu vốn,
nguồn vốn cơ cấu huy động và sử dụng vốn…quan hệ hữu cơ, tương tác qua
lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động theo hướng
hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi
mặt kinh tế - xã hội.
1.1.2 Phân loại cơ cấu đầu tư
1.1.2.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn
Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hay cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện tỉ lệ
của từng loại nguồn vốn trong tổng số vốn đầu tư xã hội hay nguồn vốn đầu
tư của doanh nghiệp và dự án. Cùng với sự gia tăng của vốn đầu tư xã hội,
cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng hơn, phù hợp với cơ chế xóa bỏ bao
cấp trong đầu tư, với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và chính
sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Trên phương diện vĩ mô,
có một số loại nguồn vốn chủ yếu sau đây :
Vốn ngân sách nhà nước: Là nguồn vốn được trích lập từ ngân sách
của Nhà nước chi cho các hoạt động đầu tư. Đây là một nguồn vốn quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và thường
được đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng an
ninh, hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia
của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ quy hoạch xây dựng đô thị và
nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước : Nguồn vốn này có tác dụng
tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ

chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc
hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn nay phải tính kỹ hiệu quả đầu
tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang
phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ
công tác quản lý và điều tiết vĩ mô. Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư,
nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành,
vùng lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là
công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trưởng kinh tế mà còn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Việc
phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những
vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm
nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác
dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa - hiện đại hóa.
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước : Nguồn vốn này chủ yếu
từ khấu tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước. Theo
Bộ Kế hoạch va Đầu tư, thông thường nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp
nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ yếu là
đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị hiện đại hóa dây
chuyền công nghệ của doanh nghiệp.
Vốn đầu tư tư nhân và dân cư : Nguồn vốn tư nhân bao gồm phần tiết
kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác
xã. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các
doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần
tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm
khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia

đầu tư trực tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Đầu tư của
các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trong đặc biệt trong
việc phát triển nông nghiệp va kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, vận tải trên các
địa phương. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số
những nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các
hộ gia dình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát
triển của một nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy
mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp ); tập quán tiêu dùng của dân cư; chính sách động
viên của nhà nước thông qua chính sách phát triển thuế thu nhập và các
khoản đóng góp của xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đây là nguồn vốn quan trọng
cho đầu tư và phát triển. Nó có đặc điểm là tiếp nhận nguồn vốn này không
phát sinh nợ cho nước nhận vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn
bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát
triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kĩ thuật
hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kì to lớn đối với
quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng
nhanh ở nước nhận đầu tư.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài
khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp của khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài cho ngân sách nhà nước cũng hết sức đáng kể.
Đặc biệt nguồn vốn nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh
ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông…hình thành lên các khu công nghiệp, khu chế xuất khu công
nghệ cao, hiện đại hóa các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư
mới tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương.

1.1.2.2 Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiên quan hệ tỉ lệ của từng loại vốn với tổng vốn
đầu tư xã hội, vốn đầu tư của một doanh nghiệp hay của một dư án. Cơ cấu
vốn đầu tư cần được xem xét như: cơ cấu kỹ thuật của vốn (vốn xây lắp và
máy móc kĩ thuật trong tổng vốn đầu tư); cơ cấu vốn đầu tư cho hoạt động
XDCB, công tác nghiên cứu triển khai khoa học và công nghệ, vốn đầu tư
cho đào tạo nguồn nhân lực, tái tạo tài sản lưu động và những chi phí khác
(chi phí quảng cáo tiếp thị…); cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực
hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư…
1.1.2.3 Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành
Đây là loại cơ cấu đầu tư quan trọng nhất vì nó trực tiếp tác động đến sự
chuyển dịch cơ cấu theo ngành. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành quy
định tỉ lệ phân bổ vốn đầu tư xã hội vào các ngành kinh tế, thực hiện đầu tư
cho từng ngành kinh tế quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành thể hiện
việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng
ngành nhất định.
Có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu cơ cấu đầu tư theo ngành nhưng ta có
thể chia theo các cách sau:
* Chia theo hai nhóm ngành quan trọng: Ngành sản xuất sản phẩm xã hội
và nhóm ngành kết cấu hạ tầng. Mục đích là nghiên cứu tính hợp lí của đầu
tư cho từng nhóm ngành. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một
bước để tạo cơ sở phát triển các ngành sản xuất sản phẩm xã hội, nhưng cần
có tỉ lệ hợp lý vì nếu quá tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, không chú
ý dến sản xuất kinh doanh thì sẽ không có tăng trưởng.
* Chia cơ cấu đầu tư theo 3 nhóm ngành: Ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ. Mục đích là đánh giá, phân tích tình hình đầu tư, thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch
vụ, chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp hợp lí ở nước ta hiện nay, nông dân
chiếm tỉ trọng phần lớn và nông thôn có vị trí rất quan trọng trong quá trình
phát triển.

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngành nông nghiệp: Đây là ngành sản xuất vật chất quan trọng nhằm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân, là ngành chiếm tỉ trọng lớn trong tổng
sản phẩm quốc dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ
cho tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời cũng là ngành chiếm tỷ trọng lớn
trong lực lượng lao động xã hội và dân cư ở nước ta. Nông nghiệp phát triển
sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do năng suất lao động trong nông nghiệp
thấp hơn trong các ngành khác, nên nông nghiệp không phát triển nó sẽ trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế, sẽ kéo toàn bộ mức tăng trưởng của nền
kinh tế. Mặt khác nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện thỏa mãn được nhu
cầu tiêu dùng cho toàn xã hội, đảm bảo sự ổn định kinh tế xã hội để phát
triển. Nông nghiệp và nông thôn phát triển sẽ mở rộng thị trường trong
nước, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu, tích lũy vốn ban đầu và cung cấp lao động cho các ngành
sản xuất khác của nền kinh tế. Nhưng đây là ngành sản xuất phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tự nhiên, tính bấp bênh cao, thu hồi vốn lâu, đòi hỏi vốn lớn
cho các công trình thủy lợi, máy móc trang thiết bị, phòng trừ sâu bệnh…
Do vậy chính phủ phải có các chính sách phát triển nông nghiệp, điều chỉnh
cơ cấu ngành một cách thích hợp, sao cho sự phát triển của nông nghiệp
không ảnh hưởng đến đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ mà còn tạo
điều kiện tốt hơn cho sự phát triển của hai ngành này cũng như toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Ngành công nghiệp: Để đưa nước ta thoát khỏi một nước nghèo và rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác trong khu vực cũng như trên
thế giới, chúng ta không thể chỉ phát triển nông nghiệp mà phải phát triển cả
công nghiệp và dịch vụ. Công nghiệp là ngành quan trọng trong quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Ngành này thu hút một lượng lao
động lớn và năng suất lao đông trong ngành này rất cao và tạo ra giá trị sản
lượng công nghiệp tăng nhanh hơn trong các ngành khác, tạo ra lợi nhuận

lớn. Ngành công nghiệp phát triển sẽ cung cấp nhiều máy móc trang thiết bị
cho nông nghiệp phát triển, nhiều sản phẩm hàng hóa đa dạng cho dịch vụ
phát triển. Chúng ta xuất phát từ một nước nghèo, có nền công nghiệp lạc
hậu so với các nước khác, do vậy phải tranh thủ tiến trình mở cửa hội nhập
quốc tế để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, học hỏi kinh nghiệm, công
nghệ từ họ để phát triển công nghiệp đất nước. Xây dựng công nghiệp nặng
làm nền tảng cơ sở, tận dụng sự chuyển giao công nghệ, thiết lập những
ngành mũi nhọn có lợi thế so sánh nhất. Ngành công nghiệp chiếm một tỉ
trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân, do vậy nhà nuớc phải đặc biệt quan
tâm, và có những chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cung
cấp vốn và phân bổ vốn một cách họp lí cho sự phát triển công nghiệp.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngành dịch vụ: Dịch vụ là một lĩnh vực hoạt động tổng hợp của nền
kinh tế quốc dân, bao gồm tất cả các hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống
của dân cư. Hoạt động dịch vụ bao gồm tất cả các hoạt động thương mại,
giao thông vận tải, cung cấp điện nước, bưu chính viễn thông, khách sạn du
lịch và các loại hình phục vụ khác cho sản xuất và đời sống xã hội. Nền kinh
tế càng phát triển thì khu vực dịch vụ cũng càng phát triển. Dịch vụ là cầu
nối gắn liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, gắn thị trường
trong nước với thị trường nước ngoài. Có thể nói dịch vụ vừa là kết quả vừa
là nguyên nhân của phát triển kinh tế. Sự phát triển của ngành dịch vụ làm
cho cuộc sống thêm văn minh hiện đại hơn. Để phát triển ngành dịch vụ cần
phát triển về cơ sơ hạ tầng, đây là nhiệm vụ hết sức cần thiết và quyết định
cho sự phát triển của ngành. Ngoài ra chúng ta cần phải đào tạo một nguồn
nhân lực tốt, giư gìn bản sắc văn hóa, phát triển và truyền bá nó. Ngày nay
theo xu hướng hội nhập quốc tế, sự phát triển của ngành dịch vụ ngày càng
quan trọng và nó đóng góp ngày càng lớn vào tổng thu nhập quốc dân.
Cả nước ta đang chuyển dịch theo xu hướng giảm tỉ trọng ngành nông
nghiệp và tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, đầy là một xu

hướng đúng đắn tạo sự phát triển bền vững và phù hợp với xu thế của thời
đại
* Chia theo 2 khối ngành: Khối ngành chủ đạo và khối ngành còn lại.
Đầu tư phải đảm bảo tương quan hợp lý giữa hai khối ngành này để nền kinh
tế vừa có những sản phẩm chủ đạo, tạo thế và lực cho sự phát triển lâu dài,
đồng thời phải đảm bảo sự phát triển tổng hợp nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh,
bền vững hiệu quả.
1.1.2.4 Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng, lãnh thổ.
Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư
theo không gian, phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc
phát huy thế mạnh cạnh tranh của từng vùng trong chiến lược phát triển kinh
tế xã hội. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng, lãnh thổ phải phù
hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội, khai thác sử dụng có
hiệu quả về các nguồn lực lợi thế của vùng, dựa vào nhu cầu của nền kinh tế,
phù hợp xu thế phát triển thế giới. Xác định các vùng kinh tế trọng điểm để
ưu tiên phát triển đồng thời cũng tạo ra động lực để phát triển các vùng kinh
tế lạc hậu khó khăn. Có thể phân tích cơ cấu đầu tư giữa lãnh thổ phát triển
(địa bàn là động lực phát triển) với lãnh thổ kém phát triển (lãnh thổ còn khó
khăn) hoặc phân tích cơ cấu đầu tư theo các vùng lãnh thổ kinh tế.
1.2 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý.
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Cơ cấu đầu tư phụ thuộc vào nhiều các yếu tố, các yếu tố này lại không cố
định. Trong từng giai đoạn cụ thể khác nhau, cơ cấu đầu tư luôn thay đổi để
phù hợp với sự phát triển với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Để có sự
chuyển đổi đó thì cần có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Do vậy sự chuyển
dịch cơ cấu đầu tư là điều cần thiết nhằm hướng tới xây dựng một cơ cấu
đầu tư hợp lý.
Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có thể hiểu là sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ

mức độ này sang mức độ khác, phù hợp với môi trường và mục tiêu phát
triển.
Trước hết sự thay đổi cơ cấu đầu tư được thể hiện trên phương diện về vị
trí ưu tiên. Từ đó tuỳ theo từng loại cơ cấu đầu tư sự chuyển dịch sẽ tác động
theo hướng ưu tiên cho những mặt mạnh giúp phát triển một cách hợp lý
giữa các mặt, các ngành sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Sự chuyển dịch không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn có sự
thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng.
Về thực chất khi có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư thì cơ cấu vốn, vốn đầu
tư, cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn, nguồn vốn sẽ được điều chỉnh.
Như vậy các nhân tố nội bộ trong cơ cấu đầu tư sẽ được đổi mới để phù hợp
với mục tiêu xác định của nền kinh tế, ngành địa phương và các cơ sở trong
từng thời kỳ phát triển.
1.2.2. Sự cần thiết của việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư:
Theo báo cáo chính trị trình Đại hội VIII của Đảng đã nhấn mạnh “ Nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực vẫn là thách thức
to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi
trường cạnh tranh quyết liệt”.
Để thoát khỏi một cách cơ bản tình trạng nghèo khổ và nguy cơ tụt hậu
kinh tế, bên cạnh việc giải quyết các vấn đề xã hội đang đặt ra cần phải tăng
trưởng nhanh, ổn định và liên tục đi liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có như vậy mới cải thiện đời sống
nhân dân, tạo tiền đề để nhanh chóng đưa đất nước ta trở thành một nước
phát triển. Theo nội dung của phát triển kinh tế, tăng trưởng cao cùng với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý là nội dung cơ bản có tính chất quyết định.
Một nền kinh tế có sự tăng trưởng là có sự tăng về quy mô sản lượng đầu
ra được tính bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tăng trưởng
kinh tế cũng được hiểu là sự nâng cao tiềm lực sản xuất của nền kinh tế quốc
dân và được quyết định bởi mức gia tăng quy mô cũng như hiệu quả sử dụng
các yếu tố đầu vào. Thực tế phát triển của các nước đi trước với những điều

kiện tương đồng cho thấy vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhất. Đất nước ta còn nghèo, chính vì vậy sự thiếu thốn đầu tư cho phát triển
lại càng nổi lên như một cản trở chủ yếu đối với yêu cầu tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy nhiệm vụ đặt ra là phải tranh thủ tối đa mọi nguồn vốn bên trong và
bên ngoài, của Nhà nước cũng như mọi thành phần kinh tế cho mục tiêu tăng
trưởng. Sau đó phải quản lý và sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả.
Đồng thời phải tránh hậu quả nợ nần như một số quốc gia gặp phải trong
lịch sử. Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác
nhau. Trên giác độ quản lý vĩ mô thì quan trọng là việc phân bố vốn vào đâu,
theo số lượng và tỉ lệ như thế nào. Như vậy cần sự dụng vốn theo một cơ cấu
tối ưu, hiệu quả nhất. Mặt khác đầu tư cơ bản với chức năng quan trọng là
tác động trực tiếp vào quá trình tái sản xuất xã hội. Do đó làm biến đổi cơ
cấu kinh tế. Như vậy, cơ cấu đầu tư có mối quan hệ mật thiết với cơ cấu kinh
tế. Nếu cơ cấu kinh tế hướng vào mục đích cần đạt được của nền kinh tế thì
đầu tư chính là phương tiện đảm bảo cho cơ cấu kinh tế được hình thành hợp
lý theo mục đích hướng tới của nó. Vì vậy một cơ cấu đầu tư tối ưu vừa cho
phép nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, vừa là phương tiện để hình thành cơ
cấu kinh tế hợp lý đảm bảo tăng trưởng nhanh. Cơ cấu đầu tư phụ thuộc vào
nhiều nhân tố và các nhân tố đó lại luôn vận động và phát triển. Vì thế cơ
cấu đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế không phải là cố định.
Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư và sự tác động của nó đến cơ cấu kinh tế
diễn ra một cách thường xuyên, lặp đi lặp lại theo hướng tiến dần đến những
cơ cấu kinh tế tối ưu. Nói cách khác, chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh
hưởng quan trọng đến đổi mới cơ cấu kinh tế. Quá trình thay đổi đó mang
tính chất khách quan, dưới tác động của các quy luật kinh tế. Định hướng
đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế trên cơ sở sự tác động của yếu tố đầu tư và
có tính đến những nhân tố ảnh hưởng khác. Sự thay đổi và phát triển của các
bộ phận nền kinh tế cũng sẽ quyết định sự thay đổi số lượng cũng như chất

lượng của các ngành trong nền kinh tế quốc dân theo hướng xuất hiện nhiều
ngành mới, giảm tỷ trọng những ngành không phù hợp, tăng tỷ trọng những
ngành lợi thế. Bên cạnh đó chuyển dịch cơ cấu đầu tư cũng làm thay đổi mối
quan hệ giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh tế theo xu hướng
ngày càng lợi thế hơn, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội cho từng bộ phận
cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa
phương hay cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới xây dựng
một cơ cấu đầu tư hợp lý với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách
toàn diện hơn.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3. Cơ cấu đầu tư hợp lý:
1.2.3.1 Khái niệm
Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách
quan, với các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn,
phù hợp và phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng ngành,
vùng, cơ sở và toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ có tác động tích
cực đến đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khai thác
và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù
hợp với xu thế kinh tế, chính trị của thế giới và khu vực.
1.2.3.2 Các tiêu chí để đánh giá cơ cấu đầu tư hợp lý
Một cơ cấu đầu tư hợp lý, trước hết phải phù hợp với quy luật khách
quan, nghĩa là nó phải phù hợp với các quy luật kinh tế xã hội, các quy luật
tự nhiên. Nếu đi nguợc lại các quy luật đó lập tức sẽ bị đào thải và không thể
tồn tại, phát triển được.
Cơ cấu đầu tư phát triển hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra quá trình tái
sản xuất mở rộng. Hay nói cách khác, cơ cấu đầu tư phát triển hợp lý là cơ
cấu đầu tư vừa khai thác hiệu quả các năng lực hiện tại, vừa bảo đảm là nền
tảng bền vững cho sự phát triển mạnh trong tương lai.

Trong mỗi giai đoạn, với những điều kiện khác nhau về kinh tế xã hội,
về chiến lược phát triển kinh tế xã hội khác nhau thì sẽ có cơ cấu đầu tư khác
nhau cho phù hợp. Và trong các ngành khác nhau cũng sẽ có cơ cấu đầu tư
hợp lý khác nhau. Cơ cấu này là phù hợp với quốc gia này nhưng lại không
phù hợp với quốc gia kia, và ngay trong nền kinh tế thì cơ cấu hợp lý cho
mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cũng khác nhau. Vấn đề cần đặt ra là các nước phải
xây dựng cho mình cơ cấu đầu tư hợp lý trong toàn bộ nền kinh tế cũng như
trong từng bộ phận của nền kinh tế để đạt được sự phát triển bền vững.
1.2.4. Các hình thức cơ cấu đầu tư hợp lý:
1.2.4.1. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hợp lý:
Như đã trình bày ở trên, cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ
của từng loại nguồn vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, nguồn vốn đầu tư của
doanh nghiệp và dự án. Trong giai đoạn hiện nay, cơ cấu nguồn vốn ngày
càng đa dạng, phong phú cùng với sự gia tăng của vốn đầu tư xã hội. Để phù
hợp với nền kinh tế thị trường cơ cấu nguồn vốn đã thay đổi theo hướng xoá
bỏ bao cấp trong đầu tư, phát huy nền kinh tế nhiều thành phần với các
chính sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Trên phạm vi quốc gia: Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu phản ánh khả
năng huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, phản ánh
khả năng sử dụng hiệu quả cao mọi nguồn vốn đầu tư.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Xu hướng cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần
tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, tăng tỷ trọng nguồn vốn tín
dụng ưu đãi và nguồn vốn của dân cư. Có như vậy nền kinh tế nước ta mới
thực sự thoát khỏi tình trạng quan liêu bao cấp, tạo động lực phát triển một
nền kinh tế năng động.
Mặt khác khi xét trên góc độ doanh nghiệp thì cơ cấu nguồn vốn hợp lý là cơ
cấu phản ánh tỷ lệ giữa các nguồn vốn trong doanh nghiệp, giữa vốn chủ sở
hữu và vốn đi vay sao cho tận dụng tối đa mọi nguồn lực, giúp doanh nghiệp

hoạt động có hiệu quả.
1.2.4.2. Cơ cấu vốn đầu tư hợp lý:
Như giới thiệu ở phần trên, chúng ta biết cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ
tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh
nghiệp hay của một dự án.
Trong thực tế, có một số cơ cấu vốn đầu tư quan trọng cần được chú ý xem
xét như:
- Cơ cấu kĩ thuật của vốn (vốn xây lắp và vốn máy móc thiết bị trong tổng
vốn đầu tư.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho hoạt động XDCB.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu triển khai khoa học và công
nghệ.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
- Cơ cấu vốn đầu tư cho tái tạo tài sản lưu động và những chi phí khác
như: chi phí quảng cáo, tiếp thị...
- Cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện dự án như chi phí
chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư...
Vậy một cơ cấu vốn đầu tư hợp lý là cơ cấu mà vốn đầu tư được ưu tiên
cho bộ phận quan trọng nhất, phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đầu tư. Và bộ
phận được ưu tiên cung cấp vốn này thường chiếm một tỷ trọng khá cao.
1.2.4.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành hợp lý:
Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành là cơ cấu thực hiện đầu tư cho từng
ngành kinh tế quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành. Từ đó sẽ thể hiện
việc thực hiện chính sách ưu tiên, phát triển, chính sách đầu tư đối với từng
ngành trong một thời kỳ nhất định.
Trong thực tế, một quyết định đầu tư có thể làm thay đổi số lượng tuyệt
đối của các ngành, tiểu ngành cấu thành nền kinh tế quốc dân. Những ngành,
tiểu ngành mới xuất hiện sẽ ngày càng hiệu quả với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học, công nghệ như các ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ
chất lượng cao. Bên cạnh đó, một số ngành không phù hợp với xu thế phát

triển của thời đại sẽ giảm vai trò và tỷ trọng của mình trong nền kinh tế.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Điều đó là do nhu cầu xã hội về ngành đó ngày càng giảm hoặc không còn
thiết thực nữa. Hay có thể hiểu là lợi thế của ngành đó bị giảm hay bị mất đi.
Cơ cấu của ngành kinh tế cũng có sự thay đổi cùng với việc xuất hiện
mới hay mất đi của một số ngành. Thứ tự ưu tiên đầu tư giữa các ngành, tiểu
ngành trong nền kinh tế có sự khác nhau và thay đổi qua từng thời kỳ phát
triển. Các ngành, tiểu ngành có lợi thế sẽ ngày càng được đầu tư phát triển
và đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu ngành của nền kinh tế. Một số ngành
sẽ giảm đầu tư và giữ ở mức độ vừa phải. Một số ngành sẽ giảm đầu tư ở
mức tối đa.
Trong nền kinh tế giai đoạn hiện nay, các ngành công nghiệp dịch vụ
thường có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Nếu như vào giai đoạn trước Việt
Nam là một nước nông nghiệp kém phát triển thì bây giờ chúng ta đã và
đang cải thiện dần cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Mặt khác do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh lời nên các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng không cao. Vì vậy
muốn có tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững và hiệu quả thì phải đầu tư
mạnh vào công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là các ngành công nghiệp, dịch
vụ công nghệ hiện đại, có chất lượng cao. Chính sách đầu tư vào các ngành
có tốc độ phát triển khác nhau sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tuỳ
theo mức độ chuyển đổi cơ cấu đầu tư và hiệu quả đầu tư của các ngành đó.
Nói chung lại, cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành một cách hợp lý
trong thời kì đổi mới hiện nay là chuyển dịch theo hướng đầu tư mạnh cho
công nghiệp, ưu tiên cho nông nghiệp nông thôn và phát triển cơ sở hạ tầng
cũng như các lĩnh vực xã hội.
1.2.4.4. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ hợp lý:
Cơ cấu đầu tư theo địa phương và vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư theo
không gian. Từ đó sẽ phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và

việc phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng.
Trong mỗi giai đoạn phát triển, nguồn lực của mỗi quốc gia là có hạn nên
các nhà quản lý chiến lược phải đề ra những đề xuất tạo ra sự tăng trưởng
cho nền kinh tế ở mức hợp lý nhất. Trong điều kiện hiện nay khi mà nguồn
lực trong nước còn hạn chế thì chiến lược phát triển được coi tốt nhất là đầu
tư phát triển phi cơ cấu. Theo đó sẽ ưu tiên đầu tư phát triển mạnh một số
vùng nhất định hay còn gọi là vùng kinh tế trọng điểm. Mục tiêu của chiến
lược trên là tạo nguồn lực lớn lôi kéo các vùng phát triển nhưng vẫn đảm
bảo các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa không bị tụt hậu nhiều.
Cụ thể ở Việt Nam, việc đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là một trong
những hoạt động đầu tư quan trọng nhất, hiệu quả nhất trong việc xoá đói,
giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội. Trong giai đoạn hên nay, Nhà nước ta
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cần phải tập trung đầu tư phát triển các vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tàu
cho phát triển kinh tế các nước. Đồng thời phải tăng cường đầu tư cho những
vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo đặc biệt là các vùng sâu,
vùng xa. Có thể nói phương hướng đầu tư trên sẽ tạo ra sự dịch chuyển cơ
cấu kinh tế giữa các vùng. Bên cạnh đó sẽ tạo ra những cơ cấu kinh tế theo
lãnh thổ mới, đảm bảo có được những tiềm lực lớn để tăng trưởng trong giai
đoạn sau. Dựa vào các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội như; tăng trưởng,
xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó đặc biệt là dựa vào các lợi thế về vị trí địa
lý, khí hậu tự nhiên, các nguồn lực... việc thực hiện đầu tư làm thay đổi vị trí
của mình theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Cụ thể là sẽ sử dụng hiệu quả
các nguồn lực, lợi thế của chính vùng kinh tế đó.
Nhìn chung lại một cơ cấu đầu tư theo địa phương hay vùng lãnh thổ
được xem là hợp lý nếu nó phù hợp với yêu cầu, chiến lược phát triển kinh
tế xã hội. Đồng thời phát huy lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của các vùng khác,
đảm bảo sự phát triển thống nhất về những cân đối lớn trong phạm vi quốc

gia và giữa các ngành.
1.3. Đặc điểm và các nhân tố tác động đến cơ cấu đầu tư:
1.3.1. Đặc điểm của cơ cấu đầu tư:
- Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế xã hội. Sự thay đổi ở đây là sự thay đổi về vị trí, vai trò
các bộ phận cấu thành đầu tư bao gồm sự thay đổi về tổng quy mô nguồn
lực, sự thay đổi về cơ cấu huy động nguồn vốn, thay đổi về quan hệ tỷ lệ đầu
tư giữa các ngành, tiểu ngành, các vùng và các thành phần kinh tế...
- Cơ cấu đầu tư chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Có nhân tố thuộc
nội tại nền kinh tế, có nhân tố tác động từ bên ngoài. Mặt khác có nhân tố
tích cực thúc đẩy phát triển song cũng có nhân tố kìm hãm, hạn chế sự phát
triển. Sự phụ thuộc nhiều vào các nhân tố ảnh hưởng cũng là nguyên nhân
làm cho cơ cấu đầu tư luôn thay đổi. Cơ cấu đầu tư không cố định mà sẽ
dich chuyển theo hướng phát triển đi tới một cơ cấu hợp lý.
1.3.2. Các nhân tố tác động:
1.3.2.1. Các nhân tố trong nội bộ nền kinh tế:
Các nhân tố nội bộ hay còn gọi là các nhân tố bên trong tồn tại ngay
trong nền kinh tế của nước đó bao gồm: quan điểm chiến lược, mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn nhất định; nhân tố thị
trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội; trình độ phát triển của lực lượng sản
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất; cơ chế quản lý có thể anh hưởng đến cơ cấu đầu tư...Dưới đây chúng ta
sẽ nghiên cứu kĩ hơn về một số nhân tố sau:
* Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội:
Thị trường và nhu cầu của xã hội là người đặt hàng cho tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mọi ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế.
Khách hàng chính là người quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi hàng
hoá dịch vụ. Nếu xã hội không có nhu cầu thì tất yếu sẽ không có bất kì một
quá trình sản xuất, bất kì một quá trình đầu tư nào.

Trong nội bộ nền kinh tế nước ta hiện nay, sản phẩm hàng hoá đã được
chu chuyển khá thuận lợi và nhanh chóng từ vùng này sang vùng khác, từ
nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, từ nơi có nhu cầu thấp đến nơi có nhu cầu
cao. Nếu hoạt động sản xuất kinh doanh mà không căn cứ vào nhu cầu của
thị trường thì khó có thể tồn tại được lâu dài. Hiện nay, đất nước ta đã hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Nhưng chúng ta đã
phát huy được những lợi thế của mình, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng
cao, trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực, được thị trường thế giới đánh giá
cao.
Căn cứ vào thị trường và nhu cầu xã hội không chỉ căn cứ vào số lượng
mà cả nhu cầu về chất lượng, chủng loại các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Từ
đó nó có tác động trực tiếp đến quy mô, trình độ phát triển, đến vị trí, tỷ
trọng đầu tư của các ngành, lĩnh vực trong cơ cấu đầu tư của toàn xã hội.
Việc xác lập một cơ cấu đầu tư cho mỗi quốc gia, mỗi vùng kinh tế không
thể không tính đến xu thế tiêu dùng của xã hội. Đồng thời xem xét quan hệ
cung cầu của từng loại hàng hoá dịch vụ, xác định đúng lợi thế của mình để
có chiến lược bố trí hoạt động đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý.
* Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
vùng và cơ chế, năng lực quản lý trong mỗi giai đoạn nhất định:
Với tư cách là chủ thể quản lý, Nhà nước tác động và chi phối vào sự vận
động của cơ cấu đầu tư. Tuy nhiên Nhà nước không trực tiếp sắp đặt đầu tư
theo các ngành nghề ( trừ một số ít các dự án đầu tư trực tiếp của Nhà nước);
không quy định các tỷ lệ của cơ cấu đầu tư; không áp đặt đầu tư đối với các
thành phần kinh tế bởi đó là quyền tự do sản xuất, kinh doanh của các chủ
thể kinh tế. Nhà nước chỉ tác động gián tiếp bằng các định hướng phát triển
để thực hiện được mục tiêu, đáp ứng nhu cầu xã hội. Đó chính là nội dung
chủ đạo của hoạt động kế hoạch đầu tư trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng phát triển của Nhà nước luôn khuyến khích mọi thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia đầu tư phát triển nhằm thực hiện các

mục tiêu kinh tế xã hội với hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, Nhà nước còn đưa
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ra các cơ hội, các dự án đầu tư, các hình thức hỗ trợ nhất định để các chủ thể
tham gia đầu tư.
Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội là định hướng chung cho
mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp trong cả nước phấn đấu thực hiện
dưới sự điều tiết của Nhà nước thông qua hệ thống luật pháp và các quy
định, thể chế chính sách, tạo ra những tỷ lệ hợp lý giữa các ngành nghề, các
vùng kinh tế. Từ đó sẽ tiến tới thực hiện một cơ cấu đầu tư hợp lý.
Mặt khác trong những thời kì nhất định, cơ chế quản lý Nhà nước cũng
có những thay đổi nhất định, tác động trực tiếp đến quá trình phát triển. Đi
cùng với nó là năng lực quản lý của hệ thống, khả năng nắm bắt các quy luật
kinh tế sẽ tác động đến việc ban hành chính sách, điều hành vĩ mô, tác động
đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung, đến đẩu tư và cơ cấu đầu tư nói
riêng.
* Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ:
Lực lượng sản xuất chính là động lực để phát triển xã hội. Mặt khác thị
trường và nhu cầu của xã hội là vô tận và ngày càng cao. Muốn đáp ứng đầy
đủ nhu cầu xã hội thì trước hết phải phát triển lực lượng sản xuất. Khi lực
lượng sản xuất phát triển, nó tác động đến trình độ tự động hoá, cơ giới hoá,
điện khí hoá...tạo ra sự chênh lệch về năng suất.
Khoa học ngày càng đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã
hội, nó tác động đến tất cả các khâu của quá trình phát triển. Nó làm thay đổi
quy trình sản xuất truyền thống, làm tăng năng suất hiệu quả. Từ đó đầu tư
sẽ dịch chuyển theo hướng từ những ngành có hàm lượng kĩ thuật thấp sang
những ngành có hàm lượng kĩ thuật cao, hiện đại. Lực lượng sản xuất sẽ là
nhân tố tạo ra sự phát triển về chất trong hoạt động đầu tư phát triển của mỗi
quốc gia và vùng kinh tế.
* Yếu tố nguồn nhân lực:

Cơ cấu đầu tư có sự dịch chuyển nhanh hay chậm, hợp lý hay không hợp
lý do sự tác động chủ quan của con người. Có thể nói nguồn nhân lực là
nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành cơ cấu đầu tư. Một ví dụ
điển hình chứng minh cho tầm quan trọng của nguồn nhân lực chính là
trường hợp của đất nước Nhật Bản. Mặc dù là một đất nước nghèo nàn về
nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng chính nhờ con người nơi đây với trí tuệ
và nghị lực mạnh mẽ, đất nước này đã nhanh chóng vượt qua khó khăn. Và
giờ đây Nhật Bản là một trong những nước phát triển nhất thế giới. Chính vì
vậy mà chúng ta cần học hỏi rất nhiều bài học, kinh nghiệm từ đất nước này.
Việt Nam vẫn luôn tự hào về một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
“rừng vàng biển bạc”. Thế nhưng chúng ta vẫn xếp trong những nước có nền
kinh tế phát triển chưa cao. Vậy nguyên nhân là do đâu? Nhìn chung nước ta
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có lực lượng lao động trẻ, dồi dào và nhanh nhậy. Đây là một ưu thế nhưng
nhìn chung trình độ còn thấp, kĩ thuật lao động hạn chế nên việc chuyển dịch
cơ cấu đầu tư sang các lĩnh vực sử dụng nhiều chất xám sẽ gặp nhiều khó
khăn. Điều đó đòi hỏi cần có sự đầu tư nhất định cho nguồn nhân lực. Cụ thể
cần có chính sách đào tạo nguồn nhân lực trở thành đội ngũ có tay nghề cao,
hợp lý về cơ cấu phục vụ cho nền kinh tế phát triển.
* Vị trí địa lý kinh tế, điều kiện về các nguồn lợi tự nhiên:
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc bố
trí đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư đặc biệt là cơ cấu đầu tư vùng kinh
tế. Nguồn lợi tự nhiên là một yếu tố gắn liền với vị trí địa lý, địa kinh tế của
mỗi quốc gia, mỗi vùng kinh tế bao gồm: khoáng sản, nguồn nước, nguồn
năng lượng, đất đai, rừng biển, trình độ dân trí...Các nguồn lợi cùng với vị
trí địa kinh tế, khí hậu tự nhiên kết tạo nên lợi thế so sánh cho mỗi vùng
trong khi các vùng khác không có hoặc không thuận lợi bằng. Khí hậu tự
nhiên của nước ta rất đa dạng, phong phú. Các nguồn lợi cũng đa dạng về
chủng loại, chất lượng...Do đó, việc xác lập một cơ cấu đầu tư hợp lý là

tương đối công phu, phức tạp do sự tác động của điều kiện địa lý, khí hậu và
các nguồn lợi tự nhiên và yếu tố nhân văn. Với điều kiện khí hậu tự nhiên
khác biệt giữa các miền, đã tạo thuận lợi cho nước ta phát triển đa dạng,
phong phú; trong nội bộ từng vùng cũng có thể bố trí đầu tư nhiều lĩnh vực
khác nhau, vừa phát triển chuyên môn hoá, vừa phát triển tổng hợp. Tuy
nhiên sự đa dạng này cũng có thể dẫn đến dàn trải, không tạo được ưu thế về
quy mô trong hoạt động đầu tư nói riêng, phát triển nói chung của quốc gia.
Vì vậy trong chính sách đầu tư phải có sự tập trung các nguồn lực trong việc
khai thác có hiệu quả các lợi thế.
1.3.2.2. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài:
Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài gồm có: nhân tố xu thế chính trị, xã hội
và kinh tế của các khu vực cũng như của thế giới.
Cụ thể, trong nền tài chính tiền tệ, một ảnh hưởng của một nước lớn
cũng có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Một cuộc khủng hoảng
về tài chính sẽ kéo theo sự suy thoái của cả hệ thống tài chính các nước
khác. Bên cạnh đó sự thay đổi về tỉ lệ giá cả của các đồng tiền sẽ làm thay
đổi về sức cạnh tranh của các mặt hàng trong nước ra nước ngoài.
Mặt khác phải kể đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày
càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Đầu tư
nước ngoài có tác động đến kinh tế trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp
nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới phương thức quản trị doanh nghiệp
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cũng như phương thức kinh doanh; đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài, nhiều nguồn lực trong nước như
lao động, đất đai, lợi thế địa kinh tế, tài nguyên được khai thác và sử dụng có
hiệu quả hơn. Đầu tư nước ngoài đã tác động trực tiếp đến việc cân đối ngân
sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán thông qua chuyển vốn

vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp. Đồng thời, khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự gia tăng giá trị
nền kinh tế, là cầu nối quan trọng giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế
thế giới, thúc đẩy phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ và tạo điều kiện để
Việt Nam chủ động hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế thế
giới.
Bên cạnh ảnh hưởng về kinh tế, sự không ổn định về chính trị ở một
nước, một khu vực cũng gây ra tâm lý e ngại cho việc đầu tư vào đất nước
hay khu vực đó. Một nền chính trị bất ổn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của nền kinh tế quốc gia, khu vực đó, gây tổn thất không nhỏ tới
toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà xu hướng hội nhập kinh tế toàn
cầu đang ngày càng phổ biến, sự phát triển của một nền kinh tế sẽ chịu tác
động rất lớn từ các nền kinh tế khác trong khu vực và thể giới. Mỗi quốc gia
phải xây dựng cho mình đường lối, chiến lược phát triển phù hợp với xu thế
của thời đại, nhằm bắt kịp sự phát triển của các nước trên thế giới, nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao vị thế kinh tế chính trị trên trường
quốc tế. Từ việc tìm hiểu thông tin về tình hình kinh tế, chính trị của các
nước trong khu vực và trên thế giới các nhà đầu tư sẽ điều chỉnh cơ cấu đầu
tư cho hợp lý nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Đồng thời nhà nước cũng sẽ
căn cứ vào xu hướng chính trị trên thể giới và khu vực để đề ra mục tiêu
phát triển cho nước mình tạo nên sự phát triển bền vững.
Một điểm nữa cần lưu ý là trong xu hướng quốc tế hoá lực lượng sản
xuất và thời đại bùng nổ thông tin, các thành tựu của khoa học kĩ thuật cho
phép các nhà đầu tư bắt nhanh nhậy thông tin, tìm hiểu thị trường và xác
định chiến lược cơ cấu đầu tư hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm
chủ động hội nhập.
Như vậy cơ cấu đầu tư chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau,
theo cường độ và mức độ không giống nhau. Vì vậy trong quá trình thực
hiện chuyển dịch cơ cấu đầu tư cần nắm vững và nhận thức đúng đắn cơ chế

tác động của các nhân tố đó. Đồng thời có các biện pháp phát huy những
mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực nhằm xây dựng được một cơ cấu
đầu tư hợp lý cho nền kinh tế xã hội.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CƠ CẤU
ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
2001-2007
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh
tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm
quan trọng này, nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm,
Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu về vốn đầu tư, tăng khả năng huy
động vốn đầu tư, thay đổi cơ cấu vốn đầu tư theo hướng ngày một hợp lý
hơn, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đây được coi là một
trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Trong thời gian qua, tỷ lệ huy động vốn
đầu tư so với GDP tăng đều qua các năm: năm 2001 là 34%; năm 2002 là
34.3%; năm 2003–35.8%; năm 2004 là 36.4%, năm 2005 là 38.4% và 2007
ước đạt 40.6% tăng 0.6% so với kế hoạch. Đây là mức cao so với nhiều quốc
gia khác. Điều này đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là
chủ yếu do tăng mạnh vốn đầu tư.
Biều 1: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
Tổng vốn đầu
tư phát triển cả nước
theo giá thực tế
Theo số liệu thống kê, riêng trong giai đoạn 2001-2005 tổng vốn đầu tư
được huy động và đưa vào nền kinh tế đạt khoảng 976 nghìn tỷ đồng (theo
giá so sánh năm 2000), bằng khoảng 118.2% dự kiến kế hoạch 5 năm, gấp
1.76 lần so với 5 năm 1996- 2000. Tiếp 2 năm vừa qua 2006 tổng vốn đầu tư
phát triển cả nước là 398.9 nghìn tỷ đồng và đặc biệt năm 2007 chúng ta đã
huy động được số vốn đầu tư lên tới 461.9 nghìn tỷ đồng, tăng 16.4% so với

thực hiện năm 2006. Với đà này, Bộ kế hoạch đầu tư dự kiến tổng vốn đầu
tư xã hội trong giai đoạn tới tiếp tục tăng lên, ước tính giai đoạn 2006- 2010
khoảng 2200 nghìn tỷ đồng (tương đương 140 tỷ USD).
17
461900
398900
343135
290927
239246
200145
170496
0
100000
200000
300000
400000
500000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Năm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.1 Thực trạng về cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn .
2.1.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn.
Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu đều phân tích đầu tư xã hội theo 3
nguồn vốn cơ bản là: vốn đầu tư Nhà nước, vốn đầu tư ngoài quốc doanh và
vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) khi
xem xét trên góc độ nguồn vốn đầu tư, ODA là một trong những nguồn vốn
nước ngoài. Tuy nhiên, trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này, ODA một
phần nằm trong nguồn vốn ngân sách Nhà nước vì được phân bổ qua Ngân
sách Nhà nước hàng năm và ngoài ra một phần nằm trong vốn tín dụng đầu
tư và phát triển nhà nước và một phần có thể vận hành theo các dự án độc

lập. Tuy vậy, việc các địa phương chủ động thu hút vốn ODA hiện nay chưa
thực sự có ý nghĩa lớn vì chủ yếu là các dự án nhỏ lẻ. Hầu hết các dự án có
vốn đầu tư lớn, có ý nghĩa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội đều được
phân bổ từ Trung ương.
Bảng 2: Vốn đầu tư toàn xã hội phân theo nguồn vốn
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
( sơ bộ)
Tổng số 170496 200145 239246 290927 343135 398900 461900
Vốn nhà
nước
101973 114738 126558 139831 161635 185100 200000
Vốn ngoài
quốc doanh
38512 50612 74388 109754 130398 150500 187800
Vốn đầu tư
nước ngoài
30011 34795 38300 41342 51102 63300 74100
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và thông cáo báo chí về số liệu thống kê
năm 2007
Bảng 3 :Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội phân theo nguồn vốn
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
(sơ bộ)
Tổng số 100 100 100 100 100 100 100
Vốn nhà nước 59.8 57.3 52.9 48.1 47.1 46.4 43.3
Vốn ngoài quốc doanh 22.6 25.3 31.1 37.7 38.0 37.7 40.7
Vốn đầu tư nước ngoài 17.6 17.4 16.0 14.2 14.9 15.9 16.0
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và thông cáo báo chí về số liệu thống kê
năm 2007
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Biểu 2: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội phân theo nguồn vốn
59.8
57.3
52.9
48.1
47.1 46.4
43.3
22.6
25.3
31.1
38
37.7
40.7
17.6 17.4
16
14.2
14.9
15.9 16
37.7
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Von dau tu nuoc ngoai
Von ngoai quoc doanh
Von nha nuoc
Trong thời gian qua, Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế

quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư
phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất
là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm không ngừng tăng, các
nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng.
Trước hết là nguồn vốn Nhà nước: là nguồn vốn có vai trò hết sức quan
trọng trong việc phát triển kết cấu hạ tầng và thu hút các nguồn vốn trong
dân cư và vốn đầu tư nước ngoài, quy mô vốn Nhà nước liên tục tăng lên
trong thời gian qua. Tính từ giai đoạn 2001-2007, tổng số vốn Nhà nước đưa
vào nền kinh tế là khoảng hơn 1000 nghìn tỷ đồng. Vốn Nhà nước luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn. Tỷ trọng này
trung bình trong 7 năm vừa qua ước khoảng 50% trong đó vốn Ngân sách
Nhà nước chiếm khoảng 24.45%, vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
chiếm khoảng 13.19%, vốn tự có và vốn khác chiếm khoảng 12.36% so với
tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đặc biệt trong đó phải kể đến vốn
ODA đã bổ sung một phần rất quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Trong
giai đoạn 2001-2005 số vốn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Nhà nước đạt
khoảng 14.7 tỷ USD, năm 2006 là 3.74 tỷ USD, năm 2007 là hơn 4.4 tỷ
USD, tuy vậy số vốn giải ngân mới chỉ đạt được khoảng phân nửa trong số
vốn mà các nhà tài trợ đã cam kết.
Bên cạnh vốn Nhà nước, vốn ngoài quốc doanh bao gồm vốn của khu vực
dân cư và tư nhân đã đạt được mức độ tăng trưởng nhanh chóng, và là nguồn
đầu tư lớn thứ hai. Tính từ 2001-2007, tổng số vốn ngoài quốc doanh đã tăng
lên gần 5 lần từ 38.5 nghìn tỷ lên đến 187.8 nghìn tỷ cùng với đó là cơ cấu
vốn đầu tư ngoài quốc doanh trong tỷ trọng tổng vốn đầu tư đã tăng lên từ
22.6% năm 2001 lên 40.7% năm 2007. Trung bình năm sau vốn đầu tư của
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khu vực ngoài quốc doanh tăng lên so với năm trước đó là khoảng 28%, cá
biệt năm 2002 tăng so với năm 2001 là 46.97% và năm 2003 tăng so với

năm 2002 là 47.54%.
Bảng 4 : Vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
(sơ bộ)
Vốn nhà nước 101973 114738 126558 139831 161635 185100 200000
Theo nguồn vốn
Vốn NSNN 45594 50210 56992 69207 87932 100200 97000
Vốn vay 28723 34937 38988 35634 35975 41200 40300
Vốn tự có và vốn
khác
27656 29591 30578 34990 37728 43700 62700
Theo cấp quản lý
Trung uơng 56717 57031 63870 70613 82531 93100 135600
Địa phương 45256 57707 62688 69218 79104 92000 64400
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và thông cáo báo chí về số liệu thống kê
năm 2007
Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực kinh tế nhà nước
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Vốn nhà nước 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Theo nguồn vốn
Vốn NSNN 44.7 43.8 45.0 49.5 54.4 54.1 48.5
Vốn vay 28.2 20.4 20.8 25.5 22.3 22.3 20.2
Vốn tự có và vốn
khác
27.1 25.8 24.2 25.0 23.3 23.6 31.3
Theo cấp quản lý
Trung uơng 55.6 49.7 50.5 50.5 51.1 50.3 67.8
Địa phương 44.4 50.3 49.5 49.5 48.9 49.7 32.2
Nguồn: Niên giám thống kê 2006
Có sự thay đổi rất nhanh chóng và bứt phá trong thời gian vừa qua là

dòng vốn FDI- vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một nguồn vốn đầu tư có ý
nghĩa hết sức to lớn đặc biệt trong giai đoạn tiềm lực trong nước còn chưa
thực sự mạnh mẽ. Hiện nay nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chủ
yếu được khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ cao, xây dựng cơ sở
hạ tầng, các vùng kinh tế còn nhiều tiềm năng nhưng chưa có điều kiện khai
thác. Phải nói rằng, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bắt đầu từ tháng 7-
1997 đã làm giảm sút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Nhưng những năm gần đây dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phục hồi và có xu hướng tăng dần: năm 2003 vốn đăng ký tăng 6% so với
năm 2002; năm 2004 vốn đăng ký tăng 42% so với năm 2003; năm 2005
vốn đăng ký tăng 58% so với năm 2004; năm 2006 vốn đăng ký tăng 75.4%
so với năm 2005; năm 2007- năm đạt mức kỷ lục về thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, cao gần gấp đôi so với dự kiến ban đầu: vốn đăng ký tăng 69% so với
năm 2006. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn)
đạt 20.8 tỉ USD vượt 73% so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết
09/2001/NQ-CP (12 tỉ USD), vốn thực hiện đạt 14.3 tỉ USD, tăng 30% so
với mục tiêu (11 tỉ USD); năm 2005 vốn cấp mới đạt 6.84 tỉ USD. Đặc biệt
là 2 năm 2006-2007, trong năm 2006 số vốn FDI đăng ký đạt tới 12 tỷ USD
và năm 2007, số vốn đăng ký đã lên đến mức kỷ lục 20.3 tỷ USD. Đồng thời
cùng với tăng nhanh dòng vốn đầu tư, còn xuất hiện nhiều dự án có quy mô
lớn đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp nặng (sản xuất sản phẩm công
nghệ cao, đồ điện tử, thép...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ
thông tin, tư vấn...).
Bảng 6 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 2001-2007
Năm Số dự
án
Vốn đăng ký (Triệu $ Mỹ) Tổng số vốn
thực hiện

(Triệu $ Mỹ)
Tổng số V ốn ph áp đ ịnh
Tổng
số
Nước
ngoài
góp
Việt Nam
góp
2001 555 3142.8 1708.6 1643.0 65.6 2450.5
2002 808 2999.8 1272.0 1191.4 80.6 2591.0
2003 791 3191.2 1138.9 1055.6 83.3 2650.0
2004 811 4547.6 1217.2 1112.6 104.6 2852.5
2005 970 6839.8 1973.4 1875.5 97.9 3308.8
2006 987 12003.
8
4674.8 4328.3 346.5 3956.3
2007 1445 20300.
0
>4000
Nguồn: Tính theo Niên giám thống kê 2006 và số liệu ước tính năm 2007.
2.1.2 Sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn trong giai đoạn
2001-2007.
Như vậy, có thể thấy cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn trong thời gian qua đã
có bước dịch chuyển quan trọng với xu hướng: giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư
phát triển Nhà nước, tăng dần vốn đầu tư từ khu vực ngoài quốc doanh và
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vốn đầu tư nước ngoài. Sự thay đổi cơ cấu đầu tư trên được các chuyên gia
đánh giá là phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phần

trong giai đoạn hiện nay. Tỷ trọng vốn nhà nước trong tổng số vốn đã giảm
từ 59.8% năm 2001 xuống 46.4% năm 2006 và trong năm 2007 ước đạt chỉ
còn khoảng 43.3% cùng với đó tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế nhà nước
vào GDP trong cơ cấu GDP đã giảm từ 38.4% năm 2001 xuống 37.2% năm
2006. Về vốn ngoài quốc doanh, với sự tăng lên về vốn đầu tư của khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực ngoài quốc doanh cũng đã có những đóng
góp quan trọng vào cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của quốc gia.
Tuy cơ cấu GDP theo giá hiện hành chúng ta không thấy rõ sự thay đổi này,
tuy vậy tốc độ tăng GDP theo giá so sánh của khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh cũng đã tăng từ 6.36% năm 2001 lên 8.19% năm 2007. Đặc biệt là sự
thu hút mạnh mẽ của vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta trong thời gian qua,
khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng thể hiện rõ là một bộ phận cấu
thành của nền kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng trong GDP của khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN đã tăng từ 13.76% năm 2001 lên 17.02% năm 2006.
Bảng 7: Cơ cấu và tốc độ tăng trưởng theo thành phần kinh tế, 2001-
2005
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Cơ cấu GDP (giá hiện hành) 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Kinh tế nhà nước 38.40 38.38 39.08 39.23 38.42 37.32
Kinh tế ngoài quốc doanh 47.84 47.86 46.45 45.61 45.68 45.66
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 13.76 13.76 14.47 15.17 15.89 17.02
Tốc độ tăng GDP (giá so sánh) 6.89 7.08 7.34 7.79 8.43
Kinh tế nhà nước 7.44 7.11 7.65 7.75 7.36
Kinh tế ngoài quốc doanh 6.36 7.04 6.36 6.95 8.19
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7.21 7.16 10.52 11.51 13.20
Nguồn: TCTK và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Lý giải cho những nguyên nhân của sự dịch chuyển cơ cấu nguồn vốn đầu
tư như trên trong giai đoạn này có rất nhiều nguyên nhân khác nhau:
Trước hết, về việc tăng lên quy mô của các nguồn vốn đầu tư (số liệu
tuyệt đối) trong giai đoạn này cần phải thấy rằng trong giai đoạn này có

những chuyển biến tích cực trong huy động, thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước một phần quan trọng là nhờ công tác chỉ đạo toàn diện của Chính
phủ trong việc từng bước cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của
doanh nghiệp. Đặc biệt vào cuối năm 2005, Quốc hội đã thông qua nhiều
đạo luật quan trọng nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, kinh doanh,
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong đó có Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất. Triển
vọng tương đối lạc quan về sự phát triển kinh tế của Việt Nam cùng với việc
thực hiện các cam kết song phương và đa phương trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế cũng tạo nên sức hút mạnh mẽ cho cả đầu tư trong nước và
ĐTNN.
Sau nữa là sự dịch chuyển về cơ cấu đầu tư (số liệu tương đối) trong giai
đoạn này. Sự dịch chuyển như trên được xem là hợp lý và là dấu hiệu đáng
mừng.
Tuy vẫn là nguồn vốn quan trọng nhất của nền kinh tế, tỷ trọng của vốn
đầu tư nhà nước vẫn chiếm khoảng gần 50% tổng vốn đầu tư nhưng tỷ trọng
này đã có xu hướng giảm dần trong thời gian qua. Đây là tín hiệu tích cực
đối với nền kinh tế thị trường đang hình thành, phần nào phản ánh môi
trường đầu tư đã và đang được cải thiện. Vốn đầu tư Nhà nước chỉ chủ yếu
tập trung cho các dự án công cộng không thu hồi được vốn, hỗ trợ đầu tư
cho các vùng còn khó khăn, đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như
giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng nông nghiệp, các cơ sở sản xuất giống cây và
giống con, hạ tầng lâm nghiệp, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế
xã hội, văn hoá, thể dục thể thao...có tác động là vốn mồi để thu hút các
nguồn vốn khác. Ngoài ra nó sẽ có vai trò quan trọng trong việc hình thành
các công trình trọng điểm của quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế các
vùng, các ngành.
Vốn DNNN sau một thời kỳ giảm đã tăng trở lại vào năm 2005 do tiến

trình cổ phần hoá được đẩy mạnh. Đối với các DNNN trực tiếp sản xuất kinh
doanh, có điều kiện thu hồi vốn thì Nhà nước khuyến khích các doanh
nghiệp sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư, các doanh nghiệp tự chịu
trách nhiệm về mặt tài chính, vay và trả nợ đúng thời hạn, tự chịu trách
nhiệm về hiệu quả đầu tư. Nguồn vốn đầu tư các DNNN tự huy động thêm
từ nguồn khấu hao cơ bản, từ nhà xưởng mặt bằng chưa dùng đến hoặc dùng
chưa có hiệu quả, từ các nguồn lợi nhuận sau thuế sẽ được khuyến khích đầu
tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm.
Với chủ trương huy động, phát huy tối đa các nguồn vốn tiết kiệm từ tư
nhân, dân cư theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tỷ trọng vốn ngoài
quốc doanh được huy động vào nền kinh tế đã không ngừng tăng lên trong
tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, từ 22.6 % năm 2001 đã tăng 14% lên tới
38% năm 2005 và đặc biệt trong năm vừa qua, năm 2007 tỷ trọng của nguồn
vốn này là 40.7%. Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân này
được khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội. Đầu tư của khu
vực ngoài quốc doanh đã và đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tiềm năng to lớn của khu vực này trong phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước.
Về nguồn vốn FDI, vài năm gần đây Chính phủ đã thực hiện nhiều giải
pháp cụ thể nhằm tạo chuyển biến mới trong công tác thu hút FDI. Hàng loạt
pháp lệnh, nghị định và văn bản pháp lý được ban hành nhằm sửa đổi những
điểm chưa phù hợp, bổ sung và đưa ra các quy định mới làm cho Việt Nam
hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài như: giảm mức thuế suất thu nhập cá
nhân cao nhất đối với người nước ngoài; mở rộng phạm vi kinh doanh đối
với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; đơn giản hoá các thủ tục hành
chính và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong
việc hỗ trợ nhà đầu tư giải quyết các thủ tục về đất; xoá bỏ chế độ hai giá;

miễn thuế nhập khẩu một số đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp mới
thành lập; tinh giản thủ tục hải quan theo chuẩn mực quốc tế; cải tiến việc
cấp, miễn thị thực; sửa đổi thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN; xoá bỏ hạn chế về tỷ lệ vốn FDI trong một số ngành…
Phải nói đặc biệt trong năm 2007, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, số
vốn FDI đạt 20.3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006 và là số vốn FDI
thu hút được nhiều nhất trong 20 năm qua kể từ khi có luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam từ năm 1987 đến nay.
Năm 2007 là năm đánh dấu FDI ở Việt Nam có bước đột phá về lượng và có
sự chuyển biến mạnh mẽ về chất. Không chỉ phát huy tiếp tác dụng của các
luật khuyến khích đầu tư ban hành từ các năm trước đó mà năm 2007 còn
đánh dấu một năm sau khi Việt Nam ra nhập WTO. Việc Việt Nam trở thành
thành viên chính thức WTO cũng đã và đang mở ra những cơ hội mới trong
thu hút đầu tư nước ngoài: tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam mở
rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng như thu hút nhiều hơn
các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam để xuất khẩu ra thế giới.
Bên cạnh đó việc Việt Nam cam kết mở cửa 11/12 ngành dịch vụ tạo điều
kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tại Việt
Nam và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư lâu dài
ở Việt Nam. Sau nữa, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi Việt Nam tiếp tục
xây dựng môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn sẽ thúc đẩy mở
cửa các ngành kinh tế và tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư
nước ngoài.
Tất cả đã lý giải cho những con số tăng lên nhanh chóng đó và sự dịch
chuyển về cơ cấu nguồn vốn đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua.
2.2 Thực trạng về cơ cấu của vốn đầu tư
2.2.1 Quy mô và cơ cấu vốn đầu tư.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Có nhiều cách phân loại cơ cấu vốn đầu tư khác nhau. Cơ cấu vốn đầu tư

thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn
đầu tư của doanh nghiệp hay một dự án. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cơ
cấu vốn đầu tư của Nhà nước ta trong thời gian qua cho các hoạt động chính
sau: hoạt động xây dựng cơ bản, công tác nghiên cứu và triển khai khoa học
và công nghệ, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản.
Đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các
công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật
chất tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội.
ĐTXDCB là một hoạt động kinh tế.
ĐTXDCB của nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong những năm qua
Nhà nước đã dành hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm cho ĐTXDCB.
ĐTXDCB của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng trong
toàn bộ hoạt động ĐTXDCB của nền kinh tế ở Việt Nam. Nhà nước luôn
dành khoảng hơn 30% tổng chi ngân sách của mình đầu tư cho lĩnh vực đầu
tư phát triển mà trong đó chủ yếu là vào ĐTXDCB. Hoạt động ĐTXDCB
của nhà nước đã tạo ra nhiều công trình, nhà máy, đường giao thông… quan
trọng, đưa lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội thiết thực.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho khoa học công nghệ.
Trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, khoa học công nghệ
đang trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như
của từng doanh nghiệp. Cùng với đà tăng lên của các loại vốn đầu tư, vốn
đầu tư từ ngân sách của nhà nước cho lĩnh vực khoa học, công nghệ cũng
tăng lên tuy nhiên quy mô ở mức độ rất nhỏ. Năm 2002 đạt khoảng gần
3000 tỷ đồng chiếm 2% tổng vốn chi ngân sách Nhà nước, năm 2004 đã tăng
lên nhưng cũng chưa đầy 4000 tỷ đồng tuy vậy tỷ trọng cơ cấu trong tổng
chi ngân sách Nhà nước dành cho Khoa học, công nghệ lại giảm đi, chỉ còn
khoảng hơn 1%.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.

Đào tạo nguồn nhân lực có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển
của doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Nguồn nhân lực là
nhân tố không thể thiếu là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Vì vậy
công tác đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực rất cần được quan tâm chú
trọng. Trong thời gian vừa qua, đầu tư của ngân sách Nhà nước liên tục tăng
lên. Nếu năm 2001 chỉ đạt khoảng hơn 15000 tỷ đồng, năm 2003 đạt khoảng
24000 tỷ đồng chiếm khoảng 16.4% tổng chi ngân sách thì năm 2005 là
25

×