Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.08 KB, 68 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguồn vốn đầu tư phát triển trong doanh
nghiệp. Thực trạng huy động và sử dụng vốn
đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước.
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
MỤC LỤC.................................................................................................................................1
Lời mở đầu .........................................................................................................................1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH
NGHIỆP.....................................................................................................................................1
1. Tài chính Việt Nam 2001-2010, nhà xuất bản tài chính.
2. Để sử dụng vốn nhà nước có hiệu quả nhất, diễn đàn doanh nghiệp,16/12/2006.
3. DNNN không thể chủ đạo bằng cách giữ nhiều vốn, dân trí, 22/9/2006.
4. DNNN sử dụng vốn vay kém hiệu quả, thời báo kinh tế Việt Nam, 27/01/2008.
5. Đổi mới phương thức quản lý phần vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp, hội
nghị quốc tế quản trị doanh nghiệp, 6/12/2004.
6. Giáo trình Kinh tế đầu tư-PGS,TS Nguyễn Bạch Nguyệt;PGS,TS Từ Quang
Phương
7. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp-Nguyễn Hải Sơn
8. Thị trường BĐS,những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam-PGS.TS Thái Bá
Cần; TS-Trần Nguyên Nam
9. Tạp chí cộng sản số 6(150) năm 2008.
10. Báo thương mại 27/1/2008
11. Tạp chí Tài chính Doanh Nghiệp,số 4/2006, số 12/2007
12. Nghị quyết số 14/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về DNNN.
13. www.mso.gov.vn
14. Tienphongonline.com.vn
15. Dantri.com.vn
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
16. Trần Thị Thanh Tú (2006).Một số vấn đề về cơ cấu vốn của DNNN Việt Nam
hiện nay.Tạp chí Thanh tra tài chính
17. Nghiên cứu: Đổi mới cơ cấu vốn của các DNNN Việt Nam hiện nay
18. Niên giám thống kê 2006
19. Kết quả nghiên cứu các đề án của Việt Nam - Hà Lan VNPR 2001
20. Bảo toàn và phát triển vốn NXB Thống Kê
21. Hướng đến tầm cao mới – Báo cáo phát triển Việt Nam 2007
22. Tổng kết kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 - lý luận và thực tiễn
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm kể từ bước ngoặt năm 1986, cùng với công cuộc đổi mới đất
nước là quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam đã trở thành một nền
kinh tế có nhiều bên tham gia một cách hiệu quả. Từ chỗ hoàn toàn do doanh nghiệp
nhà nước chi phối đến lúc bắt đầu tiến hành đổi mới, sản xuất hàng hoá và dịch vụ
ngày càng chuyển dần sang tay các doanh nghiệp với các cơ cấu sở hữu và quản trị
đa dạng. Hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hình thức sở hữu,
nhờ đó phần nào khẳng định được vị trí quan trọng trong việc tạo thu nhập và điều
tiết nền kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp là một
thực tế không thể phủ nhận. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
trên là tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp còn
nhiều bất cập, đặc biệt là tình hình sử dụng vốn sau khi huy động.
Nguồn vốn đầu tư phát triển chiếm vị trí quan trọng trong quá trình hoạt động
kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp, chính vì vậy việc huy động và sử dụng hiệu
quả nguồn vốn này là yêu cầu cấp thiết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, đặc biệt
trong thời kỳ hội nhập đầy cạnh tranh hiện nay. Nghiên cứu đề tài “ Nguồn vốn đầu
tư phát triển của doanh nghiệp. Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư
phát triển của doanh nghiệp nhà nước” để thấy rõ vai trò của nguồn vốn đầu tư phát

triển và cụ thể hơn là xem xét và đánh giá thực trạng sử dụng nguồn vốn đó hiện nay
của các doanh nghiệp nhà nước, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả huy
động và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước.
Nhóm 11 xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn Từ Quang Phương đã
giúp chúng em thực hiện đề tài này. Trong quá trình hoàn thành đề tài sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót mong thầy giáo và các bạn đóng góp ý kiến.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm đạt được các kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ.
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn ), tài sản vật chất( nhà máy, đường xá, bệnh viện, trường học…), tài sản trí
tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, quản lý, khoa học kĩ thuật…) và nguồn
nhân lựccó đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản
xuất xã hội.
1.1.2.Các loại hình đầu tư
1.1.2.1. Đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc
vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính là loại hình
đầu tư không trực tiếp làm gia tăng tài sản cho nền kinh.Với hoạt động đầu tư này,

vốn đầu tư bỏ ra được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra một cách nhanh
chóng, do đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra đầu. Để giảm rủi ro họ có thể đầu
tư vào nhiều nơi để chia nguồn vốn vào nhiều mảng. Đầu tư tài chính là một nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
1.1.2.2. Đầu tư thương mại
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá
sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu được lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và
khi giá bán. Đầu tư thương mại không trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà
làm tăng tài sản tài chính cho người đầu tư tỏng quá trình mua đi bán lại chuyển giao
quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và nhà đầu tư và người đầu tư với khách hàng
của họ.Hoạt động đầu tư này góp phần thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất
do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách tăng
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tích luỹ vốn cho cho phát triển sản xuất,kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất
xã hội nói chung.
1.1.2.3. Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất và tài sản trí tuệ,gia tăng năng lực sản xuất,tạo thêm việc làm và vì
mục tiêu phát triển.
Đầu tư thương mại, đầu tư tài chính và đầu tư phát triển là 3 loại đầu tư
luôn luôn tồn tại và có quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề
để tăng tích luỹ,phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương
mại.Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để
tăng cường đầu tư phát triển.
1.1.3.Vai trò của đầu tư phát triển đối với doanh nghiệp
Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò
rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.

1.1.3.1.Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đầu tư phát triển vừa tác động đến tốc độ phát triển vừa tác động đến
chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý
là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng
suất tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế do đó nâng
cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa
đầu tư phát triển với tăng Hệ số ICOR ( Incremental - tỷ số gia tăng của vốn so
với sản lượng ) là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản
lượng hay là phần đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lưọng GDP tăng
thêm:
Vốn đầu tư tăng thêm Đầu tư trong kỳ
ICOR= =
GDP tăng thêm GDP tăng thêm
Chia cả tử cả mẫu của công thức trên cho GDP, ta có:
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
ICOR=
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Từ công thúc trên cho thấy: Nếu COR không đổi thì mức tăng trưởng kinh tế
hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
như:
* Do thay đổi của cơ cấu đầu tư ngành.Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh
hưởng đến hệ số ICOR từng ngành, từ đó tác động đến ICOR chung.
* Sự phát triển của khoa học công nghệ có ảnh hưởng đến ICOR.Gia tăng khoa
học công nghệ làm cho đầu tư trong kỳ (tử số của công thức) tăng thêm, mặt khác sẽ
làm cho máy móc hoạt động có hiệu quả hơn, năng suất cao hơn kết quả làm cho đấu
tư tăng lên, GDP tăng lên (mẫu số của công thức).

*Do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý, nếu cơ chế
chính sách phù hợp thì đầu tư có hiệu quả hơn làm cho ICOR giảm và ngược lại.
1.1.3.2. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế ,có
quan hệ chặt chẽ với nhau, được thể hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ
thuộc thay đổi tỷ trọng của bộ phận cấu thành nền kinh tế.Sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế xảy ra có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các
nghành , vùng.Những cơ cấu kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân bao gồm
cơ cấu kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế.
Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.nó góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh
tế kinh tế xã hội của một quốc gia trong từng thời kỳ, tạo cân đối mới trên
phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của
nền kinh tế,trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, đầu
tư vốn vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn
hiệu quả cao hay thấp đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng
cường cơ sở vật chất của từng ngành ,tạo tiền đề vật chất để phát triển các
ngành mới, do đó, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu
tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh
thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy
tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển.
Có thể đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua
các chỉ tiêu dưới đây:
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của
Hệ số co dãn giữa việc ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữakỳ
thay đổi cơ cấu đầu tư nghiên cứu so với kỳ trước

với thay đổi cơ cấu =
kinh tế ngành %thay đổi tỷ trọng GDPcủa ngành
trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứuvới
kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP(thay
đổi cơ cấu kinh tế ) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu.

% thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của ngành
Hệ số co dãn giữa việc nào đó /tổng vốn đầu tư xã hội knghiên
thay đổi cơ cấu cứu so với kỳ trước
đầu tư ngành với thay =
đổi GDP % thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa
kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
Chỉ tiêu này cho biết : để góp phần dưa tăng trưởng kinh tế ( GDP ) lên 1% thì
tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng lên bao nhiêu.
1.1.3.3.Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát
triển khoa học công nghệcủa một doanh nghiệp và quốc gia.
Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng ( máy móc,thiết bị ),phần
mềm( các văn bản,các tài liệu,các bí quyết …),yếu tố con người ( các kỹ năng
quản lý,kinh nghiệm ),yếu tố tổ chức(các thể chế,phương pháp tổ chức…)
.Muốn có công nghệ ,cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành.
Đối với các nước đang phát triển ,do có nhiều lao động và nguyên liệu
thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu,sau
đó, ảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng
dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát
triển,xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm

ưu thế tuyệt đối.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc
tự nghiên cứu và ứng dụng.Dù nhập hay là nghiên cứu thì đề đòi hỏi vốn đầu tư
lớn.Mỗi doanh nghiệp mỗi nước mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp
để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy
lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển khoa học và công
nghệ ,có thể sử dụng các chỉ tiêu sau :
Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ /tổng vốn đầu tư .Chỉ tiêu này
cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ.
Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị /tổng vốn đầu tư thực
hiện.Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là do máy máoc thiết bị chiếm bao nhiêu.
Đối với doanh nghiệp sản xuất công nghệ khai khoáng, chế tạo, lắp ráp, tỷ lệ
này phải lớn.
Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu /tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư
chiều sâu thường gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn
phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học công nghệ cao.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn ,trọng điểm. Các công
trình trọng điểm mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn,công nghệ hiện
đại,mang tính chất đầu tư mồi,tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công trình
khác. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản
ánh mức độ hiện đại của công nghệ.
II. NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.2.1.Khái niệm nguồn vốn đầu tư
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới
dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội.
1.2.2.Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Về bản chất nguồn vốn đầu tư là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền
kinhn tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội.

Theo lý thuyết tư bản của Adamsmith, một đại diện của trường phái kinh
tế học cổ điển coi tư bản là điều kiện vật chất cần thiết cho sản xuất của mọi xã
hội . Điều quý giá trong lý thuyết tư bản của ông là quan điểm về tiết kiệm.
Ông cho rằng muốn có tư bản thì phải có tiết kiệm,nhà tư bản phải dành một
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần thu nhập của mình để mở rộng sản sản xuất , tạo thêm công việc cho công
nhân. Điều này xét đến cùng sẽ làm tăng xủa cải của quố dân . Ông ca ngợi tiết
kiệm và lên án sự lãng phí, ông nói : “Mỗi kẻ hoang phí là kẻ thù của sự giàu
có của xã hội, còn mỗi người tiết kiệm là người làm giàu cho xã hội “. Trong
tác phẩm “Của cải của các dân tộc” (1776),Adasmith nói rằng: “Tiết kiệm là
nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ
cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa,nhưng không
có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX,khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ
giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề có liên quan đến tích
luỹ, C.Mac đã chứng minh rằng :Trong một nền kinh tế với hai khu vực ,khu
vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu
tổng giá trị của từng khu vựcđều bao gồm (c+v+m), trong đó c là tiêu hao vật
chất,(v+m) là giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó điều kiện đảm bảo tái sản xuất mở
rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v+m)của khu vực I
lớn hơn tiêu hao vật chất ở khu vực II :
( v+m )I >cII
Hay: (c+v+m )I > cII+cI
Vậy tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bù đắp tiêu hao vất chất
của toàn bộ nền kinh tếmà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu
ản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II ,yêu cầu phải đảm bảo :
(c+v+m )II > (v+m)I +(v+m)II
Tức là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản

xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn , nền kinh tế mới
dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô đầu tư cũng sẽ
tăng.
Như vậy , để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất ,gia tăng quy mô đầu
tư ,một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời
phải sử dụng tư liệu sản xuất tiết kiệm ở cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng
cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II,thực hiện tiết kiệm tiêu dùng ở cả
hai khu vực.
Vậy theo quan điểm của Mac để tái sản xuất mở rộng lâu dài thì phải phát
triển sản xuất và tiến hành tiết kiệmở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm lãi suất và tiền
tệ” của Jonh Maynard Keynes, một nhà kinh tế học hiện đại đã chứng minh
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rằng: Đầu tư chính là phần thu nhập mà không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời
ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu
dùng :
Ta có
Thu nhập = Tiêu dùng +Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập –Tiêu dùng
Như vậy :
Đầu tư = Tiết kiệm
Hay: (I) = (S)
Theo Keynes,sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính chất song
phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu
dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giưa doanh thu bán hàng hoặc cung
ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải bán cho
người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành
chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ.Vì vậy về tổng thể
phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng, gọi là tiết kiệm không thể khác với

phần gia tăng năng lực sản xuất, gọi là đầu tư.
Tuy nhiên điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Đầu tư
và tiết kiệm là hai đại lượng quan trọng. Việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết
việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi phải khuyến khích tăng đầu tư và tiết kiệm, từ
đó giải quyết khủng hoảng và thất nghiệp.
1.2.3.Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong các doanh nghiệp
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Vốn là điều
kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp & tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn
phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong
quản lý tài chính, các doanh nghiệp cần chú ý quản lý việc huy động & sự
luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản &
hiệu quả tài chính.
1.2.3.1. Điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp. Về
mặt pháp lý, mỗi doanh nghiệp khi thành lập đều phải có một lượng vốn
nhất định và phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn pháp định do Nhà nước quy
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định đối với lĩnh vực kinh doanh đó. Như vậy vốn lúc này có vai trò đảm bảo sự hình
thành và tồn tại của doanh nghiệp trước pháp luật.
Giá trị vốn ban đầu có thể ít hoặc nhiều tuỳ theo quy mô, ngành nghề, loại hình
doanh nghiệp. Vốn pháp định ở Việt Nam chỉ quy định cho một số ngành nghề có
liên quan đến tài chính như Chứng khoán, Bảo hiểm,Kinh doanh vàng và Kinh doanh
tiền tệ.
Đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác mà Nhà nước không quy định giá
trị vốn ban đầu tối thiểu thì giá trị vốn khi thành lập có thể dao động từ hàng triệu
đến hàng tỷ đồng tuỳ khả năng của người thành lập doanh nghiệp.
Ví dụ:
Chứng khoán: (Theo Nghị định số 48/NĐ-CP)

* Môi giới chứng khoán : 3 tỷ đồng
* Tự doanh : 12 tỷ đồng
* Quản lý danh mục đầu tư: 3 tỷ đồng
* Bảo lãnh phát hành: 22 tỷ đồng
* Tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng.
Kinh doanh vàng (Theo Nghị định số 174/NĐ-CP):
* Sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ: Đối với các doanh nghiệp hoạt
động tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có vốn pháp định
tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp hoạtđộng tại
các tỉnh và thành phố khác, có vốn pháp định tối thiểu là 1 tỷ đồng Việt
Nam.
* Sản xuất vàng miếng: 50 tỷ đồng.
Kinh doanh bảo hiểm (Theo Nghị định số 42-43/NĐ-CP):
* Bảo hiểm phi nhân thọ: 70 tỷ đồng.
* Bảo hiểm nhân thọ: 140 tỷ đồng.
* Môi giới : 4 tỷ đồng.
1.2.3.2. Cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện cơ bản và thiết yếu để tiến hành bất kỳ quá trình và loại hình sản
xuất kinh doanh nào. Điều này thể hiện rõ trong hàm sản xuất
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cơ bản P= F(K, L, T), vốn (K) chính là 1 trong 3 yếu tố cơ bản của hàm sản
xuất, bên cạnh các yếu tố lao động (L) và công nghệ (T). Hơn nữa, trong
hàm sản xuất này thì vốn có thể coi là yếu tố quan trọng nhất bởi vì lao động và công
nghệ có thể mua được khi có vốn.
Sau khi thành lập, doanh nghiệp phải tiến hành sản xuất kinh doanh.
Hoạt động thực tế hàng ngày đòi hỏi phải có tiền để chi tiêu, mua sắm
nguyên vật liệu, máy móc; trả lương... Số tiền này không thể lấy ở đâu khác ngoài
nguồn vốn của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn tạm thời không đáp ứng đủ nhu cầu của
hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn về

ngân quỹ. Các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp tạm thời bị đình trệ, suy giảm.
Nếu tình hình này không được khắc phục kịp thời, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng
khó khăn tài chính triền miên; hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn; tâm lý
cán bộ công nhân viên hoang mang; mất uy tín với bạn hàng, chủ nợ và Ngân hàng.
Những khó khăn này có thể nhanh chóng đưa công ty đến kết cục cuối cũng là phá
sản, giải thể hoặc bị sát nhập với công ty khác.
1.2.3.3.Cơ sở cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
Vốn không chỉ giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất kinh
doanh mà còn giúp doanh nghiệp mở rộng và phát triển. Trong quá trình
phát triển của mình, doanh nghiệp luôn mong muốn mở rộng sản xuất kinh
doanh, giữ vững và vươn lên trong thị trường. Để làm được điều đó, đòihỏi
doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, đầu tư, tái đầu tư, cải tến máy móc,
thiết bị, công nghệ, hệ thống phân phối sản phẩm... Kỷ nguyên của công
nghệ và sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ càng tạo sức ép cho doanh nghiệp;
buộc phải liên tục làm mới mình, đổi mới không ngừng nếu không muốn
giẫm chân tại chỗ hay bị tụt hậu. Để làm được tất cả những công việc đó
doanh nghiệp không thể không cần đến nguồn vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh.
Thực tế cho thấy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh trong
các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp do
không có nguồn vốn bổ sung kịp thời, đủ lớn nên đã bị mất đi vị trí của mình trên thị
trường.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vốn còn là nhân tố cực kỳ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường. Vốn không những là cơ sở để doanh
nghiệp có thể nâng cao khả năng sản xuất, tăng cường mạng lưới phân phối
mà còn có thể giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh hay hơn
nữa là loại bỏ họ bằng các chính sách marketing hiệu quả (tăng cường quảng cáo,
giảm giá, khuyến mại...).

Như vậy, vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải nhận thức vấn đề này một
cách rõ ràng, từ đó phải có một chính sách huy động vốn nhanh chóng,hiệu
quả để có thể tồn tại và không ngừng phát triển trên thương trường
1.2.4.Cơ sở huy động nguồn vốn đầu tư phát triển trong các DNNN
Có nhiều quan điểm về huy động vốn đầu tư phát triển của các doanh
nghiệp nhưng tựu chung lại các quan điểm này đều có những đặc điểm chung:
Huy động vốn đầu tư phát triển phải phù hợp với cơ chế chung về huy
động vốn từ nguồn trong nước. Quan điểm này thể hiện ở các tiêu chí:
-Lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát
-Lãi suất huy động vốn dài hạn lớn hơn lãi suất huy động vốn ngắn hạn và lớn
hơn tỷ lệ lạm phát
-Không nên huy động vốn ngắn hạn để thực hiện hoạt động đầu tư phát triển vì
thời gian hoàn vốn cố định phải kéo dài, không đảm bảo hoàn vốn theo thời
gian vay ngắn hạn.
Huy động phải kết hợp và phát huy được sức mạnh của hệ thống công cụ
tài chính tiền tệ và các công cụ khác. Đó là các công cụ: chính sách thuế, chính
sách chi tiêu của nhà nước, chính sách tích luỹ, tiết kiệm và đầu tư, chính sách
tiền tệ, lạm phát, tỷ giá,tỷ lệ dự trữ bắt buộc...
Huy động vốn phải gắn với việc tổ chức hoàn thiện thị trường tài chính,
đặc biệt phải gắn với việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, gồm:
đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, phát hành các loại cổ phiếu, trái
phiếu, các giấy tờ có giá khác.
1.2.5. Nội dung nguồn vốn đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp
1.2.5.1.Nguồn vốn bên trong (hay các nguồn ngân quỹ do doanh nghiệp tự
tài trợ )
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các nguồn ngân quỹ do doanh nghiệp tự tài trợ là những nguồn vốn do
doanh nghiệp tự tích luỹ hay điều chỉnh cơ cấu tài sản để hình thành nguồn vốn

bằng tiền tài trợ cho các hoạt động của chính công ty.
Các nguồn tài chính này hình thành từ các nguồn sau:
-Vốn góp ban đầu
-Quỹ khấu hao các loại tài sản cố định của doanh nghiệp.
-Quỹ tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất do phần lợi nhuận kinh
doanh hàng năm được giữ lại.
Các nguồn tài chính này có vai trò rất quan trọng ,vì nó góp phần nâng
cao vị thế tài chính của doanh nghiệp do duy trì hay nâng cao chất lượng các tỷ
số tài chính theo hướng có lợi .Mặt khác,các nguồn này còn thể hiện nội lực
của doanh nghiệp, nó giúp doanh nghiệp có thể dùng làm đối trọng với các
nguồn tín dụng huy động từ bên ngoài công ty.
Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ doanh nghiệp cũng phải có
một số vốn ban đầu nhất định do cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình
thức sở hữu của doanh nghiệp đó. Vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính
chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nuớc, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu
tư của Nhà nước, chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, chủ doanh
nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập
doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn góp của các cổ
đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là
một chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ
phần mà họ nắm giữ.
Trong các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, công ty liên doanh, nguồn vốn
góp cũng tương tự như trên: tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham
gia góp vốn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau...
Quỹ khấu hao cơ bản

Đây là một nguồn tự tài trợ có ý nghĩa rất quan trọng đối với
doanhnghiệp,bởi quỹ này phản ánh độ lớn các khoản khấu hao tài sản cố định
và gián tiếp phản ánh tốc độ đổi mới doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp muốn nâng cao vị thế trên thương trường thì một yếu tố cực
kỳ quan trọng có thể giúp doanh nghiệp thắng được các đối thủ cạnh tranh là
yếu tố công nghệ.Do đó, nếu tốc độ khấu hao chậm ,các doanh nghiệp sẽ không
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể bắt kịp tốc độ phát triển của công nghệbởi tài sản cũ chưa khấu hao
hết,nguồn tích luỹ từ khấu hao thấp không đủ để mua máy móc thiết bị mới.
Quỹ tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất
Quỹ này được hình thành từ nguồn lợi nhuận hàng năm được trích lập
theo quy định của Bộ Tài Chính. Đối với các công ty cổ phần hay công ty
TNHH nguồn trích lập quỹ này do doanh nghiệp quyết định.Nguồn vốn này có
ý nghĩa rất quan trọng, nguồn này lớn chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả.Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn
vốn.Nguồn trích từ lợi nhuận để lại là bộ phận lợi nhuận được dùng để tái đầu
tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ
vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệpmà còn phụ thuộc vào chính
sách khuyến khích đầu tư của nhà nước
Đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số
yếu tố nhạy cảm.Khi công ty để lại một số lợi nhuận đểb tái đầu tư, thì các cổ
đông sẽ bị giảm số tiền lãi nhận nhưng bù lại họ lại có quyền sở hữu số vốn cổ
phần tăng lên.Vì vậy khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, doanh nghiệp
cần phải lưu ý đến vấn đề này.
Đối với các doanh nghiệp nước ta, việc tạo lập nguồn vốn đầu tư từ
nguồn này cũng rất khó khăn, bởi các doanh nghiệp nước ta đều thuộc dạng
vừa và nhỏ, tỷ lệ lợi nhuận thu được từ kinh doanh thấp, thậm chí có năm thấp

hơn cả tỷ lệ lạm phát.
Vốn góp ban đầu và lợi nhuận không chia được gọi là nguồn vốn nội bộ của doanh
nghiệp.Hình thức này có một số ưu nhược điềm sau:
Ưu điểm:
- Doanh nghiệp không bị phụ thuộc vào bên ngoài (Ngân hàng...)
- Tăng khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp
- Giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong các quan hệ tín dụng tại các ngân
hàng, tổ chức tín dụng hoặc với các cổ đông.
- Nguồn lợi nhuận để lại có tác động rất lớn đến nguồn vốn kinh doanh, tạo
cơ hội cho công ty thu được lợi nhuận cao hơn trong các năm tiếp theo.
Nhược điểm:
- Khi doanh nghiệp không trả cổ tức cho cổ đông mà giữ lại lợi nhuận có
thể làm cho giá cổ phiếu trên thị trường giảm, ảnNguồn hình thành từ
nguồn vốn bên trong được doanh nghiệp sử dụng đầu tư cho sản xuất và chúng
sẽ tạo cho ban lãnh đạo công ty quyền chủ động trong kinh doanh .
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.5.2.Nguồn vốn bên ngoài ( các nguồn tài trợ từ ngoài doanh nghiệp )
Bên cạnh nguồn vốn huy động nội lực, nguồn vốn bên ngoài cũng chiếm
vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có
những bên có vốn nhưng không có cơ hội đầu tư và có những bên có cơ hội và
khả năng đầu tư lại thiếu vốn, sự xuất hiện của thị trường tài chính giúp các bên
có nhu cầu về vốn có thể vay bên không có nhu cầu về vốn đầu tư. Bên cầu vốn
có thể phát hành các trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn của bên cung, đổi lại
bên cung được hưởng lãi suất từ khoản vốn mình cho vay. Thị trường trao đổi
giữa hai đối tượng trên gọi là thị trường tài chính. Thị trường tài chính gồm có :
thị trường tài chính gián tiếp và thị trường trực tiếp. Trên thị trường gián tiếp
các bên tham gia trao đổi vốn thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng
thương mại, tổ chức tín dụng. Thị trường tài chính trực tiếp gồm có thị trường
tiền tệ và thị trường vốn, theo đó các bên có thể tham gia trao đổi trực tiếp các

công cụ tài chính ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Nguồn vốn doanh nghiệp huy động từ ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng được gọi là nguồn vốn từ vay nợ, còn nguồn vốn huy động từ
việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn trên ba thị trường: thị
trường bất động sản, thị trường tín dụng thuê mua, thị trường chứng khoán gọi
là nguồn vốn từ thị trường vốn.
a. Nguồn vốn từ vay nợ
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất
đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể vay dài hạn, trung hạn hoặc
vay ngắn hạn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc
đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Tùy theo mục đích sử dụng các doanh
nghiệp có thể vay ngân hàng để đầu tư tài sản cố định, đầu tư tài sản lưu
động, cho vay để thực hiện dự án.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có rất nhiều ưu điểm: đây là nguồn vốn
dồi dào trong xã hội được ngân hàng huy động, tập hợp từ nhiều nguồn vì
vậy đáp ứng tốt nhu cẩu về khối lượng vốn cũng như thời hạn vốn cho các
doanh nghiệp nếu doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện của ngân hàng. Không
chỉ có các doanh nghiệp lớn mà các doanh nghiệp nhỏ cũng có thể tiếp cận
được nguồn vốn này thông qua bảo lãnh.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định đó là các
hạn chế về điều kiện tín dụng, chi phí sử dụng vốn (lãi suất) và sự kiểm soát
của ngân hàng. Doanh nghiệp muốn vay vốn thì phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện của ngân hàng: mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có khả năng
tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, có dự án đầu tư, phương án
sản xuất kinh doanh,dịch vụ khả thi, có hiệu quả và phù hợp với quy định của
pháp luật. Và thường để vay vốn thì các doanh nghiệp có tài sản thế chấp, có

bảo lãnh hoặc bị hạn chế tín dụng.
Khi vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp chấp nhận chi phí sử dụng
vốn đó chính là lãi suất tính trên số vốn vay và thời hạn vay mà doanh
nghiệp phải trả cho ngân hàng.
Đồng thời khi sử dụng vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ phải
chịu sự kiểm soát của ngân hàng trên hai phương diện: DN sử dụng nguồn
vốn có đúng với mục đích ghi trong hợp đồng vay vốn không và DN có trả
gốc và lãi đúng hạn không.
Nguồn vốn tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các DN, được thực
hiện dưới hình thức mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp hàng hóa.
Đến thời hạn thỏa thuận DN mua phải hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho doanh
nghiệp bán dưới hình thức tiền tệ.
Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không
chỉ với các DN mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số DN, nguồn
vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20%
tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
Đây là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh
doanh do DN sẽ vay trực tiếp bằng nguyên vật liệu và số lượng có thể thay
đổi mỗi kỳ khi ký hợp đồng. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các
quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền; giúp DN chủ động khi huy
động vốn: chủ động về thời gian, số lượng, nhà cung ứng; huy động vốn
một cách nhanh chóng dễ dàng; không phải chịu sự giám sát của ngân hàng
cũng như các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, đối với DN làm chủ nợ: có thể
vay ngân hàng thông qua hình thức chiết khấu thương phiếu( bán hoặc cầm
cố ).
Tuy nhiên điểm hạn chế đó là về quy mô tín dụng( số lượng mua chịu
lớn, khả năng của nhà cung ứng hạn chế); hạn chế về đối tượng vay mượn;
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368

hạn chế về không gian vay mượn; hạn chế về thời gian vay mượn do chu kỳ
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau và thường bị hạn chế
về thời hạn vay; Bị phụ thuộc vào quan hệ sản xuất kinh doanh trên thị
trường. Ngoài ra, có thể gặp rủi ro khi buộc phải thay đổi nhà cung ứng và
phụ thuộc nhiều vào sự đúng hẹn, uy tín của nhà cung ứng; rất dễ gặp rủi ro
dây chuyền.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất
của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm
hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hóa trả chậm, chi phí này có thể "ẩn" dưới
hình thức thay đổi mức giá, tùy thuộc quan hệ và thỏa thuận cụ thể giữa các
bên.Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình
thức tín dụng ngày càng được đa dạng hóa và linh hoạt hơn, với tính chất
cạnh tranh hơn. Do đó, các DN cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn
tài trợ cho hoạt động của DN.
b. Nguồn vốn từ thị trường vốn
Thị trường vốn bao gồm nhiều thị trường khác nhau,nhưng có ba mảng lớn đều
có ở Việt Nam nhưng đều ở mức độ ban đầu đó là:
+Thị trường bất động sản
+Thị trường tín dụng thuê mua
+Thị trường chứng khoán
Nguồn vốn từ thị trường bất động sản
Bất động sản là những tài sản gắn liền với đất đai và không di dời được. ở
Việt Nam, theo điều 181 của bộ luật dân sự : “ Bất động sản là những tài sản
không di dời được” bao gồm :
-Đất đai
-Nhà ở,công trình xây dựng gắn liền với đất đai,kể cả các tài sản gắn liền
với nhà ở, công trình xây dựng đó.
-Các tài sản gắn liền với đất
-Các tài sản khác do pháp luật quy định.
Như vậy hàng hoá bất động sản bao gồm 2 chủng loại chủ yếu là đất đai và vật

kiến trúc đã xây dựng xong.
Thị trường bất đông sản là tổng hoà các giao dịch dân sự về bất động sản
tại một địa bàn nhất định, trong một thời gian nhất định. Đó là thị trường của
các hoạt động giao dịch bất động sản như: chuyển nhượng, mua, bán, cho thuê,
thế chấp…trong phạm vi không gian và thời gian nhất định.
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thị trường bất động sản góp phần quan trọng trong việc huy động vốn
cho đầu tư phát triển.Trước hết, thị trường bất động sản phát triển chính là do
yếu tố tăng đầu tư cho tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân , sự tăng lên của
lượng tài sản cố định này đòi hỏi phải có nguồn vốn bảo đảm. Rõ ràng bản
thân sự tăng trưởng của bất động sản trên thị trường đòi hỏi một sự gia tăng đầu
tư.
Thứ hai là, phát triển thị trường bất động sản được biểu hiện bằng 2
cách:
-Cách thứ nhất tăng khối lượng hàng hoá bất động sản giao dịch trên thị trường
-Cách thứ hai là mở rộng phạn vi các quan hệ giao dịch: mua bán,chuyển
nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn…làm tăng các quan hệ giao dịch
cũng là phát triển bất động sản nhất định trong giao dịch làm cho lượng hàng
hoá như được tăng lên không bao giờ cạn và do đó tăng tốc độ chu chuyển vốn.
Thứ ba là khi các giao dịch thế chấp bất động sản để vay vốn phục vụ cho sản
xuất kinh doanh chẳng những làm nhân đôi giá trị sử dụng của bất động sản mà
còn có tác dụng khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát
triển .
Thứ tư là khi dùng quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh, nhà nước cũng như
doanh nghiệp không phải đầu tư vốn bằng tiền mà với bất động sản có sẵn, nhất
là đất đai dùng vốn để gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đất đai, bất động
sản như một nguồn mới để khai thác các nguồn vốn khác .
Thứ năm là nhà nước có thể dùng quỹ đất của mình tạo vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng, mà cuối cùng quỹ đất cũng không thể cạn đi .

Thị trường bất động sản thực sự có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn
cho đầu tư phat triển,và hiện nay ở Việt Nam thị trường này đang rất sôi động.
Nguồn vốn từ thị trường tín dụng thuê mua
Một doanh nghiệp cần tiền để mua máy móc thiết bị có thể sử dụng phương
pháp huy động nguồn tín dụng nguồn tín dụng trực tiếp bằng các mua các loại tài sản
cố định dưới hình thức thuê mua. Sở dĩ gọi là thuê mua vì khi cần sử dụng một hay
nhiều loại máy móc mà doanh nghiệp chưa đủ để tự chi trả thì có thể đi thuê của các
doanh nghiệp cho thuê tài sản hoặc các quỹ cho thuê, sau khi đã khấu hao hết máy
móc thiết bị đó doanh nghiệp có thể mua lại với giá ưu đãi thậm chí là mức giá tượng
trưng.
Đây là hình thức huy động vốn rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ nhất, khi công ty tiến hành thuê mua tài sản thì họ được quyền sử dụng tài sản
đó như thoả thuận. Thời gian thuê có thể kéo dài thậm chí cho tới khi hết đời sống
hữu ích của máy móc thiết bị đó. Thứ hai, khi kết thúc hợp đồng bên đi thuê có thể
mua lại với giá tượng trưng. So với hình thức mua trực tiếp thì doanh nghiệp đi thuê
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không phải bỏ ngay ra một số tiền lớn mà vẫn có thể thuê một đơn vị tài sản hoặc
một dây chuyền và trả tiền thuê tài sản theo từng giai đoạn. Hình thức huy động vốn
này còn có ưu điểm hơn hình thức tài trợ bằng tiền ở chỗ, nếu vay tiền doanh nghiệp
bị giới hạn bởi năng lực tài sản phải có thế chấp, thậm chí không được vay tiền nếu
số tiền doanh nghiệp muốn vay lớn hơn giá trị tài sản thế chấp. Ba là, trong trường
hợp có lạm phát cao thì tài trợ bằng tài sản cũng an toàn hơn tài trợ bằng tiền. Cuối
cùng, trường hợp có rủi ro thì bên tài trợ cũng có thể rút lại tài sản dễ dàng. Tài trợ
bằng tài sản bên cho thuê không sợ bên đi thuê sử dụng khoản vay sai mục đich.
Tuy nhiên hình thức huy động này cũng có một số điều kiện ràng buộc hợp
đồng: chi phí sửa chữa bảo dưỡng bên đi thuê phải chịu hoàn toàn. Tiền thuê tài sản
có thể trả dần nhưng giá trị hiện tại của tiền phải lớn hơn chi phí có thể tạo ra hoặc
mua tài sản. Hình thức này cũng có bất lợi nữa là chí phí tài trợ thường cao hơn lãi
suất cho vay của các hình thức tài trợ vốn khác trên thị trường vốn.Vào giai đoạn

cuối của thoả thuận thuê mua, dù đã trả hết số tiền thuê, người thuê vẫn chưa được
quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác.
Ở Việt Nam tuy thị trường tín dụng thuê mua chưa thực sự phát triển nhưng
hình thức thuê mua tài sản là nguồn tài trợ vốn trung và dài hạn hiệu quả cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguồn vốn từ thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng các
loại chứng khoán trung và dài hạn.Tức là nơi chuyển nhượng quyền và các lợi
ích hợp pháp của người sở hữu đối với chứng khoán.
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được
chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát
hành.Trên thị trường này,vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
 Vai trò của thị trường sơ cấp :
-Chứng khoán hoá nguồn vốn huy động,vốn của công ty được huy động
qua việc phát hành chứng khoán.
-Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền
nhàn rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển sang dạng vốn dài hạn.
 Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
-Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho
người phát hành.
-Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho
bạc, ngân hàng nhà nước,công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát hành…
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
-Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định
và thường được in ngay trên chứng khoán.
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành

trên thị trường sơ cấp.Thị trường thứ cấp bảo đảm tính thanh khoản cho các
chứng khoán đã phát hành.
 Đặc điểm của thị trường thứ cấp :
-Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng
khoán thuộc về nhà kinh doanh và nhà đầu tư chứ không thuộc về nhà phát
hành.
-Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tác cạnh tranh tự do,
giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
-Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp.
Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng
khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp, về bản chất thị trường này không
trực tiếp tạo vốn đối với đơn vị phát hành và cả nền kinh tế. Nó chỉ dịch chuyển
quyền quyền sở hữu đối với các chủ thể. Tuy nhiên thị trường này có ảnh
hưởng đến việc tạo vốn vì nếu thị trường thứ cấp phát triển sẽ ảnh hưởng đến
huy động bổ sung, phát hành mới sẽ tăng lên do đó sẽ tăng vốn huy động trên
thị trường thứ cấp.
Huy động vốn trên thị trường chứng khoán có ưu điểm là huy động rộng
rãi hơn( thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng ). Bên cạnh đó, yêu
cầu minh bạch, công khai cao trên thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện
và sức ép buộc doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên tính cạnh
tranh và rủi ro cũng lớn hơn.
Tóm lại mỗi nguồn vốn và phương thức tài trợ vừa có ưu điểm nhưng
cũng có nhược điểm nhất định. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà
doanh nghiệp cói thể lựa chọn nguồn và phương thức huy động vốn phù hợp
1.2.6. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Theo luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Doanh nghiệp nhà nước là các tổ
chức kinh tế do Nhà nước nắm toàn bộ vốn điều lệ hay có cổ phần, vốn góp chi phối
hay được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn. Như vậy, theo luật doanh nghiệp nhà nước năm 200, nếu Nhà nước
nắm giữ cổ phần chi phối, từ 51% cổ phần trở lên thì doanh nghiệp đó được gọi là
Doanh nghiệp nhà nước.
Theo luật doanh nghiệp ban hành năm 2005 thì doanh nghiệp nhà nước là các
doanh nghiệp trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, trong đó phần góp vốn
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sở hữu của nhà nước là phần vốn từ ngân sách nhà nước vốn khác của nhà nước, do
một cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu. Như vậy,
những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp nhà nước là:
-Doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân mà Nhà nước nắm giữ từ 51% vốn chủ sở
hữu trở lên.
-Doanh nghiệp nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp khác
và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn của doanh nghiệp.
-Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích.
Vai trò của DNNN
Theo báo đầu tư số 95 ra tháng 10 năm 2000 ở châu Á DNNN vẫn giữ
vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực chủ chốt, đặc biệt trong lĩnh vực viễn
thông, ngân hàng. Ở Malaysia việc duy trì các DNNN được coi là nền tảng của
nền kinh tế và là chỗ dựa cho việc thực hiện các chiến lược tạo việc làm, nguồn
thu ngân sách. Ở Trung Quốc khu vực kinh tế nhà nước được coi là đòn bẩy để
thực hiện những chiến lược lớn về kinh tế và xã hội. Ở Indonesia mặc dù nhiều
DNNN bị tố cáo là nơi sản sinh tham nhũng, kém hiệu quả nhưng trên thực tế,
các nhà kinh tế vẫn đánh giá cao vai trò của hệ thống DNNN.
Còn ở Việt Nam vai trò của DNNN được kể đến :
1. Cung cấp hàng hoá dịch vụ rất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân như
điện nước. Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong các lĩnh vực chính là sản xuất và truyền tải điện năng.
2. Gánh lấy những rủi ro lớn như những ngành đòi hỏi vốn lớn để xây dựng

cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị. Ví dụ Vinashin tổng công ty tàu
thuỷ Việt Nam là một trong 17 tổng công ty lớn nhất của nhà nước trên
cơ sở tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ- một ngành đã có truyền
thống lâu đời ở Việt Nam.
3. Làm tròn nhiều chức năng đặc biết như đối với ngành bảo đảm xã hội
cũng như an ninh quốc phòng. Bảo Việt là DNNN đầu tiên trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.
4. Giải quyết vấn đề việc làm, hỗ trợ xí nghiệp tư nhân, mở mang khu vực
lạc hậu như kéo điện về miền núi vùng cao. Chỉ riêng tổng công ty Bảo
Việt đã thu hút trên 5000 lao động.
1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc huy động và sử dụng nguồn vốn của
doanh nghiệp nhà nước
1.2.7.1. Các nhân tố vĩ mô
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
i) Năng lực tăng trưởng kinh tế
Năng lực tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quan trọng xác định triển
vọng huy động nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
nhà nước nói riêng. Năng lực tăng trưởng càng cao thì năng lực tích luỹ của
nền kinh tế càng được đảm bảo, khi đó việc huy động vốn trong nước được cải
thiện. Nền kinh tế tăng trưởng cao cũng là tín hiệu tốt nâng cao lòng tin của các
nhà đầu tư trong nước và hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư. Ngược
lại khi nguồn vốn huy động được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả thì sẽ thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn. Để thấy được mối liên hệ
mật thiết giữa năng lực tăng trưởng kinh tế với việc huy động và sử dụng vốn
đầu tư, ta cùng xem bảng số liệu về tỷ trọng vốn khu vực kinh tế nhà nước
trong tổng số GDP từ năm 1995 đến năm 2005.

Năm
Vốn ngân

sách nhà
nước ( tỷ
đồng)
Vốn của
DNNN và
nguồn
vốn khác
( tỷ đồng)
Tổng vốn
của khu
vực kinh
tế nhà
nước ( tỷ
đồng)
Tổng sản
phẩm
quốc nội
(GDP)
( tỷ đồng)
Tỷ trọng
vốn khu
vực kinh
tế nhà
nước so
với GDP
(%)
1995 30447 10808 41255 228892 18,0
1996 42894 15070 57964 272036 21,3
1997 53570 17300 70870 313623 22,6
1998 65034 20334 85368 361017 23,6

1999 76958 20502 97460 399942 24,4
2000 89417 22637 112054 441646 25,4
2001 101973 27656 129629 481295 26,9
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2002 114738 29591 144329 535762 26,9
2003 126558 30578 157136 613443 25,6
2004 139831 34990 174821 715307 24,4
2005 161635 37728 199363 839211 23,8
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 và Tổng cục thống kê.
Từ năm 1995 đến năm 2002 GDP qua các năm tăng đồng thời tỷ trọng vốn đầu
tư của khu vực nhà nước mỗi năm cũng đều tăng, từ năm 2002 đến năm 2005
tuy tỷ trọng này có giảm nhưng giảm không đáng kể, điều này nói lên rằng khi
nền kinh tế tăng trưởng tốt thì vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng
tăng.
ii) Môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định có vai trò rất lớn trong quá trình ra
quyết định đầu tư. Trước khi ra quyết định, các nhà đầu tư thường cân nhắc rất
kỹ các yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả đầu tư như yếu tố lãi
suất, lạm phát, hoạt động của ngân hàng trung ương, thu chi ngân sách nhà
nước, ngoài ra các doanh nghiệp xuất khẩu còn quan tâm tới tỷ giá hối đoái.
Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán trong chủ trương đường lối chính
sách của Nhà nước luôn là yếu tố tạo mối trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn với
các nhà đầu tư và doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong một xã hội ổn định
về chính trị, các nhà đầu tư và doanh nghiệp được đảm bảo an toàn về đầu tư,
quyền sở hữu tài sản, mức độ yên tâm của nhà đầu tư được củng cố thông qua
việc đánh giá các yếu tố rủi ro chính trị. Ngoài ra còn có một số yếu tố quan
trọng trong môi trường chính trị như xu thế chính trị, là định hướng của nhà
nước sẽ áp dụng trọng việc điều hành quốc gia. Những chính sách đó sẽ ảnh
hưởng rất nhiều đến nền kinh tế và các doanh nghiệp. Có thể nói môi trường

chính trị là nhân tố hàng đầu, mỗi khi môi trường chính trị, xã hội bất ổn định
thì mọi cơ chế chính sách đều mất đi tính hiệu lực của nó.
Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới một dự án đầu tư trong việc
huy động và sử dụng vốn. Lãi suất quá cao gây khó khăn trong quá trình huy
động vốn của doanh nghiệp, và khiến chi phí sử dụng vốn bị đội lên cao do đó
lợi nhuận thực của doanh nghiệp giảm. Việc Chính phủ thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt gần đây thông qua phát hành 20300 tỷ đồng tín phiếu và nâng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng lên 11% làm lãi suất tăng chóng mặt,
điều này gây trở ngại cho các nhà đầu tư có ý định vay vốn ngân hàng trong đó
có cả một số doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù được vay ưu đãi nhưng với mức
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lãi suất cao như hiện nay thì chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
cũng bị đẩy lên cao hơn trước.
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu như dệt
may, da giày, hải sản đặc biệt quan tâm tới tỷ giá hối đoái. Sự lên xuống của
đồng nội tệ luôn là mối quan tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu. Giá trị đồng
nội tệ càng giảm hoặc thấp so với những ngoại tệ mạnh thì các doanh nghiệp
xuất khẩu càng có lợi. Lợi nhuận cao thì khả năng quay vòng vốn của các
doanh nghiệp cũng nhanh hơn. Tuy nhiên nguy cơ suy thoái nền kinh tế Mỹ
hiện nay đang gây nên tâm trạng lo lắng cho những người làm xuất khẩu vì
đồng đô la sụt giá có thể làm giảm lượng hàng xuất khẩu sang Mỹ - thị trường
nhập khẩu lớn nhất của nước ta về hàng nông sản và may mặc.
iii) Các chính sách kinh tế
Bất kỳ doanh nghiệp nào vừa ra đời hoặc đang tồn tại cũng đều thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý
giám sát của cơ quan nhà nước có chức năng, do đó các mỗi chính sách kinh tế
được ban hành đều có ảnh hưởng tới tình hình hoạt động của các doanh nghiệp.
Nổi bật nhất là chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm huy
động và đa dạng hoá vốn chủ sở hữu. Quá trình cổ phần hóa không những huy

động được nguồn vốn không nhỏ cho doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo động
lực cho các doanh nghiệp nhà nước trước đây vốn bị coi là chậm chạp trong đổi
mới phương thức kinh doanh và phương pháp quản lý, nay với sự tham gia của
tư nhân đã chủ động hơn trong sử dụng vốn và đạt được những thành công nhất
định trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính sách mới của Chính phủ về việc quy định một số khoản mua sắm
của doanh nghiệp nhà nước không được tính vào chi ngân sách khiến các doanh
nghiệp nhà nước cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi mua sắm vì đó được tính vào chi
phí của doanh nghiệp, do đó việc sử dụng vốn cũng không bị lãng phí như
trước. Một ví dụ khác như chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát
của chính phủ hai tháng đầu năm 2008 được xem như sự hi sinh thị trường
chứng khoán cho tăng trưởng. Lãi suất nâng cao cùng với việc ban hành chỉ thị
03 hạn chế các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng để đầu tư chứng khoán đã khiến
lượng vốn huy động trên thị trường chứng khoán bị khủng hoảng, quá trình
phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO) của một số doanh nghiệp
nhà nước lớn như Vietcombank với mục đích huy động vốn bị chậm lại do vào
thời điểm đó trên thị trường chưa đủ vốn.
Từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cùng
với việc cam kết phải đi đôi với thực hiện giảm thuế theo lộ trình đối với các
25

×