Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

MỘT số vấn đề NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.33 KB, 25 trang )

Trang chủ » Thông tin báo chí » Tin chuyên đề »

MỘT SỐ VẤN ĐỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bức tranh nông thôn và người nông dân Việt Nam hiện nay sẽ ra sao khi nước ta hội nhập sâu rộng hơn
và khi nước ta trở thành nước cơ bản công nghiệp hóa? Đây là vấn đề mà nhiều nhà khoa học, nhà quản
lý, nhà văn hóa đang tập trung nghiên cứu. Đảng ta dự kiến sẽ tổ chức Hội nghị Trung ương 7 (6/2008)
để bàn sâu rộng và căn bản về vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam (tam nông).
Dựa trên Báo cáo Phát triển Thế giới 2008 của Ngân hàng Thế giới (WB) ngày 11/12/2007 với tựa đề
“Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” và thông tin từ hai cuộc hội thảo liên quan tới nông thôn Việt
Nam tổ chức trong tháng 12 vừa qua, Vụ Báo chí xin tổng hợp lại một số thông tin để các đồng chí tham
khảo.
1-

Nông nghiệp đối với sự phát triển của các nước chuyển đổi

Báo cáo của WB cho rằng Đông Á và ĐNA, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi từ nông
nghiệp sang đô thị hóa như Việt Nam, thì nông nghiệp vẫn được coi là yếu tố quan trọng trong việc xóa
đói nghèo, tăng thu nhập cho nông dân. Hay nói cách khác, nông dân muốn thoát nghèo vẫn phải gắn với
nông nghiệp.
Các số liệu thống kê cho thấy, đã có 200 triệu người thoát nghèo nhờ nghề nông; việc di dân ra thành thị
cũng là nguyên nhân chiếm 20% trong việc giảm số người nghèo có thu nhập 1 USD/ngày ở khu vực
Đông Á và Đông Nam Á; tới năm 2040 vẫn còn 75% người nghèo và đa số họ vẫn sống ở nông thôn.
Ở Việt Nam, nông nghiệp còn mở đường cho các chính sách đổi mới.
Thực tiễn trong nhiều năm qua, tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam đã đem lại lợi ích cho cả vùng đô thị và
nông thôn. Năm 1993 có tới 2/3 số dân nông thôn được coi là nghèo thì ngày nay con số này chỉ còn 1/5.
Nhưng khi Việt Nam chuẩn bị bước vào vị thế là nước có mức thu nhập trung bình và cao hơn, vấn đề là
liệu sự phát triển có lợi cho tất cả mọi người còn tồn tại được nữa không? Cải thiện năng suất nông
nghiệp và tạo cơ hội cho người nghèo ở nông thôn và các dân tộc thiểu số vẫn là vấn đề lớn cần phải
quan tâm đúng mức.
Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam đã làm tốt việc tạo điều kiện cho sản xuất tiếp cận tốt nhất với tài


nguyên thiên nhiên như đất đai, nước... giao đất cho nông dân sản xuất cùng với tự do hoá thương mại
và đầu tư mạnh về thuỷ lợi.
2-

Nông thôn Việt Nam hiện nay: một số tồn tại

Tại cuộc hội thảo "Công nghiệp hóa nông thôn và phát triển nông thôn Việt Nam - Đài Loan", do Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu Trung ương Đài Loan tổ chức ngày 17/12/2007, và cuộc
hội thảo “Nông dân Việt Nam trong quá trình hội nhập” do Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông
nghiệp nông thôn tổ chức ngày 18/12/2007, các chuyên gia đã liệt kê ra những vấn đề xã hội bức xúc,
nan giải trong 20 năm qua. Đó là vấn đề khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội; tình trạng
thiếu việc làm, di dân tự phát; xung đột xã hội gia tăng; dân trí và quan trí thấp; dịch vụ y tế, chăm sóc sức
khỏe yếu kém; đời sống văn hóa có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp; năng lực quản lý xã hội, kết cấu
hạ tầng thấp kém; môi trường bị ô nhiễm và suy thoái ở mức báo động.


Mức độ giảm nghèo chung của Việt Nam tiến bộ liên tục. Tuy nhiên, xu hướng phân hóa giàu nghèo gia
tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc biệt là giữa nông thôn với đô thị. Nhiều chuyên gia còn đưa ra
con số về chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn - thành thị lên tới trên 6,9 lần (2004) chứ không phải con
số 3,5 lần như vẫn nhắc đến.
Một vấn đề nữa là người nông dân thiếu việc làm do bị mất đất do xu thế tích tụ ruộng đất ngay tại nông
thôn và quá trình đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp hiện nay (20 năm qua, 300.000 héc-ta đất
nông nghiệp bị mất đi do quá trình này). Điều này đã làm cho vấn đề thiếu việc làm tại nông thôn và xu
hướng di dân ra thành phố để mưu sinh là không thể tránh khỏi. Đây là xu thế của một xã hội phát triển là
giảm tương đối cơ cấu của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa học hiện đại không được chuyển giao một cách
có hệ thống. Người nông dân thiếu kiến thức, nên khó chuyển giao được khoa học công nghệ để họ thực
sự làm chủ. Điều này tiếp tục đặt họ và thế bất lợi hơn nữa.
Một thách thức to lớn nữa của khu vực nông thôn là sức ép trong chi tiêu cho giáo dục, áp lực của tình
trạng gia tăng ô nhiễm và suy thoái môi trường đến mức báo động. Làng nghề và các khu công nghiệp

nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và không khí rất nặng, làm suy thoái tài nguyên môi trường do khai thác
tự phát, không theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Khu vực đô thị - công nghiệp là nguồn
gây ô nhiễm và suy thoái môi trường nặng nề hơn và cư dân ven đô lại là những người trực tiếp chịu hậu
quả.
3-

Một số giải pháp

- Phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách. Một là đưa lao động ra khỏi khu
vực nông thôn về các khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố. Hai là đưa công
nghiệp, dịch vụ về nông thôn, phát triển làng nghề... Mặc dù đây là vấn đề rất lớn để giảm thiểu sự bất
bình đẳng hiện nay, nhưng Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới vấn đề này, trong khi đây là xu thế tất yếu.
- Tăng đầu tư của Nhà nước về nông thôn. Hiện nay, đầu tư của Nhà nước về nông thôn còn hạn chế
(chiếm 14% tổng đầu tư) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này không đáng kể (3% tổng
đầu tư FDI cả nước). Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học công nghệ
(hiện chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng
không dễ dàng bởi nông dân rất khó tiếp cận và làm chủ KHCN.
- Thiết lập hệ thống khuyến nông tốt. Có thể thuê khuyến nông tư nhân làm mà không cần phải dựa hoàn
toàn vào Nhà nước. Ngoài ra, phải có các cơ chế tài chính phù hợp thu hút các tổ chức quốc tế, phi chính
phủ làm việc này và tăng cường các mô hình giáo dục, đào tạo ở địa phương để người dân có thể tiếp
cận được". Song song đó là đầu tư cho các dịch vụ công khác và đẩy mạnh cải cách thể chế.
- Nhà nước cần đầu tư đào tạo nghề cho nông dân để đối phó với sự dịch chuyển trong nông nghiệp.
- Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, phải xóa bỏ chính sách trợ giá,
nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (khoảng 10% GDP của nông nghiệp) như thủy lợi,
hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp.
- Có chính sách hỗ trợ cho an ninh lương thực. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho lĩnh vực này.
Muốn đảm bảo an ninh lương thực, duy trì diện tích và sản lượng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long thì
phải có chính sách để bảo đảm thu nhập cho người dân và cho phát triển vùng này. Hiện nay, những tỉnh
có tỉ trọng nông nghiệp cao trong GDP là những tỉnh nghèo, kém phát triển. Nên xem vấn đề an ninh
lương thực dưới góc độ cung cấp dịch vụ cơ bản.

4-

Kết luận


Bằng nội lực, người dân nông thôn chỉ đủ đảm bảo mưu sinh. Muốn phát triển bền vững, người dân nông
thôn cần rất nhiều sự hỗ trợ từ bên ngoài. Cụ thể, khu vực tam nông cần khung khổ pháp lý của nhà
nước và những cam kết quốc tế; đào tạo, nâng cao năng lực toàn diện; quy hoạch và tổ chức thực hiện
các chương trình, dự án phát triển; chú trọng nâng cao năng lực đánh giá, điều chỉnh hoặc thay đổi các
dự án và chương trình này.
Quan điểm hỗ trợ tam nông phải được hiểu và thao tác theo lý thuyết tương tác, tương hỗ, tức là phát
triển theo mô hình hợp tác giữa tam nông với các khu vực khác của xã hội. Lý thuyết hợp tác 4 nhà (nhà
nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp và nhà khoa học) theo nguyên tắc các bên cùng có lợi cần phải bổ
sung thêm nhà công tác xã hội để trở thành lý thuyết 5 nhà cho chiến lược phát triển bền vững tam
nông....

Hậu WTO đối với nông nghiệp và đói nghèo ở Việt Nam
Cùng với việc gia nhập WTO, làm sao Việt Nam có thể tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu rủi
ro; đảm bảo rằng người nghèo cũng được tiếp cận với các cơ hội mới.
Vấn đề đói nghèo
Từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã tiến hành các cuộc cải cách về luật pháp, thiết chế và kinh
tế song song với việc tự do hóa thương mại quốc tế một cách có chọn lọc. Tiến trình này đã mang
lại sự ổn định kinh tế vĩ mô, một mức tăng trưởng bình quân hàng năm trên đầu người là 6 phần
trăm trong giai đoạn 1990-2001, giảm một nửa số người nghèo từ 58 phần trăm năm 1993 xuống
còn 29 phần trăm năm 2002.
Mặc dù đã thu được những thắng lợi to lớn trong việc giảm đói nghèo, Việt Nam vẫn là một quốc
gia có thu nhập thấp với GDP trên đầu người đạt 550 USD (năm 2004). Một số đáng kể người
Việt Nam vẫn còn phải sống chật vật và có tới một phần tư trẻ em dưới năm tuổi bị suy dinh
dưỡng. Đại bộ phận nhân dân có mức thu nhập chỉ trên ngưỡng nghèo chút ít nên rất dễ bị tái
nghèo nếu có những chấn động kinh tế từ bên ngoài.

Nghèo khổ đặc biệt phổ biến ở các vùng nông thôn, nơi hơn 90 phần trăm người nghèo của đất
nước sống và làm việc. Nông nghiệp là một khu vực đặc biệt nhậy cảm. Nông nghiệp sử dụng 69
phần trăm lực lượng lao động của Việt Nam, và 45 phần trăm dân nông thôn sống dưới mức
nghèo. [i] Bình quân một đơn vị canh tác hộ gia đình chỉ có 0,7 hécta. Các nhân tố như mất mùa
hoặc giá nông sản bị tụt giảm do sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu là những mối đe dọa tiềm
tàng đến thu nhập của hàng triệu người dân rất dễ bị tổn thương.
Lợi ích tiềm năng
Động lực chính để các nước đang phát triển tìm cách gia nhập WTO là hy vọng tư cách thành
viên sẽ thúc đẩy xuất khẩu của họ, nhờ cải thiện được khả năng tiếp cận thị trường quốc tế. Việt
Nam cũng hy vọng như thế, nhất là mở rộng được việc bán nông sản và thuỷ sản cũng như hàng
dệt may. Tư cách thành viên WTO làm tăng sức hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việt Nam cũng trông đợi tận dụng lợi thế của cơ chế xử lý tranh chấp của WTO, một cơ chế áp
dụng các luật lệ thương mại quốc tế. Là thành viên WTO, Việt Nam sẽ có tiếng nói trong việc
xây dựng các luật lệ này. Hơn nữa, nhiều chuyên gia trong nước tin tưởng rằng việc Việt Nam trở
thành thành viên WTO và thực thi các cam kết mở cửa sẽ là động lực tiếp tục thúc đẩy tiến trình
cải cách trong nước.


Thách thức trước mắt và lâu dài
Một phần lý do Việt Nam gần đây có mức tăng trưởng cao và giảm nghèo đầy ấn tượng là nhờ
những thành công trong xuất khẩu được kết hợp với sự tiếp cận thận trọng tự do hóa nhập khẩu
và đầu tư nước ngoài, không nhất nhất theo những đơn thuốc đang thịnh hành của Washington.
Một trong những thách thức lớn lao đối với Việt Nam là tiến trình gia nhập WTO có thể buộc
Việt Nam phải mở cửa nền kinh tế rộng hơn và nhanh hơn mức mong muốn, có thể dẫn đến tác
động không lường trước đối với sản xuất trong nước, và thu hẹp sự linh hoạt của nhà nước trong
việc đính hướng chiến lược phát triển quốc gia – limit policy space
Bên cạnh đó, mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng trong thập kỷ qua về tăng
trưởng và giảm nghèo, vấn đề bất bình đẳng giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng lên. Báo cáo
Phát triển Việt Nam 2004 cảnh báo tăng trưởng đang trở nên kém hữu ích cho những người sống
trong cảnh nghèo.

Đảo ngược chiều hướng đó là một trong những thách thức gay cấn nhất cho Việt Nam trong
những năm tới. Điều quan trọng cần nhận biết là thu nhập của một bộ phận lớn trong nhân dân
chỉ chớm trên ngưỡng nghèo, [ii] và một hệ quả là nhiều gia đình về mặt “kỹ thuật” không phải là
nghèo, lại rất dễ bị tổn thương trước những chấn động ngoại lai có thể đưa họ trở lại cảnh đói
nghèo.
Một số thách thức cụ thể bao gồm:
Cuộc cạnh tranh đối với những nông dân tham gia xuất khẩu nông sản và những nông dân sản
xuất phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước sẽ gia tăng trên mọi phương diện, có thể dẫn
đến hạ giá sản phẩm. Điều đó có hại cho nông dân và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên điều
đáng lưu ý là đại bộ phận dân nghèo đang sống ở vùng nông thôn, hoặc là hộ sản xuất nhỏ hoặc
là người dân không đất làm thuê.
Nền kinh tế nông thôn và kế sinh nhai của họ phụ thuộc vào việc họ có bán được sản phẩm làm ra
với một giá cả hợp lý hay không. Kinh nghiệm một số nước cho thấy, việc mở cửa thị trường
không nhất thiết mang lại giá rẻ cho người nghèo thành thị; lợi nhuận dường như rơi vào túi các
công ty nhập khẩu hay chế biến lớn. Hơn nữa, giá lương thực rẻ của ngày hôm nay có thể gây tác
động lâu dài đến khả năng tự chủ lương thực của một quốc gia trong tương lai.
Nông dân Việt Nam có thế mạnh về một số sản phẩm xuất khẩu mà có thể tiếp tục duy trì hoặc
mở rộng trong tương lai (như gạo, hạt tiêu, điều). Song, một số sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thị
trường trong nước sẽ gặp khó khăn vì Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh về những sản phẩm
này (như đường, ngô, sản phẩm sữa và thịt).
Hơn nữa, nhiều sản phẩm mà Việt Nam đang cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (như gạo) hay
sẽ nhập khẩu ngày càng nhiều (như ngô) được Chính phủ các nước giàu trợ cấp ở mức độ cao
cũng như được bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan. Chính phủ Mỹ hang năm trợ cấp 10 tỷ USD
cho các chủ trang trại trồng ngô, hay 3.6 tỷ USD cho trang trại sản xuất gạo. Hay một con bò EU
được trợ cấp 2.62 USD mỗi ngày, nhiều hơn thu nhập của nông dân nghèo Việt Nam.


Thách thức đối với việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vất
(SPS) ngay sau khi Việt Nam trở thành thanh viên WTO là rất lớn. Hiệp định này đòi hỏi sự hài
hoà các tiêu chuẩn quốc gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản. Đây là mốt thách thức lớn đặc

biệt cho những người sản xuất nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu vùng xa, và chắc chắn phải
mất một thời gian để hoàn thành.
Ngân hàng Thế giới ước tính chi phí thực thi một hiệp định là 100 triệu USD, trong khi nguồn lực
của Chính phu còn hạn chế trong việc tăng cường nguồn lực cho việc xoá đói giảm nghèo. Hơn
nữa, việc dựa vào nguồn lao động rẻ tiền để cạnh tranh xuất khẩu các mặt hang nông lâm thuỷ hải
sản sẽ không khả thi và không bền vững trong giai đoạn tới khi nền kinh tế tiếp tục phát triển ở
Việt Nam. Do đó vấn đề nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hang xuất khẩu là vấn đề ưu tiên
chiến lược cho phát triển nông thôn và xoá đói giảm nghèo.
Định hướng tương lai
Vai trò hỗ trợ và điều tiết của Chính phủ là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong việc phân bổ
nguồn lực, đầu tư cho nông nghiệp, phát triển nông thôn, tiếp tục nỗ lực giảm nghèo và cải thiện
vấn đề bất bình đẳng trong xã hội. Cần tăng cường nỗ lực theo dõi chặt chẽ tác đông đối với
nhóm người nghèo và dẽ bị tổn thương để có biện pháp hỗ trợ kịp thời nhằm giảm thiểu các tác
động tiêu cực.
Hiện tại hiểu quả sản xuất và thương mại một số mặt hang nông nghiệp còn thấp. Song nếu được
hỗ trợ đầu tư ở mức độ nhất định, thì có thể nâng cao hiểu quả để đảm bảo duy trì tính hấp dẫn
đối với thu nhập của người nông dân ngay cả khi thị trường bị giảm sút và vẫn có ý nghĩa quan
trong để đảm bảo an ninh lương thực. Trong nhiều trường hợp chính phủ có thể giúp đỡ nông dân
đa dạng hoá sản phẩm hay chuyển sang các loại cây trồng khác do khả năng cạnh tranh hay tiềm
năng về sinh thái nông nghiệp của Việt Nam có giới hạn.
Các loại cây trồng vật nuôi ưu tiên cần được lựa chọn trên cơ sở nhu cầu của thị trường thay vì
dựa vào tiềm năng cung cấp. Đồng thời, cần xem xét áp dụng cơ chế chuyên hoá ở mức độ nhất
định tại từng vùng, miền căn cứ vào các điều kiện sinh thái nông nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của
địa phương để cho các hoạt động thương mại và chế biến ở địa phương đó có thể tranh thủ được
lợi thế về quy mô.
Đối với những nông dân nghèo, đặc biệt là ở các hệ sinh thái bất ổn định ở vùng cao thì nên áp
dụng chủ trương đa dạng hoá cây trồng và thiết lập các hệ thống sản xuất hỗn hợp (trồng trọt sử
dụng các giống cây phù hợp; chăn nuôi gia súc; nuôi cá; trồng rừng, kể cả các loại lâm sản ngoài
gỗ). Đặc biệt là Chính phủ có thể hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng về tiếp thị và thương mại, kể cả
các chợ bán buôn nơi mà giá cả được quy định theo từng ngày. Cần tập trung hỗ trợ cho những

địa phương gặp khó khăn để tránh tác động tiêu cực về công bằng xã hội.
Chính phủ cần tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu, đặc biệt về cây trồng (như tạo ra các
giống cây trồng năng suất cao phù hợp với các vùng sinh thái nông nghiệp cụ thể và các vật tư
cho sản xuất); nghiên cứu về các hệ thống sản xuất tổng hợp; và các giống gia súc. Ngoai ra,
Chính phủ cần đầu tư vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ thú y và vệ sinh chuồng trại (để


phòng ngừa bệnh cúm gia cầm), và cơ chế quản lý dịch hại tổng hợp (IPM).

Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói
nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp thực hiện giao
khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và
giữa vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã
vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số
phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo
động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các
nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó rất
quan tâm đến chương trình này, ông lo lắng thế hệ con cháu mai sau bị ảnh hưởng do đói nghèo
hôm nay.
Nghị quyết Quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao tinh thần cộng đồng,
tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và
phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa..." Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 là "Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày
Liên hợp quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo".
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự

tham gia của chuyên gia các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như IMF, UNDP, WB,.. tổng hợp
thành các mục tiêu phát triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá chiến lược bằng các chương trình,
dự án được triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên. Các nghiên cứu đã lập được bản
đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8
mục tiêu:
1. Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ.
6. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
7. Đảm bảo bền vững môi trường.
8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm nghèo một cách bền vững
bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên


nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói
giảm nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn
định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu đó cũng gợi mở những phương thức tác động trực tiếp hay
gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay, chuẩn nghèo của thế giới quy định quốc gia có thu nhập bình quân người hàng năm là
735 USD. Thu nhập bình quân của Việt Nam khoảng 400 USD, dù có quy đổi về giá trị so sánh
tương đương (PPP) vẫn chưa qua chuẩn nghèo. Ngày 29 tháng 3 năm 2005, tại Hội thảo "Hợp tác
giữa các nhà tài trợ và các Tổ chức phi Chính phủ trong xóa đói giảm nghèo" theo định hướng
giảm nghèo toàn diện hơn, bền vững hơn, công bằng hơn và hội nhập hơn, Việt Nam sẽ nâng
chuẩn đói nghèo lên gấp hai lần. (Chuẩn đói nghèo trước đây theo mức thu nhập bình quân người
/tháng theo khu vực miền núi, nông thôn, thành thị: trước năm 2000 là 45.000 đồng, 70 000 đồng
và 100 000 đồng; sau năm 2000 là 80000 - 100 000 – 150 000 đồng). Theo chuẩn đói nghèo mới
có hai mức: thu nhập bình quân tháng 200 000 đồng ở nông thôn và 260 000 đồng ở thành thị.

Tuy nhiên một số thành phố chuẩn đó có thay đổi do yếu tố giá sinh hoạt. Ví dụ, Sở Lao động
Thương binh và xã hội Hà Nội đã đệ trình UBND thành phố mức chuẩn nghèo mới: 350.000 và
270.000 đồng/người/tháng tương ứng với khu vực thành thị và nông thôn.
Kết quả dưới đây đây được TCTK tính toán dựa vào số liệu thu nhập bình quân đầu người của hộ
gia đình và chỉ số giá tiêu dùng của từng khu vực thành thị/nông thôn qua các năm để loại từ yếu
tố biến động giá. Số liệu căn cứ kết quả chính thức Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002
và kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004, Tổng cục Thống kê tính
toán tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo được Thủ tướng Chính phủ ban
hành áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 (200 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn,
260 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị) như sau:
Năm 2002
Năm 2004
Cả nước 23,0
18,1
Chia theo khu vực
Thành thị
10,6
8,6
Nông thôn
26,9
21,2
Chia theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
18,2
Đông Bắc
28,5
23,2
Tây Bắc 54,5
46,1
Bắc Trung Bộ

37,1
29,4
Duyên hải Nam Trung Bộ 23,3
Tây Nguyên
43,7
29,2
Đông Nam Bộ
8,9
6,1
Đồng bằng sông Cửu Long

12,9

21,3
17,5

15,3

Nguồn: Tổng cục Thống kê tháng 7 năm 2005 “Thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ nghèo 2002 và
2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010”

Bản chất nghèo đói tại Việt Nam đang thay đổi


Bản chất nghèo đói đang thay đổi đòi hỏi sự linh hoạt trong chương trình mục tiêu quốc gia xóa
đói giảm nghèo.
Kinh tế khác, đói nghèo khác
Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Nguyễn Thanh Hòa cho biết: “Trong giai đoạn
sau đổi mới 1986 đến trước năm 2006, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung được thay bằng
nền kinh tế thị trường. Việt Nam nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế mở toàn cầu”.

“Sự chuyển đổi này khiến đói nghèo giảm từ mức gần 58% dân số xuống còn 16%. Các chỉ số
phúc lợi như tiếp cận dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng cơ bản cũng tăng tích cực. Chính phủ đầu tư
nguồn lực đáng kể cho các chương trình giảm nghèo quốc gia với mục tiêu thúc đẩy phát triển
trên diện rộng và cân đối về mặt xã hội”, ông Hòa nói.
Ông Đặng Kim Chung, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao độngThương binh và Xã hội) đánh giá sự thay đổi bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước dẫn đến bản
chất nghèo đói cũng thay đổi.
Phân tích của Trung tâm Phân tích Dự báo (Viện Khoa học xã hội Việt Nam) đã chỉ ra rằng
“Nghèo đói về vật chất đã chuyển từ một hiện tượng số đông thành một vấn đề cụ thể của các
cộng đồng. Cộng đồng đó là những nhóm như trẻ em đường phố, người thất nghiệp và người
sống ở vùng nông thôn, hẻo lánh”.
“Ngoài ra, tiến trình kinh tế mới, đô thị hóa cũng dẫn đến những thách thức lớn với đời sống xã
hội. Bất bình đẳng ngày càng gia tăng. Các cá nhân dễ tổn thương trước những cú sốc kinh tế-xã
hội và môi trường. Xói mòn các mạng lưới an sinh cộng đồng”, phân tích nêu rõ.
Thêm vào đó, khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO,) mỗi "cú sốc"
của kinh tế thế giới cũng có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam. "Ví dụ gần nhất là hiện
tượng mất việc hàng loạt đầu năm 2008 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới", ông
Hòa phân tích.
Chính vì thế, ông Đặng Kim Chung cho rằng, công cuộc xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam đang
đối diện với bối cảnh nghèo đói thay đổi nhanh chóng.
Khuyến nghị mở rộng bảo trợ xã hội
Trên nền tảng nhận thức về hiện tượng nghèo trong giai đoạn hiện nay, nhóm nghiên cứu của Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội khuyến nghị mở rộng bảo trợ xã hội cho các nhóm người
nghèo. Cụ thể là: Sau năm 2010 chương trình mục tiêu quốc gia cần tiến tới mở rộng và thực hiện
các chính sách bảo trợ xã hội bao phủ toàn bộ các đối tượng dễ bị tổn thương.
“Điều này phù hợp với những nước có thu nhập trung bình và đã thoát khỏi diện nghèo đói phổ
biến, nhưng vẫn có một số nhóm người dễ bị tổn thương trước những cú sốc. Bên cạnh đó, chi
phí thực hiện các chính sách này thấp hơn nhiều so với các chương trình mục tiêu”, ông Chung
phân tích.



Ông Ngô Trường Thi, Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội)
khẳng định, Bộ đang cùng với Chính phủ xây dựng một chiến lược an sinh xã hội tổng thể, dài
hạn nhằm bảo vệ người dân trước những rủi ro về kinh tế-xã hội để bổ sung cho các hỗ trợ về
giảm nghèo.
Ngoài ra, sẽ có những phương pháp mới trong hỗ trợ giảm nghèo có mục tiêu như: Hỗ trợ trọn
gói cho các huyện và quỹ phát triển cộng đồng; chi trả trực tiếp có điều kiện hoặc gói hỗ trợ thu
nhập cơ bản.
Địa phương hóa các chương trình
Về phía địa phương, theo nhóm nghiên cứu, cần đảm bảo các chương trình hỗ trợ đến được với
người nghèo và có sự phối kết hợp giữa các chính sách thông qua tiến trình tăng cường kinh tế xã
hội tại địa phương. Điều này sẽ giúp giải quyết nghèo đói theo cách tiếp cận đa chiều và đặc thù
địa phương. Các địa phương sẽ tự xem xét để tập trung nguồn lực vào các vùng nghèo nhất.
Ngoài ra, chỉ cơ sở mới có thể xây dựng các gói hỗ trợ gắn với nhu cầu của mình.
“Trên thực tế, lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là yếu tố quyết định cho các hoạt động giảm
nghèo trong tương lai. Nên kết hợp nó với cơ chế hỗ trợ tài chính linh hoạt từ trung ương. Việc
xây dựng kế hoạch nên được thực hiện có hệ thống. Điều này giúp tránh trùng lắp các chương
trình. Đồng thời cũng giúp có được một chương trình tổng thế tốt hơn”, ông Chung nói.
Các chương trình mục tiêu được khuyến cáo nên tập trung vào những nơi có tỷ lệ nghèo cao.
Nghèo đói ngày càng phức hợp, nên cần phải có những giải pháp hỗ trợ tổng hợp, vừa nhằm cải
thiện môi trường, vừa hỗ trợ có mục tiêu cho các hộ gia đình và cá nhân có nhu cầu cao nhất. Một
điểm quan trọng cũng được nhắc tới là hệ thống phân loại và xác định hộ nghèo cần phải được
điều chỉnh đơn giản, minh bạch và khách quan. Mức độ nghèo đói phải là điểm mấu chốt trong
quyết định phân bổ nguồn lực, và hỗ trợ tài chính trọn gói./.
Các mục tiêu của chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo đến năm
2010:
- Cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng cơ bản cho các xã đặc biệt khó khăn thuộc các vùng
bãi ngang ven biển và hải đảo.
- 6 triệu lượt hộ nghèo được cấp tín dụng ưu đãi.
- 4,2 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn về khuyến nông-lâm-ngư, chuyển giao kỹ
thuật và họat động kinh doanh.

- 150.000 người nghèo được miễn giảm học phí đào tạo nghề.
- 100% người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, khi ốm đau đi khám chữa bệnh được
Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán.
- 19 triệu lượt học sinh nghèo, trong đó có 9 triệu học sinh tiểu học được miễn, giảm
học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường.
- 170.000 cán bộ làm công tác giảm nghèo, trong đó 95% cán bộ cấp cơ sở được tập
huấn nâng cao năng lực.
- 500.000 hộ người được hỗ trợ để xóa nhà tạm.
- 98% người n


Xóa đói, giảm nghèo ở nước ta - thành tựu, thách thức và giải pháp
(15/02/2006 08:17)

Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền
vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn nước ta, công cuộc
xóa đói, giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và
an ninh - quốc phòng, phát huy được bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần quan trọng trong sự
nghiệp phát triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm từ 17,2%
năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn
hộ, đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. "Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam
là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế". Đó là đánh giá trong "Báo cáo
phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng thế giới.
Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định hướng chung là từng bước tiếp cận
với trình độ của các nước đang phát triển trong khu vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong
đó có tính đến các nhân tố ảnh hưởng. Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 quy định:
Hộ nghèo là những hộ ở khu vực nông thôn có thu nhập bình quân 200.000 đồng/người/tháng trở xuống,

đối với những hộ ở khu vực thành thị có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Theo quy định này, ước tính năm 2005 cả nước ta có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ trong
toàn quốc; Các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%) và Tây Nguyên (40%); vùng có tỉ lệ hộ
nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%).
Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhiều năm qua, công cuộc
xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng phía trước vẫn còn không ít khó
khăn và thách thức:
Thứ nhất là, về nhận thức, một bộ phận không nhỏ người nghèo và địa phương nghèo vẫn còn tư tưởng
ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nên chưa chủ động vượt lên để thoát nghèo.
Thứ hai là, sự đánh giá tỷ lệ nghèo còn thấp hơn thực tế ở một vài địa phương, nên một bộ phận người
thực sự nghèo chưa được tiếp cận với các chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Thứ ba là, nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, giảm nghèo còn khiêm tốn. Hằng năm, ngân
sách nhà nước hỗ trợ cho chương trình xóa đói, giảm nghèo mới chỉ được bình quân khoảng 60.000
đồng/người. Trong khi đó, một số địa phương chưa chủ động huy động hoặc huy động chưa tương xứng
với tiềm năng của nguồn lực tại chỗ; chưa lồng ghép hài hòa các loại nguồn lực trên cùng địa bàn và
chưa huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tổ chức, các cộng đồng và các cá
nhân có điều kiện vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, chưa đáp ứng được nhu cầu cần hỗ trợ
của người nghèo để đủ điều kiện thoát nghèo bền vững, dẫn đến mục tiêu thoát nghèo khó thực hiện
được.
Thứ tư là, một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xóa đói giảm nghèo chưa thật phù hợp, việc tổ
chức thực hiện còn bất cập, còn mang tính bao cấp, nên không tạo được động lực để người nghèo chủ
động vượt nghèo. Biện pháp hỗ trợ làm nhà ở cho đồng bào nghèo chưa thật phù hợp với nhu cầu và tập
quán của từng dân tộc, từng địa phương; có địa phương chưa chú ý đầy đủ đến quy hoạch sản xuất lâu
dài và môi trường sống của nhân dân trong khi xây dựng các khu dân cư vượt lũ; mức chi phí cho khám,
chữa bệnh còn thấp; chính sách trợ cước, trợ giá cũng còn bất hợp lý; mức vốn vay tín dụng ưu đãi còn
thấp và chưa thật phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh; cơ chế phân bổ vốn còn mang tính bình quân,
v.v.. Ở một số nơi, nhất là vùng cao, vùng sâu thông tin đến với người dân chưa đầy đủ nên nhận thức về


các chính sách của Nhà nước đối với người nghèo còn hạn chế. Những khiếm khuyết nói trên đã làm cho

hiệu quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo bị giảm bớt một phần.
Thứ năm là, việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo không đồng đều ở một số địa
phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực. Phần lớn cán bộ thực thi chương
trình ở cấp xã đều kiêm nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Việc theo dõi, giám sát
chương trình chưa có hệ thống và đồng bộ. Công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá chương trình chủ yếu
dựa trên các báo cáo với lượng thông tin chưa đầy đủ.
Do nhiều yếu tố tác động khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tình trạng
nghèo đói hiện nay đang vận động theo hướng:
- Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh
tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 - 1998, giảm xuống còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998
- 2004. Tốc độ giảm nghèo thể hiện rõ nhất là ở những vùng bị chia cắt về địa lý, kết cấu hạ tầng và mặt
bằng dân trí còn thấp. Một số chính sách và giải pháp động lực cho xóa đói, giảm nghèo đã bộc lộ những
hạn chế, không còn tác dụng mạnh mẽ như giai đoạn đầu, như các chính sách về đất đai, về giao đất,
giao rừng, về khoán trong nông nghiệp,... Vì vậy, cần phải có động lực mới cho tương lai, đó là chính
sách phát triển và chuyển giao công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch để nâng cao năng suất cây
trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị sản xuất trên một diện tích gieo trồng, chính sách chuyển đổi cơ cấu sản
xuất theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh phục vụ cho xuất khẩu và cung cấp nguyên
liệu cho các ngành chế biến (bông, cà phê, cao su, hạt điều, chè, mía, gỗ, tre, lúa, ngô, khoai, sắn, vừng,
lạc, đậu...); chính sách phát triển kinh tế trang trại, phát triển tiểu, thủ công nghiệp, doanh nghiệp quy mô
vừa và nhỏ; chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa chăn nuôi đại gia súc có hiệu quả
kinh tế cao thành ngành sản xuất chính,v.v..
- Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả
nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều
hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó
khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân
trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những
vùng đang đô thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải
chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái
nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc
Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ

nghèo cao nhất.
- Chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu hướng gia tăng: Trong những năm
gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14
lần năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần năm 2002,
tăng lên 13,5 lần năm 2004; Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông
thôn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng
nghèo tương đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn.
Mặc dù, trong những năm qua số hộ nghèo trong cả nước đã giảm mạnh, song trên thực tế công cuộc
xóa đói, giảm nghèo còn vô cùng gian nan. Nguy cơ tái nghèo có thể tăng do tác động của kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế; do đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều; cơ hội về
việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi mới công nghệ trong sản xuất, yêu cầu trình
độ của người lao động ngày càng cao. Đói nghèo trở lại là vấn đề luôn rình rập một bộ phận khá lớn số
hộ nghèo vừa vượt khỏi ngưỡng nghèo. Chỉ cần gặp thiên tai, dịch bệnh, đau ốm hoặc biến động giá cả,
thì các hộ này lại dễ rơi vào tình trạng đói nghèo.
Để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới từ 22% năm 2005 xuống còn 11% năm 2010,
cải thiện đời sống người nghèo, hạn chế tốc độ gia tăng chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị
và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo, trong thời gian tới, cần
tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:


1 - Dựa trên sự tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm để nâng cao đời sống cho người nghèo
Bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững là điều kiện tiên quyết để giảm nghèo. Kinh nghiệm ở
một số nước và thực tế ở nước ta cho thấy trong gần một thập kỷ vừa qua, nước ta đạt được thành tựu
tích cực về giảm nghèo là dựa trên sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Để bảo đảm cho kinh tế tăng
trưởng nhanh và ổn định, vấn đề cải cách cơ cấu kinh tế và bộ máy quản lý nhà nước đã trở thành một
đòi hỏi cấp thiết trên tất cả các mặt chủ yếu như thể chế kinh tế, thúc đẩy thị trường phát triển, đẩy mạnh
xuất khẩu, cải thiện môi trường đầu tư, cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, xóa bỏ bao cấp, hỗ
trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải cách hành chính và các hoạt động phục vụ đầu tư,
sản xuất kinh doanh,v.v..
Phát triển kinh tế, xã hội đồng bộ từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng thuận lợi đến vùng sâu, vùng xa.

Chú trọng giúp các địa phương nghèo phát triển kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây
trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ cấu lao động theo hướng
tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp. Có được như
vậy, mới tạo thêm nhiều việc làm ở cả thành thị và nông thôn. Việc giảm tỷ lệ nghèo đói nghiêm trọng ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa đòi hỏi có sự đầu tư mạnh mẽ, liên tục của Nhà nước và sự chủ động vượt
lên của chính địa phương và người nghèo ở những nơi này.
2 - Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các loại hình dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ
môi trường
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, hệ thống điện, trường học, cơ sở
khám chữa bệnh và các thiết chế văn hóa cho các địa phương nghèo để sớm khắc phục tình trạng thiếu
điện, thiếu nước sạch, thiếu thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế nghèo nàn, lạc hậu, đồng thời thực hiện đồng
bộ các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt chú trọng đào tạo, tăng cường năng lực
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế và cung cấp đầy đủ thuốc chữa bệnh, phù hợp với thu nhập của người
dân. Kết hợp chặt chẽ chương trình xóa đói, giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Giải pháp nói trên nhằm nâng cao thiết thực mức sống và chất lượng cuộc sống nhân dân ở các xã
nghèo, vùng nghèo, giảm dần khoảng cách giữa các vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cư; bảo đảm
cho người nghèo tiếp cận được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về chăm sóc y tế, giáo dục và kế hoạch
hóa gia đình, sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt và nguồn gốc của nghèo đói.
3 - Xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là về nguồn lực
Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, nguồn lực của Nhà nước vừa có vai trò chủ đạo, vừa mang tính
xúc tác, khơi nguồn, nguồn lực của cộng đồng, của quốc tế cũng có có vai trò rất quan trọng. Xây dựng
và phát triển các chương trình "Những tấm lòng từ thiện"; "Nối vòng tay lớn"; "Một thế giới trái tim"; "Quỹ
tình thương"; "Nhà đại đoàn kết"..., đã thu hút đông đảo các cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ
chức xã hội trong nước và quốc tế tham gia hỗ trợ người nghèo. Cuộc vận động "Ngày vì người nghèo",
"xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo", đã giúp cho hàng trăm nghìn hộ nghèo sửa chữa hoặc xây mới
được nhà ở. Các mô hình tín dụng - tiết kiệm, nông dân sản xuất giỏi, thanh niên làm kinh tế, v.v. đã góp
phần cải thiện điều kiện sống cho nhiều thành viên của các tổ chức, các đoàn thể xã hội.
Ngoài các nguồn lực trong nước và nguồn hỗ trợ tài chính của cộng đồng quốc tế, điều quan trọng hơn là
chúng ta đã tiếp thu có hiệu quả sự trợ giúp kỹ thuật của bè bạn quốc tế và đã nhân rộng được nhiều bài

học kinh nghiệm và mô hình tốt về xóa đói, giảm nghèo như: phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia
của người dân, vấn đề giới trong xóa đói, giảm nghèo, cơ chế tăng cường phân cấp cho địa phương, đặc
biệt là cấp xã,... Những kinh nghiệm và bài học quý báu ấy đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
và tính bền vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo.


Trong những năm tới, xã hội hóa các hoạt động xóa đói giảm nghèo cần được các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội và mọi người tiếp tục quan tâm và thúc đẩy lên một tầm cao mới, nhằm tăng cường hơn nữa
trách nhiệm của xã hội và của mọi người dân trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta.
4 - Đổi mới công tác tổ chức, bảo đảm tính công khai, minh bạch và làm rõ trách nhiệm trong việc lập kế
hoạch, tạo điều kiện để chính quyền địa phương chủ động, người dân bàn bạc, thảo luận, nhằm tạo ra sự
đồng thuận và hợp tác, quyết tâm vượt nghèo, vươn lên làm giàu của các xã nghèo, vùng nghèo và chính
bản thân người nghèo trong quá trình triển khai chương trình xóa đói, giảm nghèo
Những năm gầy đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều tiến bộ trong công tác chỉ đạo, điều hành
bảo đảm thực hiện có chất lượng các chương trình xóa đói, giảm nghèo. Cơ chế tự chủ về phân bổ ngân
sách, tổ chức thực hiện và quản lý các chương trình trên cơ sở nhu cầu thực tiễn, lập kế hoạch và huy
động nguồn lực trên địa bàn đã tạo điều kiện cho các cấp chính quyền chủ động, tự giải quyết và tự chịu
trách nhiệm về hiệu quả của chương trình. Song trên thực tế, việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và
ra quyết định tại cấp xã vẫn rất hạn chế. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện để phát huy tính năng động, chủ
động của cơ sở, phát huy sức mạnh về vật chất và tinh thần của cả cộng đồng để nâng cao hiệu quả của
chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Hai yếu tố quan trọng nhất để thực hiện giảm nghèo là, Nhà nước tạo động lực giảm nghèo thông qua
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và ý chí vượt nghèo của người nghèo. Các chương trình giảm
nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo bước đầu được nhân dân trong cộng
đồng tham gia, thảo luận và quyết định. Người dân từng bước nhận thức được vai trò và trách nhiệm của
mình trong việc tham gia thực hiện các chương trình giảm nghèo. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" phải được thực hiện xuyên suốt trong các hoạt động của chương trình giảm nghèo ở
địa phương.
Trong thời gian tới, công tác xóa đói, giảm nghèo cần tập trung vào các địa bàn là các xã khó khăn nhất ở
vùng căn cứ cách mạng, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người

và các đối tượng khó khăn nhất, trong đó, đặc biệt ưu tiên phụ nữ và trẻ em nghèo. Động viên cộng đồng
người nghèo phát huy nội lực, tự vươn lên thoát nghèo, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các cộng
đồng khác, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực, kết hợp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực quốc
tế; có chính sách, cơ chế khuyến khích và các giải pháp có tính đột phá, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, chuyển giao công nghệ thích hợp đến các xã nghèo, người nghèo, khuyến khích các doanh nghiệp
đào tạo nghề và tạo việc làm ổn định và tăng thu nhập cho người nghèo để xóa đói, giảm nghèo bền
vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Chống đói nghèo là một cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt. Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn ưu tiên giành nguồn lực để xóa đói, giảm nghèo; đồng thời thực hiện cam
kết với cộng đồng quốc tế về việc thực hiện các chỉ tiêu thiên niên kỷ, trong đó có các chỉ tiêu về xóa đói,
giảm nghèo.
Sắp tới, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng,
Chính phủ sẽ tiếp tục tạo lập động lực để phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội, đồng thời chủ động chỉ đạo
thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo với sự đồng tâm hiệp lực của các ngành, các cấp, của cả cộng
đồng, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của chính người nghèo.
Với quyết tâm cao và tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, chúng ta nhất định sẽ thực hiện
thắng lợi mục tiêu cao cả và đầy tính nhân văn đã cam kết với cộng đồng quốc tế - mục tiêu xóa đói, giảm
nghèo trên đất nước ta.


Nghèo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Bài này viết về phân biệt giàu - nghèo. Để xem bài viết về Truyện ngắn cùng tên của Nam Cao,
xem Nghèo (truyện ngắn).
Đây là một bài viết bách khoa có tên Nghèo. Về nghĩa của từ này, xem Nghèo tại
Wiktionary.

Sưu tập hình ảnh vùng Oak Ridge, Honduras


Một bé trai khoe búp bê mới tìm được tại nơi đổ rác Đông Cipinang ở Jakarta, Indonesia 2004.
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối
thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy


theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo
đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu
người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.

Mục lục
[ẩn]






1 Các định nghĩa
o 1.1 Nghèo tuyệt đối
o 1.2 Nghèo tương đối
o 1.3 Ranh giới nghèo tương đối
o 1.4 Định nghĩa theo tình trạng sống
2 Nguyên nhân
3 Mức độ
o 3.1 Nghèo trên toàn thế giới
o 3.2 Nạn nghèo tại Áo
o 3.3 Nạn nghèo tại Đức
o 3.4 Nạn nghèo ở Mỹ
o 3.5 Nạn nghèo ở Việt Nam và chương trình Xóa đói giảm nghèo
 3.5.1 Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam

 3.5.2 Chính sách xóa đói giảm nghèo
 3.5.3 Hỗ trợ quốc tế cho chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
 3.5.4 Đánh giá về chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
 3.5.5 Thành quả xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
4 Nghèo và môi trường
5 Ghi chú
6 Tham khảo
7 Đọc thêm



8 Liên kết ngoài






[sửa] Các định nghĩa
[sửa] Nghèo tuyệt đối
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi
là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái
niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của
tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu
thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn
của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so
với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối.
Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng
vùng được xác định, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước



Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hiệp
Quốc 1997).
Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993
đến cuối năm 2005.
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001,
trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 20012005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và
hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000
đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những
hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm)
trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về
việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ
có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống
là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng
(dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tiêu chuẩn nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu người dưới
330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000 đồng/năm (tương ứng 284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360
USD/năm của quốc tế).

[sửa] Nghèo tương đối
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội
của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực
vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự
sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của
những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc
cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp

vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn.
Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một
phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.

[sửa] Ranh giới nghèo tương đối
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội.
Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay
60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh châu
Âu những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương
đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về


chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì
cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những
người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm
trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại
nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi
những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo
trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và
giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh
giới nghèo tương đối.
Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo tuyệt đối đã đứng
vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ
hàng cần phải có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội.
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không
có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung
bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các
giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị.

[sửa] Định nghĩa theo tình trạng sống

Cái gọi là định nghĩa tình trạng sống lưu ý đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập khi định
nghĩa "nghèo con người", thí dụ như cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về
luật lệ, khả năng ảnh hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Chương
trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã đưa ra chỉ số phát triển con người (tiếng Anh: human
development index–HDI). Các chỉ thị cho HDI bao gồm tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ
mù chữ, trình độ học vấn, sức mua thực trên đầu người và nhiều chỉ thị khác. Trong "Báo cáo
phát triển thế giới 2000" Ngân hàng Thế giới đã đưa ra bên cạnh các yếu tố quyết định khách
quan cho sự nghèo là những yếu tố chủ quan như phẩm chất và tự trọng.

[sửa] Nguyên nhân


Mẹ và những người con trong thời khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Mỹ năm 1936. Ảnh của D. Lange

Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê ra là chiến tranh, cơ cấu chính trị (thí dụ
như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công bằng), cơ cấu kinh tế (phân bố
thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những
nguồn lực có thể trả tiền được), thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên
tai, dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và không có bình đẳng nam nữ.
Yếu tố nguy hiểm chính cho sự nghèo tương đối là thất nghiệp và thiếu việc làm. Ngoài ra những
yếu tố nguy hiểm khác là phân bố thu nhập quá mất cân bằng, thiếu giáo dục và bệnh tật mãn
tính.
Cho đến thế kỷ 19 sự nghèo nàn phần lớn không được xem như là có nguyên nhân từ xã hội mà
là do lỗi lầm cá nhân hay "trời muốn". Cùng với công nghiệp hóa và các tranh cãi chung quanh
"câu hỏi xã hội" tại châu Âu, quan điểm cho rằng hiện tượng nghèo nàn phổ biến là kết quả của
sự thất bại của thị trường và có thể được làm giảm thiểu bằng các biện pháp quốc gia. Thí dụ như
ở Liên hiệp Anh, việc chống nghèo chính là khởi điểm của một chính sách xã hội hiện đại. Thế
nhưng trong thời gian gần đây hiệu quả của việc chống nghèo bằng chính sách xã hội tại nhiều
nước công nghiệp đã bị đặt câu hỏi vì nhiều hình thức nghèo mới xuất hiện.


[sửa] Mức độ

Khu nhà người nghèo tại Soweto, Cộng hòa Nam Phi

[sửa] Nghèo trên toàn thế giới
Theo số liệu của Ngân hàng Thế Giới thì trong năm 2001 trên toàn thế giới có 1,1 tỉ người (tương
ứng với 21% dân số thế giới) có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được
xem là rất nghèo. (Năm 1981 là 1,5 tỉ người, vào thời gian đó là 40% dân số thế giới, năm 1987
là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm 1993 là 1,314 tỉ người tương đương với 29%).
Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người nghèo trong dân
cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hiệp Quốc trong cuộc họp thượng
đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho đến năm 2015 giảm một nửa số những


người có ít hơn 1 đô la Mỹ. (Điểm 1 của những mục đích phát triển thiên niên kỷ). Theo thông tin
của Ngân hàng Thế Giới vào tháng 4 năm 2004 thì có thể đạt được mục đích này nhưng không
phải ở tất cả các nước. Trong khi nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ
người nghèo giảm xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người
nghèo nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc Sahara). Tại
Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số. Nếu như đặt
ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, gần một nửa dân
số thế giới.

Một gia đình thuyền nhân năm 1979
Nếu xếp theo thu nhập bình quân đầu người thì các nước sau có tỉ lệ người nghèo cao nhất:
Malawi, Tanzania, Guiné-Bissau, Burundi và Yemen
Bên cạnh nguyên nhân chính trị, nghèo đói cũng là một nguyên nhân lớn của hiện tượng dân di
cư từ vùng núi về đồng bằng, từ nông thôn về thành thị, từ các nước thứ ba về các nước phát triển
gây nên hiện tượng thuyền nhân.


[sửa] Nạn nghèo tại Áo
Theo số liệu của Bộ Xã hội ("Báo cáo về tình trạng xã hội 2003–2004") thì trong năm 2003 có
hơn 1 triệu người ở Áo (13,2% dân cư) có nguy cơ nghèo. Trong năm 2002 là 900.000 hay 12%,
năm 1999 là 11%. Ranh giới nguy cơ nghèo là 60% của thu nhập trung bình. Theo đó thì cứ mỗi
8 người thì có 1 người là có thu nhập ít hơn 785 Euro/tháng. Phụ nữ có tỷ lệ nguy cơ nghèo cao
hơn (14%).
Bên cạnh nghèo về thu nhập như là chỉ số cho tình trạng tài chính của một gia đình, ở Áo còn có
„nghèo nguy kịch“ khi ngoài việc thiệt thòi về tài chính còn có thiếu thốn hay hạn chế nhất định
trong những lãnh vực sống cơ bản. Trong năm 2003 có 467.000 người (5,9% dân số) nghèo nguy
kịch. Trong năm trước còn là 300.000 người hay 4%. Theo một bản báo cáo của hội nghị về nạn
nghèo, lần đầu tiên có số liệu về cái gọi là "working poor": tại Áo có 57.000 người nghèo mặc


dầu là có việc làm. Ngoài ra mức độ nguy cơ nghèo phụ thuộc vào công việc làm: Những người
làm việc cho đến 20 tiếng hằng tuần có nguy cơ nghèo gấp 3 lần, những người làm việc từ 21 đến
30 tiếng có nguy cơ nghèo gấp đôi những người làm việc từ 31 đến 40 tiếng.

[sửa] Nạn nghèo tại Đức
Thu nhập tương đương sau thuế hằng tháng do Cục Thống kê Liên bang tính toán vào năm 2002
là 1.217 Euro trong các tiểu bang cũ và 1.008 Euro trong các nước tiểu bang mới. Theo các tiêu
chí của Liên minh châu Âu cho ranh giới nghèo (60%) thì như vậy ranh giới nghèo nằm vào
khoảng 730,20 Euro cho phía Tây và 604,80 Euro cho phía Đông của nước Đức. Theo lệ thường
thì mức sống xã hội văn hóa tối thiểu được định nghĩa bằng trợ cấp xã hội còn ở dưới ranh giới
này.
Theo số liệu từ "Báo cáo giàu và nghèo lần thứ hai" do chính phủ liên bang đưa ra trong tháng 3
năm 2005 thì trong năm 2003 có 13,5% dân số là nghèo. Năm 2002 cũng theo các số liệu này thì
con số đó còn là 12,7%, năm 1998 là 12,1%. Hơn 1/3 những người nghèo là những người nuôi
con một mình và con của họ. Vợ chồng có nhiều hơn 3 con chiếm 19%.
Trẻ em và thanh niên ở Đức có nguy cơ nghèo cao. 15% trẻ em dưới 15 tuổi và 19,1% thanh niên
từ 16 đến 24 tuổi thuộc vào diện này. Số trẻ em sống nhờ vào trợ cấp xã hội ở Đức tăng thêm

64.000, lên đến 1,08 triệu trong năm 2003 và đạt đến 1,45 triệu trong thời gian 2004/2005. Theo
UNICEF, trẻ em nghèo ở Đức tăng nhanh hơn so với phần lớn các nước công nghiệp. Thêm vào
đó nghèo có ảnh hưởng lớn đến cơ hội giáo dục theo nghiên cứu của Hiệp hội Từ thiện Công
nhân (Arbeiterwohlfahrt).
Ngược lại thì nạn nghèo ở người già tại Đức giảm đi từ 13,3% năm 1998 xuống 11,4% trong năm
2003. Thế nhưng nạn nghèo ở đây được dự đoán là sẽ tăng vì những người thất nghiệp, làm việc
nửa ngày và những người thu nhập ít hiện đang có nhiều sẽ có tiền hưu ít và thêm vào đó là mức
tiền hưu của tất cả những người về hưu trong tương lai (tức là tất cả những người làm việc hiện
nay) sẽ bị giảm đi theo các cải tổ. Theo một nghiên cứu của Deutsches Institut für Altersvorsorge
thì 1/3 công dân liên bang có nguy cơ bị nghèo đi trong tuổi già. Nguyên nhân bên cạnh việc tăng
tuổi thọ là các cải tổ về chế độ hưu của năm 2001 và 2004 giảm mức độ tiền hưu theo luật pháp
xuống khoảng 18% và việc nhiều công dân liên bang không sẵn sàng tự lo trước cho tuổi già vì
không muốn hay không có khả năng (khoảng 60%).

[sửa] Nạn nghèo ở Mỹ
Theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những
người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tiếp tăng đến lần thứ tư. Có 12,7% dân số hay 37
triệu người nghèo và đã tăng 0,2% so với năm trước đó. Một gia đình 4 người được coi là nghèo
khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đô la Mỹ trong một năm. Đối với những người độc thân thì
ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la.

[sửa] Nạn nghèo ở Việt Nam và chương trình Xóa đói giảm nghèo


Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào năm 2004 chỉ số phát
triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số phát triển giới (tiếng Anh:
Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên 144 nước và chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh:
Human Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95 nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát
triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%,
theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là

10.87%.
[sửa] Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói ở Việt Nam nhưng nói chung nghèo đói ở
Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:




Nguyên nhân lịch sử, khách quan:
o Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu
dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn,
nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến
tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo
trong một thời gian dài.
o Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách
tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền
đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt
toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị,
lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
o Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và tập
thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động
lực sản xuất.
o Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời
sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu
quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng
hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao.
o Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động,
không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý bằng
hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào
thành phố.

o Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn
đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước.
Nguyên nhân chủ quan: sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số
thành tựu nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4,6 triệu hộ) do
các nguyên nhân khác như sau:
o Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với
chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ lệ
nghèo tăng lên.
o Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông
thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp.


o

o

o

o
o
o

Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu
nhập bình quân trên đầu người còn thấp.
Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các thiết
chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai
nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và
đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu
mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước được,
rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng.

Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là do
nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi
nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn
ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi
trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn
chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông
dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước,
Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của tuổi
thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được thương yêu,
chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả
năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em có
nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc
cao.
Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nông
nghiệp.
Hiệu năng quản lý chính phủ thấp.

[sửa] Chính sách xóa đói giảm nghèo
Vào đầu thập niên 1990, chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo
cùng với lời kêu gọi của Ngân hàng thế giới.
[sửa] Hỗ trợ quốc tế cho chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
[sửa] Đánh giá về chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn
tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt
được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng
nghèo cùng cực.[1]
[sửa] Thành quả xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của Việt Nam trong suốt thập kỷ 1990 đã có tác động quan

trọng đến việc xoá đói giảm nghèo và phát triển xã hội[2].


Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ hơn 60% vào năm 1990,
xuống 58% vào năm 1993, 37% vào năm 1998, 32% vào năm 2000, 29% vào năm 2002 và còn
18,1% vào năm 2004.
Hiện tại (2006) có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo lương thực) theo chuẩn
nghèo quốc tế.
Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động thương binh và xã hội ban hành, tỷ lệ hộ
nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% vào năm 1992, 15,7% năm 1998 xuống xấp xỉ 17%
vào năm 2001(2,8 triệu hộ) và 10% năm 2000.
Theo chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, đầu năm 2000 có khoảng 2,8
triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước, chủ yếu tập trung vào các vùng nông
thôn. Các vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỷ lệ
nghèo cao hơn con số trung bình này nhiều. Có tới 64% số người nghèo tập trung ở vùng núi phía
Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Duyên hải miền trung.
Cũng theo chuẩn nghèo quốc gia năm 2002 còn 12,9% hộ nghèo và tỷ lệ nghèo lương thực ước
lượng 10.87%
Từ năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30% xuống còn 8,3%. Tính đến
tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và thành phố cơ bản không còn hộ nghèo theo tiêu
chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%; 24 tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5-10%... Đáng kể trong
chương trình Xóa đói giảm nghèo là những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc biệt khó
khăn) đã có những thay đổi biến chuyển rõ nét. Nếu năm 1992, có tới 60-70% số xã nghèo trong
diện 135, thì đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 20-25%.
Số hộ nghèo của năm 2004 là 1,44 triệu hộ, tỷ lệ nghèo là 8,3%, đến cuối năm 2005 còn khoảng
dưới 7% với 1,1 triệu hộ. Như vậy tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 đã giảm khoảng 50% so với năm
2000.
Mặc dù vậy, nhiều hộ gia đình vừa thoát nghèo vẫn rất dễ rớt trở lại vào cảnh nghèo đói.



Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng chậm lại, các hệ số
tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 - 1998, giảm xuống
còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998 - 2004. Bình quân trước đó mỗi năm giảm 34 vạn hộ
nghèo.



Bất bình đẳng trong thu nhập:
o Giữa các vùng: tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2
lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21% năm
1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó
khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng
thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra,
xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và nhóm lao


o



động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp nhận
mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia
tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa
các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo
nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Chênh lệch giũa các nhóm: thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu
hướng gia tăng (tỷ số Ghini giảm), trong những năm gần đây, chênh lệch về thu
nhập giữa 20% nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần
năm 2002; chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5

lần năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004; Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập
bình quân của nhóm hộ nghèo ở nông thôn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo mới. Sự
gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương đối trở nên
gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng khó khăn hơn. [3]

Sai lệch kết quả thống kê Căn cứ vào kết quả chính thức điều tra mức sống hộ gia đình
năm 2002 và kết quả sơ bộ khảo sát mức sống của hộ gia đình năm 2004, theo chuẩn
nghèo quốc gia (2001), Tổng cục Thống kê đã tính toán và ra thông cáo báo chí về tỷ lệ
hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia mới cho năm 2002 và sơ bộ cho năm 2004. Theo đó,
tỷ lệ nghèo năm 2002 của Việt Nam là 23%, năm 2004 là 18,1%, năm 2005 là 8,3% .
Nhưng với chuẩn mới từ Quyết định số 170/2005/QĐ –TTg ngày 08 tháng 7 năm 2005
ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010, tỉ lệ hộ nghèo của năm 2005 sẽ
tăng từ 8,3% như hiện nay (chuẩn 2001) lên đến trên 26% là khoảng 4,6 triệu hộ.[4]

Lưu ý có một số vấn đề đặt ra từ tỷ lệ nghèo năm 2004 là 18,1%: Thứ nhất, tỷ lệ này thấp hơn
nhiều so với tỷ lệ 24-25% như nguồn thông tin đã được dùng để xác định mục tiêu giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống còn 15-16% vào năm 2010. Có sự khác biệt lớn như trên chủ yếu do phương pháp
tính còn có sự khác nhau về hai mặt.
Một mặt, nguồn thông tin trên đã tính theo mức chi tiêu, chứ không phải là mức thu
nhập/người/tháng. Mặt khác, nguồn thông tin trên đã không tính đến tỷ lệ trượt giá của giá tiêu
dùng. Chuẩn nghèo mới là chuẩn nghèo tính cho thời kỳ 2006-2010. “200 nghìn, 260 nghìn
đồng/người/tháng” là tính theo giá năm 2006 chứ không phải là tính theo giá 2004.
Thứ hai, theo thông cáo báo chí của Tổng cục Thống kê, bên cạnh tỷ lệ nghèo còn thấp (8,6%)
của khu vực thành thị, thì khu vực nông thôn tỷ lệ nghèo vẫn còn 21,2% tức là cứ 5 hộ vẫn còn
trên 1 hộ nghèo.
Bên cạnh tỷ lệ nghèo còn 6,1% của vùng Đông Nam Bộ và tỷ lệ nghèo còn 12,9% của vùng đồng
bằng sông Hồng, thì vùng Tây Bắc vẫn còn tới 46,1%, tức là còn gần một nửa; vùng Bắc Trung
Bộ và vùng Tây Nguyên tuy giảm nhanh nhưng vẫn còn gần một phần ba; vùng Đông Bắc vẫn
còn 23,2%; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ vẫn còn 21,3%; ngay cả vùng ĐBSCL một vựa lúa
của cả nước cũng vẫn còn 15,3%.

Phần đông người nghèo ở Việt Nam sống trong hoàn cảnh bị tách biệt về mặt địa lý, dân tộc,
ngôn ngữ, xã hội và kinh tế. Kinh nghiệm của các nước khác cho thấy rằng lợi ích thực sự của
tăng trưởng kinh tế ít đến được với các nhóm người chịu thiệt thòi này.
Nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận dịch vụ,
như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu những điều kiện tốt hơn cho


cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu quả, trong đó có các thị trường đất đai,
vốn và lao động cũng như các thể chế nhà nước được cải thiện có trách nhiệm giải trình và vận
hành trong khuôn khổ pháp lý minh bạch cũng như một môi trường kinh doanh thuận lợi. Mức
nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm chất quý giá, đó là lòng tin và lòng tự trọng.
Báo cáo quốc gia đầu tiên của Việt Nam về tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ, được công bố tháng 9 năm 2005 và phân phát tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 2005,
cho thấy tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng xã hội giữa các vùng, giới tính và nhóm dân cư
đang ngày càng gia tăng. Trong khi các vùng đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách
cải cách và tăng trưởng kinh tế, thì tình trạng nghèo vẫn tồn tại dai dẳng ở nhiều vùng nông thôn
của Việt Nam và ở mức độ rất cao ở các vùng dân tộc thiểu số - theo Tổng cục Thống kê là
69,3% vào năm 2002.
Trong thập kỷ tới đây nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo ra
nhiều cơ hội cho sự tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự nghiệp giảm
nghèo.

[sửa] Nghèo và môi trường
Trong nhiều khu vực trên thế giới nạn nghèo là một trong những nguyên nhân chính đe dọa và
phá hủy môi trường. Các vấn đề có nguyên do từ nạn nghèo làm cản trở các tiến bộ trong bảo vệ
môi trường. Phương tiện tài chính cần thiết để bảo vệ môi trường không thể có được tại các vùng
có nạn nghèo cao. Klaus Töpfer, lãnh đạo cơ quan môi trường của Liên Hiệp Quốc UNEP đã gọi
nghèo "là chất độc lớn nhất của môi trường", chống nghèo là điều kiện tiên quyết để có thành tựu
trong việc bảo vệ môi trường.



×