TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
Tình huống vi phạm pháp luật
1, Bà A có một vườn sầu riêng rộng 3000m2 nhưng
không làm hàng rào. Tối 20/12/2006 C và D rủ nhau
vào vườn bà A tâm sự, C bị sầu riêng rơi trúng đầu gây
thương tật với tỷ lệ 30%.
2, H, 45 tuổi, bị bệnh tâm thần, rất thích ăn khoai nướng.
Trưa 12/11/2005, H đã đốt nhà hàng xóm để nướng
khoai.
3, Anh Huỳnh (42 tuổi, ở xã Phước Nghĩa, H.Tuy
Phước, Bình Định) có vợ là chị Bốn (37 tuổi). Do nghi
ngờ vợ mình ngoại tình nên giữa hai vợ chồng thường
xuyên xảy ra mâu thuẫn. Tối 31/5/2006, Huỳnh nằm
đợi sẵn trong nhà, khi chị Bổn vừa mở cửa vào thì
Huỳnh chồm dậy dùng dao lê đâm vào ngực của vợ.
Nạn nhân kêu cứu và được hàng xóm kịp thời đến can
ngăn, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Theo bệnh án, chị
Bổn bị tràn dịch màng phổi phải, tỷ lệ thương tật 21%.
I. VI PHẠM PHÁP LUẬT
1- Khái niệm vi phạm pháp luật
Trái pháp luật
Xâm hại hoặc
đe dọa xâm hại
các QHXH
được PL bảo vệ
Có lỗi
Hành
vi
Do chủ thể có
năng lực
TNPL thực hiện
2. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Thứ nhất, hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Các Mác đã viết: “Ngoài hành vi của mình ra tôi hoàn toàn
không tồn tại đối với pháp luật, hoàn toàn không phải là
đối tượng của nó”.
Cho nên vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi của
con người hoặc là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội... gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy
hiểm cho xã hội. Nói cách khác, không có hành vi của con
người thì không có vi phạm pháp pháp luật. Hành vi đó có
thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động của
các chủ thể pháp luật. Vì thế, suy nghĩ, tình cảm, những
đặc tính cá nhân khác của con người và cả những sự biến
cho dù có nguy hiểm cho xã hội cũng không bị coi là vi
phạm phạm pháp luật.
2. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Thứ hai, hành vi có tính trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.
Hành vi trái pháp luật là những hành vi được các chủ thể
thực hiện không đúng với quy định của pháp luật và hành
vi này xâm hại đến các quan hệ XH được pháp luật xác lập
và bảo vệ, Vì vậy, một hành vi dù có trái với các quy tắc
đạo đức, phong tục, tập quán hay bất hợp lý đi chăng
nữa nhưng nếu nó không phải là quan hệ được pháp luật
bảo vệ thì cũng không coi là trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều
xâm hại tới những quan hệ XH mà mỗi nhà nước xác lập
và bảo vệ
Tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành
vi bị coi là vi phạm pháp luật
2. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Thứ ba, hành vi đó có lỗi của chủ thể.
Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với
hành vi trái pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp
luật được thực hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách
quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và cũng không vô ý thực
hiện hoặc không thể ý thức (nhận thức) được, từ đó không
thể lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì
chủ thể hành vi đó không thể bị coi là có lỗi và hành vi đó
không bị coi là vi phạm pháp luật.
Tất cả mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái
pháp luật, nhưng ngược lại, không phải tất cả mọi hành vi trái
pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật. Chỉ những hành vi
trái pháp luật nào có lỗi (được chủ thể thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật.
2. Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
Thứ tư, chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách
nhiệm pháp lý của chủ thể do pháp luật qui định, trong pháp
luật xã hội chủ nghĩa chỉ quy định cho những người đã đạt
được một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật, có
khả năng lý trí và có tự do ý chí.
Nghĩa là, người đó phải có khả năng nhận thức, điều khiển
được hành vi của mình, có điều kiện lựa chọn và quyết định
cách xử sự cho mình và chịu trách nhiệm độc lập về hành vi
của mình.
Căn cứ vào loại quan hệ xã hội cũng như tầm quan trọng, tính
chất của loại quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật,
pháp luật quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý khác
nhau.
3.Cấu thành vi phạm pháp luật
Mặt khách quan
Mặt chủ quan
Vi phạm pháp luật
Chủ thể
Khách thể
3.1 Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Khái niệm: là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm
pháp luật mà con người có thể nhận thức được bằng trực
quan sinh động. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
gồm các yếu tố sau:
Hành vi trái pháp luật: thể hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động, trái pháp luật gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho xã hội, bao gồm các dạng:
● Làm điều pháp luật cấm: cướp, giết người, gây thương
tích...
● Làm không đúng điều pháp luật cho phép: vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
● Không thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định: không
cứu giúp người đang ở tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng; không tố giác tội phạm; không đóng thuế...
3.1 Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Hậu quả (sự thiệt hại của xã hội): là những tổn thất thực
tế về mặt vật chất, tinh thần… mà xã hội phải gánh chịu
hoặc nguy cơ tất yếu xảy ra thiệt hại ấy nếu hành vi trái
pháp luật không được ngăn chặn kịp thời; ví dụ: hậu quả
chết người, hậu quả mất uy tín với khách hàng…;chỗ.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu
quả: hành vi trái pháp luật là nguyên nhân, còn sự thiệt hại
của xã hội là kết quả.
Ngoài những yếu tố nói trên, còn có các yếu tố khác thuộc
mặt khách quan của vi phạm pháp luật như: công cụ, thời
gian, địa điểm thực hiện hành vi vi phạm
3.2 Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
*Khái niệm: Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là
trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể vi phạm pháp
luật. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm các yếu
tố sau:
Lỗi
Động cơ
Mục đích
3.2.1 Yếu tố lỗi
Lỗi: là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ
tiêu cực của chủ thể đối với hành vi trái
pháp luật của mình và hậu quả do hành vi
đó gây ra. Lỗi có các hình thức sau:
+ Các loại lỗi
Trên cơ sở xem xét lý trí và ý chí của chủ thể, lỗi
của chủ thể được xác định bao gồm:
1, Lỗi cố ý
Cố ý trực tiếp
Cố ý gián tiếp
2, Lỗi vô ý
Vô ý do quá tự tin
Vô ý do cẩu thả
Bảng phân tích và so sánh các loại lỗi
Tên
Lỗi
Tiêu
chí
Lý trí
Có ý trực
tiếp
Cố ý gián
tiếp
Nhận thức
rõ hành vi
của mình
là nguy
hiểm cho
xã hội và
thấy trước
hậu quả
của hành vi
Nhận thức
rõ hành vi
của mình là
nguy hiểm
cho xã hội
và thấy
trước hậu
quả của
hành vi có
thể xẩy ra
Vô ý do quá
tự tinh
Vô ý do cẩu
thả
Thấy trước Không biết
hành vi của tính nguy
mình có thể hiểm của
gây ra hậu
hành vi
qủa nguy
mặc dù có
hại cho xã
thể hoặc
hội
cần phải
biết
Bảng phân tích và so sánh các loại lỗi
Tên
Lỗi
Tiêu
chí
Ý chí
Có ý trực
tiếp
Cố ý gián
tiếp
Vô ý do quá Vô ý do cẩu
tự tinh
thả
Mong
Không
Cho rằng
(Không xác
muốn hậu mong, nhưng
hậu quả
định)
quả xẩy ra có ý thức bỏ không xảy ra
mặc cho hậu hoặc nếu có
quả xẩy ra
thì sẽ khắc
phục được
3.2.2 Động cơ và mục đích
Động cơ: là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật, như do ghen tuông, đê
hèn, vụ lợi… Ví dụ: cán bộ nhà nước nhận hối lộ
để vụ lợi, gây thương tích cho người khác để trả
thù…
Mục đích: là kết quả cuối cùng mà chủ thể mong
muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Ví dụ: một người thực hiện hành vi cướp giật
với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác.
Tuy nhiên, kết quả thực tế không phải lúc nào cũng
trùng khớp với mong muốn của chủ thể thực hiện
vi phạm pháp luật.
3.3 Mặt Khách thể của VPPL
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bị hành vi vi
phạm pháp luật xâm hại tới như chủ quyền quốc
gia, trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, chế độ
hôn nhân và gia đình… Tính chất của khách thể bị
xâm hại phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi
vi phạm pháp luật. Ví dụ: khách thể của tội trốn
thuế là trật tự quản lý kinh tế của nhà nước.
3.4 Chủ thể của vi phạm pháp luật
* Khái niệm:
Cá nhân
Chủ thể
Tổ chức
Có năng lực
trách nhiệm
pháp lý
Thực hiện
hành vi
VPPL
* Năng lực TNPL của chủ thể
Tổ
chức
Tổ chức phải chịu TNPL đối với các
VPPL, ngoại trừ VP hình sự
Cá nhân
Độ tuổi
Nhận thức
Đạt đến một độ tuổi nhất định (được
xác định trong từng ngành luật cụ
thể)
Khả năng nhận thức bình thường
(không mắc bệnh tâm thần hoặc các
bệnh làm hạn chế khả năng nhận
thức)
4. Phân loại của VPPL
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội, vi phạm pháp luật được chia thành bốn loại:
a) Vi phạm hình sự (tội phạm): là hành vi nguy
hiểm nhất cho xã hội, được quy định trong Bộ luật
Hình sự và do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện; ví dụ: phản bội Tổ quốc, giết người,
hiếp dâm…;
b) Vi phạm hành chính: là hành vi có mức độ
nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội phạm và
được pháp luật hành chính quy định; ví dụ: xây
dựng trái phép, mại dâm, sử dụng ma túy trái phép,
vi phạm quy định về đăng ký hộ khẩu…;
4. Phân loại của VPPL
c) Vi phạm dân sự: là hành vi xâm hại tới quan hệ
tài sản, quan hệ nhân thân phi tài sản và chủ yếu
được quy định trong pháp luật dân sự; ví dụ: vi
phạm hợp đồng dân sự, xâm phạm quyền tác giả,
cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con chưa thành niên…;
d) Vi phạm kỷ luật: là những hành vi xâm phạm kỷ
luật của cơ quan, đơn vị, trường học; ví dụ: công
chức nghỉ việc không có lý do, nhân viên đi làm
trễ…
Tình huống vi phạm pháp luật
3, H, 45 tuổi, bị bệnh tâm thần, rất thích ăn khoai
nướng. Trưa 12/11/2005, H đã đốt nhà hàng xóm
để nướng khoai.
4, Tối 27/4/2006, K (26 tuổi, quê ở Đồng Nai) điều
khiển xe ben đi từ đường Nguyễn Thị Định (Q.2)
hướng ra xa lộ Hà Nội, khi qua khỏi cầu Giồng
Ông Tố, K cho xe lấn trái, vượt lên trên xe ô tô
đang chạy phía trước không may đụng trực diện
vào xe gắn máy do anh T điều khiển đi chiều
ngược lại. Tai nạn anh T chết ngay tại chỗ.
II. Trách nhiệm pháp lý
1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý
3. Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm
pháp lý
4. Phân loại trách nhiệm pháp lý
II. Trách nhiệm pháp lý
1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là một loại quan hệ pháp
luật đặc biệt giữa nhà nước và chủ thể vi phạm
pháp luật, trong đó, chủ thể vi phạm phải gánh
chịu các hậu quả bất lợi, các biện pháp cưỡng
chế được quy định trong chế tài của quy phạm
pháp luật.
2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý
a) Trách nhiệm pháp lý là sự lên án của nhà nước và xã hội đối
với chủ thể vi phạm pháp luật, là sự phản ứng của nhà nước
đối với hành vi vi phạm pháp luật.
Tòa án, các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền không
sáng tạo ra trách nhiệm pháp lý, mà chỉ áp dụng các biện pháp
trách nhiệm pháp lý quy định trong phần chế tài của quy phạm
pháp luật đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Khi có vi phạm pháp luật xảy ra thì các cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền áp dụng các biện pháp có tính cưỡng chế khác
nhau, nhưng không phải bất cứ biện pháp tác động nào cũng là
biện pháp trách nhiệm pháp lý. Biện pháp trách nhiệm pháp lý chỉ
là những biện pháp có tính chất trừng phạt, tức là tước đoạt, làm
thiệt hại ở một phạm vi nào đó các quyền, tự do, lợi ích hợp pháp
mà chủ thể vi phạm pháp luật đáng ra được hưởng (như phạt tiền,
phạt tù).