Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thực chất của nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.43 KB, 8 trang )

Thực chất của nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1. Trong các âm mưu mà các thế lực thù địch tung ra gần đây, có âm mưu muốn
phá hoại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong nhận thức của họ, đảng
dân chủ -xã hội mới thật sự "dân chủ", còn đảng cộng sản không thể có dân chủ.
Họ lờ đi sự khác nhau giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin nhận định rằng, chủ nghĩa xã hội dân chủ, thực chất là hệ tư tưởng của
chủ nghĩa cải lương hiện đại. Những tư tưởng cải lương chủ nghĩa ấy đã được
phản ánh trong các văn kiện cương lĩnh của các đảng dân chủ - xã hội. Mục đích
của chủ nghĩa xã hội dân chủ nhằm làm cho nền tảng cơ bản của xã hội tư sản tồn
tại và phát triển. Nó không đồng hành với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản năm 1848-1849 ở châu âu, thấy rằng,
năm 1848, ở Đức xuất hiện nhóm "Thợ thuyền anh em", tự xưng là những người
chủ nghĩa xã hội dân chủ. Họ nêu ra một số cải cách xã hội, nhưng vẫn chưa vượt
ra khỏi yêu cầu cải lương của giai cấp tư sản và tiểu tư sản lúc bấy giờ. Năm 1849,
xuất hiện Đảng Dân chủ xã hội Pháp. Chủ trương, đường lối của Đảng này là xây
dựng nhà nước cộng hoà của giai cấp tư sản, thực hiện một số cải lương trong
khuôn khổ chủ nghĩa tư bản. Vào thời điểm này, những lý luận đầy sức thuyết
phục của C.Mác và Ph.Ăngghen nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã làm
cho những người theo chủ nghĩa xã hội dân chủ phải suy nghĩ. Trong giai đoạn
đầu, C.Mác và Ph.Ăngghen chủ trương tiến hành triệt để cuộc cách mạng dân chủ
tư sản, tiến tới quá độ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, khái niệm “chủ
nghĩa xã hội dân chủ” vừa xuất hiện đã có sự nhận thức khác nhau và sự phân biệt
về nguyên tắc giữa cách mạng và cải lương. Sự khác nhau cơ bản của hai xu
hướng này là ở chỗ: có phải chỉ cần hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản, xây
dựng nhà nước cộng hoà tư sản mà không cần phải tiếp tục tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa không? Có phải chỉ cần dựa vào nhà nước tư sản thông qua biện
pháp "dân chủ” là có thể thoát khỏi sự nô dịch và bóc lột của tư bản, giành quyền


bình đẳng không? Câu trả lời là: Không ! Bởi vì, trong thực tế cuộc cách mạng tư
sản ở châu Âu (1848-1849) đã chứng minh rằng, một khi giai cấp tư sản nắm được


chính quyền, củng cố được sự thống trị của mình, lập tức dùng vũ lực phủ quyết
các đòi hỏi của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen thấy lập trường chính
trị và khuynh hướng của những người tham gia đảng dân chủ - xã hội rất khác
nhau. Nhiều người nhận thức về chủ nghĩa xã hội dân chủ hoàn toàn khác với chủ
nghĩa cộng sản.
Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác được truyền bá ngày càng
rộng rãi trên trường chính trị quốc tế và trong phong trào công nhân các nước, dần
dần trở thành hình thái ý thức tư tưởng, chiếm vị trí chủ đạo và lôi cuốn được
nhiều người có xu hướng xã hội dân chủ ngả theo chủ nghĩa cộng sản. Đó là nhận
thức tiến bộ của họ. Đến khi thành lập Quốc tế II vào năm 1889, hầu như các đảng
dân chủ - xã hội, các tổ chức công nhân đều gia nhập Quốc tế II và đều thừa nhận
chủ nghĩa Mác. Đến những năm 90 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác hoàn toàn
chiến thắng các hệ tư tưởng khác trong phong trào công nhân. Nhiều Đảng dân
chủ - xã hội lấy lý luận Mác-Ăngghen làm cơ sở để thảo cương lĩnh chính trị của
đảng mình. Từ năm 1889 đến năm 1895, nhiều đảng dân chủ - xã hội ở châu Âu
trở thành lực lượng chính trị quan trọng. Sau khi Ph.Ăngghen mất (1895), Cơ quan
lãnh đạo trong Quốc tế II rơi vào tay những người cải lương, cơ hội chủ nghĩa, đòi
xét lại chủ nghĩa Mác.
Với V.I.Lênin, lúc đầu xem chủ nghĩa xã hội dân chủ có cái gì gần gũi với chủ
nghĩa Mác. Vì vậy, vào năm 1898 V.I.Lênin đặt tên cho chính đảng của giai cấp
công nhân đầu tiên ở Nga là "Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga. Về sau,
V.I.Lênin đã nhận rõ tính chất xa rời chủ nghĩa Mác về tư tưởng của các đảng dân
chủ - xã hội, nên ông đã vạch trần những diễn biến phức tạp của nó và đổi tên
Đảng thành Đảng Cộng sản (bônsêvích) Nga vào năm 1918. V.I.Lênin cũng đã
nhiều phen vật lộn đấu tranh với những quan điểm sai trái của chủ nghĩa xét lại
Bécstanh và chủ nghĩa cơ hội Cauxky trong guồng của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Ngày nay, các hoạt động của các trào lưu xã hội dân chủ gắn với những quyền lợi


của chủ nghĩa tư bản. Số phận của họ cũng rất khó tách rời số phận của nhà nước

tư bản. Chủ nghĩa tư bản lại tiếp tục điều chỉnh đường lối cho phù hợp với tình
hình thời cuộc. Nhiều học giả tư sản đã thừa nhận điều này. Ph.Klenne, một học
giả, đảng viên xã hội cánh hữu Áo, nói: "Chủ nghĩa tư bản ngày nay không còn là
một hệ thống thuần nhất nữa, mà ngược lại, là một hình thức phát triển rất khác
biệt của kinh tế và xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay không phải là một khối đơn
nhất, trong đó, hiện có nhiều lực lượng tương ứng với những lợi ích khác nhau,
tiêu biểu cho những xu hướng xã hội trái ngược nhau”.
Chủ nghĩa xã hội dân chủ từ khi xuất hiện, cạnh những hạn chế về tư tưởng là
những bước tiến khi họ biết tập trung giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và
dân sinh. Nó vừa là lý luận, vừa là một loại phong trào và chế độ. Bản thân nó là
một quần thể tư tưởng phức tạp. Tư tưởng đa nguyên chính trị lại thay đổi luôn.
Nội bộ của các đảng này không phải lúc nào cũng đoàn kết. Hạn chế lớn nhất của
họ là không có một quan điểm thống nhất. Các đảng dân chủ - xã hội chủ trương
thông qua tranh cử trong nghị viện để cầm quyền. Trong khi cầm quyền, họ thực
hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội và thông qua đó, họ xây dựng nhà
nước phúc lợi dân chủ. Một số đảng dân chủ – xã hội có xu hướng xây dựng
"đường lối trung gian" (còn gọi là "đường lối thứ ba"), vừa không là chủ nghĩa tư
bản, vừa không là chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm gần đây, lý luận và đường lối của chủ nghĩa xã hội dân chủ có
sự điều chỉnh liên tục. Sự điều chỉnh này đã lôi kéo được một bộ phận công nhân
và dân cư.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã kiên
trì con đường chủ nghĩa xã hội khoa học, thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là ngọn cờ đã, đang và sẽ được phất lên trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
2. Về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: Hiện nay vẫn có một số người rêu rao Việt



Nam không có dân chủ, rằng, "Việt Nam là nơi chưa có tự do bày tỏ chính kiến".
Gần đây, một ông cựu tổng thống của một nước châu Âu lên tiếng “bày tỏ tình
đoàn kết với giới ly khai Việt Nam" và "nhấn mạnh một điều quan trọng là phải
chống lại chế độ chuyên chế ngay cả khi hy vọng thắng lợi rất ít ỏi". Sự thật, thì
ông ta chưa một lần đến Việt Nam, chưa hiểu gì về Việt Nam. Lạ lùng thay, một
nguỵ thể đã bị chính quyền cách mạng đánh đổ gần 30 năm nay, vậy mà ngày 6-52003, Hội đồng thành phố Milpitas thuộc bang California, Mỹ, thông qua một nghị
quyết thừa nhận cờ vàng 3 sọc là cờ của cộng đồng người Việt Nam và cho phép
được treo trong các dịp lễ ở Toà thị chính (!). Tất cả những cái đó nói lên sự thù
địch và vu cáo Việt Nam, xuyên tạc sự thật lịch sử.
Dân chủ của Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải dân chủ
tư sản. Bản chất của dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa là khác nhau. Dân
chủ tư sản là một trong những hình thức chính trị của nhà nước tư sản. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là một trong những hình thức chính trị của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, bắt nguồn từ chính bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế của
dân chủ tư sản là những điều kiện tiên quyết của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Trong quá trình phát triển do bản chất giai cấp, dần dần tính chất tiến bộ
của nền dân chủ tư sản đã bị biến dạng. Từ chỗ quan hệ bình đẳng của công dân
trước pháp luật đã thay bằng quan hệ áp bức và bất công, các phúc lợi tự do cá
nhân, phần lớn rơi vào lớp người khá giả, giới thượng lưu. Còn những người làm
thuê, nhân dân lao động lại ít được hưởng quyền tự do dân chủ thật sự. Ngay cả
vấn đề thông tin đại chúng, nhà nước tư bản vẫn rêu rao là tự do, kỳ thực, nó được
sử dụng chủ yếu vì lợi ích của những tổ chức độc quyền tư bản lớn. Nhiều nhà tư
bản lớn ở phương Tây đã mua các báo, tạp chí, đài phát thanh, đài truyền hình,
hãng phim và những phương tiện tuyên truyền khác để thao túng, uốn nắn dư luận
xã hội theo ý đồ riêng của mình. Đó là thực chất của chế độ dân chủ tư sản hiện
đại.
Còn trào lưu xã hội dân chủ vẫn rêu rao là đại diện cho phong trào công nhân quốc
tế ngày nay, thực chất là thứ chủ nghĩa xã hội dân chủ cải lương (theo con đường



tiến hoá). Nét thể hiện của kiểu dân chủ này là xu hướng thay thế đấu tranh giai
cấp bằng hợp tác giai cấp, quan niệm về tính chất "siêu giai cấp" của nhà nước và
của dân chủ, quan niệm về chủ nghĩa xã hội như là một phạm trù đạo đức. Lý
thuyết này, những người xã hội dân chủ đã áp dụng vào việc quản lý xã hội tại
nhiều nước ở phương Tây. Có được khả năng điều khiển bộ máy nhà nước, các vị
thủ lĩnh của các đảng xã hội - dân chủ tự cho mình là thầy thuốc bên giường bệnh
của chủ nghĩa tư bản. Nhiều đảng xã hội - dân chủ chuyển sang hệ tư tưởng chiết
trung, "đa nguyên" và tuyên bố chủ nghĩa xã hội dân chủ là cương lĩnh tư tưởng
của họ. Trong thực tế, một số đảng xã hội-dân chủ đã thành đạt trong một số cải
cách xã hội. Song, những cải cách ấy, xét cho cùng, vẫn có lợi cho nhà nước tư
bản nhiều hơn là lợi cho đại đa số nhân dân nước họ. Rút cục, chính sách thích
nghi vẫn lệ thuộc vào chế độ tư bản chủ nghĩa. Những quyền lợi cơ bản về chính
trị và kinh tế vẫn nằm trong tay nhà nước tư bản. Một số đảng xã hội - dân chủ
thực hiện chính sách hai mặt. Một mặt, họ gắn với nhà nước tư bản, mặt khác, họ
lại liên hệ với phong trào công nhân, với công đoàn và các tổ chức quần chúng
khác. Hiện nay, phái xã hội-dân chủ vẫn là một lực lượng chính trị - xã hội quan
trọng ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tuy nhiên, trước sự phản ứng của
một bộ phận trong công nhân và nông dân, nhiều đảng xã hội - dân chủ đã tính đến
sự hoà dịu, ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình. Một số đảng xã hội - dân chủ
tiến bộ ở châu Âu đã phản đối việc Mỹ gây chiến tranh xâm lược các nước nhỏ bé,
vi phạm quyền độc lập dân tộc của họ. Một số người trong phái xã hội- dân chủ
thừa nhận tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và có những quan hệ về
đảng với đảng cộng sản. Một số chính khách trong cánh tả đã mạnh dạn sửa đổi
cương lĩnh của mình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, lên án những tư tưởng cải lương, cơ hội của
phái xã hội dân chủ, mặt khác, để mở rộng đường dân chủ, cũng chủ trương hợp
tác với họ trên cơ sở đáp ứng lợi ích của dân tộc mình. Sự khác biệt về quan điểm
nhận thức dân chủ giữa những người cộng sản và những người xã hội-dân chủ
được giới hạn bởi những nguyên tắc của nó. Trượt theo bánh xe dân chủ của chủ



nghĩa xã hội dân chủ sẽ dẫn đến sự phản bội những tư tưởng dân chủ xã hội chủ
nghĩa mà các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã dày công xây dựng và
vun đắp. So với dân chủ tư sản và dân chủ của chủ nghĩa xã hội dân chủ, thì dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một bước tiến mới trong tư tưởng dân chủ của xã hội loài
người.
Sự hình thành và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá trình khách
quan do nhiều yếu tố xác định. Sự bình đẳng, công bằng xã hội, tự do cá nhân và
quyền lực nhân dân là mục đích có tính chất lịch sử của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Cái cốt lõi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được xác định, đó là quyền
lực của nhân dân. Tất cả các công dân đều có quyền tham gia vào công việc của
nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với tính chủ động sáng tạo của
quần chúng nhân dân hết sức rộng rãi. Hệ thống dân chủ của chủ nghĩa xã hội xây
dựng trên những điều kiện mới của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Hình thức cơ quan lãnh đạo dân cử, quyền công dân, những thể chế và những
yếu tố dân chủ được những lực lượng tiến bộ của xã hội xây dựng và bảo vệ. Các
cơ quan chính quyền được bầu ra thông qua cuộc đầu phiếu phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những hình thức dân chủ
trực tiếp khác nhau cũng được phát triển rộng rãi, biểu hiện trong những hoạt động
của các tổ chức xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo cho công dân những khả
năng rộng rãi để tự do bày tỏ nguyện vọng và trình bày những ý kiến của mình về
những vấn đề thuộc về đời sống xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tuyên bố
bảo đảm những quyền xã hội của công dân, quyền đi lại, lao động, nghỉ ngơi, học
hành, quyền tham gia vào những vấn đề chính trị, xã hội.
Lực lượng chủ đạo của toàn bộ quá trình phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là Đảng Cộng sản. Nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng phản ánh những
lợi ích của nhân dân.
Là một kiểu tổ chức dân chủ cao nhất của xã hội loài người, nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa hình thành và đi qua những chặng đường đáng ghi nhớ. Những hình
thức tổ chức đời sống chính trị mới được hình thành, những thể chế dân chủ được



tạo nên, những truyền thống mới được xác lập.
Trong quá trình phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn phải đấu tranh quyết
liệt với nền dân chủ tư sản. Bằng những phương tiện thông tin đại chúng hiện đại,
nền dân chủ tư sản rêu rao nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không dân chủ. Vì vậy,
vấn đề đặt ra là phải tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận dân chủ xã hội chủ
nghĩa để thấy tính hơn hẳn của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa so với nền dân chủ tư
sản. Về thực tiễn, phải tiếp tục mở rộng hơn nữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể
hiện ở việc làm cho nhân dân ngày càng có điều kiện tham gia vào việc quản lý xã
hội, tạo điều kiện cho bộ máy chính quyền nhà nước hoạt động ngày càng có hiệu
quả, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn. Hệ thống chính trị được tăng cường và
bảo đảm. Dân chủ đã trở thành một đòi hỏi của quá trình phát triển xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện và thực hiện theo Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là "Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và tầng lớp trí thức".
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự
do kinh doanh theo quy định của pháp luật, quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật,
phát minh, sáng chế, sáng tác, học tập... Để bảo đảm quyền làm chủ thật sự của
nhân dân, Hiến pháp ghi rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang được phát huy và đã gặt hái được
những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Vai trò
xã hội của nhân dân không ngừng được nâng cao. Quy chế dân chủ đang được xác
lập ở từng cấp và đang được thực hiện ở cơ sở. Không khí dân chủ trong xã hội
đang được phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Việt Nam đang từng bước khắc phục những hiện tượng vi phạm dân chủ ở cơ sở;
làm rõ cơ sở lý luận dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một đảng cầm quyền
và nhiều đoàn thể nhân dân. Đẩy lùi được những hiện tượng quan liêu, tham

nhũng, cơ hội chính trị, mất dân chủ sẽ dần dần làm cho bộ mặt dân chủ xã hội chủ


nghĩa của Việt Nam sáng lên trong lòng bầu bạn trên thế giới.
Thực hiện dân chủ phải đi đôi với việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà
nước. Luật pháp của Nhà nước bảo đảm cho việc thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân. Sống và làm việc theo pháp luật chính là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền
tự do dân chủ của nhân dân.
Năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: Dân vận. Người khẳng định: "Nước ta
là nước dân chủ”. Nội dung của một nước dân chủ là:
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Trong quá trình hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta đang thực
hiện lời giáo huấn của Người.



×