Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở SƠN LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.14 KB, 73 trang )

MỞ ĐẦU
I- ĐẶT VẤN ĐỀ:
Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình
phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng
thuận xây dựng thành chương trình Nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch
sử. Năm 1992 tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất về môi trường và phát triển tổ
chức ở Rio de Janerio (Braxin) đã thông qua tuyên bố Rio de Janerio về môi
trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và chương trình Nghị sự 21
về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Từ
năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện chương
trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 chương trình nghị
sự 21 cấp địa phương.
Phát triển bền vững đã trở thành đường lối quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta. Ngay từ năm 1991 Chính phủ đã ban hành " kế hoạch quốc gia về môi
trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000" tạo tiền đề cho quá trình
phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng
định trong Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường
công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, trong đó nhấn mạnh: " bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không
thể tách rời trong đường lối chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của tất cả các cấp, các ngành là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Quan
điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam và trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: "phát triển nhanh, hiệu quả và bến
vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường" và " phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt và bảo vệ và cải thiện
môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữ môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững như Nghị quyết của đại hội
Đảng toàn quốc đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế về phát triển bền vững,


ngày 17/8/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg
phê duyệt “Định hướng Chiến lược Phát triển bền vững ở Việt Nam”
(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là một chiến lược khung, bao
gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các
tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo đảm
phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ 21. Định hướng chiến lược phát triển
bền vững cũng nêu lên những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề
xuất những chủ trương, chính sách, công cụ pháp lý và những lĩnh vực hoạt
động ưu tiên để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Định hướng chiến lược
này không thay thế các chiến lược, kế hoạch mà là căn cứ để cụ thể hóa Chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, Chiến lược Bảo vệ môi trường đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, xây dựng kế hoạch 5 năm 2006-2010,
cũng như xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển của các ngành, địa
phương, nhằm kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước.
Để triển khai thực hiện, ngày 09 tháng 03 năm 2005 Bộ KH&ĐT ban hành
thông tư số: 01 / 2005 /TT-BKH: Triển khai thực hiện Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam. Trong đó, nêu rõ yêu cầu, hướng dẫn nội dung xây dựng chương trình
phát triển bền vững cấp địa phương (LA21) của 64 tỉnh, thành phố trong cả
nước.
Nhìn lại, trong chặng đường phát triển kinh tế - xã hội vừa qua của tỉnh
Sơn La vẫn dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên là chủ yếu như khai thác tài
nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên nước, song với trình độ công nghệ sản
xuất còn thấp còn lạc hậu, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không bền
vững, năng suất lao động thấp, cộng với tỷ lệ tăng dân số cao, dẫn đến tỷ lệ hộ
đói nghèo cao, các dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế hiện còn bất cập, các loại tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để, cơ sở hạ tầng còn thấp kém đang là
những vấn đề nổi cộm bức xúc. Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất,
rừng, nước bị khai thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Trong các

quy hoạch tổng thể của tỉnh, ngành và các huyện thị, cũng như các kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm trong thời gian qua 3 mặt của sự phát
triển, gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và sử dụng tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường chưa thực sự được kết hợp, lồng ghép chặt chẽ với nhau.
Vì vậy việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững - chương trình nghị
sự 21 của tỉnh là rất cần thiết, nhằm định hướng phát triển bền vững cho tỉnh
trên cả 3 lĩnh vực: kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường sinh thái trong một thời
gian tương đối dài - đến năm 2020 và vạch ra những việc cần thực hiện của
những năm trước mắt cũng như lâu dài, phù hợp với tiến trình chung của cả
nước, tiến trình xây dựng Nhà máy thuỷ điện Sơn La, đem lại hiệu quả kinh tế -
xã hội - bảo vệ môi trường bền vững cho Sơn La và cho cả nước.
II- NHỮNG CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ KHOA HỌC CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở SƠN LA:
- Nghị quyết số: 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
- Quyết định số: 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính
phủ V/v Ban hành định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam
(chương trình nghị sự 21 của Việt Nam).
2
- Kế hoạch số 93/KH-TU ngày 6/1/2005 của Ban thường vụ tỉnh Uỷ Sơn
La v/v thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
-Thông tư hướng dân số: 01/2005/ TT-BKH ngày 9/3/2005 của Bộ Kế
hoạch & Đầu tư V/v triển khai thực hiện quyết định số 153 của Thủ tướng Chính
phủ về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
- Quyết định số: 92/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ
V/v phê duyệt đầu tư dự án thuỷ điện Sơn La.
- Quyết định số: 196/2004/QĐ-TTg ngày 29/11/2004 của Thủ tướng
Chính phủ V/v phê duyệt quy hoạch tổng thể di dân tái định cư thuỷ điện Sơn
La.

- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La thời kỳ 2006 -
2020.
- Quyết định số: 586/QĐ-UBND ngày 18/3/2005 của UBND tỉnh Sơn La
V/v thành lập Ban chỉ đạo dự án thí điểm xây dựng chương trình Nghị sự 21 của
tỉnh Sơn La.
- Quyết định số: 683/QĐ-UBND ngày 28/3/2005 của UBND tỉnh Sơn La
V/v chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo, Ban điều hành dự án thí điểm xây
dựng chương trình nghị sự 21 tỉnh Sơn La.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển, rà soát quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, quy hoạch phát
triển các ngành, lĩnh vực và phát triển các địa bàn trong tỉnh; Được sự hướng
dẫn, giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương, các Tổ chức Quốc tế, UBND tỉnh
chỉ đạo xây dựng Chương trình Phát triển bền vững tỉnh Sơn La (LA21 Sơn
La) nhằm cụ thể hóa việc thực hiện định hướng chiến lược phát triển bền vững
quốc gia trên địa bàn tỉnh. Đây là khung định hướng, các kế hoạch phát triển
đồng bộ, hài hòa về kinh tế, xã hội và môi trường, hướng tới phát triển bền vững
của tỉnh trong giai đoạn 10 – 15 năm tới.
Chương trình Phát triển bền vững tỉnh Sơn La (LA21 Sơn La) gồm phần:
Phần I: Các yếu tố cơ bản và điều kiện phát triển
Phần II: Đánh giá thực trạng phát triển bền vững về kinh tế, xã hội,
môi trường của tỉnh trong những năm qua.
Phần III: Chiến lược phát triển bền vững tỉnh Sơn La giai đoạn đến
năm 2020.
Phần IV: Tổ chức thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
3
Phần I
CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐỊA HÌNH
Sơn La là một tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên
1.412.500 ha, chiếm 4,27% tổng diện tích cả nước, đứng thứ 3 trong số 64 tỉnh thành

phố trong cả nước.
Toạ độ địa lý: 20
0
39' - 22
0
02' vĩ độ Bắc.
103
0
11' - 105
0
02' kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp các tỉnh Yên Bái, Lai Châu; Phía Đông giáp các tỉnh Phú
Thọ, Hoà Bình; Phía Tây giáp tỉnh Điện Biên; Phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá và
nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Có chung đường biên giới Việt - Lào dài
250 km. Có chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km.
Sơn La có 11 đơn vị hành chính (1 thị xã, 10 huyện) với 974.988 người
năm 2004 (mật độ dân số trên 69 người/km
2
), với 12 dân tộc anh em.
Về mặt địa hình: Sơn La có độ cao trung bình 600 – 700m so với mặt
biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực Sông
Đà, Sông Mã. Có 2 cao nguyên Mộc Châu và Sơn La - Nà Sản, địa hình tương
đối bằng phẳng.
Tỉnh Sơn La nằm trên trục quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, cách
Hà Nội 320 km, là một tỉnh nằm sâu trong nội địa, có 2 cửa khẩu quốc gia với
nước bạn Lào (Chiềng Khương, Pa Háng- Lóng Sập) - vừa có ý nghĩa kinh tế,
vừa có ý nghĩa chính trị. Cùng với các tỉnh Hoà Bình, Điện Biên, Lai Châu, Sơn
La là mái nhà xanh của Đồng bằng Bắc Bộ với diện tích gần một triệu ha đất
rừng và rừng, đã và đang có vai trò to lớn về môi sinh, môi trường và phòng hộ
đầu nguồn Sông Đà, điều tiết nguồn nước cho công trình thuỷ điện Hoà Bình và

công trình thủy điện Sơn La sắp tới. Việc thông thương ra ngoài tỉnh phải nhờ
vào hệ thống đường bộ (QL6, QL 37 qua cầu Tạ Khoa); đường sông (sông Đà,
sông Mã); đường hàng không Nà Sản - Hà Nội, song quy mô còn nhỏ, chủ yếu
để vận chuyển hành khách, hàng hoá dọc hồ thuỷ điện Hoà Bình đến thuỷ điện
Sơn La.
II. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Tài nguyên thiên nhiên của Sơn La khá đa dạng, còn nhiều tiềm năng
chưa được khai thác để phát triển kinh tế - xã hội.
1. Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.412.500 ha, trong đó đất đang được
sử dụng 869.457 ha (năm 2005) chiếm 61,6% đất tự nhiên của tỉnh, so với cả
4
nước tỉ lệ này là 97%, vùng Trung du miền núi Bắc bộ là 56,14%. Việc tăng
diện tích đất sử dụng phần lớn do sự tăng nhanh diện tích đất lâm nghiệp, phủ
xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển diện tích rừng sản xuất. Diện tích đất sử
dụng sẽ có thay đổi khi thủy điện Sơn La hoàn thành vào năm 2012. Theo tính
toán Sơn La có 3 huyện bị ngập, tổng diện tích bị ngập khoảng 13.730 ha, trong
đó có 6.321 ha đất nông nghiệp (bình quân mỗi hộ mất khoảng 0,65 ha đất nông
nghiệp, trong đó ruộng nước 0,13 ha), đất rừng 2.451 ha, đất chưa sử dụng 7.214
ha… Bên cạnh đó, sẽ xuất hiện các vùng bán ngập với diện tích hàng trăm ha, có
thể tận dụng diện tích này để trồng trọt vào mùa chưa bị ngập.
Biểu 1. Hiện trạng tài nguyên đất và dự báo sử dụng quỹ đất tỉnh Sơn La
STT Chỉ tiêu
Đơn
vị
1995 2000 2005 2010 2020
Tổng diện tích tự nhiên ha 1.405.500 1.405.500 1.412.500 1.412.500 1.412.500
1 Đất nông nghiệp ha 367.334,10 521.190,31 828.010,60 971.845 1.050.688
% so với diện tích tự nhiên % 26,14 37,08 58,62 68,80 74,38
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp ha 153.866,19 188.435,39 248.244,01 196.570 198.295

% so với diện tích tự nhiên % 10,95 13,41 17,57 13,92 14,04
1.2 Đất lâm nghiệp ha 212.387,20 331.120 577.638,09 773.025 850.000
% so với diện tích tự nhiên % 15,11 23,56 41 55 60
1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản ha 1.077,91 1.627,12 2.087,52 2.216,5 2.368,4
1.4 Đất nông nghiệp khác ha 2,8 7,8 40,98 33,5 24,6
2 Đất phi nông nghiệp ha 32.908,46 37.934,15 41.445,73 50.625 55.812
% so với diện tích tự nhiên % 2,34 2,70 2,93 3,58 3,96
2.1 Đất ở ha 4.859,79 5.755,58 6.534,1 6.766 7.000
% so với diện tích tự nhiên % 0,35 0,41 0,46 0,48 0,50
2.1.1 Đất ở nông thôn ha 4.368,21 5.345,58 6.068,49 5.816 5.500
2.1.2 Đất ở đô thị ha 491,58 410 465,61 950 1.500
2.2 Đất chuyên dùng ha 7.719,65 10.226,13 13.024,75 22.257 23.830
% so với diện tích tự nhiên % 0,55 0,73 0,92 1,58 1,82
2.3 Đất nghĩa trang, nghĩa địa ha 3.436,66 3.687,02 2.669,29 2.574 2405
2.4
Đất sông suối và mặt nước
CD
ha 15.751,33 18.124,25 19.077,48 18.895,5 22.478,4
2.5 Đất phi nông nghiệp khác ha 60,32 141,17 140,11 132,5 98,6
3 Đất chưa sử dụng ha
1.005.257,
4
846.375,54 543.043,67 388.020 306.000
% so với diện tích tự nhiên % 71,52 60,22 38,45 27,47 21,66
3.1 Đất bằng chưa sử dụng ha 929,62 380,22
3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng ha 91.6861,82 78.1619,33 496.451,67 344.975 265.875
3.3 Núi đá không rừng cây ha 87.466 64.375,99 46.592 43.045 40.125
Nguồn: Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Sơn La.
5
Như vậy, đến hết năm 2005, đất chưa sử dụng và sông suối còn rất lớn:

543.043,67 ha, chiếm 38,45% diện tích tự nhiên, trong đó có 496.451,67 ha là
đất đồi núi không có rừng cần phải được khai thác để trồng rừng phòng hộ, rừng
kinh tế, trồng cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, ngô, khoai sắn tạo thêm
lương thực, vì vậy dự báo đến năm 2020 số diện tích đất chưa sử dụng chỉ còn
306.000 ha.
Là một tỉnh vùng cao, quỹ đất nông nghiệp hạn chế, đặc biệt ruộng nước bình
quân đầu người chỉ có 0,017 ha/người (cả nước là 0,05 ha/người). Hướng tới cần khai
thác hết diện tích đất bằng và một phần đất đồi núi cho sản xuất nông nghiệp, dự tính
quỹ đất để phát triển cây công nghiệp dài ngày như cà phê, chè, cây ăn quả vẫn còn
22.600 ha, quỹ đất cho đồng cỏ trồng chăn nuôi trên 3.000 ha. Nếu công trình thủy
điện Sơn La hoàn thành, sẽ có thêm 13.700 ha mặt nước hồ. Khi đó toàn tỉnh sẽ có
khoảng gần 25.000 ha ao, hồ và hồ sông Đà là tiền đề để Sơn La phát triển mạnh nuôi
trồng và khai thác thủy sản.
2. Khí hậu, thuỷ văn
Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi, mùa đông lạnh khô, mùa
hè nóng ẩm mưa nhiều. Địa hình bị chia cắt sâu và mạnh hình thành nhiều tiểu
vùng khí hậu cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong
phú. Vùng Cao nguyên Mộc Châu rất phù hợp với cây trồng và con nuôi vùng
ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm,…
Những năm gần đây nhiệt độ không khí trung bình/năm có xu hướng tăng
hơn 20 năm trước đây từ 0,5
0
C - 0,6
0
C (Thị xã Sơn La từ 20,9
0
C lên 21,1
0
C Yên
Châu từ 22,6

0
C lên 23
0
C) lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm: Thị xã
từ 1.445 mm xuống 1.402 mm, Mộc Châu từ 1.730 mm xuống 1.563 mm; độ ẩm
không khí trung bình năm cũng giảm, hiện tại ở Thị xã độ ẩm không khí trung
bình cả năm là 82%, Yên Châu 80%; số ngày có gió Tây khô nóng trung bình
năm tăng lên: Thị xã từ 1,27 ngày tăng lên 4,3 ngày, Yên Châu từ 34 ngày tăng
lên 37,2 ngày.
Do tình hình khô hạn kéo dài vào mùa đông nên khó tăng vụ trên diện tích
canh tác, cộng với gió Tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa
mưa (tháng 3 – 4) đã gây không ít khó khăn cho sản xuất và đời sống của một số
vùng trong tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét cũng là những nhân tố gây bất lợi
cho sản xuất, đời sống.
Trong thời gian tới khi có thuỷ điện Sơn La, hệ thống hồ dọc Sông Đà
được hình thành có thể tình hình khí hậu khô nóng vào mùa khô sẽ được cải
thiện theo hướng có lợi cho sản xuất và đời sống.
Nước: Sơn La có hệ thống sông suối khá dầy nhưng phần lớn mặt nước
thấp hơn mặt đất canh tác, vì vậy biện pháp giải quyết nước là phải làm hồ chứa,
đập dâng cắt lũ mùa mưa, chứa nước mùa khô, ống dẫn, bơm điện, khai thác
6
nước ngầm và tăng tỷ lệ che phủ của rừng để ổn định nguồn sinh thuỷ… Song,
với địa hình khó khăn hiểm trở, phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư xây dựng cao.
Sông suối ở Sơn La có độ dốc lớn, trắc diện hẹp nên tiềm năng thuỷ điện
khá lớn. Hầu hết mọi nơi trong tỉnh đều có điều kiện làm thuỷ điện cực nhỏ,
ngoài 96 điểm xây dựng được thuỷ điện vừa và nhỏ với tổng công suất 134 MW
còn có công trình thuỷ điện Suối Sập 11,8 MW, thuỷ điện Nậm Chiến công suất
210 MW, thuỷ điện Huổi Quảng công suất 540 MW và đặc biệt là công trình
thuỷ điện Sơn La với công suất 2.400 MW đang được khởi công xây dựng góp
phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La thời kỳ

2005 - 2010 và 2020.
3. Tài nguyên rừng
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích rừng và đất có khả năng phát
triển lâm nghiệp khá lớn (chiếm 73% diện tích tự nhiên), đất đai phù hợp với
nhiều loại cây, có điều kiện xây dựng hệ thống rừng phòng hộ và tạo các vùng
rừng kinh tế hàng hoá có giá trị cao. Rừng Sơn La có nhiều thực vật quý hiếm,
có các khu đặc dụng có giá trị nghiên cứu khoa học và phục vụ du lịch, sinh thái
trong tương lai.
Đến năm 2005 diện tích rừng của Sơn La chỉ còn 577.638,09 ha, trong đó
rừng sản xuất 47.856,69 ha, rừng phòng hộ 482.980,42. Độ che phủ của rừng đạt
41% (so với toàn quốc là 40%, như vậy độ che phủ của rừng Sơn La còn thấp so
với yêu cầu và đặc điểm của một vùng đất dốc núi cao, mưa lớn và tập trung
theo mùa, lại có vị trí là mái nhà phòng hộ cho đồng bằng Bắc Bộ, điều chỉnh
nguồn nước cho thuỷ điện Hoà Bình…
Sơn La có 4 khu rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên: Xuân Nha (Mộc
Châu) 27.084 ha; Sốp Cộp 18.709 ha; Copi A (Thuận Châu) 19.354 ha; Tà Xùa
(Bắc Yên) 17.650 ha.
Về trữ lượng rừng: Theo số liệu kiểm kê của Đoàn điều tra quy hoạch và
phát triển nông thôn tỉnh Sơn La, toàn tỉnh có 16,5 triệu m
3
gỗ và 203,3 triệu cây
tre nứa, chủ yếu là rừng tự nhiên, còn đối với rừng trồng chỉ có trữ lượng gỗ 154
ngàn m
3
và 220 ngàn cây tre nứa.
Toàn tỉnh có 543.043,67 ha đất chưa sử dụng (chiếm 38,45% tổng diện
tích tự nhiên), trong đó đất có khả năng phát triển nông lâm nghiệp khoảng
440.719 ha (phần lớn dùng cho phát triển lâm nghiệp). Đây cũng là nguồn tài
nguyên quý giá, một thế mạnh cho phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh giai đoạn
2006-2020.

Khi có thuỷ điện Sơn La sẽ có 1 phần rừng và đất rừng bị ngập, theo tính
toán có khoảng 2.451 ha rừng sẽ bị ngập, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ.
Nhiệm vụ quan trọng là phải tận thu cây trong lòng hồ trước khi nước ngập và
sau đó là trồng rừng phòng hộ dọc theo 2 bên sông Đà và toàn lưu vực để bảo vệ
nguồn nước cho công trình thuỷ điện quan trọng này.
7
4. Khoáng sản
Sơn La có nhiều loại khoáng sản khác nhau (gần 150 điểm), song chủ yếu
là mỏ nhỏ, phân bố rải rác trên khắp địa bàn tỉnh, trữ lượng không lớn và điều
kiện khai thác không thuận lợi.
+ Than: Có đủ các loại than mỡ, than gầy, than bùn, than nâu, tổng số
trên 10 mỏ và điểm than nhiên liệu với trữ lượng tiềm năng trên 40 triệu tấn,
trong đó trữ lượng đã thăm dò trên 3 triệu tấn. Tuy trữ lượng không lớn nhưng
trên dưới 50% là than mỡ, có khả năng luyện cốc, loại than mà hiện nay nước ta
rất thiếu và phải nhập khẩu với giá cao.
Các mỏ than tương đối lớn ở Sơn La có mỏ than Suối Bàng - Mộc Châu
(trữ lượng vài triệu tấn), mỏ than Quỳnh Nhai (trữ lượng 578 ngàn tấn), mỏ than
Hang Mon - Yên Châu (trữ lượng 1 triệu tấn), mỏ than Mường Lựm - Yên Châu
(trữ lượng trên 80 ngàn tấn), mỏ than Suối Lúa - Phù Yên… dự kiến sản lượng
khai thác trong vài năm tới đạt 2-3 vạn tấn than/năm và ngoài năm 2000 nâng
lên 20-25 vạn tấn than/năm, để dần dần thay thế việc phải đưa than từ Quảng
Ninh lên vùng Tây Bắc.
+ Nguồn đá vôi và sét: Với trữ lượng khá lớn, phân bố tương đối rộng,
đang được khai thác, cho phép phát triển mạnh sản xuất xi măng, gạch ngói
phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xây dựng công trình thủy điện Sơn La. Đáng kể
có mỏ sét xi măng Nà Pó trữ lượng 16 triệu tấn, mỏ sét xi măng Chiềng Sinh trữ
lượng 760 ngàn tấn.
+ Ni ken-đồng có 8 điểm quặng và mỏ: Bản Mông, Bản Khoa, Bản Phúc,
Bản Chang, Vạn Sài, Suối Ba, Suối Đơn và Hua Păng. Song đáng kể là mỏ Bản
Phúc huyện Bắc Yên có trữ lượng 984.000 tấn quặng với hàm lượng ni ken

3,55%, đồng 1,3%. Đã có dự án khả thi liên doanh với các Công ty tài nguyên
khoáng sản nước ngoài, thời gian khai thác 13 năm với tổng lợi nhuận thu được
60,52 triệu USD và giá trị lãi ròng bình quân/năm từ 1,3 đến 1,56 triệu USD.
+ Vàng: Có 4 mỏ sa khoáng và 3 điểm vàng gốc đều thuộc loại mỏ nhỏ
C1 + C2 < 500 kg, có triển vọng là mỏ vàng sa khoáng Pi Toong huyện Mường
La, Mu Lu huyện Mai Sơn. Cần khuyến khích và thu hút đầu tư, tranh thủ công
nghệ tiên tiến nhằm khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này.
+ Bột tan có nhiều điểm mỏ, đáng kể là mỏ tan Tà Phù huyện Mộc Châu
có trữ lượng 2,3 vạn tấn, có giá trị xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
5. Tiềm năng du lịch
Sơn La có điều kiện phát triển du lịch thuận lợi do có nhiều danh lam
thắng cảnh, hang động kỳ thú, các mỏ suối nước khoáng nóng, vùng hồ Sông
Đà, các di tích lịch sử cách mạng như Nhà tù Sơn La, cây đa bản Hẹo, Văn bia
Quế lâm ngự chế... Có thể kết hợp với các tỉnh bạn để phát triển du lịch sinh
thái, du lịch lịch sử, du lịch văn hoá… Đặc biệt có triển vọng là phát triển tour
du lịch Mộc Châu và thuỷ điện Sơn La - công trình thuỷ điện lớn nhất cả nước.
8
Sau khi thuỷ điện được hoàn thành, đập và hồ thuỷ điện chắc chắn sẽ là nơi
tham quan, du lịch lý tưởng cho nhiều du khách.
Như vậy sắp tới trên địa bàn tỉnh Sơn La có hồ thuỷ điện Sơn La, cùng
với 4 vườn quốc gia (Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha-Mộc Châu, Khu bảo
tồn thiên nhiên Sốp Cộp, Khu bảo tồn thiên nhiên Co Mạ-Thuận Châu, Tà Xùa -
Bắc Yên), còn có 4 hang động được xếp hạng, 4 mỏ nước nóng, có nhiều bản
làng văn hoá dân tộc, có các lễ hội dân tộc như: lễ hội mùa xuân dân tộc Mông
huyện Mộc Châu; Hội Then dân tộc Thái huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Yên
Châu; Lễ hội cầu mùa dân tộc Khơ Mú huyện Yên Châu; Lễ Mởi dân tộc
Mường huyện Phù Yên… đều có thể khai thác để phục vụ du lịch.
III. NGUỒN NHÂN LỰC
Ngoài các yếu tố tự nhiên, yếu tố nguồn nhân lực có vai trò quyết định
đến sự phát triển kinh tế - xã hội.

Dân số trung bình toàn Tỉnh Sơn La năm 2004 có: 975.994 người, dân số
năm 2005 khoảng 992.700 người, mật độ bình quân 70 người/km
2
, trong đó nam
là 498.137 người (chiếm 50,18%), nữ 494.563 người (chiếm 49,82%). Dân số
khu vực thành thị chiếm 12%; dân số khu vực nông thôn chiếm 88% tổng số dân
toàn tỉnh. Tốc độ tăng dân số tự nhiên năm 2004 là 1,75%/năm, năm 2005
khoảng 1,69% (chủ yếu là tăng dân số cơ học do sức hút của Thuỷ điện Sơn La).
Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn 2000 – 2004 ở mức 1,85%.
Chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình quốc gia trên địa bàn tỉnh đã
góp phần quan trọng cải thiện chất lượng dân số, giảm thiểu chất lượng tăng dân
số trong những năm gần đây.
Toàn tỉnh có 12 Dân tộc anh em (là tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số), trong
đó dân tộc Thái chiếm có dân số lớn nhất, chiếm gần 55% dân số toàn tỉnh. Các
dân tộc có dân số đông tiếp theo là dân tộc Kinh 18%, dân tộc Mông 12%, dân
tộc Mường 8,4%, dân tộc Dao 1,82%, dân tộc Khơ Mú 1,89%... Nhìn chung đời
sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện đáng kể. Phong
tục tập quán của các dân tộc được bảo tồn và phát huy cùng với việc du nhập các
giá trị văn hoá mới, hiện đại. Các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan… đang dần
được xoá bỏ.
Lao động trong độ tuổi năm 2005 khoảng 524.950 người, chiếm 52,8%
dân số toàn tỉnh, trong đó nam là 293.447 người, nữ là 231.503 người. Bình
quân hàng năm, lực lượng lao động của Tỉnh tăng thêm khoảng 2 vạn người.
Lao động thành thị 88.769 người chiếm tỷ lệ 16,91%, lao động nông thôn
436.181 người chiếm tỷ lệ 83,09% tổng số lao động toàn tỉnh. Theo ngành kinh
tế, lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm trên 85% tổng số lao động trong các
ngành kinh tế; lao động trong ngành công nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ thấp. Chất
lượng nguồn lao động đã được nâng cao đáng kể, tỷ lệ lao động qua đào tạo đến
năm 2004 đạt khoảng 11%. Trong số lao động được đào năm 2004 có bằng cấp
9

trên 10.000 người trong đó: trình độ trên đại học 52 người, đại học cao đẳng
5.521 người, trung học và đào tạo nghề 4.427 người; ngoài ra lao động có trình
độ lao động phổ thông 250.000 người.
Tỷ lệ lao động chưa giải quyết được việc làm đến năm 2004 chỉ còn
4,29%, là mức khá thấp so với bình quân cả nước. Như vậy, số người cần việc
làm trong thời gian tới của Tỉnh không phải là sức ép lớn, vấn đề quan trọng là
đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tuyển
dụng nhân công.
Dự báo tăng dân số tự nhiên:
Giả thiết rằng, tỷ lệ tăng tự nhiên dân số của tỉnh trong giai đoạn 2006-
2015 cao hơn trung bình cả nước, do đặc điểm miền núi, nhưng sẽ giảm dần tiến
tới tốc độ tăng như cả nước. Hiện nay, do người dân chưa hiểu rõ chính sách dân
số mới, dẫn đến tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tăng tự nhiên giảm chậm hơn những năm
1990-2000, dự kiến trong giai đoạn 2006-2015 là 0,014-0,015%/năm. Trong giai
đoạn 2016-2020, tỷ lệ tăng tự nhiên có xu hướng giảm nhanh hơn, dự kiến là
0,026%, do biến đổi cơ cấu dân số, tỷ trọng người cao tuổi ngày một tăng.
Biểu 2. Dự báo tăng dân số và lao động tự nhiên
Dân số
(1000 người)
Dân số trong độ tuổi LĐ
(1000 người)
Lao động/dân số
(%)
2005 992,7 524,95 52,8
2010 1.088 592,4 54,4
2015 1.165 660,9 56,7
2020 1.248 726,6 58,2
Giả thiết rằng tốc độ tăng lực lượng lao động thời kỳ 2006-2020 xấp xỉ
tốc độ tăng dân số trong thời kỳ 1990-2005 do dân số sinh ra trong giai đoạn
1991-1995 sẽ trở thành lao động trong giai đoạn 2006-2010, tương ứng dân số

giai đoạn 2001-2005 sẽ trở thành lao động giai đoạn 2016-2020. Bên cạnh đó,
một phần lao động và những người đi theo xây dựng công trình thuỷ điện Sơn
La sẽ ở lại cũng đóng góp vào lực lượng lao động, bởi chủ yếu là những người
trẻ, trong độ tuổi lao động. Cùng với việc loại trừ một bộ phận trẻ sinh ra không
phát triển lên lực lượng lao động, một phần nguồn nhân lực đi học, thoát ly
không quay trở lại Sơn la, có thể coi tốc độ tăng lực lượng lao động trời kỹ 2006
– 2020 xấp xỷ tốc độ tăng dân số thời kỳ 1990 – 2005. Theo số thống kê, tốc độ
tăng dân số 1991-1995 là 2,92%; 1996-2000 là 2,21%; 2001-2005 là 1,91%.
Như vậy có thể giả thiết, tốc độ tăng lao động giai đoạn 2006-2010 là 2,88%;
2011-2005: 2,19% và 1,90% trong giai đoạn 2016-2020.
Dự báo tăng dân số cơ học:
Theo tiến độ xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La thì thời kỳ cao điểm số
lượng lao động ở đây có thể lên đến 10.000 người, nếu kể cả số người đi theo thì
số dân tăng cơ học này có thể tới 20 ngàn người. Lúc này mọi dịch vụ, ăn, ở, đi
10
lại, việc làm… cần phải được đáp ứng ngay trong thời kỳ xây dựng thuỷ điện và
cả khi thuỷ điện đã hoàn thành vẫn còn một lực lượng không nhỏ có thể ở lại sinh
sống, lao động tại Sơn La (có ý kiến cho rằng khoảng 2 nghìn người sẽ ở lại).
Đại bộ phận nhân dân các dân tộc Sơn La sống ở nông thôn với nghề nông
là chủ yếu, vốn là những người cần cù lao động.
Trình độ dân trí nhìn chung còn thấp và đang từng bước được nâng lên,
trên 80% trẻ em trong độ tuổi 6 -14 được phổ cập giáo dục tiểu học, trên 90%
người lao động ở độ tuổi từ 15 - 35 tuổi được công nhận xoá mù chữ. Kết quả
tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật
trong 10 năm qua được hơn 2 vạn người, hàng vạn lao động được chuyển giao kỹ
thuật sản xuất dạy nghề, hàng nghìn cán bộ được đào tạo lại về lý luận quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước, đặc biệt tập trung mạnh cho đào tạo cán bộ xã, phường.
Số lao động có tri thức ngày càng được phát triển đã và đang tiếp cận với điều
kiện mới của nền kinh tế thị trường, có những đóng góp đáng kể cho sự phát
triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Một vấn đề quan trọng khác là phải di dân khỏi lòng hồ thuỷ điện. Đây là
một nhiệm vụ vô cùng to lớn. Ngay từ năm 1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với Tổng công ty điện lực Việt Nam và UBND của 3 tỉnh
Sơn La, Điện Biên và Lai Châu đã điều tra thống kê thiệt hại của Dự án thuỷ
điện Sơn La theo các phương án tuyến và quy mô công trình. Quy hoạch tổng
thể di dân, tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29 tháng 11 năm 2004. Theo
Quy hoạch này thì số hộ trên địa bàn Sơn La cần phải di chuyển cho xây dựng
thủy điện Sơn La là 12.500 hộ. Bên cạnh đó, các thủy điện Nậm Chiến, Huổi
Quảng,... có công suất khá lớn từ 200 - 540MW đang trong giai đoạn khởi công
cũng đòi hỏi việc di dân, tái định cư. Đây thực sự là một công việc đồ sộ đối với
tỉnh từ nay đến 2010.
11
Phần II
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VỀ
KINH TẾ, XÃ HỘI, MÔI TRƯỜNG CỦA TỈNH TRONG NHỮNG NĂM QUA.
I/- NHỮNG MẶT ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA TỈNH NHỮNG NĂM VỪA QUA:
1. Về kinh tế:
1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Duy trì được tốc độ tăng trưởng khá: tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) có
tốc độ tăng trưởng bình quân năm, thời kỳ 2001 - 2004 là 10,6%/năm (cả nước
là 7,05%/năm), nếu năm 2005 đạt tốc độ 16% thì bình quân thời kỳ 2001 - 2005
là 11,65%/năm. GDP năm 2000 đã gấp 1,55 lần so với năm 1995 và GDP năm
2005 đã tăng gấp 1,73 lần so với năm 2000. Như vậy nền kinh tế của tỉnh những
năm gần đây có tốc độ tăng trưởng khá và bình quân giai đoạn sau cao hơn giai
đoạn trước, năm sau cao hơn năm trước.
Trong tăng trưởng chủ yếu do sự tăng trưởng mạnh của khối công nghiệp
- xây dựng: giai đoạn 1996 - 2000 là 10,68%/năm thì ở giai đoạn 2001 - 2005
tăng trưởng bình quân 27,2%/năm.

Tiếp đến là giá trị gia tăng ngành dịch vụ cũng khá, giai đoạn 1996 - 2000
là 16,73%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 là 16,5%/năm.
Giá trị gia tăng nông lâm nghiệp thuỷ sản thời kỳ 1996 - 2000 là
6,37%/năm, thời kỳ 2001 - 2005 là 5,1%/năm.
1.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế toàn tỉnh đã có bước chuyển
dịch quan trọng, đúng hướng, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất
nước trong xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ trong GDP toàn tỉnh tăng dần, đồng thời tỷ trọng nông nghiệp
trong GDP có xu hướng giảm xuống.
- Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản: tuy giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng với
tốc độ khá, song tỷ trọng GDP của ngành giảm từ 71,5% (năm 1995) xuống
60,96% (năm 2000) xuống 47,99% (năm 2004) và còn 45% (năm 2005).
- Công nghiệp xây dựng: tỷ trọng GDP của ngành tăng từ 9,49% (năm
2000) lên 17,51% (năm 2004) và năm 2005 tăng lên 19%.
- Dịch vụ: tỷ trọng GDP của ngành trong cơ cấu kinh tế toàn tỉnh vẫn tăng
đều qua các năm, tăng từ 18,75% (năm 1995) lên 29,55% (năm 2000), lên
34,5% (năm 2004) và năm 2005 tăng lên 36%.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển biến đáng kể, chuyển dịch từ nền
kinh tế thuần nông tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Tuy
12
vậy ngành nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng ngành công nghiệp
tăng chậm và chưa vững chắc, dịch vụ và các nàgnh khác tăng nhanh hơn.
1.3. Về sản xuất nông nghiệp:
Trong ngành nông nghiệp bước đầu thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi
cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế sản xuất hàng hoá, nổi bật là sự
chuyển đổi cơ cấu cây trồng , con nuôi, cơ cấu mùa vụ, xác định được một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực, từng bước hình thành vùng sản xuất cây công
nghiệp, con nuôi tập trung, chuyên canh, thâm canh gắn với công nghiệp chế
biến và tiêu thụ sản phẩm.

- Sản xuất lương thực theo quan điểm sản xuất hàng hoá, đã chú trọng
thâm canh tăng vụ, ứng dụng giống mới và các tiến bộ kỹ thuật, mặc dù diện
tích lúa nương trên đất dốc đã giảm mạnh từ 24.997 ha năm 1995 xuống 14.928
ha năm 2004, nhưng sản lượng lương thực có hạt tăng cao và ổn định, từ
145.016 tấn năm 1995 tăng lên 243.895 tấn năm 2000 và đạt 352.540 tấn năm
2004, tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2000 - 2004 là 9,65%; trong đó
phần tăng của diện tích là 3,55%. Lương thực có hạt bình quân đầu người tăng
từ 217,8 kg năm 1995 lên 361 kg/người/năm (năm 2004). Sơn La đã đảm bảo
được an ninh lương thực theo quan điểm sản xuất hàng hoá.
- Cây công nghiệp chủ lực tiếp tục được điều chỉnh theo hướng đầu tư
chiều sâu, đã và đang hình thành các vùng sản xuất tập trung gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường. Tổng diện tích cây công nghiệp chủ lực tăng từ
4.544 ha năm 1995 lên 10.860 ha năm 2005 tăng gấp 2,38 lần so với năm 1995
(chè 4.460 ha, cà phê 2.900 ha, mía 3.500 ha).
- Cây ăn quả: phát triển cả về quy mô và chủng loại, đã nhập nội giống
cây ăn quả ôn đới chất lượng cao, bước đầu đem lại kết quả khả quan cả về diện
tichs và sản lượng cây ăn quả tăng nhanh, từ 10.896 ha; 26.956 tấn quả năm
1995 đã tăng lên 25.900 ha và 60.000 tấn quả vào năm 2005 so với năm 2000 thì
diện tích tăng 38,6%, sản lượng tăng 46,1%.
- Chăn nuôi: phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng, đặc biệt với đàn
trâu, bò là một lợi thế đã tăng nhanh so với năm 2000, năm 2005 đàn trâu đã có
144.340 con tăng 16.1%, đàn bò có 119.000 con tăng 31,5% trong đó có 5.000
con bò sữa, 2.500 con bò thịt chất lượng cao, khai thác có hiệu quả mặt nước ao
hồ để nuôi thả cá. Năm 2005 sản lượng thịt hơi các loại đạt 25.000 tấn gấp 2,29
lần, sản lượng cá đạt 3.430 tấn gấp 1,57 lần so với năm 2000.
- Lâm nghiệp: công tác bảo vệ và phát triển rừng có nhiều tiến bộ; nâng
độ che phủ của rừng từ 9,5% năm 1990 lên 41% năm 2005. Bình quân mỗi năm
tăng 28.000 ha rừng do khoanh nuôi tái sinh thành rừng và do trồng rừng đã
khép tán.
Tuy quy mô còn nhỏ song bước đầu đã hình thành các khu rừng tập trung

như khu rừng trồng tre lấy măng ở Sốp Cộp, Mai Sơn.
13
1.4. Công nghiệp xây dựng:
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao,
trong đó công nghiệp khai thác có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là khai thác
đá và các mỏ khác có tốc độ tăng giá trị gia tăng cao nhất trong các ngành, của
ngành công nghiệp. Tốc độ tăng giá trị gia tăng ngành khai thác bình quân giai
đoạn 2000 - 2004 là 40,8%/năm, đều gấp hơn 2 lần tốc độ tăng bình quân của cả
ngành công nghiệp. Tuy vậy giá trị sản xuất công nghiệp chế biến vẫn chiếm vị
trí độc tôn, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của toàn ngành, với tỷ
trọng ổn định ở khoảng 82 - 83% giá trị sản xuất toàn ngành và chiếm 70% giá
trị gia tăng toàn ngành.
Vốn xây dựng cơ bản những năm gần đây tăng nhanh, tổng vốn đầu tư 5
năm (2001 - 2005) khoảng 15.000 tỷ đồng, tăng gấp 5,26 lần thời kỳ (1996 -
2000). Kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội từng bước
được hoàn thiện.
Mạng lưới giao thông phát triển nhanh, đặc biệt là hệ thống đường tỉnh,
đường huyện, đường xã tăng mạnh, đảm bảo giao thông đến tất cả các huyện và
hầu hết các xã thông suất trong cả 4 mùa. Toàn tỉnh có 5.240 km đường bộ,
trong đó đường ô tô đạt 0,34 km/km
2
so với năm 1994 (0,17 km/km
2
) tăng gấp 2
lần. Hết năm 2004 chỉ còn 3 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, khi đó ở
vào những năm đầu thập niên 90 còn 44 xã chưa có đường ô tô. Vận tải hành
khách và hàng hoá ngày càng thuận lợi đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đi lại
của nhân dân, khối lượng hàng hoá vận chuyển bình quân hiện nay trên 2 triệu
tấn gấp trên 3 lần năm 2000 (657.000 tấn). Khối lượng hành khách vận chuyển
trên 2 triệu lượt người/năm tăng gấp gần 2 lần so với năm 2000.

Bưu chính viễn thông ngày càng được hiện đại hoá và phát triển nhanh,
đến nay 100% số xã, phường có điện thoại tại UBND xã, số máy điện thoại thuê
bao cố định đạt xấp xỉ 4 máy/100 dân khi đó năm 1994 mới có 0,3 máy/100 dân.
1.5. Dịch vụ:
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ có tốc độ tăng trưởng
khá và ổn định, năm 2005 đạt 1.950 tỷ đồng, tăng 75,2% so với năm 2000.
Mạng lưới thương mại, dịch vụ ngày càng được mở rộng và phát triển, góp phần
đưa thị trường Sơn La hoà nhập với thị trường chung của cả nước, xoá được tình
trạng ốc đảo trước đây, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, thị trường thông
suất, hàng hoá đa dạng.
Thu, chi ngân sách có bước phát triển mới, đạt tốc độ tăng trưởng khá.
Thu ngân sách tại địa phương năm 2005 đạt 260 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với
năm 2000. Chi ngân sách đã ưu tiên 40 - 45% chi các xã đặc biệt khó khăn. Hoạt
động ngân hàng, tín dụng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Trong 5 năm 2001 - 2005 vay vốn tín dụng đạt trên
5.000 tỷ đồng.
14
2. Về xã hội:
2.1. Về xoá đói giảm nghèo giải quyết việc làm:
- Đời sống nhân dân được cải thiện 1 bước, GDP bình quân đầu người tăng
nhanh qua các năm, từ 79,8 USD năm 1990 lên 115 USD năm 1995, lên 142 USD
năm 2000 và 258 USD năm 2005, như vậy sau 15 năm tăng gấp 3,2 lần, sau 10
năm tăng gấp 2,3 lần và so với năm 2000 thì năm 2005 tăng gấp gần 2 lần. Tình
trạng đói giáp hạt của những năm thập niên 90 về trước không còn. Tỷ lệ hộ đói
nghèo giảm nhanh từ 20% năm 2001 xuống 15% năm 2003, xuống 13% năm
2004 và còn 11,5% năm 2005 (theo tiêu chí cũ). Tiêu chí mới là 46%.
- Tỷ lệ hộ được dùng nước sạch, được dùng điện, được xem truyền hình
tăng nhanh qua từng năm, tỷ lệ tương ứng đó vào năm 1995 là 8%; 13%; 30%
vào năm 2000 là 21,7%; 25%; 60% và đến năm 2005 là 53%; 70%; 80%.
- Vấn đề giải quyết việc làm đạt được kết quả quan trọng. Tỷ lệ lao động

có việc làm trong độ tuổi lao động tăng từ 87,9% năm 1995 lên 94,7% năm 2003
và 95,71% năm 2004. Trong giai đoạn 2001 - 2005 tạo việc làm mới cho khoảng
45.000 lao động, trong đó mỗi năm tạo việc làm mới ổn định cho khoảng 8.500
lao động. Vì vậy tỷ lệ thất nghiệp giảm nhanh từ 12,1% năm 1995 xuống 5,3%
năm 2000 và xuống 4,29% năm 2004.
2.2. Về giáo dục đào tạo, nâng cao dân trí:
Công tác giáo dục đào tạo ngày càng được củng cố và phát triển toàn diện
ở các cấp học, ngành học với nhiều loại hình theo hướng xã hội hoá. Mạng lưới
trường lớp ngày càng phát triển, trong đó có mô hình lớp cắm bản phát triển
nhanh. Vì vậy số lượng học sinh phổ thông tiếp tục tăng nhất là học sinh trung
học cơ sở và phổ thông trung học. Bình quân 5 năm gần đây tiểu học tăng 4,5%,
trung học cơ sở tăng 18%, trung học phổ thông tăng 23,3% năm. Tỷ lệ huy động
học sinh đúng độ tuổi ra lớp tất cả các cấp học đều được nâng lên đáng kể, khối
tiểu học tăng từ 78,8% năm 1995 lên 98% năm 2005, tương tự trung học cơ sở
từ 28,7% lên 80%, trung học phổ thông từ 6,9% lên 40%. Năm 1995 mới có 25
xã bằng 12,4% số xã, phường được công nhận xoá mù và phổ cập giáo dục tiểu
học, đến năm 2000 đạt 100% số xã, phường được công nhận xoá mù và phổ cập
giáo dục tiểu học. Đến năm 2005 đã có 144 xã, phường bằng 71,64% số xã,
phường đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.
Các trường, lớp chuyên nghiệp, dạy nghề đã và đang được đầu tư với
quy mô lớn theo hướng hiện đại, góp phần tích cực trong việc đào tạo nhân
lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.3. Y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân:
Trong mấy năm qua công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân của các dân tộc
trong tỉnh có nhiều tiến bộ, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên, mạng
15
lưới y tế từ tỉnh đến xã, các dịch vụ y tế không ngừng được củng cố và phát
triển. Triển khai thực hiện các chương trình có hiệu quả các chương trình y tế
quốc gia. Từng bước khống chế và đẩy lùi các dịch bệnh nguy hiểm, giảm đáng
kể các bệnh xã hội. Tỷ lệ số dân mắc bênh sốt rét và bệnh bướu cổ trước đây rất

cao nay đã giảm đáng kể từ 2,35% (sốt rét), 41,7% (bướu cổ) năm 1995 xuống
0,8% và 22% năm 2000 đến năm 2005 chỉ còn 0,2% và 15%. Công tác chăm sóc
sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, khám chữa bệnh cho người nghèo được quan tâm, Tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi ngày càng giảm từ 45% năm 1995 xuống
38% năm 2000 và còn 30% năm 2005.
3. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường:
3.1. Tài nguyên rừng được phục hồi:
Thập niên 80 và năm đầu của thập niên 90 thế kỷ trước, rừng Sơn La bị
tàn phá khốc liệt nhất. Nạn phá rừng làm nương rẫy, nạn khai thác rừng bừa bãi
diễn ra ở mọi nơi trong tỉnh, song từ năm 1991 trở lại đây phong trào tách hộ
giãn bản nhận đất trống đồi núi trọc làm VAC, lập trang trại trồng cây công
nghiệp, cây ăn quả, làm vườn đồi rừng, cộng với việc giao khoán bảo vệ rừng
hiện còn, giao khoán khoanh nuôi tái sinh phục hồi rừng có hiệu quả. Vì vậy
rừng được phục hồi phát triển nhanh, từ 133.522,5 ha rừng năm 1990 tăng lên
212.387,2 ha năm 1995 lên 331.120 ha năm 2000 lên 480.658 ha năm 2002 và
đạt 577.638,09 ha năm 2005. Tuy chất lượng rừng chưa cao (chủ yếu do khoanh
nuôi tái sinh thành rừng) song về số lượng đây là thành công đáng kể của tỉnh,
đưa tỷ lệ che phủ của rừng từ 9,5% năm 1990 lên 41% năm 2005.
3.2. Đất có chủ thể từng bước đi vào thâm canh tăng vụ:
Với một tỉnh miền núi như Sơn La thì việc quản lý sử dụng đất nông
nghiệp, lâm nghiệp sẽ tác động trực tiếp và ảnh hướng xấu đến môi trường nhất
là môi trường nông thôn.
Canh tác đất dốc theo phương thức truyền thống trước đây, đất bị rửa trôi,
xói mòn nhanh dẫn đến bạc màu, năng suất cây trồng thấp, bỏ hoang hoá và lại
tiếp tục phá rừng làm nương rẫy.
Song từ khi có luật đất đai năm 1993, công tác quản lý và sử dụng đất đai
của tỉnh có chuyển biến tích cực, cũng từ đó quyền hạn và trách nhiệm của
người sử dụng đất đã được xác định. Công tác giao đất cho thuê đất, thu hồi đất
và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến triển với tốc độ nhanh. Đến năm
2000 đã giao 92,34% tổng diện tích đất nông nghiệp và 17,23% đất lâm nghiệp

có rừng tới hộ gia đình cá nhân và các tổ chức kinh tế, tức là đất đã có chủ cụ
thể. Tình trạng du canh, bỏ hoá đất đai sau nhiều năm canh tác đã giảm hẳn,
những năm 80 về trước bình quân hàng năm bỏ hoang hoá 3.744 ha, từng bước
đi vào thâm canh tăng vụ, và chuyển đổi cơ cấu cây trồng để vừa có giá trị kinh
tế vùa có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái.
16
Trong 130.000 ha nương rẫy độ dốc lớn đã có 27.300 ha chiếm 21% được
canh tác tổng hợp nâng cao hiệu quả sử dụng bền vững tài nguyên đất dốc, cụ
thể là; xây dựng nương định canh có băng chống xói mòn đất, áp dụng kỹ thuật
luôn canh, xen canh, phủ rác thực vật lên đất canh tác, cùng với đầu tư thâm
canh trong sản xuất nông lâm nghiệp, nên năng suất tăng và ổn định, hiệu quả sử
dụng đất bước đầu được nâng lên.
3.3. Công tác quản lý nhà nước về môi trường có sự chuyển biến:
Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường mà khởi đầu là phòng
quản lý môi trường thuộc sở Khoa học & Môi trường được thành lập năm 1993,
ở cấp huyện có một cán bộ kiêm nhiệm làm công tác quản lý bảo vệ môi trường.
Nay phòng quản lý môi trường tực thuộc sở Tài nguyên - Môi trường. Công tác
quản lý môi trường được đặt ra từ khâu tuyên truyền giáo dục ý thức và trách
nhiệm bảo vệ môi trường cho mọi tổ chức, cá nhân ngày càng được mở rộng.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường đã là một trong những nội dung của các
dự án đầu tư. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào quy chế xây dựng bản, khu
phố văn hoá và đã ban hành quy chế bảo vệ môi trường tỉnh, xây dựng chiến
lược bảo vệ môi trường tỉnh đến năm 2010. Những hoạt động trên đã góp phần
tăng cường việc quản lý việc khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên, ngăn
chặn ô nhiễm và sự cố môi trường trong tỉnh có sự chuyển biến.
II- TỒN TẠI, THÁCH THỨC CHỦ YẾU:
Quá trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, huyện, ngành và cơ sở, bên
cạnh những kết quả đạt được nói trên, tính bền vững của sự phát triển vẫn chưa
được quan tâm đúng mức và vẫn còn một số tồn tại chủ yếu sau đây:
1. Về nhận thức:

Quan điểm phát triển bền vững của tỉnh được nêu trong văn kiện Đại hội
tỉnh Đảng bộ lần thứ XI: “ gắn chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng
xã hội, giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa các
vùng trong tỉnh… Kết hợp chặt chẽ các yếu tố phát triển kinh tế – xã hội với bảo
vệ và tái tạo môi trường sinh thái bền vững…”. Quan điểm đó chưa được thể
chế một cách rõ rệt và nhất quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều
tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế – xã hội còn thiên về tăng trưởng
nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính
bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên: đất, rừng, khoáng sản,
nước… và bảo vệ môi trường. Các chính sách bảo vệ môi trường mới chú trọng
việc giải quyết các sự cố môi trường như sự cố nước thải nhà máy đường, nước
thải nhà máy giấy Kráp, chất thải chế biến cà phê, bia, hoa quả hoặc việc thu
gom rác thải đô thị... mà chưa định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng
những nhu cầu tương lai của xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và quá trình xây dựng chính sách bảo vệ môi trường còn
chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau, chỉ là hình thức và rất
17
hời hợt. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững của tỉnh chưa được
thiết lập.
2. Về kinh tế:
- Kinh tế tăng trưởng khá, nhưng chưa vững chắc, hiệu quả kinh tế chưa
cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nông
lâm nghiệp, sản xuất công nghiệp đã có bước phát triển mới nhưng vẫn còn nhỏ
bé, nhiều tiềm năng chưa được phát huy, sự chuyển dịch cơ cấu ngành chưa đi
vào chiều sâu của sự phân công lao động xã hội, thể hiện rất rõ trong cơ cấu nội
bộ từng ngành. Trong nông nghiệp, trồng trọt vẫn là chủ yếu. Trong dịch vụ thì
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm xã hội là ngành dịch vụ quan trọng có khả năng
tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá trị tăng
thêm của ngành dịch vụ.
- Sản xuất nông nghiệp chưa vững chắc, còn phụ thuộc nhiều vào thiên

nhiên. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi theo hướng khai thác lợi thế chậm,
nhất là ở vùng cao chủ yếu làm nương du canh, bóc lột đất; trồng cây ngắn ngày
là chính chiếm 85% diện tích đất canh tác. Thế mạnh về cây công nghiệp dài
ngày (chè, cà phê) về chăn nuôi nhất là chăn nuôi gia súc ăn cỏ chưa tạo ra được
một xu hướng rõ rệt để bứt phá trở thành ngành quan trọng. Tuy diện tích rừng
tăng, nhưng giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp tăng không đáng kể, năm 2000
đạt 160 tỷ đồng, năm 2005 chỉ đạt 165 tỷ đồng (giá cố định năm 1994) chủ yếu
là trồng rừng, bảo vệ rừng phòng hộ.
- Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mặc dù có bước tăng trưởng,
song tăng trưởng hàng năm không đều, không ổn định, có năm tăng 71% (1998)
có năm chỉ đạt 3%, sản xuất vật liệu xây dựng phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng sẵn có của tỉnh.
- Kỹ thuật, công nghệ sản xuất nhất là trong công nghiệp còn lạc hậu
chậm đổi mới, trình độ tay nghề chưa cao, năng xuất lao động thấp, chi phí sản
xuất cao, giá thành sản phẩm cao, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá yếu.
Hiệu quả sử dụng đất đai thấp. Sản phẩm tiêu dùng trong tỉnh cũng như sản
phẩm xuất ra ngoài kể cả xuất khẩu, phần lớn là sản phẩm thô, mức độ chế biến,
chế tác nguyên vật liệu sẵn có trong tỉnh còn rất thấp.
- Giá trị xuất nhập khẩu nhỏ bé, tỷ lệ so với GDP quá thấp 4,7% năm
1995 và 6,9% năm 2004 chứng tỏ độ mở của nền kinh tế tỉnh Sơn La rất thấp và
thiếu ổn định. Thu từ kinh tế địa phương còn quá thấp <10% tổng thu, mới đảm
bảo được khoảng 16% chi thường xuyên hàng năm. Ngân sách của tỉnh phụ
thuộc chủ yếu vào ngân sách Trung ương (chiếm 80%). Thu chi tiền mặt mất
cân đối lớn, tình trạng nợ quá hạn của các ngành nghiệp Nhà nước ngày càng gia
tăng.
18
3. Về xã hội:
- Tỷ lệ tăng dân số, tỷ lệ hộ đói nghèo vẫn cao. Tỷ lệ sinh tuy có giảm
nhưng vẫn ở mức cao, nhất là ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
cao từ 3,65% năm 1990 xuống 3,1% năm 1995, 2,39% năm 2000 và vẫn cao ở

mức 1,69% năm 2005, xuất phát điểm của nền kinh tế tỉnh thấp, tuy có tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá, cộng với mức gia tăng dân số cao, nên bình quân đầu
người về GDP rất thấp, 115 USD (1995) và 258 USD (2005) chỉ bằng 40 - 42%
bình quân cả nước. Vì vậy tỷ lệ đói nghèo của tỉnh vẫn cao, năm 2001 là 20%
theo tiêu chí cũ đặc biệt là ở vùng 3, vùng cao, vùng sâu, vùng xa là 46% trong
khi ở thị xã 5,8%. Theo tiêu chí mới năm 2005 toàn tỉnh vẫn còn khoảng 87.900
hộ nghèo chiếm 46% số hộ toàn tỉnh. Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng cách biệt nhau quá lớn. Vùng cao biên giới chỉ có
1,3% có nhà kiên cố 32,4% số hộ dùng điện, 17,3% số hộ có ti vi khi đó vùng
dọc quốc lộ 6 tỷ lệ tương ứng là: 11%, 59,9%, 45,8%.
- Dịch vụ về giáo dục, y tế chăm sóc sức khoẻ còn nhiều bất cập. Chất
lượng giáo dục còn nhiều hạn chế mất cân đối giữa các vùng đặc biệt là vùng 3;
phổ cập tiểu học chậm, xoá mù chữ chưa bền vững, tình trạng tái mù trở lại lớn;
tỷ lệ người không biết đọc, biết viết ở vùng cao, biên giới 41,3%, vùng quốc lộ 6
là18,4%; đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng yếu về chất lượng. Số lượng và
chất lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu, tỷ lệ lao động qua đào tạo so
với lao động đang làm việc trong các ngành KTQD quá thấp là 7,2% năm 2000
là 11% năm 2004. Chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân
còn nhiều khó khăn thách thức nhất là vùng cao, vùng sâu, cán bộ chuyên môn
vừa thiếu vừa yếu nhất là cán bộ cơ sở.
- Một số vấn đề xã hội: ma tuý, mại dâm, đại dịch HIV/AIDS còn nhiều
bức xúc, gia tăng nguy cơ mất ổn định xã hội.
4. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường:
- Sử dụng đất sản xuất chưa hợp lý dẫn đến rửa trôi xói mòn đất lớn hiệu
quả kinh tế và hiệu quả môi trường thấp.
Do địa hình núi cao dốc, mặt bằng canh tác cao hơn nhiều so với mặt
nước, sông suối, khó làm thuỷ lợi, vì vậy diện tích ruộng nước ít chỉ xấp xỉ 8%
so với diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người chỉ khoảng 0,015 ha/người
cả nước là 0,05 ha/người. Vì vậy trên 80% diện tích canh tác trên đất dốc. Tuy
hệ thống canh tác ở Sơn La đang trong quá trình chuyển đổi từ hệ thống canh tác

truyền thống sang hệ thống canh tác tiến bộ theo hướng sản xuất hàng hoá. Bên
cạnh một bộ phận nhỏ với phương thức du canh, đang xuất hiện mô hình trạng
trại vườn đồi, vườn rừng, bên cạnh hệ thống canh tác đơn điệu (1 vụ) hiệu quả
thấp đang xuất hiện mô hình canh tác tổng hợp hiệu quả kinh tế cao và bền
vững. Song trên tổng thể xét về bản chất hệ thống canh tác trên đất dốc ở Sơn
La hiện nay là hệ thống canh tác tự cung tự cấp có sản xuất hàng hoá nhưng quy
mô chưa lớn, phương thức canh tác vẫn lạc hậu, manh mún, công cụ thô sơ hiệu
quả về kinh tế xã hội và môi trường thấp. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông
19
nghiệp quá thấp, bình quân mới đạt 9 triệu đồng/1ha; trong khi đó toàn quốc 20
triệu đồng/ha, vùng đồng bằng Sông Hồng 37,32 triệu đồng/ha. Kèm theo đó là
tốc độ rửa trôi xói mòn lớn bình quân từ 147 - 194,3 tấn/ha/năm (nếu canh tác
bền vững 3,4 tấn/ha/năm).
- Tài nguyên rừng suy giảm.
Đến thập kỷ 70 rừng ở Sơn La đã bị tàn phá kiệt quệ chỉ còn 251.350 ha
rừng độ che phủ là 17,9% nhưng lúc này vẫn còn 27.000 ha rừng gỗ giàu, các
loại gỗ đặc sản như đinh, dổi, nghiến... và một số động vật quý hiếm như hổ,
báo, voi, bò tót... thỉnh thoảng vẫn xuất hiện. Sang thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90
rừng Sơn La tiếp tục bị tàn phá đến suy kiệt nhất. Thời điểm này chỉ còn
133.522,5 ha rừng, độ che phủ là 9,5%. Rừng gỗ giàu chỉ còn 9.250 ha. Tổng trữ
lượng gỗ lúc này chỉ còn 6,9 triệu m
3
và trữ lượng tre, nứa khoảng 101,7 triệu
cây, các loại gỗ quý hiếm còn rất ít, động vật quý hiếm như hổ, báo hầu như
không còn. Giá trị kinh tế từ rừng suy giảm và vai trò bảo vệ môi trường sinh
thái, phòng hộ bị suy giảm.
- Tài nguyên nước suy giảm và bị ô nhiễm.
Tổng lượng nước mưa hàng năm của toàn tỉnh là khoảng 18,9 - 19 tỷ m
3
song 80% lượng mưa tập trung vào 4 tháng (6 - 9), việc đắp đập hồ chứa nước

và các biện pháp giữ nước hữu hiệu khác chưa nhiều và nhiều con suối cạn chỉ
có nước ở mùa mưa khoảng 7 -8 tháng trong năm nên mùa khô thiếu nước sản
xuất và nước sinh hoạt; về mùa mưa thường gây ra lũ lụt. Tổng lượng nước mặt
phát sinh trong nội tỉnh khoảng 10,27 tỷ m
3
song sử dụng còn lãng phí.
Mặt khác do độ dốc lớn cùng với chế độ canh tác không hợp lý và phong
tục tập quán sinh hoạt thả rông gia súc, chất thải công nghiệp với chất thải con
người cộng với mùa mưa lũ tập trung dẫn đến dòng chảy bùn cát của sông, suối
ở Sơn La rất lớn đặc biệt là Sông Đà tại điểm Tạ Bú là 16,6Kg/m
3
chứng tỏ tình
trạng ô nhiễm nước mặt gây ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt dân cư, đến canh
tác nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản...
III- CƠ HỘI ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA TỈNH:
1. Cơ hội để phát triển:
Nhà nước quyết định xây dựng thuỷ điện Sơn La đây chính là thời cơ
ngàn năm có một, để thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh chóng, tạo ra
sự đột biến về tốc độ tăng trưởng.
Xây dựng nhà máy thuỷ điện lớn nhất nước trên địa bàn Sơn La cũng là
xây dựng một ngành công nghiệp lớn nhất trên địa bàn tỉnh. Đây là cơ hội phát
triển mạnh các ngành công nghiệp của tỉnh. Trước tiên là ngành công nghiệp
thuỷ điện, sản xuất vật liệu xây dựng giữ vai trò là động lực chính tiếp đến là
công nghiệp chế biến cũng có bước phát triển mạnh.
Đồng thời với thuỷ điện Sơn La công suất 2.400 MW; xây dựng một số
thuỷ điện khá lớn như Huổi Quảng công suất 540 MW, Nậm Chiến 1 công suất
20
200 MW, Nậm Chiến 2 công suất 12 MW, Nậm Chiến 3 công suất 20 MW và
các thuỷ điện nhỏ khác có tổng công suất 307 MW.
Sản xuất vật liệu xây dựng sẽ là một trong những điểm nhấn để tăng tốc

của ngành công nghiệp Sơn La nhằm phục vụ một cách tốt nhất cho việc xây
dựng các công trình thuỷ điện trên. Các ngành công nghiệp như chế biến nông
lâm sản, khai khoáng, phân phối điện nước, cơ khí sửa chữa... đều có cơ hội phát
triển mạnh.
Kết cấu hạ tầng phát triển:
Để xây dựng thuỷ điện Sơn La, Nhà nước đã đầu tư nâng cấp mở mới hệ
thống giao thông, điện cơ sở hạ tầng khác, như quốc lộ 6 đoạn từ Hoà Bình- Sơn
La, đường 105 thị xã Sơn La - cầu Mường La; đường Hát Lót - Nà Co; Cầu Tạ
Khoa, Cầu Mường La... và nhờ có nguồn vốn TĐC trên 1.398 tỷ dành cho xây
dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, điện, nước, trường học, trạm xá... đến các
điểm TĐC. Nhờ có thuỷ điện Sơn La kết cấu hạ tầng của tỉnh phát triển nhanh
sẽ tác động tích cực đến dân sinh, kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh:
Vốn là tỉnh thuần nông, song do có xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La là
cơ hội để tỉnh đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông lâm nghiệp - công
nghiệp xây dựng- dịch vụ hiện nay sang công nghiệp xây dựng - dịch vụ - nông
lâm nghiệp thuỷ sản.
Nhiệm vụ di dân TĐC là trách nhiệm của tỉnh ta đối với Trung ương, với
cả nước, để đảm bảo tiến độ xây dựng công trình, mà còn là thời cơ để sắp xếp
lại dân cư, xây dựng địa bàn sản xuất, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng nhất là
ở nông thôn, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng
hoá, hình thành các vùng sản xuất tập trung các loại cây, con có giá trị kinh tế
cao, gắn với công nghiệp chế biến góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung
cả tỉnh. Công trình thuỷ điện Sơn La với nhu cầu rất lớn về vật tư nguyên liệu
(đất, đá, cát, sỏi, xi măng, gạch...), về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng, về
lực lượng lao động thuộc nhiều ngành nghề là thời cơ cho Sơn La phát triển sản
xuất và tạo việc làm cho người lao động.
Công trình thuỷ điện Sơn La bản thân nó là một sự kiện lớn, song còn lớn
hơn là những tác động ảnh hưởng sâu rộng của nó đến phát triển kinh tế - xã hội
và môi trường Sơn La, một tỉnh đang phát triển trong một khu vực chậm phát

triển, nghèo nhất nước. Nhận thức được đầy đủ, sâu sắc và biết chớp lấy thời cơ
thì có điều kiện để tăng tốc và phát triển bền vững, ngược lại thời cơ sẽ qua đi
và sẽ bị thua thiệt.
2. Xu thế hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là yêu cầu khách quan trong điều
kiện quốc tế hiện nay. Môi trường hoà bình, hợp tác,hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng thuận lợi tạo điều kiện để chúng ta phát huy nội lực, tranh thủ ngoại
lực bằng nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị
trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đây là những cơ hội để
21
Sơn La tạo ra những bước phát triển mới, Sơn La có chung đường biên giới với
nước bạn Lào dài 250 Km với 2 cửa khẩu quốc gia Chiềng Khương (Sông Mã);
Pa Háng (Mộc Châu). Có điều kiện để hình thành 2 trục Đông Tây trên địa bàn
Sơn la đó là; Trục nối Xầm Nưa (CHDCND Lào) - Pa Háng (Mộc Châu) - Phù
Yên - hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng
và trục Púng Bánh ( Sốp Cộp), Chiềng Khương (Sông Mã) - Mai Sơn - thị xã-
Quỳnh Nhai - Than Uyên - Lào Cai - hành lang kinh tế Côn Minh (Trung Quốc)
- Hà Nội. Hai trục này cùng với hệ thống đường quốc lộ dọc ngang trên địa bàn
tỉnh tạo thành mạng lưới giao thông khá thuận lợi cho giao thông và đầu tư.
Ngoài ra bằng hệ thống giao thông mới mở với QL 279, QL 32, QL 37
Sơn la hoàn toàn có thể tham gia vào hành lang kinh tế mới: Tuyến xuyên Á
bằng đường bộ, đường sắt nối giữa Singapo- Malayxia - Thái Lan- Myanma -
Trung Quốc - Việt Nam.
3. Xu hướng phát triển của vùng Trung du miền núi (TDMN) phía bắc:
Ngày 1/7/2004 Bộ Chính trị đã có nghị quyết số 37/NQ-TW về phương
hướng phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh vùng TDMN
Bắc Bộ đến năm 2010; trong đó nêu rõ:
“Mục tiêu đến năm 2010 là đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội
vùng TDMN Bắc Bộ cao hơn nhịp độ phát triển chung cả nước. Cải thiện rõ rệt
hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và đảm bảo

quốc phong an ninh của vùng...”
Tháng 4 năm 2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
79/2005/QĐ-TTg về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 37/NQ-TW nêu rõ các nội dung cụ thể thực hiện đến năm 2010. Nhằm
thực hiện thành công Nghị quyết của Bộ Chính trị; một số chủ trương của Đảng,
Chính phủ đã và đang thực hiện trên vùng TDMN phía bắc trong đó có tỉnh Sơn
La sẽ tạo ra cơ hội mới cho sự phát triển, đó là:
+ Xây dựng Đại học Tây Bắc.
+ Dự án bảo vệ phát triển hệ thống rừng phòng hộ lưu vực Sông Đà thuỷ
điện Sơn La và Thuỷ điện Hoà Bình.
+ Dự án nâng cấp quốc lộ 6, QL37, QL 43, QL 4G, đường Sốp Cộp-
Mường Lèo - Mường Lói - Điện Biên Đông, QL 279...
+ Dự án xây dựng Bệnh viện 500 giường vùng Tây Bắc.
Chỉ thị 14/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ V/v hợp tác xây dựng
tuyến biên giới Việt - Lào ổn định và phát triển toàn diện, trong đó có chủ
trương xây dựng kết cấu hạ tầng vùng biên giới, cửa khẩu Lạnh Bánh.
Trên đây là những cơ hội, Sơn La cần nắm bắt để tăng tốc phát triển kinh
tế, xã hội và bảo vệ môi trường rút ngắn khoảng cách so với cả nước.
22
Phần III
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TỈNH SƠN LA GIAI ĐOẠN
ĐẾN NĂM 2020.
I- QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC CHÍNH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở SƠN LA:
1. Quan điểm:
1.1. Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa; chớp thời cơ xây dựng thuỷ điện
Sơn La khai thác tối đa mọi nguồn lực, các chương trình dự án của quốc gia,
quốc tế, liên doanh, liên kết tạo ra những bước đột phá mới để tăng tốc phát triển
bền vững, từng bước rút ngắn khoảng cách với cả nước. Nhanh chóng thoát khỏi
một tỉnh kém phát triển.

1.2. Đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH.
Gắn nguyên liệu với công nghiệp chế biến, đưa công nghiệp nhỏ về thị trấn, về
các trung tâm cụm xã gắn với nông nghiệp nông thôn, tăng tỷ trọng công nghiệp
xây dựng, dịch vụ nhất là thương mại, du lịch, vận tải thông tin liên lạc, tài
chính tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường.
1.3. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, giảm bớt
chệnh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng trong tỉnh.
Đẩy nhanh phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân các
dân tộc vùng đặc biệt khó khăn, thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc, chính sách
xoá đói giảm nghèo.
1.4. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tranh thủ mọi nguồn
lực để đổi mới phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể.
Phát triển mạnh kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp. Tạo môi trường thuận lợi thu
hút vốn và công nghệ mới của các thành phần kinh tế đẩy mạnh đầu tư xây dựng
các vùng kinh tế, khu kinh tế trọng điểm, gắn với phát triển đô thị, các trung tâm
cụm xã, cụm bản trở thành hạt nhân phát triển kinh tế nông thôn (có trên 400
doanh nghiệp vừa và nhỏ).
1.5. Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái; quản lý khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, đảm bảo phát triển bền vững, an ninh quốc phòng an toàn cho nhà máy
thuỷ điện Hoà Bình, Sơn La trước mắt cũng như lâu dài.
23
2. Những nguyên tắc chính:
2.1. Chương trình Nghị sự 21 của tỉnh được xây dựng trên cơ sở phối hợp
liên ngành, liên vùng, liên huyện thị; kết hợp chặt chẽ kế hoạch phát triển bền
vững giữa ngành và các huyện thị vùng lãnh thổ; giữa phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường phải được gắn kết thể hiện rõ trong kế hoạch
phát triển bền vững từng ngành, từng huyện thị và của vùng lãnh thổ; hướng tới
thực hiện triệt để và toàn diện chiến lược phát triển bền vững của tỉnh.
2.2. Quá trình xây dựng chiến lược phát triển bền vững của tỉnh, của các

ngành, của các huyện thị cần có sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, đoàn thể
xã hội, các doanh nghiệp trường học và của mọi tầng lớp nhân dân. Từ xây dựng
các mục tiêu, các chỉ tiêu phát triển bền vững và đến các giải pháp thực hiện đều
được thảo luận bàn bạc để có sự đồng thuận trong các cộng đồng dân cư ở các
địa bàn trong tỉnh.
2.3. Sự nghiệp phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn dân do dân và vì
dân thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Huy
động rộng rãi các cộng đồng dân tộc, các cơ quan, tổ chức đoàn thể xã hội, các
doanh nghiệp tham gia vào khâu:
- Xây dựng kế hoạch hành động và phối hợp thực hiện kế hoạch đó.
- Giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững.
- Lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững của tỉnh của ngành, lĩnh vực
và của huyện thị vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh ngành, của các
huyện thi và của các đơn vị trên địa bàn.
II- MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG:
1. Mục tiêu tổng quát:
Phát triển toàn diện và bền vững, xây dựng Sơn La trở thành một tỉnh có
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ổn định và phát triển bền
vững, xã hội văn minh và có sự bình đẳng giữa các cộng đồng, giữa các vùng trong
tỉnh, môi trường sinh thái được bảo vệ tạo ra sự hài hoà giữa con người và tự nhiên,
đảm bảo an ninh quốc phòng; chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế từ nông lâm
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hiện nay sang công nghiệp xây dựng- dịch vụ - nông
lâm nghiệp; phấn đấu đến năm 2020 trở thành một tỉnh phát triển trong khu vực các
tỉnh miền núi phía bắc.
2. Một số mục tiêu cụ thể:
2.1. Về kinh tế:
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được tốc độ tăng trưởng cao, ổn
định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng cải thiện và ngày càng nâng cao đời sống
nhân dân rút ngắn khoảng cách so với cả nước.
Cụ thể như sau:

24
* Tăng trưởng kinh tế
- Trên cơ sở xây dựng thuỷ điện Sơn La và các ngành phù trợ đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế.
- Đưa tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) theo giá so sánh năm 1994 đạt
4.136 tỷ đồng năm 2010, đạt 8.074 tỷ đồng năm 2015 và đạt 11.792 tỷ đồng năm
2020. Sau 15 năm (2006 - 2020 ) GDP cả tỉnh tăng gấp 5,5 lần và tốc độ tăng
trưởng GDP cả thời kỳ 2006 - 2020 đạt 12 - 12,5%/năm, trong đó giai đoạn
2006 - 2010 là 15%/năm, giai đoạn 2011 - 2015 đạt 14- 14,5%/năm, giai đoạn
2016 - 2020 khoảng 8 - 9%/năm.
- Rút ngắn khoảng cách so với cả nước phấn đấu đến năm 2010 GDP bình
quân đầu người đạt khoảng 600 - 630 USD/người bằng khoảng 63 - 65% cả nước;
đến năm 2020 đạt khoảng 2.200 USD/người/năm bằng khoảng 70 -75% của cả
nước, hiện tại khoảng 42%.
* Cơ cấu kinh tế:
Chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng cộng nghiệp xây dựng, dịch vụ,
giảm nhanh tỷ trọng nông lâm nghiệp; đến năm 2010 cơ cấu GDP sẽ là nông lâm
nghiệp chiếm 28 - 29%, công nghiệp xây dựng chiếm 34 - 35%, dịch vụ chiếm 37 -
38%. Đến năm 2020 tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm xuống còn 21 - 22%, công
nghiệp xây dựng tăng lên 44 - 45%, dịch vụ là 33 - 34%.
a/ Về sản xuất nông lâm nghiệp:
Đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, cơ cấu lao động tăng theo hướng CNH- HĐH, phát triển kinh tế trang
trại, lấy kinh tế hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, các doanh nghiệp, hợp tác xã nông
lâm nghiệp là đơn vị làm dịch vụ 2 đầu cho kinh tế hộ phát triển. Hình thành liên
kết nông - công - dịch vụ - thị trường, đảm bảo phát triển bền vững và đem lại
hiệu quả ngày càng cao, tạo bước chuyển biến mới để nông sản hàng hoá có sức
cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế.
Một số chỉ tiêu chính cần đạt được:
- Tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm nghiệp bình quân cả thời kỳ 2006 - 2020

là 5,28%/năm; trong đó thời kỳ 2006 - 2010 là 4 - 5%/năm; thời kỳ 2011 - 2015 là 5
- 6%/năm; thời kỳ 2016 - 2020 là 4,7 - 5%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông lâm nghiệp bình quân cả thời kỳ
2006 - 2020 là 6,1%/năm; trong đó thời kỳ 2006 - 2010 là 8 - 9%/năm; thời kỳ 2011
- 2015 là 6,5%/năm; thời kỳ 2016 - 2020 là 5,8%/năm.
- Cơ cấu nội bộ ngành đến năm 2010: nông nghiệp 72% (trong đó trồng trọt
72,5%, chăn nuôi 26,5%, dịch vụ 1%), lâm nghiệp 24 %, thuỷ sản 4%; đến năm
2020 nông nghiệp giảm xuống còn 65% (trong đó trồng trọt còn 64%, chăn nuôi
35%, dịch vụ 1%).
25

×