Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đặc điểm văn hóa đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.58 KB, 30 trang )

Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đa văn hóa, là nơi cư trú xen kẻ của nhiều tộc
người từ nhiều thế kỷ với một mối giao lưu rộng rãi và lành mạnh. Trong đó người
Việt là một dân tộc chủ chốt đã khai phá, đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển cho vùng đất này. Do hoàn cảnh của người lưu dân có rất nhiêu phức tạp nên đã
dẫn đến nhiều nét khác biệt trong sinh hoạt cũng như trong tính cách của người dân
vùng đất mới. Người đi khẩn hoan cần có sự tương trợ, đùm bọc lẫn nhau. Sống xa
quê hương, con người cần tình bạn, rất thích giao lưu và luôn luôn hiếu khách “Người
gia định xưa kết nghĩa bạn bè rộng rãi, dựng vợ gả chồng cũng không cần môn đăng
hổ đối cho lắm”. Xuất thân người đi khai hoang thường là kém cõi về chữ nghĩa
nhưng cũng chính vì thế mà họ biết trọng chữ nghĩa, biết quý kẻ sỉ. Người dân Đồng
bằng sông Cửu Long có tiếng là trọng chữ nghĩa khí, tính tình hào phóng cởi mở, bọc
trực. Tuy vậy bên cạnh đó người miền nam cũng nhận thấy khuyết điểm nóng nảy
thiếu kiên nhẫn thâm trầm, trực tính đến thẳng đuộc… Khi những lưu dân đến đây, ít
nhiều họ là người có đầu óc phiêu lưu, mạo hiểm, dám chấp nhận hiểm nguy, nói cách
khác đó là những con người bị buộc phải đi đến nước liều, cho nên họ coi nhẹ tính
mạng thích sống ngang tàng, dám đương đầu với thử thách, khó khăn.song cũng phải
thừa nhận rằng chính công việc mở mang vùng đất mới, đầy dãy khó khăn, hiểm nguy
cũng đa góp phần toi luyện họ thành những con người can trường gan góc, không chịu
lùi bước trước trở ngạy thiên nhiên cũng như không chịu lùi cúi trước sức mạnh phi
nghĩa “Trời xanh cây cứng lá gai, gió lai mặc gió chiều ai không chiều”. Không phải
thiên nhiên ở đây đã hào phóng dành cho họ mọi thứ cần thiết mà là tự bản thân họ
phải tự phấn đấu cam go, khắc phục vô vàn khó khăn trong quá trình chinh phục cải
tạo môi trường thiên nhiên, tạo lập nên cuộc sống mới. Cuộc chiến ấy đã đòi hỏi một
tinh thần kiên trì và một ý thức liên kết rộng rãi để tạo nên một sức mạnh cộng đồng
và một tình cảm gắn bó cùng nhau chia ngọt xẻ bùi. Trong điều kiện môi trường khí
hậu độc địa, lại đầy rẩy thú dữ, rắn rết, muỗi mồng, những người ngư dân không thể
sống đơn độc. Họ phải có ý thức cộng đồng tương thân tương ái, họ kết thành chòm
xóm để dựa vào nhau làm ăn sinh sống, đùm bọc giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn,
đoàn kết cùng nhau chống lại thú dữ cũng như trộm cướp cường hào ác bá. Nam bộ là
một vùng đất có môi trường thiên nhiên vô cùng phong phú và đa dạng và chính môi
trường thiên nhiên nam bộ với những đặc điểm riêng biệt của nó, cũng đã để lại nhiều


dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần cũng như trong việc hình
thành tính cách của con người sinh sống ở đây trong quá trình tìm hiểu về con người
Việt ở Nam Bộ qua đó ta thấy rõ hơn phẩm chất của cong người Việt Nam với những
nét đặc trưng về tư duy và hành động trên vùng đất mới, từ thử thánh xuyên suốt 400
năm tính đến nay. Dĩ nhiên, con người làm nên lịch sử của mình trong những điều
kiện và hoàn cảnh nhất định, nhưng cũng chính từ thực tiễn đấu tranh và xây dựng
cuộc sống mà phát huy được những phẩm chất truyền thống vốn có. Đất đai Nam Bộ
màu mỡ và khắc nghiệt, cách đây hơn 300 năm hay trong thời đại hiện nay, người dân
Nam Bộ vẫn mang tâm hồn khai phá để hiểu và chinh phục vùng đất này. Và những
con người Nam Bộ, những con người dám “Đuổi Pháp đi rồi nay đuổi Mỹ xâm lăng”,
những con người dám “xả thân vì đại nghĩa”, trước kẻ thù không sợ mất con, trước an
hem bè bạn không tính thiệt hơn, những Vân Tiên, Hớn Minh của thời hiện đại “Giữa
đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”. Người Việt Nam Bộ từ thuở mang gươm đi
mở cõi sớm định hình cho mình những nết văn hóa riêng, những tâm hồn phóng
khoáng, những tính cách độc đáo, rất đỗi bình thường nhưng không tầm thường chút
nào.
Nói đến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là nói đến vùng sông nước rất đặc thù,
không chỉ của Việt Nam mà cả thế giới. Sông ở cửa sau nhà, sau lưng nhà, sông chạy


cặp theo những con lộ, luồn lách qua những xóm nhỏ, sông ôm ấp những cù lao, những
rặng dừa nước soi bóng... sông bình lặng cứ êm trôi, khiến cho khách phương xa tới
cảm nhận như có một cái gì bí hiểm cần được khám phá, vừa cảm thấy thanh bình dễ
chịu khi đặt chân đến một vùng đất hữu tình. ĐBSCL là ngôi nhà chung của 13 tỉnh,
thành miền Tây Nam bộ: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà
Vinh, Sóc Trăng, TP.Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu và Cà Mau,
rộng 40.000km2, với 600km bờ biển ôm bọc cả ba bề.
Do nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác động của môi trường thiên nhiên đã hình thành
nên tính cách người Nam Bộ. Ngoài tính hiếu khách, tính bộc trực, mạnh mẽ , hào phóng và đôn
hậu, người Nam Bộ còn biết bao nét đẹp truyền thống đáng trân trọng như tính nghĩa khí hào

hiệp, tấm lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và giàu nghị lực. Đặc biệt phụ nữ miền
Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng lại khéo tay, chiều chồng nhưng đáng quý nhất là sự hy sinh cho
chồng con, cho quê hương, đất nước. Điều đó đã được minh chứng suốt quá trình hơn 300 năm
lịch
sử
của
Nam
Bộ.
Miền Nam đã trải qua chiến tranh, bom đạn ác liệt nhưng miền Nam kiên cường, bất khuất và
miền Nam xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng của Tổ quốc". Dưới ánh sáng của nghị quyết
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đang phát huy nội lực nhằm làm dân giàu, nước
mạnh, miền Nam sẽ cùng cả nước tiến lên tạo cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Mỗi miền có một nét văn hóa mang màu sắc địa phương nằm trong nền văn hóa
chung của đất nước: Không được xa rời bản sắc chung, song cũng không nên đánh
mất bản sắc của từng vùng. Ngày xưa, vua Minh Mạng khi phân chia các tỉnh (phần
lớn vẫn tồn tại cho đến hôm nay) đã chỉ rõ: việc phân chia tỉnh chủ yếu dựa trên yếu
tố địa lý và mối quan hệ cộng đồng.

Mối quan hệ cộng đồng là văn hóa của từng địa phương, một lối sống đặc thù, quan hệ
giữa người với người đậm nét địa phương, một truyền thống dân cư lâu đời…
Vùng đất Nam Bộ, vùng đất Sài Gòn đã hơn 300 năm tuổi. Dù gốc là dân Thanh Hóa
theo Nguyễn Hoàng, “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", là dân miền Trung vào
Nam bằng đường biển trên các ghe bầu hoặc gồng gánh dắt díu nhau vượt núi đèo, là
dân tứ trấn quanh Thăng Long xưa... nhưng khi đã sống trên mảnh đất mới, hoàn cảnh
mới này đều hình thành một tính chất Nam Bộ khá rõ nét.
Tính bộc trực
Trong dân gian còn lưu truyền câu "Ăn mặn nói ngay" để nói lên tính cách người miền Nam. Lý
giải cho câu thành ngữ này phải dựa trên cơ sở lịch sử và đời sống thực tế Nam Bộ. Như đã nói,
họ là những lưu dân đến đây chủ yếu bằng đường biển, suốt hành trình lênh đênh giữa sóng to

gió lớn để chống lại giá rét, chống lại những cơn cuồng nộ của biển cả... buộc họ phải tìm cách
đảm bảo mạng sống và sinh tồn. Để lặn sâu dưới nước, thường người ta hay uống nước muối;
giữ cá được lâu thì muối hoặc làm mắm... Dần dần mà khẩu vị của người đi biển trở nên mặn
mà hơn so với người ở đất liền. Trong bữa ăn truyền thống của người miền Nam không bao giờ
thiếu được món kho như: thịt kho, cá kho, mắm kho hoặc cá muối chiên hay khô mặn, ba
khía... Đặc biệt bất kỳ nhà giàu có hay nghèo hèn, dù bữa ăn bình dân hay tiệc tùng lễ lạt giữa
nhà hàng sang trọng đều có chén nước mắm trong mâm thức ăn dùng làm nước chấm.
Tính mạnh mẽ
Người miền Nam trong lịch sử khẩn hoang Nam Kỳ là những người luôn luôn đương đầu với
nghịch cảnh, bởi thế họ không có thì giờ để con cà con kê, nếu cần diễn đạt thì nói một cách dứt
khoát, ngắn gọn, trực tiếp và rõ ràng. Vì lênh đênh giữa biển, sóng vỗ ì ầm, trời nước mênh
mông nên tiếng nói của con người bị át đi. Cho đến khi lên bờ khai khẩn thì đất rộng người thưa,
cây cối um tùm, phương thức lao động không phải tập đoàn hay hợp quần mà thủ công - riêng
lẻ, khi cần gọi nhau để trao đổi thì phải hét to hoặc dùng tiếng động lớn làm ám hiệu cho nhau,
bởi vậy mà người miền Nam cho tới sau này vẫn còn ăn to nói lớn.
Tính đôn hậu


Người miền Nam luôn chân tình, cởi mở và dễ hòa mình. Xét trên góc độ khoa học, đó là sự hội
nhập giao lưu và hòa đồng giữa cộng đồng các dân tộc. Khi người Kinh đặt chân đến Nam Kỳ thì
ở đây đã có người Khmer, người Hoa sinh sống. Tuy phong tục mỗi dân tộc mỗi khác nhưng tất
cả như có một mẫu số chung là tinh thần nhân ái. Trong ngôn ngữ miền Nam hiện nay vẫn còn
tồn tại những tiếng có nguồn gốc Khmer và Hoa như: mình ên, cà tha, xiêm lo, xích xái, lì xì,
thèo lèo, xí muội, thò lò... Còn địa danh ở Nam Bộ có những tên đi vào lịch sử như: Sa Đéc, Sóc
Trăng, Bãi Xáu, Chắc Cà Đao...
Thông thường mỗi khi giỗ chạp, Tết nhất hay mỗi khi bày cỗ cúng kiến, người miền Nam ngoài
việc dọn cỗ trên bàn thờ ông bà, cha mẹ... còn có một mâm riêng được bày lên trước cửa nhà
để cúng gọi là "mâm đất đai". Mâm thức ăn này để cúng các bậc tiền hiền đã có công khai phá
vùng đất hiện tại cùng những người khuất mặt khuất mày đã bỏ mạng nơi đây mà không nơi
nương tựa. Trước khi khấn vái ở bàn thờ gia tiên thì gia chủ phải thành tâm trước "mâm đất

đai", xem như một thủ tục trình báo với "sở tại". Điều này nói lên tấm lòng người miền Nam
nhân ái, vị tha, giàu tình người mà bà con ta gói gọn trong hai tiếng "biết điều".
Những người dân hiếu khách
Những cư dân Đàng Ngoài từ chỗ có làng xã, sinh hoạt lề thói nhiều đời đến nơi ở mới tứ cố vô
thân lại thêm phong thổ khắc nghiệt... đã làm cho họ trở nên bản lĩnh và đặc biệt là rất hiếu
khách. Hiếu khách có lẽ là nét đặc trưng, là cá tính độc đáo của người miền Nam, bởi họ rất cần
người để tâm sự, để giãi bày những nỗi niềm sâu kín hoặc để uống với nhau ly rượu giải sầu cái sầu ly hương - hay để hàn huyên chuyện xứ sở Đàng Ngoài, nơi quê cha đất tổ. Trong sinh
hoạt láng giềng Nam Bộ hiện tại, ta thấy có nhiều tiệc tùng, nhậu nhẹt, đám cưới, đám giỗ, thôi
nôi, đầy tháng, tân gia... mà người được mời ít khi từ chối, mặc dù hiểu rằng "ăn bữa giỗ lỗ bữa
cày". Họ đến đó không phải vì rượu thịt, vì miếng ngon vật lạ mà vì "phải quấy" - nói theo tiếng
bà con miền Nam hay nói. Ai không đi, không dự được thì gởi bao thư, lễ vật và xin cáo lỗi; còn
nếu như làm thinh, không có "phản hồi" gì hết là "có vấn đề"! Từ những bàn tiệc này mà đôi khi
nảy sinh những quan hệ tình cảm mới như: kết nghĩa thông gia, kết nghĩa tri âm tri kỷ hoặc kết
nghĩa anh em...

Đó là tính cương trực, dũng cảm đã hun đúc từ những cuộc chiến chống thú dữ, chống
giặc cướp, chống sự truy lùng của quan quân nhà Nguyễn, chống lại sự tàn bạo của
thực dân Pháp…
Đó là tính giản dị trong cuộc sống do lặn lội giữa đồng nước, nắng gió, rày đây mai
đó trên sông rạch, bưng biền nên sắm quần áo làm chi, dựng nhà cửa bền vững làm
gì...
Đó là tinh thần lao động hăng hái, có kỹ năng nghề, luôn cải tiến phương tiện để phù
hợp với điều kiện làm việc. Người nông dân Nam Bộ nào cũng biết đẽo cày, đóng
bừa, làm cộ... Từ nền kinh tế xã hội ở miền Bắc, họ đi vào nền kính tế tự túc từng tốp
nhỏ trên đất Nam Bộ nên phải tự lực cánh sinh, tìm cách làm ăn cho phù hợp.
Đó là tinh thần đùm bọc thương yêu nhau, lá lành đùm lá rách, sống thủy chung đã
hình thành từ ngày mới đặt chân đến vùng đầy hoang sơ này.
Hôm nay bình tĩnh nhìn lại những suy nghĩ, việc làm của mỗi người dân Nam Bộ,
chúng ta thấy vui vì truyền thống tốt đẹp vẫn được phát huy nhưng cũng buồn vì một
số việc làm xa lạ với nếp sống văn hóa Nam Bộ.

Chúng ta vui bởi tấm lòng yêu thương nhau, tinh thần lá lành đùm lá rách vẫn được
phát huy, biểu hiện qua các phong trào như xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương
phong trào vì người nghèo, vì người tàn tật, phong trào cứu giúp người bị thiên tai...
đã lôi cuốn triệu triệu người. Hay truyền thống sáng tạo trong lao động đã làm náy
sinh những cách nghĩ, cách làm mới, phong trào mới con người mới trên cả nước, đặc
biệt sôi nổi ở vùng đất Nam Bộ. Điều vui mừng hơn cả là cư dân Nam Bộ - đặc biệt là
lớp trẻ ngày càng chú trọng đến học tập bởi vậy tỉ lệ đỗ đạt, thành tài nhiều hơn và đã


có không ít nhưng nhà khoa học lớn lên từ mảnh đất mà xưa kia việc học tập vốn bị
xem nhẹ. Bởi lẽ, khi xưa người dân có thể kiếm được miếng ăn băng lao động đơn
giản cho nên việc học không quan trọng, còn bây giờ, phải học để đi tới văn minh, để
xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân ấm no.
Đấy là những đặc trưng về một nền văn hóa Nam Bộ việc tốt đẹp mà chúng ta ghi
nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhạn lại những việc làm xa lạ với những gì
tốt đẹp của ông cha.
Đã có người tôn trọng nét văn hóa Nam Bộ song chưa trọng người và cách sống văn
hóa của các khu vực khác. Họ không hiểu lịch sử nguồn gốc gia tộc trên đất Nam Bộ
gây nên mất đoàn kết, chia rẽ giữa các địa phương. May sao, đó chỉ là suy nghĩ của rất
ít người mà không phải là cách nghĩ của nhân dân.
Ông cha ta vốn sống giản dị, biết đoàn kết, đùm bọc nhường nhịn nhau trong cuộc
sống. Vậy mà thế hệ hôm nay không ít kẻ ăn nhậu xa phí, quên hẳn bà con đói nghèo.
Họ phung phí tiền bạc khác, xa tính giản dị chân chất của ông bà. Một số kẻ dối trên,
lừa dưới để ăn cắp của công, nhũng nhiễu nhân dân… xa lạ với cách sống trung thực,
quây quần bên nhau, đói no cùng chịu, cùng hưởng của cha ông.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đã thâm nhập vào từng xóm ấp vốn thanh
bình nơi thôn dã. Việc tranh chấp một đường đi, một mảnh đất cũng có thể biến thành
một trận ẩu đả, đánh nhau ầm ĩ, kiện tụng khắp nơi. Những lớp trẻ thôn quê vốn trong
sáng, hồn nhiên cũng đã có mặt ở những tụ điểm đen nơi đô thị…
Những mảnh đất hiền hòa bên kinh rạch, bên những vườn cây xanh tốt bây giờ đều đã

nóng bỏng, bị cuốn hút vào nhịp sống xa lạ với nền văn hóa Nam Bộ. Sài Gòn Trung
tâm lớn của Nam Bộ cũng đang dần đánh mất những nét đẹp văn hóa của cha ông…
Đây là trách nhiệm của tất cả chúng ta phải gạn đục khơi trong, cố gắng gìn giữ, bảo
tồn bản sắc văn hóa Nam Bộ.

Tính cách Nam bộ qua biểu trưng ca dao


Biểu trưng với tinh thần trọng nghĩa khinh tài

Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những con người
sẵn sàng xả thân mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là hợp
với đạo lý và lòng trung thành. Lục Vân Tiên, Hớn Minh của Nguyễn Đình
Chiểu cũng là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần "Nhớ câu kiến
nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng". Tác giả ca dao Nam bộ
thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó. Trọng nghĩa là thái độ
ứng xử của người Việt Nam nói chung chứ không riêng của người Việt Nam
bộ. Có điều, đây là một nét trội trong tính cách của người dân vùng đất mới.
Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều
lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn tương cứu, sanh tử
ảnh Trương Công bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào hiệp. Trọng nghĩa gắn
Khả
với khinh tài. Nếu người xưa đã từng cay đắng nhận rằng "nén bạc đâm toạc
tờ giấy" hoặc chua chát "có tiền mua tiên cũng được" thì tác giả ca dao Nam bộ khẳng định:
Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.



Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ý nghĩa biểu trưng. Sự đối
lập của hai hình ảnh nầy chính là sự đối lập giữa cái tầm thường và cái cao quí. Nếu có cái
gọi là bên trọng bên khinh thì nghĩa là bên trọng, tiền tài là bên khinh. Bài ca trên còn một dị
bản như là bằng chứng về sự phổ biến của thái độ trọng nghĩa khinh tài:
Tiền tài như phấn thổ,
Nhân nghĩa tựa thiên kim
Đứt dây nên gỗ mới chìm
Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi.
Biểu trưng vàng trong bài ca trên đã từng được tác giả ca dao Nam bộ sử dụng. Nghĩa khái
quát nhất, tập trung nhất của vàng là biểu trưng cho cái quý giá. Đó là cái quý giá về vật chất,
quý giá về tinh thần và con người quý giá. Vàng trong lòng vàng biểu trưng cho lòng chung
thủy trong tình yêu:
Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.
Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói nghĩa đá vàng. Ở đây
tác giả dân gian không nhầm so sánh giá trị hơn kém giữa chúng mà hướng tới đặc điểm
chung của hai loại chất. Đá và vàng đều có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng
biểu trưng cho nghĩa sắt son:
Ví dầu nước chảy đá mòn,
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương.
Người nghĩa khí một mặt sẵn sàng xả thân vì nghĩa xem tiền tài như cỏ rác, một mặt chấp
nhận cảnh sống bần hàn để giữ tròn đạo nghĩa qua hình ảnh biểu trưng của hai đại đệ tử
Khổng giáo, Tăng Sâm và Tử Lộ:
Anh tỉ phận anh
Thà ở lều tranh
Như thầy Tăng, thầy Lộ,
Chớ không ham mộ
Của Vương Khải, Thạch Sùng,
Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá bao.
Ca dao Bắc bộ (ca dao các vùng khác nói chung) không thiếu những bài nói về tình nghĩa,

nghĩa bạn bè, nghĩa đồng bào, tình nghĩa lứa đôi... với những hình ảnh biểu trưng như bầu
bí, nhiễu điều - giá gương... bằng một giọng điệu nhẹ nhàng:
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
(Ca dao Bắc bộ)
Ca dao Nam bộ cũng với tinh thần trọng nghĩa ấy nhưng được thể hiện bằng tình huống và
thái độ mạnh mẽ với biểu trưng sống qua hình ảnh ruột thắt gan bào:
Ngó lên trời mây bay vần vũ,
Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước,
Nhìn sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Đạo nghĩa hay điệu nghệ là luật lệ riêng của lưu dân thời kỳ khai hoang, những người bị giai
cấp cầm quyền coi là kẻ tiểu nhân dốt nát. Lưu dân thú nhận sự dốt nát của họ bằng thái độ
tự tôn. Họ bất cần bọn quan lại và luật lệ của chúng, để rồi hướng tới tinh thần điệu nghệ.


Điệu (đạo), là lòng từ bi bác ái, tình nghĩa giữa con người, Nghệ (nghĩa) là nghĩa khí, không
lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn ở thủy chung, kết giao không tính
toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người... Quan niệm điệu nghệ tạo nên một kiểu anh hùng,
một kiểu quân tử bình dân. Biểu trưng chim quyên, một biểu trưng riêng của ca dao phương
Nam, là hình ảnh của kiểu quân tử bình dân đó:
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than.
Chính quan niệm điệu nghệ đề cao con người không phải ở tiền bạc, địa vị, dòng dõi mà ở
thái độ sống tích cực, sống có nghĩa khí, sống với tinh thần: "bần tiện chi giao mạc khả vong,
lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Quan niệm điệu nghệ cho người ta luôn luôn mở rộng cửa
đón tiếp mọi người không phân biệt tốt xấu giàu nghèo trong quá khứ. Nếu biết điệu nghệ thì
mọi việc có thể giải quyết trong tình anh em không cần đến pháp luật và quan lại: Đấng

trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng oán mới hay.
Cuối cùng, người nghĩa vẫn là những con người bình dị qua hình ảnh "con chim nho nhỏ"
trong ca dao Nam bộ. Công thức "con chim nho nhỏ" thường mở đầu cho lời khuyên nhủ,
mong ước. Lời khuyên nhủ thường phải là lời của một ai đó cho nên hình ảnh trên biểu trưng
cho con người biết trân trọng, giữ gìn đạo lý:
Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,
Nó kêu người ở trong làng,
Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô.


Biểu trưng với tính cách ngang tàng

Lối sống ngang tàng là hệ quả của tinh thần nghĩa khí hào hiệp trong con
người Nam bộ. Những con người tứ chiếng từ những huyện phủ khác nhau
về vùng đất mới mang trong mình nhiều chất phản kháng, ít chịu sự ràng
buộc của lễ giáo, không bao giờ bị khuất phục. Họ chấp nhận mọi hiểm nguy,
mọi thử thách (nắng mai - mưa chiều) thậm chí trong những hoàn cảnh nhất
định, họ đã phải liều:
Ra đi là sự đánh liều,
Nắng mai không biết, mưa chiều không hay.

ảnh Trương Công
Khả

Cho dù phải luôn luôn đối mặt với tình huống khó khăn kiểu nắng mai - mưa chiều, người
Nam bộ vẫn muốn khám phá cuộc sống bất chấp non cao sông sâu:
Lên non mới biết non cao,
Xuống sông mới biết chỗ nào cạn sâu.

Con người Nam bộ ngang tàng được thể hiện qua các biểu trưng chim, cây là con người
cứng cỏi giữa cuộc đời. Chim biểu trưng cho con người sống giữa cuộc đời rộng lớn, đầy
biến động. Đó là con người đi xa, người có chí khí thường là người đàn ông. Đó là chim trong
các hình ảnh cánh chim hồng, chim khôn, chim kia sớt cá, chim trên rừng, chim bay về rừng,
chim bay, chim trời, cánh chim...
Bể sâu con cá vẫy vùng,
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.
Cây cứng lá dai là khí phách của người không biết luồn cúi, không sợ uy quyền:


Trời sinh cây cứng lá dai,
Gió lay mặc gió chiều ai không chiều.
Ngang tàng có nghĩa là dám sống, sống hết mình đúng với chính mình, dám tin vào chân lý
cuộc sống, tin vào tình yêu như hình ảnh cây khô chết đứng:
Cây khô chết đứng giữa trời,
Chết thời chịu chết không quên lời anh than.
Chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, người Nam bộ coi nhẹ tính mạng nên sống
ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ hiểm nguy cũng góp phần tôi
luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng, ngang tàng ở đây không phải là phá phách,
là làm loạn. Ngang tàng là một nét nhân cách Nam bộ, đó là những con người không chấp
nhận sống mà phải cầu xin, phải khuất phục trước bạo lực. Đó là những con người vươn tới
những điều to tát, không quan tâm đến những cái vụn vặt. Có thể trong cuộc sống hiện đại,
đây đó vẫn có những con người Nam bộ tầm thường. Điều này không có gì lạ. Nhưng trong
ca dao, người Nam bộ hướng tới một cánh nhạn bay cao quí mà không thèm để ý đến chim
sâu tầm thường. Và nếu chàng trai nào chỉ muốn bắt chim sâu thì sẽ bị chê cười:
Bình tích thủy đựng bông hoa lý,
Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu,
Trách ai làm trai hưu nhãn vô châu,
Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng.
Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra

vuông. Một số không ít ca dao Nam bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng các phân biệt rạch ròi
giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:
Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.
Tóm lại, tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con người yêu nước có
tinh thần dân tộc đã từng dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm... Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra
hai nét nổi trội của tính cách người Việt Nam bộ được khắc họa trong ca dao.

Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động
của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì
thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của
cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình
Chiểu. Trên cương vị của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của
Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ
ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn
hóa Việt Nam.

So với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất
rộng người thưa. Người dân thảnh thơi : vừa làm vừa chơi cũng đủ
ăn”. Chúng ta thử nhìn kỹ hơn để tìm hiểu nhờ đâu có sự thảnh thơi
ấy. Sông Cửu Long chảy dài từ Tây Tạng uxống Nam Hải (nay ta
gọi là Biển Đông – BTV), mỗi năm một mùa lụt (gọi làm ùa nước
lên, mùa nước nổi), hai bên bờ sông tuyệt nhiên không có bờ đê, từ
hồi Vương quốc phù Nam đến vương quốc Chân Lạp vẫn thế. Đất


rộng người thưa, không đủ nhân công, vả lại vào mùa nước lụt hãy
còn nhiều giồng đất cao ráo không bị ngập, đủ chỗ cho dân cư ngụ.

Phù sa tràn vào ruộng, làm cho đất thêm màu mở. Cá tôm cũng theo
nước mà vào rạch, xuống địa, hoặc vào mấy khu rừng cầm thủy,
thường là rừng tràm, tha hồ sanh sôi nẩy nở.
Không có để thì cứ canh tác theo thời tiết và phỏng đóan mực nước
tối đa vào mùa nước nổi, có xê dịch vài tất cũng không đủ gây tai hại
đói kém; ngày đêm khỏi phải làm công tác dắp đê hoặc gìn giữ để
hco khỏi vở, như trường hợp ở Bắc phần.
Mực nước lụt đôi khi thay đổi, gây thiệt hại những chỉ là từng địa
phương nỏ. rủi như mùa màng bị tiêu hủy thì dân ở địa phương này
có thể tìm lúa ăn do các vùng phụ cận cung cấp. Nạn lụt gây cảnh cết
chóc hàng trăm người dương như mỗi thế kỷ chỉ xảy ra một đôi lần
mà thôi. Bão tố ở Nam phần tuy có những quá nhẹ, so với miền
Trung. Đại khái, khi cân nhắc lại những thiên tai hạn hán, đồng bào
ở Nam phần chỉ biết dẫn chứng trận bão lụt năm Giáp thìn (1904)
gây thiệt hại cho tỉnh Gò Công. Hoặc nạn cào cào chỉ xảy ra một lần
ở Gò Công vào năm Ất tỵ (1905). Năm sau, cũng ở Gò công xảy ra
nạn “bạch đồng”, trời cứ nắng suốt mùa mưa, lúa không cấy được,
nước dưới sông không lớn không ròng.
Đã khỏi gìn giữ tu bổ bờ đê, người dân lại được nhẹ công việc canh
tuần. Làng ở Nam phần không có lũy tre bao bọc. Hình thế của làng
thường là chạy dài theo hai bờ sông bờ rạch, với một lớp nhà: mé
rạch, đường mòn rồi đến nhà, phía sau là vườn rồi ruộng. chỉ ở nơi
ngã ba sông hoặc ngã tư thì nhà cửa mới đông đúc hơn, trở thành
những cợ nhỏ. Ranh giới của làng thường thay đổi, trồng tre chỉ là
để tạo bóng mát chung quanh nhà, có thêm vật liệu dùng vào việc lặt
vặt, thế thôi. Vả lại, không tài nào canh phòng nổi một làng dài bảy
tám cây số ngàn hoặc dài hơn nữa, với số dân ít ỏi. Bọn cướp trộm
cứ chạy ra ngòai ruộng hoặc bơi xuồng qua làng khác bên kia bờ
rạch, bên kia cánh đồng.
Nói chung thì khí hậu ở miền Nam không được tốt cho lắm. Ở Bắc

phần, nếu miền Thượng du nhiều sơm lam chướng khí thì vùng hạ
lưu lại trong lành, với hoa bướm của bốn mùa khá rõ rệt.
“Miền Nam với mưa nắng hai mùa đã người bức, ẩm thấp lại còn là
nơi mà muỗi mòng, kiến ,mọt mối, rắn rít, đỉa vắt tha hồ sanh sôi
nẩy nở. Khi mùa nắng sắp chấm dứt, bịnh dịch thường xảy ra, lại
còn bịnh kiết, bịnh rét rừng với những biến chứng như đau ruột, đau
gan. Ngày qua ngày, với sự khia thác đất đai, bụi rậm và nước đọng
bớt dần. Ta không nên phỏng định quá thẩy về tỷ lệ người chết vì


bịnh, hàng năm, trước khi có chích thuốc ngừa, trồng trái. Khi mới
chiếm Nam Kỳ, người Pháp rất bi quan và nhận định rằng không thể
nào định cư được, chỉ là ở tạm rồi về. Họ sơ muỗi mòng, sợ nắng
chói, sợ rắn, sợ những buổi chiều vào đầu mùa mưa, nắng người bức
rồi mưa rơi và sấm sét liên hồi.
Về đất phù sa, chúng ta nên nhìn kỹ và tránh những ảo tưởng cho
rằng đồng bằng sông Cửu Long quá phì nhiêu. Ở vùng đất rộng này
có nhiều “tiểu hình thể” khác nhau: nơi nước mặn, nước phèn, nơi
nước ngọt; nơi ngập lụt gần như sình lầy mãn năm, nơi cao ráo; nơi
làm ruộng làm vườn được, nơi thì hoang vu, cỏ lác, dưng, cỏ năn
mọc lưa thưa.
Phù sa được gọi nôm na là đất mở gà, bãi sinh. Nước có phù sa gọi
nôm na là nước đỏ, nước son. Nhiều vùng đất ở sát bờ Tiền Giang
hoặc Hậu Giang tuy quanh năm nước ngọt nhưng đất quá xấu, lần
hồi trở nên cằn cổi vì nước son, nước đỏ chở đầy phù sa cư trôi đi
tuốt, không tích tụ lại được. không cứ ở bờ sông cái là sống thong
dong, tha hồ trồng cam trồng quít. Chúng ta thử xem khung cảnh vài
nơi ở Long Xuyên – Châu Đốc hoặc Đồng Tháp Mười buồn bả. Tuy
là ở gần sông Tiền và sông Hậu những cánh đồng giữa Sa Đéc, Long
Xuyên quá nhàm, thua xa vùng Tân An, Cần Giuộc là nơi có con

sông kém quan trọng hơn chảy qua.
Muốn cho phù sa kết tụ (trầm tích) lại, cần rất nhiều điều kiện.
- Nước ngọt và nước mặn gặp nhau.
- Trên đất giồng ở bờ sông có lùm bụi nhiều, như lác, sậy, cỏ tim
bấc, lục bình.
- Sông già, không chảy thẳng, cón hiều nơi uốn khúc, có doi có vịnh.
“tiền Giang sông già, nên trầm tích, trái lại Hậu Giang còn sức vận
chuyển mạnh nên không trầm tích nhiều.
“Mặt khác, các giồng ven sông Tiền Giang quan trọng ở Mỹ Tho, có
lẽ là do sự xâm thực triền lỏm của các nếp uốn, và vì sức vận chuyển
của sông yếu nên có sự bồi đắp của khối vật liệu liền theo đó”
Tiền giang đón nhận nhiều phù sa hơn Hậu giang, và trên Tiền
Giang, vùng mỹ Tho là nơi được ưu đãi nhứt, với những con rạch
đón nhận phù sa và cù lao phì nhiêu giữa sông cái.
Suốt hai bên bờ Hậu giang thuộc Việt Nam, chỉ riêng con rạch Bình
Thủy, rạch Cần Thơ là trù phú, có thể so sánh với Miệt Vườn bên
tiền Giang.
Vùng Mỹ tho quả thật là địa đàng với những con rạch nhiều nhánh
nhóc như Cái thia, Cái Bè, Rạch Gầm, cù lao Năm Thôn.


Đáng chú ý là phía bên kia Cái Bè, còn vùng Chợ Lách, Cái mơn
lừng danh. Rạch Sa Đéc ở hữu ngạn Tiền Giang cũng được ưu đãi.
Phù sa trôi vào rạch, vào mương vườn, vào ao; khi nước ròng, trên
cầu ao hệin ra một lớp bùn non, gọi là đất mỡ gà (màu giống như mỡ
gà) dày đến mức hễ vô ý bước xuống là có thể trượt té. Người làm
vườn móc đất dưới mương, hai năm một lần, bằng không thì mương
cạn.
Ruộng vườn tốt, rau cải cũng tôt, cá tôm dư ăn trong gia đình, quanh
năm nước ngọt, mùa nước nổi nhà không bị ngập, muốn đi xóm hoặc

chở chuyên hàng hóa thì dùng đường htủy, ngòai huê lợi ruộng còn
huê lợi vườn.
Quãng đường từ Sầm Giang, Mỹ Đức Tây, Cái Cối , Trà Lọt, An
Hữu đến bến đò Mỹ Thuận: xòai xum xuê hai bên bờ rạch, vườn
tược xanh um, với một mẫu đất là dư sống. Bến đò Mỹ Thuận phô
bày tất cả tặng phẩm của sông Cửu Long: nào trái ngon, cơm trắng,
tôm, ổi, mứt chuối.
Nhờ khả năng thích ứng với hòan cảnh và biết tổng kết kinh nghiệm
về trồng tỉa ngay ở những vùng hẻo lánh bất lợi, nên nếp sống con
người lần hồi trở nên thuần thục. Nhà cửa chú trọng vào cách bố trí
những bộ cán để nghỉ ngơi trong mùa nực. Về trồng tỉa, tuyển chọn
lọai cây thích hợp với chất đất ở địa phương để rồi trở thành sản
phẩm độc đáo: cam Cái Bè, chôm chôm Cái mơn, vú sữ Lò rèn Vĩnh
Kim, quít Sa Đéc, quít và cam ở Bình Thủy, Phong điền (Cần Thơ).
Về thức ăn: chọn những món” cây nhà lá vườn” tuy là tầm thường
nhưng nếu ăn đúng lúc thì quả làp hong lưu. Trồng bầu vào tháng 9
âm lịch để rồi khi trái vừa lớn là tới lúc có cá trê, nấu cá trê canh
bầu. vùng ruộng sạ, gạo không ngon nhưng gạo lúa sạ vừa mới gặt
nấu cháo trắng ăn với khô cá lóc thì hương vị khó quên được. Nắng
hạn, rủ vài người bạn ra giữa đồng đem theo cái hộp quệt, một gói
muối hộ, vài trái ớt rồi đền vũng nước khô cạn nào đó mà bắt cá lóc
thứ to con, đốt gốc rạ và rơm mà nướng trui, chấm muối ớt, nhai
thêm vài ngọn lá nghễ bên ao. Lươn, rùa, ếch, rắn được chế biến
thành ra nhiều thức ăn ngon.
Mùa nắng, ăn chanh chua vừa khỏe vừa đỡ khát, hoặc là khổ qua
hầm thịt. Bí rợ hầm nước dừa, ăn với mắm chưng vào buổi trưa,
dưới cơn mưa lất phất khi cấy lúa gần rồi công. Mắm sống ăn với
gừng non. Măng trẻ Mạnh Tông hầm thịt là cao lương mỹ vị.
Ngòai cây từng trồng làm cảnh hoặc cây trẻ để nhắc nhở tiết tháo
của bực trượng phu, ngày tết có mai vàng, đất xấu tốt đều trồng

được. Cây mai chiếu thủy (còn gọi là mai hoằng), cây cần thăng, cây


kim quít, thậm chí tới cây gừa được chọn lực vì lá đẹp, vóc dáng
xinh.
Rước thợ Bắc về để chạm trổ nhà cửa làp hong lưu tột bực, thợ ở
luôn tại nhà, làm lai rai hết công chuyện này qua công chuyện kia,
chủ nhà nuôi cơm đôi ba năm. Lại còn thói ganh đua mua sắm đồ
sành đồ sứ, “chơi đồ xưa” hoặc thi tài tuyển chọn giống gà nòi, cá
thia thia.
Tính cách con người Nam bộ qua trang văn
Đó là mẫu người hảo hán trọng đạo nghĩa theo kiểu “Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
làm người thế đấy cũng phi anh hùng” của Lục Vân Tiên, là mẫu người lạc
quan, hào phóng, thiệt thà chân chất, đôi khi bị tác động bởi hoàn cảnh có biến
đổi một chút, nhưng rồi cũng trở về với bản chất nhân hậu, hành hiệp vì nghĩa.
Các tuyến nhân vật trong các trang văn của các tác giả ĐBSCL thường được
phân chia rạch ròi giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện và ác, hoạt động
theo định tính đã mang trong suốt chiều dài tác phẩm. Hiếm khi có những nhân
vật đa tính, với sự đấu tranh đầy mâu thuẫn, dằng xé trong cùng một con
người được thể hiện ở một số truyện ngắn của Trang Thế Hy, Lê Đình Trường,
Vũ Hồng, và một vài tác giả khác. Những tính cách nhân vật như thế, tôi nghĩ
phần nào đã thoát ra được cách xây dựng nhân vật theo kiểu truyền thống từ
một khuôn mẫu đã quen cảm nhận. Dù rằng từ thời đại Phục Hưng thế kỷ 16
Shakespeare đã xây dựng nên những điển hình nhân vật như vậy bằng cách
đào sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật. Trong tác phẩm của kịch tác gia vĩ
đại này, không có những nhân vật hoàn toàn được ưu ái hoặc hoàn toàn bị ghét
bỏ. Nhân vật điển hình Hamlet cũng có lúc bị ông chế giễu, còn gã Sailoc (trong
Chàng thương gia thành Vơnizơ) có chỗ lại được ông biện hộ
Có nhận định cho rằng văn chương ĐBSCL (dù gì cũng là vùng đất mới) không
thể so được với sự chỉnh chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền

Bắc. Điều đó một phần có thể do ngôn ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân
dã mà các tác giả ĐBSCL hay lạm dụng tạo sự “chướng ngại” trong cảm nhận.
Cũng có ý kiến cho rằng, nếu thận trọng, dùng đúng lúc đúng chỗ, phương ngữ
mộc mạc, giọng điệu dân dã ấy hoàn toàn có thể cấu tạo thành một nhánh văn
chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác.
Tôi nghĩ điều mà các nhà văn, tác giả văn xuôi ĐBSCL còn “mắc nợ”, là chưa
mô tả, khắc họa được những nhân vật xứng đáng với tầm vóc, tính cách điển
hình của con người Nam Bộ. Sự phóng khoáng, hào hiệp, trọng đạo nghĩa vốn
được xem là bản chất của người miền Nam, những cư dân sinh sống nơi vùng
đất có nhiều sự ưu ái của thiên nhiên. Thực tế, ĐBSCL đâu chỉ có chín nhánh
sông quanh năm bồi đắp phù sa cho vườn cây trĩu trái, đồng ruộng tốt tươi. Từ
thuở đi mở cõi, những cư dân Nam Bộ đã phải đương đầu với muôn vàn hiểm
nguy với thú dữ, với rừng thiêng nước độc rồi chinh chiến triền miên để trụ lại,
cải tạo vùng đất mới nầy. Và cũng bởi Nam Bộ là nơi đón nhận những cư dân di
trú từ tứ xứ, vùng đất này cũng là nơi hội tụ, giao thoa các luồng văn hóa khác
nhau. Hấp thụ một “linh khí” văn hóa như thế, tôi nghĩ tính cách con người Nam
Bộ xưa và đặc biệt trong xu thế hội nhập hiện nay, cũng đa diện và vô vàn
phức tạp chứ không chỉ đơn giản trong cái cốt cách hào phóng, lãng tử, chịu
chơi.
Lại nói về bản sắc văn hóa, vấn đề mà nhiều nghị quyết của Đảng đặt ra là
song song với phát triển kinh tế, phải bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Nhưng hiểu như thế nào cho đúng khái niệm văn hóa của dân tộc?
Và trong cái bản sắc văn hóa chung của dân tộc, có hay không một bản sắc văn
hóa của vùng ĐBSCL? Tôi cho rằng bên cạnh những đóng góp của ĐBSCL về
mặt kinh tế là điều dễ thấy và dễ nhất trí thì phần đóng góp của Nam Bộ về


mặt văn hóa dường như chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Lẽ nào Nam Bộ chỉ là
cánh đồng oằn lúa, là vườn cây trĩu quả với những “anh Hai” nhiều tiền, học
hành dang dở và thích chơi ngông? Hoàn toàn không có tư tưởng cục bộ địa

phương, tôi cho rằng về mặt văn hóa, sự đóng góp của ĐBSCL là không nhỏ.
Văn hóa ăn, văn hóa ở, văn hóa cư xử, văn hóa tín ngưỡng ở Nam Bộ có những
đặc trưng không lẫn với bất cứ vùng nào của đất nước. Nhưng cho đến nay vẫn
còn rất nhiều sự đánh giá khác nhau
Nêu một vài nhận định như thế để thấy rằng quả thật là khó khi muốn nắm
bắt cái “thần” trong nghệ thuật. Ngay cả đối với những người cầm bút là con
dân ĐBSCL, không phải lúc nào cũng hiểu hết về bà con mình, về vùng đất
mình đang sinh sống. Chính vì vậy, điều đáng sợ nhất trong văn chương là mô
tả như thế nào mà những người thân thiết nhất lại trở nên xa lạ. Nêu một vài
suy nghĩ như vậy với tư cách một người cầm bút, cũng là để tự nhắc nhở mình
trách nhiệm viết cho đúng về đồng bào mình trong một giới hạn địa lý nhất
định, để trước hết phục vụ cho chính họ; đồng thời với tư cách một người đọc
yêu mến dòng văn học “đặc sản” miền Nam, tôi mong mỏi và hy vọng sự thăng
hoa của các tác giả ĐBSCL sẽ mang lại những tác phẩm văn học xứng đáng với
vùng đất và con người chúng ta đang sinh sống
Tính cách con người Nam bộ qua trang văn của các tác giả ĐBSCL

Từ những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc... cho đến
các trang văn của phần lớn các tác giả sau này và hiện nay, tôi đọc, chiêm
nghiệm và tìm kiếm để nhận ra một mẫu số chung cho tính cách con người Nam
Bộ được khắc họa.
Đó là mẫu người hảo hán trọng đạo nghĩa theo kiểu “Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
làm người thế đấy cũng phi anh hùng” của Lục Vân Tiên, là mẫu người lạc quan,
hào phóng, thiệt thà chân chất, đôi khi bị tác động bởi hoàn cảnh có biến đổi một
chút, nhưng rồi cũng trở về với bản chất nhân hậu, hành hiệp vì nghĩa. Các tuyến
nhân vật trong các trang văn của các tác giả ĐBSCL thường được phân chia rạch
ròi giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện và ác, hoạt động theo định tính đã
mang trong suốt chiều dài tác phẩm. Hiếm khi có những nhân vật đa tính, với sự
đấu tranh đầy mâu thuẫn, dằng xé trong cùng một con người được thể hiện ở một
số truyện ngắn của Trang Thế Hy, Lê Đình Trường, Vũ Hồng, và một vài tác giả

khác. Những tính cách nhân vật như thế, tôi nghĩ phần nào đã thoát ra được cách
xây dựng nhân vật theo kiểu truyền thống từ một khuôn mẫu đã quen cảm nhận.
Dù rằng từ thời đại Phục Hưng thế kỷ 16 Shakespeare đã xây dựng nên những
điển hình nhân vật như vậy bằng cách đào sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật.
Trong tác phẩm của kịch tác gia vĩ đại này, không có những nhân vật hoàn toàn
được ưu ái hoặc hoàn toàn bị ghét bỏ. Nhân vật điển hình Hamlet cũng có lúc bị
ông chế giễu, còn gã Sailoc (trong Chàng thương gia thành Vơnizơ) có chỗ lại
được ông biện hộ.
Có nhận định cho rằng văn chương ĐBSCL (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể
so được với sự chỉnh chu truyền thống của văn chương miền Trung, miền Bắc.
Điều đó một phần có thể do ngôn ngữ mộc mạc miền Nam, giọng điệu dân dã mà
các tác giả ĐBSCL hay lạm dụng tạo sự “chướng ngại” trong cảm nhận. Cũng có ý
kiến cho rằng, nếu thận trọng, dùng đúng lúc đúng chỗ, phương ngữ mộc mạc,
giọng điệu dân dã ấy hoàn toàn có thể cấu tạo thành một nhánh văn chương đặc
biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Tôi nghĩ điều
mà các nhà văn, tác giả văn xuôi ĐBSCL còn “mắc nợ”, là chưa mô tả, khắc họa
được những nhân vật xứng đáng với tầm vóc, tính cách điển hình của con người
Nam Bộ. Sự phóng khoáng, hào hiệp, trọng đạo nghĩa vốn được xem là bản chất
của người miền Nam, những cư dân sinh sống nơi vùng đất có nhiều sự ưu ái của
thiên nhiên. Thực tế, ĐBSCL đâu chỉ có chín nhánh sông quanh năm bồi đắp phù
sa cho vườn cây trĩu trái, đồng ruộng tốt tươi. Từ thuở đi mở cõi, những cư dân
Nam Bộ đã phải đương đầu với muôn vàn hiểm nguy với thú dữ, với rừng thiêng


nước độc rồi chinh chiến triền miên để trụ lại, cải tạo vùng đất mới nầy. Và cũng
bởi Nam Bộ là nơi đón nhận những cư dân di trú từ tứ xứ, vùng đất này cũng là
nơi hội tụ, giao thoa các luồng văn hóa khác nhau. Hấp thụ một “linh khí” văn hóa
như thế, tôi nghĩ tính cách con người Nam Bộ xưa và đặc biệt trong xu thế hội
nhập hiện nay, cũng đa diện và vô vàn phức tạp chứ không chỉ đơn giản trong cái
cốt cách hào phóng, lãng tử, chịu chơi.

Lại nói về bản sắc văn hóa, vấn đề mà nhiều nghị quyết của Đảng đặt ra là song
song với phát triển kinh tế, phải bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Nhưng hiểu như thế nào cho đúng khái niệm văn hóa của dân tộc? Và trong
cái bản sắc văn hóa chung của dân tộc, có hay không một bản sắc văn hóa của
vùng ĐBSCL? Tôi cho rằng bên cạnh những đóng góp của ĐBSCL về mặt kinh tế
là điều dễ thấy và dễ nhất trí thì phần đóng góp của Nam Bộ về mặt văn hóa
dường như chưa được nghiên cứu thỏa đáng. Lẽ nào Nam Bộ chỉ là cánh đồng oằn
lúa, là vườn cây trĩu quả với những “anh Hai” nhiều tiền, học hành dang dở và
thích chơi ngông? Hoàn toàn không có tư tưởng cục bộ địa phương, tôi cho rằng
về mặt văn hóa, sự đóng góp của ĐBSCL là không nhỏ. Văn hóa ăn, văn hóa ở,
văn hóa cư xử, văn hóa tín ngưỡng ở Nam Bộ có những đặc trưng không lẫn với
bất cứ vùng nào của đất nước. Nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều sự đánh giá
khác nhau.
Nêu một vài nhận định như thế để thấy rằng quả thật là khó khi muốn nắm bắt
cái “thần” trong nghệ thuật. Ngay cả đối với những người cầm bút là con dân
ĐBSCL, không phải lúc nào cũng hiểu hết về bà con mình, về vùng đất mình đang
sinh sống. Chính vì vậy, điều đáng sợ nhất trong văn chương là mô tả như thế
nào mà những người thân thiết nhất lại trở nên xa lạ. Nêu một vài suy nghĩ như
vậy với tư cách một người cầm bút, cũng là để tự nhắc nhở mình trách nhiệm viết
cho đúng về đồng bào mình trong một giới hạn địa lý nhất định, để trước hết
phục vụ cho chính họ; đồng thời với tư cách một người đọc yêu mến dòng văn
học “đặc sản” miền Nam, tôi mong mỏi và hy vọng sự thăng hoa của các tác giả
ĐBSCL sẽ mang lại những tác phẩm văn học xứng đáng với vùng đất và con người
chúng ta đang sinh sống.

Tính cách người Nam Bộ qua ca dao
Nói đến tính cách của người Nam bộ, chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu những nét riêng
trong cử chỉ, tính tình của người Nam bộ được thể hiện qua các mối quan hệ trong xã
hội. Thực ra, người Nam bộ là một trong những bộ phận cấu thành của dân tộc Việt
nam cho nên dù người Nam bộ hay Bắc bộ cũng đều có những đặc tính chung nhất

định của người Việt Nam. Nhưng do điều kiện địa lý, nét văn hóa khác nhau của từng
vùng, miền mà tính cách của con người cũng có khác nhau...
Vùng đất Nam bộ trước khi có sự khai phá của những lưu dân đến từ miền Trung và
một ít cư dân người Bắc thì vùng đất này chỉ là một vùng rừng rậm hoang vu thú dữ
tràn đầy, tứ bề hiu quạnh. Cảnh tượng ban đầu quá xa lạ với những gì họ biết, họ nghĩ
khi còn ở quê nhà, đã làm cho họ lo sợ:
Tới đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.
Họ lo sợ trước cảnh tượng lạ lùng chẳng bao lâu, họ lại lo sợ đến thú rừng, nào là cọp
um, sấu lội, đỉa đeo:
Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.


Rồi họ bắt đầu lo sợ đến thiên nhiên vô cùng bi ẩn của những buổi đầu khai phá:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma.
Chính cái bí ẩn của thiên nhiên còn hoang sơ với đầy rẫy những hiểm nguy, bất trắc là
sợi dây liên kết những con người xa lạ với nhau. Trước cảnh tượng rừng hoang cỏ
rậm, đồng ruộng hoang vu nên họ cần phải sống nương tựa vào nhau, tất cả hết lòng
vì việc nghĩa. Điều này đã hình thành nên tính cách trọng nghĩa khinh tài ở trong họ.
Bởi họ ý thức được rằng: trước điều kiện thiên nhiên như vậy, họ chia rẽ là chết. Tinh
thần đoàn kết, sống với nhau vì nghĩa không chỉ giúp cho họ sẻ chia công việc với
nhau, hợp sức đánh đuổi các loài ác thú mà còn là để cho có bạn, để giúp đỡ nhau
trong những lúc hoạn nạn, ốm đau:
Ví dầu cá bóng xích đu
Tôm càng hát bội, cá thu cầm chầu.
Câu ca dao tuy nói về động vật, nhưng nó phản ánh một tập thể có tổ chức. Tất cả
cùng làm, cùng vui đùa bên nhau. Làm thì làm hết mình, chơi thì cũng chơi “tới bến".
Đó là những lúc cùng làm, cùng chơi. Còn khi hữu sự, họ chẳng màng đến gian khổ,

hiểm nguy để hành hiệp trượng nghĩa, thậm chí sẵn sàng chấp nhận hy sinh tính mạng
của mình để làm tròn đạo nghĩa:
Dấn mình vô chốn chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân
Lao xao sóng bủa dưới lùm
Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng.
Bởi, nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng:
Có câu: kiến nghĩa bất vi
Làm người như thế cũng phi anh hùng.
Đó là trong lúc hữu sự, còn trong lúc bình thường họ cũng qúy mến bạn bè. Bởi phần
lớn, họ đều là những người xa gốc gác, cội nguồn, họ phải sống nương nhờ bè bạn, tất
cả cùng hoạn nạn có nhau - "Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Với tâm lý của cư
dân Bắc bộ "Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, nên khi có bạn bè đến chơi, khách
đến nhà, dù gia cảnh có bần hàn đến đâu, họ cũng cố gắng đãi đằng bạn một cách cho
tươm tất:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa.
Cũng chính tâm lý này mà người Nam bộ thường được mọi người cho rằng: Họ có
tính hào sảng, hiếu khách, trọng tình nghĩa. Nghèo thì nghèo, lo cho bạn chu đáo cái
đã, tiền bạc có xá gì, nhân nghĩa mới là điều trọng. Vì vậy, những ai không có nhân
nghĩa thì cũng đừng hòng họ đáp lại bằng nhân nghĩa:
Tiền tài như phấn thổ
Nhân nghĩa tựa thiên kim.


Bởi đứt dây nên gỗ mới chìm
Tại ai ở bạc nên mới tìm nơi xa.
Còn nếu sống có tình, có nghĩa thì khó khăn nào họ cũng chịu, gian khổ mấy họ cũng
sẵn sàng chấp nhận:
Theo nhau cho trọn đạo trời

Dẫu mà không chiếu trải tơi mà nằm.
Ngoài tính cách trọng nghĩa khinh tài, nghĩa khí hào hiệp, người Nam bộ còn thể
hiện một khí phách hiên ngang, tình cảm rõ ràng, dứt khoát. Họ đã hứa thì phải làm.
Nói một là một, hai là hai, không thay đổi, cho dù sự thay đổi có khi đem lại điều lợi
cho họ:
Thuyền dời mà bến chẳng dời
Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn.
Lợi lộc thì họ ham, nhưng họ không vì danh lợi mà phải làm những công việc không
tương xứng với công sức mình bỏ ra, và nhất là trong quyền lợi đó ẩn chứa bao điều
phi nghĩa, trái với tinh thần nghĩa khí hào hiệp của họ:
Đừng ham hốt bạc ghe chài
Cột buồm cao bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi
Và ta hãy xem đây, một lời đề nghị của cô gái có phần dí dỏm, mỉa mai, chứa đựng
một sự phản đối đối với một người đàn ông đang chọc ghẹo mình:
Anh có thương em thì cho em một đồng
Để em mua gan công, mật cóc thuốc chồng em theo anh.
Trước lời đề nghị độc ác, trái với luân thường đạo lý như thế, anh con trai hết sức nổi
giận một sự nổi giận rất cương trực.
Nghe hò tao bắt nổi xung
Tao cho một phảng chết chung cho rồi.
Nổi bật trong tính cách của người Nam bộ mà người ta thường nhắc đến là tính hiên
ngang, dân gian quen gọi là tính "ngang tàng". "Ngang tàng" ở đây không phải là
ngang ngược, lỗ mãng, mà "ngang tàng" ở đây chính là tính nghĩa khí, chí khí hiên
ngang. Họ đối đãi với nhau rất là điệu nghệ, sẵn sàng vi nghĩa khinh sinh. Bằng ngược
lại, trái với đạo nghĩa, họ nhất định không làm, dù phải trả giá bằng sinh mạng, họ vẫn
một lòng phản đối:
Trời sinh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều.
Chính tính cách này giúp họ sống hòa thuận với nhau, liên kết cộng đồng, cùng chung
sức khẩn hoang lập ấp. Và với sự nỗ lực không ngừng, mảnh đất hoang vu thuở nào

nay đã trù phú, rừng hoang đã rẫy, cánh đồng bát ngát xanh tươi. Thiên nhiên ngày
càng đem đến cho con người nhiều nguồn lợi hơn. Từ đó họ thêm tự hào và yêu qúy


mảnh đất này hơn. Vì vậy, cảm nghĩ về quê hương đất nước cũng là một trong những
tính cách của con người Nam bộ. Đây thật sự là tính cách bao trùm. Nó vừa mang nét
chung về lòng yêu quê hương đất nước của tất cả con người Việt Nam, nhưng lại vừa
thể hiện nét riêng của con người Nam bộ. Nét riêng ở đây là cách thể hiện, cách biểu
hiện tấm lòng của mình đối với quê hương đất nước. Thật ra, lòng yêu nước của mỗi
con người đều như nhau, nhưng cách thể hiện của mỗi con người không phải lúc nào
cũng giống nhau. Điều này, ngoài tính cách của từng người, nó còn do đặc điểm văn
hóa, địa lý của một vùng đất quy định nên.
Sau những vất vả, gian lao của buổi đầu khai phá, vùng đất Nam bộ càng ngày càng
đem đến cho con người nhiều nguồn lợi về tự nhiên. Điều này càng làm cho người
Nam bộ thêm yêu qúy mảnh đất mình hơn. Đó là lý do giải thích tại sao các câu ca
dao ở Nam bộ có nội dung về quê hương đất nước thường đề cập đến một vùng đất trù
phú, một địa bàn khá rộng và nổi tiếng giàu có về những thứ sản vật nào đó:
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.
Hoặc:
Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
Bình Đại biển lúa sông tôm
Ba Tri ruộng muối, Giồng Trôm lúa vàng.
Hay
Ba phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm.
Nhưng cuộc sống sung túc, thanh bình của người dân nơi đây bỗng dưng bị đảo lớn
khi thực dân Pháp đến xâm lược. Được hun đúc bởi tinh thần yêu nước, khí phách anh
hùng của người dân Nam bộ được phát huy một cách mãnh liệt. Ca dao Nam bộ đã

kịp thời phản ánh thực tế đau xót đó:
Đắng khổ qua, chua là chanh giấy
Dầu ngọt thế mấy cũng tiếng cam sành
Giặc Lang Sa đánh tới châu thành
Dù ai ngăn qua đón lại, dạ cũng không đành bỏ em.
Trước thực tế đau xót đó, họ kêu gọi mọi người đứng lên làm cuộc khởi nghĩa, đánh
giặc cứu nước:
Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta
Ghé vai gánh đỡ sơn hà
Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.
Và người phụ nữ Nam bộ ở nhà chăm lo sản xuất để chồng yên tâm đi chiến đấu:


Anh đi đánh giặc Lang Sa
Để thiếp ở nhà, lo tần lo tảo
Chén cơm manh áo, nhà cửa ruộng vườn
Để anh lên ngựa đề thương
Thiếp về mặc thiếp liệu lường nuôi con.
Ca dao Nam bộ còn góp phần phân tích cho mọi người rõ đâu là chính nghĩa, đâu là
gian tà:
Có chồng đi lính nghĩa binh
Dầu nghèo dầu cực vẫn thương mình ai ơi.
Lấy chi cái lũ báo đời
Chuyên nghề bán nước phá đời hại dân.
Nhắc nhở moi người không nên vì tham danh lợi mà đi làm tôi tớ cho Pháp:
Đừng tham đồng bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò Lang Sa…
Trở lên là tính cách của con người Nam bộ được thể hiện qua ca dao. Nói đến tính
cách con người của một vùng, miền, một quốc gia dân tộc là điêu tế nhi. Hơn nữa tính

cách con người lại rất phong phú và đa dạng, có thể sẽ thay đổi qua thời gian. Vì vậy,
ở bài viết này, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra tất cả những tính cách của con
người Nam bộ. Bởi đó là điều không thể, mà chúng tôi chỉ chọn khảo sát một số tính
cách của con người ở đây được phản ánh qua ca dao cũng của xứ này, để xem những
người Nam bô nói về tính cách của con người Nam bô ra sao. Từ đó, chúng ta sẽ hiểu
rõ hơn đặc tính của vùng đất và con người Nam bộ, và cũng là để thêm yêu mảnh đất
này hơn.
Tính cách người Miền Nam
28/05/2006

Do nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác động của môi trường thiên nhiên đã hình
thành nên tính cách người Nam Bộ. Ngoài tính hiếu khách, tính bộc trực, mạnh mẽ ,
hào phóng và đôn hậu, người Nam Bộ còn biết bao nét đẹp truyền thống đáng trân
trọng như tính nghĩa khí hào hiệp, tấm lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và
giàu nghị lực. Đặc biệt phụ nữ miền Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng lại khéo tay, chiều
chồng nhưng đáng quý nhất là sự hy sinh cho chồng con, cho quê hương, đất nước.
Điều đó đã được minh chứng suốt quá trình hơn 300 năm lịch sử của Nam Bộ.
Miền Nam đã trải qua chiến tranh, bom đạn ác liệt nhưng miền Nam kiên cường, bất khuất và
miền Nam xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng của Tổ quốc", chúng ta đang phát huy nội
lực nhằm làm dân giàu, nước mạnh, miền Nam sẽ cùng cả nước tiến lên tạo cuộc sống ấm
no, hạnh phúc.
Tính bộc trực Trong dân gian còn lưu truyền câu "Ăn mặn nói ngay" để nói lên tính cách
người miền Nam. Lý giải cho câu thành ngữ này phải dựa trên cơ sở lịch sử và đời sống thực
tế Nam Bộ. Như đã nói, họ là những lưu dân đến đây chủ yếu bằng đường biển, suốt hành
trình lênh đênh giữa sóng to gió lớn để chống lại giá rét, chống lại những cơn cuồng nộ của
biển cả... buộc họ phải tìm cách đảm bảo mạng sống và sinh tồn. Để lặn sâu dưới nước,
thường người ta hay uống nước muối; giữ cá được lâu thì muối hoặc làm mắm... Dần dần
mà khẩu vị của người đi biển trở nên mặn mà hơn so với người ở đất liền. Trong bữa ăn
truyền thống của người miền Nam không bao giờ thiếu được món kho như: thịt kho, cá kho,
mắm kho hoặc cá muối chiên hay khô mặn, ba khía... Đặc biệt bất kỳ nhà giàu có hay nghèo



hèn, dù bữa ăn bình dân hay tiệc tùng lễ lạt giữa nhà hàng sang trọng đều có chén nước
mắm trong mâm thức ăn dùng làm nước chấm. Tính mạnh mẽ Người miền Nam trong lịch sử
khẩn hoang Nam Kỳ là những người luôn luôn đương đầu với nghịch cảnh, bởi thế họ không
có thì giờ để con cà con kê, nếu cần diễn đạt thì nói một cách dứt khoát, ngắn gọn, trực tiếp
và rõ ràng. Vì lênh đênh giữa biển, sóng vỗ ì ầm, trời nước mênh mông nên tiếng nói của con
người bị át đi. Cho đến khi lên bờ khai khẩn thì đất rộng người thưa, cây cối um tùm, phương
thức lao động không phải tập đoàn hay hợp quần mà thủ công - riêng lẻ, khi cần gọi nhau để
trao đổi thì phải hét to hoặc dùng tiếng động lớn làm ám hiệu cho nhau, bởi vậy mà người
miền Nam cho tới sau này vẫn còn ăn to nói lớn. Tính đôn hậu Người miền Nam luôn chân
tình, cởi mở và dễ hòa mình. Xét trên góc độ khoa học, đó là sự hội nhập giao lưu và hòa
đồng giữa cộng đồng các dân tộc. Khi người Kinh đặt chân đến Nam Kỳ thì ở đây đã có
người Khmer, người Hoa sinh sống. Tuy phong tục mỗi dân tộc mỗi khác nhưng tất cả như có
một mẫu số chung là tinh thần nhân ái. Trong ngôn ngữ miền Nam hiện nay vẫn còn tồn tại
những tiếng có nguồn gốc Khmer và Hoa như: mình ên, cà tha, xiêm lo, xích xái, lì xì, thèo
lèo, xí muội, thò lò... Còn địa danh ở Nam Bộ có những tên đi vào lịch sử như: Sa Đéc, Sóc
Trăng, Bãi Xáu, Chắc Cà Đao... Thông thường mỗi khi giỗ chạp, Tết nhất hay mỗi khi bày cỗ
cúng kiến, người miền Nam ngoài việc dọn cỗ trên bàn thờ ông bà, cha mẹ... còn có một
mâm riêng được bày lên trước cửa nhà để cúng gọi là "mâm đất đai". Mâm thức ăn này để
cúng các bậc tiền hiền đã có công khai phá vùng đất hiện tại cùng những người khuất mặt
khuất mày đã bỏ mạng nơi đây mà không nơi nương tựa. Trước khi khấn vái ở bàn thờ gia
tiên thì gia chủ phải thành tâm trước "mâm đất đai", xem như một thủ tục trình báo với "sở
tại". Điều này nói lên tấm lòng người miền Nam nhân ái, vị tha, giàu tình người mà bà con ta
gói gọn trong hai tiếng "biết điều". Những người dân hiếu khách Những cư dân Đàng Ngoài
từ chỗ có làng xã, sinh hoạt lề thói nhiều đời đến nơi ở mới tứ cố vô thân lại thêm phong thổ
khắc nghiệt... đã làm cho họ trở nên bản lĩnh và đặc biệt là rất hiếu khách. Hiếu khách có lẽ là
nét đặc trưng, là cá tính độc đáo của người miền Nam, bởi họ rất cần người để tâm sự, để
giãi bày những nỗi niềm sâu kín hoặc để uống với nhau ly rượu giải sầu - cái sầu ly hương hay để hàn huyên chuyện xứ sở Đàng Ngoài, nơi quê cha đất tổ. Trong sinh hoạt láng giềng
Nam Bộ hiện tại, ta thấy có nhiều tiệc tùng, nhậu nhẹt, đám cưới, đám giỗ, thôi nôi, đầy

tháng, tân gia... mà người được mời ít khi từ chối, mặc dù hiểu rằng "ăn bữa giỗ lỗ bữa cày".
Họ đến đó không phải vì rượu thịt, vì miếng ngon vật lạ mà vì "phải quấy" - nói theo tiếng bà
con miền Nam hay nói. Ai không đi, không dự được thì gởi bao thư, lễ vật và xin cáo lỗi; còn
nếu như làm thinh, không có "phản hồi" gì hết là "có vấn đề"! Từ những bàn tiệc này mà đôi
khi nảy sinh những quan hệ tình cảm mới như: kết nghĩa thông gia, kết nghĩa tri âm tri kỷ
hoặc kết nghĩa anh em...
1. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài của người Việt Nam bộ trong ca dao.
Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những con người sẵn sàng xả thân
mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là hợp với đạo lý và lòng trung thành. Lục
Vân Tiên, Hớn Minh của Nguyễn Đình Chiểu cũng là những nhân vật được xây dựng trên tinh
thần "Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng". Tác giả ca dao Nam
bộ thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó. Trọng nghĩa là thái độ ứng xử của
người Việt Nam nói chung chứ không riêng của người Việt Nam bộ. Có điều, đây là một nét
trội trong tính cách của người dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống
trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn
tương cứu, sanh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào hiệp. Trọng
nghĩa gắn với khinh tài. Nếu người xưa đã từng cay đắng nhận rằng "nén bạc đâm toạc tờ
giấy" hoặc chua chát "có tiền mua tiên cũng được" thì tác giả ca dao Nam bộ khẳng định:
Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi
Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ý nghĩa biểu trưng. Sự đối
lập của hai hình ảnh nầy chính là sự đối lập giữa cái tầm thường và cái cao quí. Nếu có cái
gọi là bên trọng bên khinh thì nghĩa là bên trọng, tiền tài là bên khinh. Bài ca trên còn một dị
bản như là bằng chứng về sự phổ biến của thái độ trọng nghĩa khinh tài:
Tiền tài như phấn thổ,
Nhân nghĩa tựa thiên kim
Đứt dây nên gỗ mới chìm
Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi



Biểu trưng vàng trong bài ca trên đã từng được tác giả ca dao Nam bộ sử dụng. Nghĩa khái
quát nhất, tập trung nhất của vàng là biểu trưng cho cái quý giá. Đó là cái quý giá về vật chất,
quý giá về tinh thần và con người quý giá. Vàng trong lòng vàng biểu trưng cho lòng chung
thủy trong tình yêu:
Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.
Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói nghĩa đá vàng. Ở đây,
tác giả dân gian không nhằm so sánh giá trị hơn kém giữa chúng mà hướng tới đặc điểm
chung của hai loại chất. Đá và vàng đều có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng
biểu trưng cho nghĩa sắt son:
Ví dầu nước chảy đá mòn,
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương
Người nghĩa khí một mặt sẵn sàng xả thân vì nghĩa xem tiền tài như cỏ rác, một mặt chấp
nhận cảnh sống bần hàn để giữ tròn đạo nghĩa qua hình ảnh biểu trưng của hai đại đệ tử
Khổng giáo, Tăng Sâm và Tử Lộ:
Anh tỉ phận anh
Thà ở lều tranh
Như thầy Tăng, thầy Lộ,
Chớ không ham mộ
Của Vương Khải, Thạch Sùng,
Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá
Ca dao Bắc bộ (ca dao các vùng khác nói chung) không thiếu những bài nói về tình nghĩa,
nghĩa bạn bè, nghĩa đồng bào, tình nghĩa lứa đôi... với những hình ảnh biểu trưng như bầu
-bí, nhiễu điều - giá gương...bằng một giọng điệu nhẹ nhàng:
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Ca dao Bắc bộ)
Ca dao Nam bộ cũng với tinh thần trọng nghĩa ấy nhưng được thể hiện bằng tình huống và

thái độ mạnh mẽ với biểu trưng sống qua hình ảnh ruột thắt gan bào:
Ngó lên trời mây bay vần vũ,
Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước,
Nhìn Sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Đạo nghĩa hay điệu nghệ là luật lệ riêng của lưu dân thời kỳ khai hoang, những người bị giai
cấp cầm quyền coi là kẻ dốt nát. Lưu dân thú nhận sự dốt nát của họ bằng thái độ tự tôn. Họ
bất cần bọn quan lại và luật lệ của chúng, để rồi hướng tới tinh thần điệu nghệ. Điệu (đạo), là
lòng từ bi bác ái, tình nghĩa giữa con ngươi, Nghệ (nghĩa) là nghĩa khí, không lợi dụng quyền
thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn ở thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn,
dám liều thân giúp người...Quan niệm điệu nghệ tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân
tử bình dân. Biểu trưng chim quyên, một biểu trưng riêng của ca dao phương Nam, là hình
ảnh của kiểu quân tử bình dân đó:
Chim quyên xuống đất ăn trùn,
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than
Chính quan niệm điệu nghệ đề cao con người không phải ở tiền bạc, địa vị, dòng dõi mà ở
thái độ sống tích cực, sống có nghĩa khí, sống với tinh thần: "bần tiện chi giao mạc khả vong,
lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Quan niệm điệu nghệ cho người ta luôn luôn mở rộng cửa
đón tiếp mọi người không phân biệt tốt xấu giàu nghèo trong quá khứ. Nếu biết điệu nghệ thì
mọi việc có thể giải quyết trong tình anh em không cần đến pháp luật và quan lại: Đấng
trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng oán mới hay.
Cuối cùng, người nghĩa vẫn là những con người bình dị qua hình ảnh con chim nho nhỏ trong
ca dao Nam bộ. Công thức "con chim nho nhỏ" thường mở đầu cho lời khuyên nhủ, mong
ước. Lời khuyên nhủ thường phải là lời của một ai đó cho nên hình ảnh trên biểu trưng cho
con người biết trân trọng, giữ gìn đạo lý:
Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,

Nó kêu người ở trong làng,


Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô.
2. Tính cách ngang tàng của người Việt Nam bộ trong ca dao.
Lối sống ngang tàng là hệ quả của tinh thần nghĩa khí hào hiệp trong con người Nam bộ.
Những con người tứ chiếng từ những huyện phủ khác nhau về vùng đất mới mang trong
mình nhiều chất phản kháng, ít chịu sự ràng buộc của lễ giáo , không bao giờ bị khuất phục.
Họ chấp nhận mọi hiểm nguy, mọi thử thách (nắng sớm - mưa chiều) thậm chí trong những
hoàn cảnh nhất định, họ đã phải liều:
Ra đi là sự đánh liều,
Nắng mai không biết, mưa chiều không hay.
Cho dù phải luôn luôn đối mặt với tình huống khó khăn kiểu nắng sớm - mưa chiều, người
Nam bộ vẫn muốn khám phá cuộc sống bất chấp non cao - sông sâu:
Lên non mới biết non cao,
Xuống sông mới biết chỗ nào cạn sâu.
Con người Nam bộ ngang tàng được thể hiện qua các biểu trưng chim, cây là con người
cứng cỏi giữa cuộc đời. Chim biểu trưng cho con người sống giữa cuộc đời rộng lớn, đầy
biến động. Đó là con người đi xa, người có chí khí thường là người đàn ông. Đó là chim trong
các hình ảnh cánh chim hồng , chim khôn , chim kia sớt cá, chim trên rừng, chim bay về
rừng, chim bay, chim trời, cánh chim...
Bể sâu con cá vẫy vùng,
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.
Cây cứng lá dai là khí phách của người không biết luồn cúi, không sợ uy quyền:
Trời sinh cây cứng lá dai,
Gió lay mặc gió chiều ai không chiều
Ngang tàng có nghĩa là dám sống, sống hết mình đúng với chính mình, dám tin vào chân lý
cuộc sống, tin vào tình yêu như hình ảnh cây khô chết đứng:
Cây khô chết đứng giữa trời,
Chết thời chịu chết không quên lời anh than

Chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, người Nam bộ coi nhẹ tính mạng nên sống
ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ hiểm nguy cũng góp phần tôi
luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng, ngang tàng ở đây không phải là phá phách,
là làm loạn. Ngang tàng là một nét nhân cách Nam bộ, đó là những con người không chấp
nhận sống mà phải cầu xin, phải khuất phục trước bạo lực. Đó là những con người vươn tới
những điều to tát, không quan tâm đến những cái vụn vặt. Có thể trong cuộc sống hiện đại,
đây đó vẫn có những con người Nam bộ tầm thường. Điều nầy không có gì lạ. Nhưng trong
ca dao, người Nam bộ hướng tới một nhạn bay cao quí mà không thèm để ý đến chim sâu
tầm thường. Và nếu chàng trai nào chỉ muốn bắt chim sâu thì sẽ bị chê cười:
Bình tích thủy đựng bông hoa lý,
Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu,
Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu,
Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng.
Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra
vuông. Một số không ít ca dao Nam bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng cách phân biệt rạch ròi
giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:
Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.
Tóm lại, tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con người yêu nước có
tinh thần dân tộc đã từng dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm...Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra
hai nét nổi trội của tính cách người Việt Nam bộ được khắc họa trong ca dao.
Nam bộ là vùng đất cuối cùng phía Nam của đất nước, nằm trong lưu vực hai con sông Đồng
Nai và Cửu Long, chủ yếu ở vùng hạ lưu hai con sông lớn này. Nam bộ nằm rất gần biển
Đông, là một vùng châu thổ màu mỡ với nhiều cửa sông đổ ra biển. Chính điều này đã tạo
nên một Nam bộ trù phú, với biết bao huyền thoại thời mở đất.
Tiến trình lịch sử của Nam bộ khác với những vùng đất khác, nó không phát triển liên tục
mà bị đứt quãng. Điển hình là trên vùng đất này đã từng có vương quốc Phù Nam cổ xưa
với nền văn hóa Óc Eo một thời phát triển rực rỡ. Những gì mà người ta nói về Nam bộ

ngày nay thường chỉ giới hạn trong phạm vi trên dưới ba trăm năm. Người Việt di dân vào
Nam có thể nói bắt đầu khi cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn nổ ra và sau đó là cuộc di dân
thực sự vào thời nhà Nguyễn đầu thế kỷ XVIII khi nhà Nguyễn nắm được chính quyền Đàng


Trong và kêu gọi những người giàu có vào khai khẩn trên đất Đồng Nai, Gia Định. Trong mấy
trăm năm định hình và phát triển, Nam bộ đã tạo nên cho mình những giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần vô cùng phong phú, độc đáo và một bản sắc rất riêng so với các vùng
miền khác.
* Năng động, sáng tạo
Khi nghiên cứu về tính cách người Việt ở Nam bộ, các nhà nghiên cứu không thể không
nhắc đến tính năng động sáng tạo của người Việt trên mảnh đất này. Tính cách này thể
hiện rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau như thích nghi với cuộc sống khắc nghiệt trên vùng đất
mới, các yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được cải biến để hòa hợp với điều
kiện mới. Chính điều này đã tạo cho người dân Nam bộ có những nét riêng khá độc đáo đối
với các vùng miền khác.
Trên vùng đất mới còn hoang sơ, rừng thiêng nước độc, hùm beo, rắn rết đầy rẫy, vừa
khơi dậy tiềm năng khai thác dồi dào vừa là một thách thức nghiệt ngã đối với những con
người phải dấn thân. Nếu như không phát huy được tính cần lao, dũng cảm vốn có của
người dân Việt thì khó có thể tồn tại được. Trong buổi đầu khai khẩn vùng đất Nam bộ,
chúng ta thấy có đủ hạng người đến đây quần tụ: phần đông là những người mất phương
kế sinh nhai nơi quê cũ vì rất nhiều lý do mà giai cấp thống trị phong kiến ràng buộc họ như
bị tước đoạt ruộng đất, những người chống đối lại triều đình, trốn lính, hay những kẻ phải
mang những bản án vào thân… Tất cả họ đều muốn tìm một cuộc sống mới trên vùng đất
mới dù biết trước những khó khăn, khắc nghiệt không dễ vượt qua.
Phải nói rằng vùng đất phương Nam từ khi bắt đầu khai phá và phát triển trải qua mấy thế
kỷ nay vẫn là địa bàn sôi động nhất, bắt buộc mọi người đến đây không kể nguồn gốc xuất
xứ đều năng động, sáng tạo mới có thể vươn lên trong đấu tranh, xây dựng cuộc sống.
* Yêu nước nồng nàn
Yêu nước là một truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta. Nhưng đối với người dân

Nam bộ, tính cách này được thể hiện một cách phóng khoáng, sinh động. Nó khác với lòng
yêu nước của Nho giáo, không bị ràng buộc quá chặt chẽ vào “tam cương”, “ngũ thường”…
Người dân chỉ trung thành với vua khi vua là đại diện cho lợi ích của dân tộc. Một khi vua
phản bội lại quyền lợi của dân tộc, của nhân dân thì những sắc lệnh của vua có thể sẽ
không được thi hành. Tinh thần yêu nước của người Nam bộ mang hơi hướm của hình
tượng Lục Vân Tiên mà cụ Đồ Chiểu đã dày công xây dựng. Đó là một Trương Định với câu
nói ngang tàng, khí phách nổi tiếng: “Triều đình không công nhận (cuộc kháng chiến của ta)
nhưng nhân dân công nhận”. Đó là một Nguyễn Trung Trực không chịu đi nhận một chức vụ
cao hơn theo lệnh của triều đình vì nhà Nguyễn muốn dẹp yên phong trào kháng chiến ở
Nam bộ để lấy lòng chính quyền Pháp. Câu nói khẳng khái của ông được truyền tụng trong
dân gian cho đến bây giờ: “Khi nào nước Nam hết cỏ mới hết người chống Tây”.
Bên cạnh đó còn rất nhiều đại diện tiêu biểu khác như các nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị,
Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa… Tất cả những tấm gương, những con người khí khái,
hào sảng đó được mảnh đất Nam bộ nuôi lớn, hun đúc cho một ý chí, một tấm lòng để rồi
chính tên tuổi họ còn lưu danh mãi khi người ta nói về Nam bộ.
* Hào phóng, hiếu khách
Đây là một nét tính cách đặc trưng của người Việt ở Nam bo. Trong tất cả các mối quan hệ
diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, tính cách này luôn được bộc lộ một cách rõ ràng, sinh
động và đầy tính nhân văn.
Xin nêu một ví dụ đơn giản, chuyện quá giang (hay có giang) là chuyện rất phổ biến. Nam
bộ với hệ thống sông ngòi chằng chịt, phương tiện giao thông chủ yếu là đường thủy. Do
đó, nhờ người đưa ngang sông hay nhờ một chiếc ghe lạ đưa đi một quãng đường là
chuyện hết sức bình thường. Người quá giang bao giờ cũng được đối xử hết sức bình đẳng,
hết sức tình người như cơm nước chủ ghe đãi, có thể sử dụng đồ dùng của gia chủ và
đương nhiên khi chủ ghe mệt thì người quá giang cứ tự nhiên chèo chống tiếp sức.


Trong gia đình, khi có khách đến nhà lúc nhà đang ăn cơm, chủ nhà mời mà khách từ chối
thì hay bị hiểu lầm là khinh rẻ chủ nhà, đã ăn no rồi thì cũng nên ngồi vào mâm cùng ăn, gọi
đùa là “ăn ba hột” lấy lệ cho vừa lòng chủ. Bao giờ cũng vậy, người dân Nam bộ luôn muốn

dành những gì quý nhất, đẹp nhất trong đối nhân xử thế với hàng xóm, bạn bè và người
thân của mình.
Tiêu xài rộng rãi là một đặc điểm thường được nhắc tới khi nói về tính cách người Nam bộ.
Thiên nhiên hào phóng thì cũng sẽ tạo ra những con người hào phóng, người ta ít lo lắng
cho cuộc sống của mình ở ngày mai. Tất cả chỉ có tình người dù họ biết rằng ngày mai,
ngày mốt mình không còn cái gì để sống. Lối sống đó trở thành một tập quán xã hội, ảnh
hưởng đến tất cả mọi người, cả những khi đời sống vật chất khó khăn. Người nông dân bị
bóc lột cơ cực, ít có hy vọng trở nên khá giả thì không cần dành dụm, làm được bao nhiêu
cứ xài cho hết. Khi lâm vào cảnh thất nghiệp họ vẫn có thể thức đến tận khuya để uống
rượu và đờn ca tài tử, chẳng bận tâm gì cho cuộc sống ngày mai.
* Trọng nhân nghĩa
Bất cứ người Nam bộ nào cũng đều rất coi trọng tình nghĩa. Kẻ bất nhân, bất nghĩa thì khó
có cơ hội dung thân ở vùng đất này. Có rất nhiều câu thành ngữ nói về tính cách này của
người Nam bộ: Tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim; thương người như thể
thương thân, thi ơn bất cầu báo... Trong ca dao Nam bộ cũng vậy:
- Ngọc lành ai lại bán rao
Chờ người quân tử em giao nghĩa tình
- Lòng qua như đinh sắt
Nguyện nói chắc một lời
Qua không có dạ đổi dời như ai
Lòng qua như sắt, nói chắc một lời
Bạc tiền chẳng trọng chỉ trọng người tình chung.
Đến xứ lạ, mấy ai được đem theo cả gia đình, họ hàng. Vì vậy nhiều người đến hết cuộc
đời mình còn không thể gặp lại anh em ruột thì nói chi đến vóc dáng, hình hài của ông bà tổ
tiên mấy đời trước. Thế là họ cùng nhau quần tụ lại, lập thành xóm thành làng, cùng nhau
khai khẩn, cùng sát cánh với nhau trong cuộc mưu sinh đầy gian khổ, trở thành “bà con
một xứ”. Hàng xóm dù không thích nhau nhưng những khi tối lửa tắt đèn cần sự giúp đỡ thì
họ cũng sẵn sàng. Muốn cất ngôi nhà mới cũng cần nhiều bàn tay góp sức vào, ma chay,
cưới hỏi gì cũng có bà con chòm xóm đứng ra cáng đáng. Trước khi nên cửa nên nhà, ai mà
chẳng trải qua một thời kỳ lưu lạc, tha hương cầu thực, ăn quán ngủ đình, trốn nợ, vì vậy

thậm chí cả khi phạm tội cũng được chòm xóm bao che.
Do vậy, người Nam bộ rất quý trọng, tin cậy bạn bè. Bạn bè sa sút, túng quẫn lại càng quý
trọng hơn, cư xử tế nhị. Người Nam bộ thích làm quen với người nghèo, giúp đỡ kẻ sa cơ
thất thế, ghét những kẻ thay lòng đổi dạ, xu nịnh quyền tước. Người dân ở đây thường nói
đất lành thì chim đậu, đất hung dữ thì chim bay đi. Ai cậy nhiều tiền, tung tiền ra mướn
với thái độ hách dịch, phách lối thì có chết đói cũng không thèm làm, khoái nhau rồi thì làm
không công, giúp đỡ người nghèo để lấy tiếng.
* Bộc trực, thẳng thắn
Người Nam bộ rất bộc trực, thẳng thắn, ít khi nói chuyện văn hoa dài dòng, rào trước đón
sau. Cũng chính tính cách hay nói thẳng mực tàu này mà đôi khi họ bị giai cấp thống trị lợi
dụng, nhưng dù sao đi nữa, trải qua mấy trăm năm nó vẫn là một nét tính cách đẹp trong
mối quan hệ giữa người với người. Tính mộc mạc, thẳng thắn thường được nhắc đến trong
kho tàng văn học dân gian Nam bộ. Tinh hoa của ca dao, dân ca Nam bộ đều nằm trong sự
mộc mạc, trong sáng ấy:
- Đêm khuya ngủ gục, anh với hụt con tôm càng
Phải chi anh vớt được cái kiềng vàng em đeo.


- Hồi buổi ban đầu
Em biểu anh têm ba miếng trầu cùng ly rượu lạt
Anh lắc đầu sợ tốn
Giờ em đã có chồng, sao anh biểu trốn theo anh!
Chúng ta còn bắt gặp tính bộc trực thẳng thắn của người Nam bộ thể hiện trong lời ăn,
tiếng nói. Khi gặp những chuyện bất bình hoặc không vừa ý thì họ sẽ nói ngay không cần suy
nghĩ và cũng chẳng sợ người nghe giận dữ. Nhưng khi câu chuyện được giải thích rõ ràng
cặn kẽ, hợp tình hợp lý thì họ sẽ tiếp thu một cách tích cực, vui vẻ, thấy mình sai thì sẵn
sàng nhận lỗi. Khi nói chuyện với người Nam bộ, ta có được cảm giác rất gần gũi, họ không
câu nệ chuyện ngôi thứ, lớn nhỏ, giai cấp, bốn bể là nhà, tứ hải giai huynh đệ. Ngôn ngữ
của người nông dân Nam bộ đậm vẻ hài hước, tinh tế thể hiện sự lạc quan, yêu cuộc sống.
Chẳng hạn, người ta gọi túp lều xiêu vẹo của mình là “nhà đá”, tất nhiên không phải nó

được xây bằng đá, mà khi đá một cái là nó sập ngay. Làm ruộng theo kiểu lĩnh canh rày đây
mai đó để trốn nợ, trốn thuế được hóm hỉnh gọi là “làm ruộng dạo”. Ngâm mình trong
nước để tránh muỗi và bù mắt cắn gọi là “ngủ mùng nước” (thậm chí con bù mắt đôi khi
còn được gọi là con bù rảnh vì có rảnh nó mới có thời giờ đi cắn người ta).
Lịch sử Nam bộ dù có trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng dù thế nào đi nữa tính cách
của người Nam bộ vẫn thế, ngày xưa hay bây giờ đều yêu nước nồng nàn, hào phóng, hiếu
khách, trọng nghĩa khinh tài, ngang tàng nhưng khẳng khái. Nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã
nhận xét tính cách người Nam bộ như sau: “Đất nước ta càng về phương Nam, càng là đất
mới, đất lưu đày, đất của những người không có quyền sống trên những mảnh đất đã được
khai phá. Vì vậy, càng là đất của những người nổi dậy… Con người đến đây là con người
liều, con người ngang tàng, nghĩa khí, tính mạng coi nhẹ tựa lông hồng, tiền tài coi khinh
như rơm rác… Họ vồ vập, hiếu khách vì cuộc đời họ đã buồn lắm rồi, heo hút, cô đơn lắm
rồi. Họ chỉ còn tình nghĩa là đậm đà với nhau. Họ sẵn sàng nhường cơm sẻ áo vì họ đã từng
biết cái cực, cái nhục của đói khổ thế nào. Và hơn hết họ rất căm thù. Đừng đụng đến
họ…” (“Tuyển tập Nguyễn Văn Bổng”, tập 3, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1995, tr. 357 –
358).
Muốn tìm hiểu đặc trưng vùng văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con người làm
trung tâm để xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành động, tác
động sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc, hội họa, lễ hội và phong
tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc người cùng chung sống trên nền địa địa lý tự
nhiên của vùng phù sa cổ miền Đông và vùng phù sa mới miền Tây Nam Bộ, mà tâm lý tính
cách bị chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lý, kinh tế - xã hội và quá trình phức hợp của nó
theo từng bước phát triển của vùng dân cư rộng lớn này. Tất nhiên, chúng ta không thể phân
chia rạch ròi từng vùng văn hóa trên cả nước, nhưng căn cứ vào những đặc điểm văn hóa
khu biệt nhất định, chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa Nam Bộ để làm tiêu chí xem xét.
Cái giàu, cái đẹp của ĐBSCL
Từ những con sông đã nuôi sống trên 200 loài thủy sản sinh sôi nảy nở, trong đó có nhiều
loài có giá trị kinh tế cao, cá basa, tôm có số lượng xuất khẩu lớn nhất nước. Và từ những con
sông hình thành những bãi tắm nước ngọt quanh năm: Bãi tắm Ninh Kiều, Cần Thơ, An Hòa
Đồng Tháp, Cồn Tiên sông Hậu; Cồn Bần Trà Vinh... Từ những con sông, nổi lên những cù lao

rộng lớn, cây xanh bốn mùa mát rượi, cây trái tốt tươi, chim muông kéo nhau về làm tổ; Từ
những con sông hình thành nên những chợ nổi nơi mua bán giao thương tấp nập của nền kinh tế
thị trường, nơi mang nét đẹp chân chất, thiệt thà như cô gái quê Nam bộ.


Cây trái U Minh Hạ
Cái giàu, cái đẹp có từ biển
Biển của ĐBSCL hiền hòa bình dị như chính người dân Nam bộ, nhưng cũng đôi khi cuộn sóng
dâng trào bởi quy luật ứng xử giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên. Đẹp thay
những tên gọi mỹ miều của những cửa sông, cửa biển: Bình Đại Bến Tre, biển Ba Động Trà
Vinh, Trần Đề, Định An, Sóc Trăng, Gành Hào, Bạc Liêu, Tân Ân, Vàm Lũng, Khai Long, Đất Mũi,
Mỹ Bình, Sông Đốc, Hà Tiên Kiên Giang... Trong số đó có không ít những địa danh đã đi vào
huyền thoại như Tân Ân - nơi hoạt động của thầy giáo Hiển, Vàm Lũng nơi tiếp nhận con tàu
không số đầu tiên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Và không ai không biết Phú Quốc - một
hòn đảo ngọc của Việt Nam vừa giàu vừa đẹp. Phú Quốc có bãi Khem, nước xanh phẳng lặng, có
suối tranh réo rắt đêm ngày, có tiêu sọ, có giống chó đặc biệt xoáy lông xoắn chạy dài trên lưng
và nước mắm Phú Quốc nổi tiếng thế giới. Những hòn đảo, quần đảo mọc lên lô nhô như một
“Hạ Long” của Nam bộ. Quần đảo Hải tặc có ao biển rộng gần chục km2 với nhiều đảo nhỏ vây
quanh, tạo thành một bãi cát trắng mịn trải dài, hay đảo Bà Lụa với hơn 40 hòn lớn nhỏ, phong
cảnh hoang sơ, hữu tình. Rồi Thổ Chu của Kiên Giang, nơi nương tựa của hàng trăm ghe thuyền
mỗi khi biển trời dậy sóng... Thêm một đặc ân của thiên nhiên ban tặng cho vùng đất sình lầy ở
tận cùng Đất Mũi Cà Mau - nơi duy nhất trên lãnh thổ nước Việt Nam thấy được mặt trời mọc ở
đằng biển Đông và lặn ở đằng biển Tây. Đất Mũi Cà Mau lại mọc lên 3 hòn đảo ngọc: Một cụm
đảo Hòn Khoai cách đất liền 14 hải lý – nơi ghi lại những chiến công của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ
1945 do anh hùng Phan Ngọc Hiển lãnh đạo. Một Hòn Chuối thuộc địa phận biển Tây, cách cửa
biển Sông Đốc 16 hải lý, một cửa biển đồ sộ và phát triển nhất vùng. Hòn Chuối nằm án ngữ
như anh lính tiền tiêu canh giữ vùng biển trời Tổ quốc. Cách Sông Đốc không xa còn có Hòn Đá
Bạc thuộc xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tuy nhỏ về hình dáng nhưng lớn về chiến
công, chiến công CM12 là chiến công vang dội của ngành An ninh Việt Nam...


Đờn ca tài tử Nam Bộ là một trong những nét văn hóa đặc trưng của đồng bằng


Bức tranh đồng bằng
Cái giàu, cái đẹp có từ núi
Thật là lạ lùng, giữa vùng đồng bằng mà lại mọc lên những ngọn núi như dãy “Hoàng Liên
Sơn thu nhỏ”, đó là vùng Thất Sơn hùng vĩ án ngữ nơi biên giới An Giang. Nhưng càng lạ hơn,
mỗi ngọn núi đều là di tích. Nếu như Núi Sam có Miếu Bà Chúa Xứ, Lăng Thoại Ngọc Hầu, Chùa
Tây An; Cô Tô có Đồi Tức Dụp, một căn cứ địa quan trọng trong cuộc kháng chiến, với nhiều
hang động luồng tuông trong núi; Núi Cấm có Lâm Viên, đứng từ trên đỉnh nhìn xuống sẽ thấy
vùng Bảy Núi An Giang như một bức tranh sơn thủy đang trầm mặc giữa đồng bằng xanh ngát.
Trong bức tranh màu xanh đó ánh lên ánh sáng bạc chạy dài, đó là kênh Vĩnh Tế... Từ trên núi,
ngước mặt thấy mây, nhìn ngang thấy rừng và ngó xuống thấy ruộng vườn, thấy sông đầy mùa
nước lũ, nhìn thẳng vào mùa nước lũ dữ dội để chung sống, để làm giàu trên lũ đó cũng là lợi
thế, là tiềm năng.

Mùa nước nổi

Sông nước Cà Mau
Cái giàu, cái đẹp có từ những sản vật
Vựa lúa chung của thế giới chính là ĐBSCL, mỗi năm xuất khẩu chiếm hơn 80% tổng giá trị
xuất khẩu của Đông Dương, vùng đất này mỗi năm tiếp nhận hơn 1 tỷ tấn phù sa bồi đắp làm
cho đất đai đồng bằng thêm màu mỡ, nuôi sống cho gần 2000 giống lúa khác nhau, hàng ngàn
giống cây trái, hoa, màu... ĐBSCL cũng là vựa trái cây lớn nhất nước, người ta ví nơi đây là
miền đất ngọt, đi đến đâu trong vùng cũng có những món trái cây đặc sản nổi danh, gắn liền với


×