1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước bước sang
một giai đoạn lịch sử mới. Văn học cả nước nói chung, văn học đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng cũng có sự vận động và phát triển, kịp
thời phản ánh đời sống xã hội trước yêu cầu mới của thời đại.
1.2. Truyện ngắn ĐBSCL gắn liền với nhiều nhà văn được người đọc
mến mộ như: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,…và
gần đây là Nguyễn Ngọc Tư. Họ viết hết mình về vùng đất nơi họ sinh ra, lớn
lên và trải nghiệm suốt cả cuộc đời từ nhiều góc độ, phương diện cảm nhận
cũng như cách thể hiện.
Thật sự thì gần đây có nhiều tác giả truyện ngắn viết về ĐBSCL khá
thành công và có nhiều triển vọng sẽ đi xa hơn. Điều đó đã mở ra nhiều
hướng đi mới đầy triển vọng cho văn chương vùng ĐBSCL.
1.3. Văn học cũng đòi hỏi có sự tổng kết ở từng giai đoạn để tạo thế đi
lên. Mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác đều cần được khuyến khích
tìm tòi, thể nghiệm.
So với các thể loại văn học khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 phát
triển nhanh về số lượng và có những đóng góp đặc sắc về nội dung cũng như
nghệ thuật, nhất là việc thể hiện đời sống, tâm hồn, tính cách của người
ĐBSCL trong thời kỳ này.
Thế nhưng đến nay các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số
tác giả như Sơn Nam, Trang Thế Hy, Phi Vân, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng
… và chủ yếu là những sáng tác của họ trước 1975, và gần đây là một số công
trình nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Ngoài ra, cũng có một vài công trình nghiên cứu truyện ngắn ở một số
địa phương, như truyện ngắn An Giang, Đồng Tháp,…mà chưa có công trình
2
nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện về truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến
nay.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc bộ, nhưng phần lớn cuộc đời
tôi lại gắn bó sâu nặng với ĐBSCL. Vẻ đẹp của ‘‘nắng chói chang vàng tươi
lúa hát’’ và ‘‘những con người mặt đẹp như hoa’’ (Lê Anh Xuân) cùng cái
trong trẻo mát lành của một dòng sông quê đỏ nặng phù sa, rồi tình đất, tình
người, hương rừng, hương biển... Ở nơi đây đã tạo nên một hương vị rất
riêng, cũng như làm cho chúng tôi thêm gắn bó sâu nặng với vùng đất này,
vừa gần gũi, thân quen, song cũng vừa độc đáo mới mẻ đến vô chừng.
Với những lẽ trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề Khảo sát đặc
điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
Vẫn biết rằng muốn đạt được sự thành công ở vấn đề này, chúng tôi sẽ
gặp không ít khó khăn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tổng hợp, đánh giá dựa trên các
nguồn tư liệu sau:
Các tham luận trong Hội thảo bàn tròn Văn xuôi đồng bằng lần thứ 1 tại
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Lời giới thiệu ở các Tập truyện ngắn và Tuyển tập truyện ngắn từ 1975
đến nay của các nhà văn ở ĐBSCL.
Một số luận văn Cao học thực hiện đề tài về truyện ngắn ĐBSCL trong
phạm vi một tỉnh hoặc một tác giả cụ thể.
Trên các báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Văn nghệ trẻ, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Tạp chí Nhà văn…
Trên các website như:
- ;
- , ...
3
Từ những tư liệu thu thập được, chúng tôi tạm chia thành hai loại ý kiến
sau:
- Ý kiến bàn về những đóng góp nổi bật của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
- Ý kiến bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
2.1. Ý kiến bàn về những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay
2.1.1. Những đóng góp về nội dung truyện ngắn ĐBSCL
Trong bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975 đến nay -
Thành tựu và những điều trăn trở, Hoài Phương nhìn nhận:“Truyện ngắn đã
có những cách tân và đạt nhiều thành tựu đáng tự hào về nội dung lẫn hình
thức thể hiện”[123]. Còn trong bài Đi tìm ‘‘chân dung’’ truyện ngắn đồng
bằng sông Cửu Long, Võ Tấn Cường nhận xét: “Phác thảo chân dung truyện
ngắn ĐBSCL, tôi cảm nhận được tính cách con người, sắc màu văn hóa của
vùng đất này’’[24]. Trong bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long: một khu
vực văn xuôi có nhiều đặc sắc, Chiêm Thành cũng đề cập đến: “tính cách con
người Nam bộ trong thời hiện đại đa diện và rất phức tạp, chứ không phải đơn
giản là phóng khoáng, hào hiệp, giàu tình nghĩa như cái nhìn bất di bất dịch
của một số người”[135, tr.53]. Còn ở bài Cá tính và bản lĩnh văn xuôi Nam bộ,
Hồ Tĩnh Tâm đã chỉ ra những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến
nay về nội dung phản ánh: ‘‘Dựng nên bức chân dung về tâm linh, tình cảm
của con người Nam bộ trong cuộc sống. Đó là những vấn đề luôn tạo nên niềm
trăn trở, thao thức trong đời sống hôm nay như: nỗi đau sau khi chiến tranh
qua đi; thân phận con người bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh; khát vọng tình yêu
và hạnh phúc; tự vấn lương tâm trước những những gì đã và đang diễn ra
trong cuộc sống’’[147].
4
Với bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long - một chặng đường phát
triển, tác giả đánh giá cao một số tác phẩm có giá trị đích thực đáng được
quan tâm với hai mảng đề tài lớn trong sáng tác văn học sau 1975 là ‘‘chiến
tranh cách mạng và quá trình xây dựng, đổi mới của đất nước’’. Trong đó, vấn
đề tự vấn lương tâm diễn ra xuyên suốt ở hai mảng đề tài này “Thân phận
nhân vật trong các tác phẩm thường gởi một phần cuộc đời trong chiến tranh
bom đạn, một phần thao thức vươn tới cuộc sống mới. Trong kháng chiến, văn
học hướng con người vươn tới giành chiến thắng; ngược lại thời bình, văn học
rộng đường khai thác hơn, khắc họa hình tượng con người với nhiều mối quan
hệ, con người trong đời thường, trong nghịch cảnh, bất hạnh, niềm vui và nỗi
đau,…”[134, tr.57].
Trong bài Một phong vị truyện ngắn đồng bằng riêng biệt trên trang Web
Văn nghệ sông Cửu Long, Tường Vi nhận xét: “Có truyện ngắn còn đi vào
tâm trạng phức tạp của những con người thành thị, bị dằn vặt giữa những mâu
thuẫn tiền tài và khát vọng tình yêu,... hoặc câu hỏi lớn về căn bệnh quan liêu
của các quan chức…Dù dưới góc nhìn nào, các tác giả cũng mở cho nhân vật
một lối thoát, chứa đựng nhân sinh quan: Cuộc sống vốn sẽ không quá khắc
nghiệt với những ai biết vươn lên và phục thiện”[195].
Còn qua bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay -
thành tựu và những điều trăn trở, Hoài Phương cho rằng:‘‘Truyện có sự vận
động và phát triển rất nhanh, đáp ứng kịp thời sự chuyển đổi của xã hội và con
người sau chiến tranh. Chính nhờ sự chuyển tải nhanh và kịp thời nhiều vấn đề
bức xúc, gần gũi với đời sống xã hội, cùng với giọng văn trầm lắng, nhẹ
nhàng, tâm tình như len lỏi vào tận đáy sâu tâm hồn con người’’[123].
Với bài Nhà văn Nguyễn Thanh - người nặng nợ văn chương, tác giả khái
quát nội dung phản ánh trong sáng tác của ông:“Truyện của ông nhiều chi tiết
nhỏ nhít mà sống động lạ lùng, đọc lên cứ như mình đang ở đó, trong hoàn
5
cảnh đó, nói mấy câu dân dã đó…nếu ngày xưa ông say mê xây dựng hình
tượng người lính thì sau này, nhân vật của ông chủ yếu là nông dân. Họ hào
sảng, tốt bụng, nhân nghĩa nhưng phải trăn trở, day dứt rất nhiều trong cuộc
mưu sinh. Và những người phụ nữ luôn hiện ra với tất cả vẻ đẹp, cái đẹp lấp
lánh từ đau khổ, hy sinh, từ sự vùi dập…”[173, tr.29].
Trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Bóng chiều hôm - Nguyễn Thanh,
Nguyễn Thị Thanh Xuân đưa ra nhận xét đối với cảm hứng về con người và
cuộc sống ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc: ‘‘Cảm hứng kín đáo xuyên suốt
tác phẩm của Nguyễn Thanh là cái thường ngày của cuộc đời. Bằng một bút
pháp trầm tĩnh, chân tình, đôi khi còn có phần chân phương trong cách viết,
Nguyễn Thanh đưa chúng ta đến với những cuộc sống và thế giới tinh thần của
những con người bình thường ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Bằng những
chi tiết nhỏ tươi nguyên, trang viết của Nguyễn Thanh phản ánh cuộc sinh sôi
thầm lặng hay cuộn chảy ào ạt ở Cà Mau trong dịp xây dựng. Ở đó có những
con người làm việc không mệt mỏi với một ý thức lao động đẹp đẽ không hề
nhân danh cho những giá trị lớn lao. Ở đó đầy ắp tiếng cười con trẻ, tiếng
sóng biển, ánh lửa đốt đồng, tiếng vịt gọi bầy, tiếng xuồng lao trong đêm trên
kênh rạch thoảng mùi bùn nồng ấm’’[133].
Bàn về Thế giới truyện ngắn Bích Ngân, Huỳnh Phan Anh nhận định:
“Qua từng trang toát ra hơi thở và nhịp đập của vùng đất thân thương nơi tận
cùng của đất nước, tác giả đã đưa người đọc đến hoặc đến gần hơn, với
những mảnh đời và cảnh đời làm nên hồn đất lẫn hồn người, hiền hoà và
mãnh liệt, đã mở ra nhiều cánh cửa nhưng còn đó bao điều bí ẩn. Ngôn ngữ và
phong cách Bích Ngân in rõ những nét đặc trưng Nam bộ…Nhưng điều đáng
nói và cũng hiện rõ trong tài năng của cô là chất giọng Nam bộ vẫn in đậm
trên từng trang viết nhưng không nặng phần câu nệ hay cứng nhắc đến cường
điệu trong từng câu, từng chữ mà vẫn toát ra nét tinh tế và trữ tình riêng mở
6
toang mọi giới hạn…Truyện ngắn Bích Ngân thường dung dị, với những con
người và cuộc sống thật bình thường, gần gũi, dễ tìm tới nhất, dễ bắt gặp
nhất…”[7].
Đánh giá về nhà văn Trang Thế Hy, Chiêm Thành trong bài văn xuôi
ĐBSCL có nhiều đặc sắc đã nhận xét: ‘‘Ông đã ý thức được sức nặng của từng
con chữ - sức nặng ấy có được là nhờ sự chiêm nghiệm về cuộc đời mà trên
hết là nhờ nỗi đau đớn trong ý thức trả những món nợ nước mắt của thế
gian”[135].
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có nhận xét khá thú vị về Nguyễn Ngọc Tư,
ông ví: “Cô ấy như một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng
đước Nam bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem đến cho văn học một luồng gió mát
rượi, tinh tế mà chân chất, đặc biệt Nam bộ”[115].
Trong Bài học văn chương từ cánh đồng bất tận, Bùi Việt Thắng đã có
những nhận xét khá sắc sảo về nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư: “Nguyễn Ngọc
Tư đã xây dựng biểu tượng văn chương và ngôn ngữ văn chương, trong đó
cánh đồng là một biểu tượng giàu ý nghĩa. Cánh đồng không phải là cánh
đồng mẹ, nơi lưu giữ tâm thức của cộng đồng, nơi truyền tình thân yêu nước,
là bằng chứng về sự cố kết máu thịt giữa con người và đất đai…mà là cánh
đồng chết”[144].
Nguyễn Lâm Điền - Huỳnh Hải Đăng cũng đã khái quát những dấu ấn
văn hóa của vùng đất ĐBSCL được Nguyễn Ngọc Tư thể hiện sinh động
trong các truyện ngắn của chị mà nổi bật nhất là: “Cách nhà văn miêu tả một
trong những nét đẹp về đời sống tinh thần của người ĐBSCL mà những vùng
miền khác không có đó là đờn ca tài tử, cải lương”[46].
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay (qua Tuyển tập truyện
ngắn đồng bằng sông Cửu Long 1975-1995 và Tuyển tập 18 Nhà văn đồng
bằng sông Cửu Long), Trần Mạnh Hùng cho rằng: “Cùng với sự đổi mới và
7
phát triển của văn học Việt Nam từ sau 1975, truyện ngắn ĐBSCL đã thể hiện
được tâm hồn và tính cách của người ĐBSCL trong thời kỳ này” và “Với
hương sắc riêng, truyện ngắn ĐBSCL đã lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp đa
dạng và phong phú cho nền văn học dân tộc”...‘‘Sự mộc mạc, chân thật, bộc
trực mà luôn thắm đượm tình nghĩa” của con người nơi đây. Người đọc
cũng:“nhận ra phần nào đặc điểm nổi bật của cảnh quan địa lý, lịch sử, văn
hoá và tâm hồn tính cách con người của vùng đất này”[74, tr.702-703].
Giới thiệu về Truyện ngắn Ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ có
nhận xét rất chính xác thể hiện được nét đặc trưng của thiên nhiên vùng sông
nước: “Có một điều đặc biệt thú vị khi đọc truyện ngắn của ba tác giả nữ
ĐBSCL, đó là người đọc luôn bắt gặp một không gian đầy quyến rũ và thơ
mộng của vùng sông nước Cửu Long với những bờ kênh, con rạch, với hình
ảnh những miệt vườn, những cù lao xanh hút tầm mắt và những thú vui điền dã
mang đậm đặc trưng của miền đất Nam bộ”[196, tr.11].
Trong bài giới thiệu truyện ngắn trên Website Văn nghệ sông Cửu Long
với tựa đề Một phong vị đồng bằng riêng biệt, Tường Vi viết: “Tập truyện đã
gợi lên cho người đọc hình ảnh sông nước, làng quê với cảm giác nhớ nhung,
khắc khoải về một vùng đất, đặc biệt là trầm buồn trong những ngày mưa lũ,…
cho người đọc những câu chuyện thú vị về một vùng đất hào sảng, nơi có
những tay “sát cá”, những buổi “ ăn ong”, những vùng nước cá tôm nhiều vô
kể’’[195].
Còn ở bài Thiên nhiên và con người Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Tiền Văn Triệu nhận định: ‘‘Dòng sông và cánh đồng rộng là không
gian phù hợp để những câu hò, câu ca vọng cổ cất lên mỗi khi gặp nỗi buồn’’
Nguyễn Thanh lại có cái nhìn khái quát hơn về sự trù phú của thiên
ĐBSCL: “Vốn là một vùng châu thổ nhiệt đới, được tạo thành do phù sa Cửu
8
Long bồi tụ…đây là vùng đất trẻ, đất mới với điều kiện địa lý đặc thù thiên
nhiên ưu đãi”[134, tr.59].
Từ những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy, mỗi công trình nghiên cứu có
cách tiếp cận khác nhau. Hướng tiếp cận chủ yếu của các công trình trên là
hướng tiếp cận nhân học và hướng tiếp cận văn hóa học (đương nhiên không
thể thiếu hướng tiếp cận ngữ văn học). Theo những hướng tiếp cận này, các
nhà nghiên cứu trên khai thác tập trung vào đặc trưng tính cách con người và
đặc trưng văn hóa mà các truyện ngắn ĐBSCL đã vẽ nên qua lăng kính đạo
đức - thẩm mỹ và cá tính của mỗi nhà văn. Nhìn chung, các công trình trên đã
đề cập đến những đóng góp nổi bật ở phương diện nội dung của truyện ngắn
ĐBSCL sau 1975.
2.1.2. Những đóng góp nổi bật về nghệ thuật
Trong tham luận hội thảo Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL, lần I, Hồ Tĩnh Tâm
có nhận xét: “Một số cây bút văn xuôi ĐBSCL đã sử dụng thành thục các giá
trị đặc trưng ngôn ngữ Nam bộ, thậm chí còn nâng cao ngôn ngữ Nam bộ lên
tầm cao của ngôn ngữ nghệ thuật”[147]. Ông còn cho rằng truyện ngắn
ĐBSCL đã dựng được“chân dung về tâm linh, tình cảm của người Nam bộ
đúng thứ ngôn ngữ rất thuần Nam bộ”[147].
Bàn về nghệ thuật truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, Võ Tấn Cường
cho rằng: “Truyện ngắn ĐBSCL có diện mạo riêng với những phong cách
nghệ thuật mang đậm nét đặc điểm của văn hoá truyền thống”[24].
Nhận xét về cách viết của một số tác giả truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay, Hoài Phương nhận định: “Đa số các nhà văn ở ĐBSCL có cách viết
uyển chuyển và nhẹ nhàng hơn, ít tuân thủ theo các kết cấu truyền thống là
phải có hậu, thậm chí nhiều truyện không có phần kết giống như một cánh cửa
khép hờ. Đặc biệt, có một số tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật
giúp cho người đọc cảm thấy thích thú”[123].
9
Nhận định về nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
của ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ viết: ‘‘Ngôn ngữ của vùng đất
Nam bộ với những phương ngữ, thổ ngữ độc đáo hay những đặc trưng trong
lời ăn, tiếng nói của người Nam bộ luôn được sử dụng nhuần nhị, tự nhiên
trong mỗi tác phẩm đã tạo nên cho truyện ngắn của ba tác giả nữ một bản sắc
riêng, tạo ấn tượng đối với người đọc’’[196, tr.12].
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, Huỳnh Công Tín viết: “Nhìn từ phương diện nghệ thuật,
chị đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam bộ khá thành công trong sáng
tác của mình. Điều này góp phần làm nên một văn phong riêng ở chị. Tất
nhiên có thể có người không đồng tình với những nhận định này vì cho rằng,
trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều từ địa phương thì sẽ gây trở
ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng, để có được những sáng tác phản
ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu ngôn từ
của thực tại cần phản ánh”[152, tr.4].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất
tận, Đặng Vũ nhận xét: “Nhà văn có lối viết truyện thật hay, không theo khuôn
phép nào, cũng chẳng theo chủ nghĩa này nọ, không gò bó, trái lại rất tự
nhiên, thoải mái,“viết như chơi”[184].
Trần Phỏng Diều bàn về Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư: “Có thể nói, thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chính là hình tượng người nghệ sỹ, hình tượng người nông dân và hình tượng
con sông đưa mình uẩn khúc, chở nặng tình người”[31].
Còn ở bài Điểm nhìn và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Ông Thiềm
Thừ của Trần Kim Trắc, Đỗ Thị Hiền nhận định: Truyện ngắn này “gửi đến
chúng ta một thông điệp về nhân cách con người từ góc nhìn văn hoá”[69].
10
Trong bài Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam, Trần Phỏng
Diều nhận xét: “Điều dễ nhận thấy nhất trong giọng điệu truyện ngắn Sơn
Nam đó là giọng ngậm ngùi, giọng tâm tình, hoài niệm, giọng rề rà, chậm rãi.
Có thể nói giọng rề rà, chậm rãi là một đặc trưng trong truyện ngắn của
ông...”[30].
Bàn về phong cách Sơn Nam, có ý kiến cho rằng: ‘‘Văn Sơn Nam không
ồn ào như gió chướng, lại không trong veo như nước cất trong phòng thí
nghiệm, mà nó là thứ nước chất lỏng hồng hào có tên phù sa, chỉ cần vốc lên
đã thấy mỡ màu cả bàn tay... Những cảnh, những đời, những tâm sự của ông
dù với tính cách hảo hớn, hào hùng nhất, sảng khoái và chịu chơi nhất bao giờ
cũng pha một giọng kể trầm buồn, u hoài, xa vắng’’[58].
Ở bài Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm sâu một phong cách Nam Bộ,
Trần Vệ Giang đã viết: “Không phải kiểu Nam bộ quê rặt, địa phương tính,
văn chương của Nguyễn Quang Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng
sông, cái khoáng đạt, giản đơn của con người miền sông nước. Và quan trọng
hơn hết là, ông thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam bộ”[187].
Ngoài các công trình đã đề cập trên đây, trong các trường đại học ở khu
vực và thành phố Hồ Chí Minh sinh viên, học viên cao học ngành ngữ văn đã
thực hiện luận văn với đề tài về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975. Trong số đó
đáng chú ý là đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Đồng Tháp giai đoạn
1975 đến 2005 (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Anh Dân). Tác giả luận văn đã
phát hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới nhân vật, sự đặc sắc trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Đồng Tháp trong cách thể hiện xung
đột, sự kiện, trong lựa chọn chi tiết và sử dụng ngôn ngữ… Đề tài Những đặc
điểm nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Thị
Thu Thuỷ) là một công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc về truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tác giả luận văn khẳng định: ‘‘Mọi sự ồn ào rồi sẽ
11
qua đi, những giá trị đích thực sẽ ở lại, có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là gương
mặt của văn học Việt Nam đương đại, chất nhân văn trong sáng tác của chị là
điều làm đọc giả say mê và thích thú. Phải chăng đó là do tình nhân ái, tính
nhân bản là gốc rễ phẩm chất của một nhà văn tài năng’’...
Nhìn chung, các ý kiến đã chỉ ra được một số đóng góp ở phương diện
nghệ thuật như phong cách, thị hiếu thẩm mỹ, giọng điệu, ngôn ngữ truyện,...
đặc biệt nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong tác phẩm. Vốn ngôn từ
địa phương dưới bàn tay nhào nặn, sắp đặt câu chữ khéo léo của nhà văn đã
góp phần quan trọng cho thành công về mặt nghệ thuật của các nhà văn
ĐBSCL.
2.2. Bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay
Trong bài Đi tìm‘‘chân dung’’ truyên ngắn ĐBSCL, Võ Tấn Cường nhận
xét về sự hạn chế trong việc xây dựng nhân vật và phong cách diễn đạt: “Đọc
hàng trăm truyện ngắn ĐBSCL, tôi nhận ra sự đóng băng trong việc miêu tả
tâm lý, tính cách nhân vật của một số tác giả... Truyện ngắn ĐBSCL chưa có
nhiều tác phẩm tạo dựng được những điển hình nhân vật có tầm nhìn, có khả
năng ý thức về cái tôi của con người trong mối quan hệ với cuộc đời và vũ trụ.
Các nhà văn chưa đào sâu vào miền bí ẩn của tâm linh con người với nhưng
xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa cao thượng và thấp hèn... Các nhà văn
ĐBSCL chưa xây dựng được những nhân vật có tính cách, tầm vóc ngang tầm
hoặc cao hơn những người mẫu trong cuộc sống. Hầu hết các truyện ngắn viết
theo lối kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và mạch truyện chậm thiếu độ căng
về cấu trúc’’[24, tr.14].
Cũng trong bài Đi tìm ‘‘chân dung’’ truyện ngắn ĐBSCL, khi bàn về ngôn
ngữ truyện, Võ Tấn Cường có những nhận xét khá thẳng thắn: ‘‘Ngôn ngữ kể
chuyện trong nhiều truyện ngắn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt giũa,
chắt lọc....’’[24, tr.14].
12
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Việt Thắng nhận
xét: “Văn viết Nguyễn Ngọc Tư gần với văn nói”[146].
Trong bài Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL khi nhìn nhận về hạn chế của truyện
ngắn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã dẫn ý kiến của Nguyên Tùng: ‘‘Thừa tả
thực mà thiếu tưởng tượng. Truyện ngắn của các tác giả ĐBSCL chúng ta dễ
gây cho người đọc cảm giác:‘‘Đó là câu chuyện có thật’’.‘‘Nguyên liệu thô’’
còn đan bện quá nhiều trong tác phẩm hư cấu. Chính điều này đã làm giảm sự
hứng thú cho người đọc...’’[147, tr.41].
Nhìn chung các nghiên cứu về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 đều có
được những tìm tòi, khám phá đáng quý, đáng trân trọng. Lẽ dĩ nhiên công
trình của chúng tôi sẽ được thừa hưởng nhiều ý kiến quý báu mà các nghiên
cứu trước đó đã gợi ra hoặc khẳng định. Trên cơ sở đó, chúng tôi có điều kiện
để đi sâu hơn, phát hiện thêm những điều mới mẻ về truyện ngắn ĐBSCL sau
năm 1975.
3. Mục đích nghiên cứu
Văn chương nói chung, truyện ngắn nói riêng cũng đòi hỏi có sự tổng
kết ở từng giai đoạn. Vì vậy, khi thực hiện đề tài Khảo sát đặc điểm truyện
ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay, chúng tôi có điều kiện tiếp
cận toàn diện vấn đề. Qua đó, luận án làm rõ quan niệm truyện ngắn về
ĐBSCL cũng như nhận diện diện mạo, sự vận động và những đặc điểm chủ
yếu của thể loại này.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian từ 1975, vì đây là năm đánh dấu
sự chuyển biến lớn lao của đất nước. Văn học nói chung, văn học ĐBSCL
cũng bắt đầu vận động theo qui luật đời thường.
13
So với các thể loại khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975, có bước phát
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, luận án chọn thể loại truyện
ngắn để khảo sát. Cụ thể các tuyển tập sau:
- Tuyển tập truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 - 1995,
Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
- Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Mũi
Cà Mau.
- Truyện ngắn Ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản
Văn học.
- Truyện ngắn miền Tây, Nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
- Truyện ngắn Đồng Tháp, An Giang và truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư.
Nghiên cứu văn học phạm vi một vùng lãnh thổ, do vậy, ngoài khảo
sát truyện ngắn của tác giả truyện ngắn ĐBSCL là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam, chúng tôi còn chọn khảo sát truyện ngắn của tác giả là hội viên Hội Văn
học - Nghệ thuật ở các địa phương, để có cái nhìn toàn diện hơn về diện mạo
cũng sự vận động của thể loại truyện ngắn ở ĐBSCL từ 1975 đến nay.
Bên cạnh đó, luận án còn mở rộng phạm vi khảo sát một số truyện
ngắn ĐBSCL trước năm 1975 và ở vùng miền khác để có cơ sở đối chiếu, so
sánh góp phần làm rõ hơn những nét riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
Chọn vấn đề Khảo sát truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, chúng tôi đã
tiếp cận với một đối tượng khá rộng và chưa ổn định. Vì vậy, luận án chỉ khảo
sát những vấn đề chủ yếu về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn ĐBSCL
từ 1975 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
14
Chúng tôi xuất phát từ quan điểm Mác - xít để nhìn nhận và lí giải mối
quan hệ giữa thực tiễn đời sống ở ĐBSCL với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
và những vấn đề được các nhà văn phản ảnh trong tác phẩm; đồng thời,
người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL phải đặt trong sự vận động phát triển
của truyện ngắn Việt Nam sau 1975, và bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá của
vùng ĐBSCL.
5.2. Phương pháp loại hình
Với phương pháp này, luận án tìm hiểu đặc điểm của truyện ngắn
ĐBSCL từ 1975 đến nay dựa trên những đặc trưng của thể loại truyện ngắn.
5.3. Phương pháp miêu tả, so sánh
Để làm rõ diện mạo và đặc điểm riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
5.4. Phương pháp liên ngành
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài có sự liên quan chặt chẽ đến
vấn đề và lịch sử, xã hội, văn hoá và địa lý tự nhiên của vùng đất Nam bộ, vì
vậy sự kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành giữa các lĩnh vực là sự
cần thiết.
6. Những đóng góp của luận án
6.1. Về giá trị khoa học
Đóng góp của luận án là làm rõ quan niệm về truyện ngắn ĐBSCL, cũng
như nhận diện diện mạo, sự vận động và đặc điểm chủ yếu của truyện ngắn
ĐBSCL từ 1975 đến nay.
6.2. Về giá trị thực tiễn
15
Chúng tôi hi vọng luận án phần nào sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
đối với các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến truyện ngắn ĐBSCL
sau 1975.
Mặt khác, kết quả luận án đạt được có thể là cơ sở cho các nhà biên soạn
lựa chọn được những truyện ngắn ĐBSCL tiêu biểu để đưa vào sách giáo
khoa hoặc tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu môn văn
học ở bậc học phổ thông và đại học.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án có
ba chương:
Chương 1: Nhìn chung về truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975
đến nay.
Chương 2: Những cảm hứng trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu
Long từ 1975 đến nay.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật của truyện ngắn đồng bằng
sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
16
Chương 1
NHÌN CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ 1975 ĐẾN NAY
1.1.Vài nét về lịch sử, xã hội và văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long
1.1.1. Vài nét về lịch sử, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nam bộ bao gồm hai vùng đất có nét riêng là Đông Nam bộ và Tây Nam
bộ - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo Mạc Đường, trong bài viết: Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long thì ‘‘Khái niệm ‘‘đồng bằng sông Cửu Long’’ được phổ dụng
rộng rãi từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến nay. Đồng bằng sông
Cửu Long là vùng đất miền Tây Nam Bộ, là nơi có sông Tiền, sông Hậu và các
chi lưu nhỏ của sông Mêcông chảy ra biển mà nhân dân ta từ xưa quan niệm
là chín rồng (Cửu Long) phun nước để tưới vùng đất đai này’’[162, tr.54].
ĐBSCL là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn địa với một đồng bằng
châu thổ phẳng và thấp. Với diện tích khoảng 39.568 km
2
, ĐBSCL gồm 13
tỉnh thành: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, và thành phố Cần
Thơ, với dân số trên 21 triệu người, nơi đây:
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển bờ lai láng, cá bầy đua bơi
Nói đến ĐBSCL là nói đến một thực tại lịch sử - lịch sử khai phá vùng
đất đất Nam bộ nói chung và ĐBSCL nói riêng. Trước thế kỷ XVII, vùng đất
này ngủ yên trong vẻ hoang sơ u tịch, với dân số bản địa ít ỏi và thưa thớt.
Sang thế kỷ XVII, dưới thời các Chúa Nguyễn cư dân người Việt ở miệt ngoài
di cư vào đây lập nghiệp khai phá. Và thực dân Pháp tiếp nối tiếp nối quá
trình đó trong chính sách khai thác thuộc địa.
17
ĐBSCL trong suốt tiến trình lịch sử của mình luôn trải qua những biến
cố liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc.
Điểm đặc trưng nhất khi nói đến ĐBSCL là người ta dễ dàng liên tưởng
đến một vùng sông nước. Ở đây những dòng sông xẻ ngang, xẻ dọc, những
con rạch chằng chịt ôm lấy những cánh đồng lúa bao la, ôm lấy xóm ấp tạo
nên một hình thái giao thông hết sức đa dạng. ĐBSCL được coi là vương
quốc của sông rạch. Chính vì vậy mà người dân miền Tây có thể ngồi trên ghe
đi khắp vùng đồng bằng, qua các thành phố, thị trấn, xóm ấp, miệt vườn... mà
không phải đặt chân lên bờ. Các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của
người dân luôn gắn bó với mọi biến động của dòng nước, của con nước. Nếu
ngoài Bắc người dân bám lấy mặt đường để làm ăn buôn bán, ở ĐBSCL
người dân bám lấy mặt sông, mặt kênh mà sinh sống. Có chỗ một dãy dài vài
ba cây số, dân làm nhà chen chúc hai bờ sông, sàn nhà mấp mé mặt nước.
Nhà nào cũng hướng ra mặt sông, mở cửa là bước xuống xuồng. Sông rạch ở
đây còn đem phù xa nước ngọt bồi đắp, tưới mát cho những miệt vườn đầy ắp
trái cây, những cánh đồng lúa tươi tốt và cá tôm nhiều vô kể. Dường như con
người nơi đây đã gắn chặt cuộc đời mình với sông nước, nơi nào có sông,
rạch là có ghe, xuồng. Có chiếc ghe để làm ăn sinh sống là là nhu cầu và ước
vọng của người dân. Nhiều gia đình đời này qua đời khác lập nghiệp bằng
chiếc ghe, coi nó như ngôi nhà của mình. Nhiều ghe thuyền tụ lại tạo nên khu
dân cư nổi, chợ nổi trên sông.
Người xưa đã nói Thiên - Địa - Nhân hợp nhất, nghĩa là trời, đất, con
người luôn có mối giao kết liên quan đến nhau. Vùng đất, thời tiết nào con
người ở đó có phong cách, sắc thái riêng của vùng đó, nó cũng như trái cây,
con vật đặc sản ấy.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ĐBSCL cùng cả nước hân hoan mừng chiến
thắng. Thế nhưng vết thương chiến tranh chưa lành, người dân các tỉnh biên
18
giới lại phải đối đầu với chiến tranh biên giới Tây Nam. Bên cạnh đó là muôn
vàn khó khăn khác : nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, nhiều vùng nông thôn bị
hoang hoá, công nghiệp không đáng kể, nạn thiếu ăn xảy ra nghiêm trọng, rồi
lũ lụt, dịch bệnh... Nhưng với ý chí quyết tâm và tinh thần không sợ gian khổ,
người dân ĐBSCL từng bước tạo nên những thành tựu rất đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá xã hội. Đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân từng bước được cải thiện, trình độ dân trí được nâng lên.
Sau ngày giải phóng ĐBSCL các Đài truyền thanh huyện, thị; Báo, Đài
phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố đi vào hoạt động, kịp thời phục vụ
đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong vùng. Các Hội văn học
nghệ thuật, Tạp chí văn nghệ là nơi phát hiện, đào tạo đội ngũ sáng tác và giới
thiệu tác phẩm của họ đến công chúng.
Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, các lĩnh vực văn hoá, xã
hội, đời sống có những biến chuyển khá rõ nét. Phong trào văn nghệ quần
chúng được duy trì và chất lượng hoạt động ngày càng được nâng cao. Các lễ
hội truyền thống được khôi phục có chọn lọc, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân. Các loại hình hoạt động văn hoá truyền thống như đờn ca tài tử, sân
khấu cải lương cũng được duy trì và phát triển ở nhiều địa phương.
1.1.2. Vài nét về văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nhà nhiên cứu văn hoá Ngô Đức Thịnh chia đất nước ta thành bảy vùng
văn hoá, trong đó văn hoá Nam bộ là vùng thứ bảy và có đặc điểm là vùng
đất mới. Việc phân vùng văn hoá được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa
văn hoá lịch sử và địa lý của một vùng và gọi tắt là vùng văn hoá.‘‘Vùng văn
hoá là một vùng lãnh thổ, có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư
sinh sống ở đó từ lâu có mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử có những tương
đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã trải qua các mối quan
hệ giao lưu, ảnh hưởng văn hoá qua lại mật thiết, nên từ lâu đã hình thành
19
những sắc thái văn hoá chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần, có thể phân biệt với những vùng văn hoá khác’’[150, tr.64].
Trong mỗi vùng như vậy lại có những tiểu vùng và có những đặc trưng riêng
lẻ.‘‘Vùng văn hoá Nam bộ, xét trên cả phương diện địa lý và lịch sử, đều là
vùng thứ bảy và có ba tiểu vùng Đông Nam bộ, Tây Nam bộ và tiểu vùng Sài
Gòn - Gia định’’[154, tr.17].
Điều kiện địa lý và lịch sử làm cho ĐBSCL có những nét đáng lưu ý về
mặt văn hoá. Đây là nơi cộng cư của nhiều tộc người như Việt, Hoa, Khmer,
Chăm trong đó người Việt đóng vai trò chính. Ngay người Việt cũng là dân
‘‘tứ chiếng’’ gồm nhiều lớp người với nhiều nguyên nhân từ Bắc và Trung bộ
hội nhập về đây. Cho nên, đây là nơi diễn ra quá trình giao lưu văn hoá giữa
các tộc người, là vùng văn hoá với nhiều sắc thái đặc trưng. Những người Việt
đầu tiên đến định cư ở vùng đất mới đều từ miền Bắc và miền Trung. Họ đến
và mang theo vốn văn hóa gốc rễ của mình. Bốn nguồn văn hóa cộng lại
thành một nền văn hóa cộng cư đặc trưng của ĐBSCL trong nền văn hóa Việt
Nam. Đó là một nền văn hóa vô cùng phong phú và lạ lẫm. Nếu người Việt có
những làn điệu cải lương hay những câu hò, điệu lý thì người Khmer lại thể
hiện bản sắc của mình trong điệu múa roăm - vuông, hát đối đáp Aday hay
nhịp trống Chay - dăm. Nếu người Chăm có những hoạt động nghệ thuật sôi
động trong những ngày kết thúc tháng Ramada sinh nhật Muhamed hoặc các
dịp hôn nhân cưới hỏi thì người Hoa lại góp vào đời sống văn hóa Nam bộ
những câu hát Tiêu, hát Quảng...
Nhưng sức hấp dẫn mãnh liệt nhất của mảnh đất này vẫn là những trang
sử đấu tranh chói lọi thể hiện tinh thần bất khuất và ý chí quật cường của
những người nông dân lưu tán “từ thửa mang gươm đi mở cõi” để chống chọi
với thiên nhiên khắc nghiệt trên vùng đất “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lền
như bánh canh”.
20
ĐBSCL cũng là vùng đất hội nhập nhiều luồng văn hóa Đông - Tây
khác nhau nên cốt cách con người và nghệ thuật hấp thu được những sắc thái
và linh khí của văn hóa các dân tộc. Quá trình đó đã bồi đắp nên những giá trị
nhân văn, hình thành những giá trị văn hoá mang sắc thái riêng cho vùng đất
này.
ĐBSCL còn là khu vực sinh thái và địa lý có sức hấp dẫn mạnh mẽ bởi
cảnh quan thiên nhiên của vùng sông nước. Vì thế đặc điểm nổi bật của văn
hoá ĐBSCL là văn hoá sông nước. Điều này được thể hiện qua tập quán, các
lễ hội về nước và đặc biệt là ngôn ngữ giao tiếp có liên quan đến sông, rạch.
Các tộc người ở ĐBSCL chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Trong công
cuộc khẩn hoang để khai phá đất đai và phát triển nghề trồng lúa nước cũng
như trong cuộc sống, ảnh hưởng và giao lưu văn hóa giữa các tộc người diễn
ra thường xuyên. Từ công cụ sản xuất, nhà ở đến cách ăn mặc, nếp sống, lễ
nghi...đều có thể tìm thấy sự đan xen giữa các truyền thống văn hóa. Trong
quá trình đó, người Việt cũng tiếp nhận các yếu tố văn hóa Khmer. Chiếc
khăn rằn của người Khmer Nam bộ đã trở nên phổ biến và trở thành một biểu
tượng quen thuộc của người Nam bộ.
Cuộc sống, sinh hoạt của người dân miền Tây đơn giản, gắn với địa hình
sông nước. Văn hoá ăn, mặc, ở, đi lại,...cũng mang đặc thù riêng và phù hợp,
hài hòa với môi trường sinh thái tự nhiên. Vùng cao thì cất nhà trệt, vùng
ngập lụt thì cất nhà sàn. Món ăn quen thuộc của người dân ĐBSCL là canh
chua cá đồng nấu với bông điên điển, bông súng, bông lục bình..., mắm kho,
chuột khìa, cá lóc nướng trui, rắn hầm nước dừa, rùa rang muối, cá linh nhúng
giấm,...các món cá khô nổi tiếng như khô lóc, khô sặc rằn trộn với xoài bằm,
khô cá kèo, cá khoai thì chấm nước mắm me... Xuồng, ghe là phương tiện di
chuyển phổ biến và thuận tiện của người dân vùng sông nước. Vì vậy, hình
ảnh chiếc xuồng ba lá là một biểu tượng văn hóa vùng sông nước. Nếu trang
21
phục truyền thống của người miền Bắc là áo tứ thân thì Nam bộ là áo bà ba.
Hình ảnh chiếc áo bà ba đã đi vào âm nhạc, văn chương, trở thành biểu tượng
của văn hóa mặc Nam bộ. Đối với vùng ĐBSCL, chợ nổi không đơn thuần là
nơi buôn bán trao đổi hàng hóa mà đã trở thành nét văn hóa riêng của vùng
sông nước.
Bàn tới văn hoá vùng đất này, chúng ta không thể không nói tới tính cách
Nam bộ. Sơn Nam, Trịnh Hoài Đức khi bàn về tính cách người khẩn khoang ở
vùng đất phương Nam hoang sơ và khắc nghiệt, đã dùng cụm từ ‘‘sĩ khí hiên
ngang’’ để chỉ những con người ‘‘kiến nghĩ bất vi vô dõng giả’’, chuộng công
bằng lẽ phải’’[104]. Trong cuốn Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt
Nam có nhận xét về con người Nam bộ ‘‘Họ cởi mở, chan hoà, dễ kết thân, dễ
hoà vào cộng đồng mới lạ, không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không coi trọng môn đăng
hậu đối’’[154, tr.50]. Dương Hoàng Lộc nhìn nhận con người Nam bộ ở tính
khoan dung: ‘‘Người Việt đến từ một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước lâu
đời,... tinh thần tương trợ, thương yêu, nhân ái và thấm đượm tính khoan dung
hết sức nhân bản của 4000 năm văn hoá dân tộc’’[92, tr.69].
Tính cách Nam bộ là một khía cạnh văn hoá ứng xử và để lại dấu ấn rõ
rệt trong mọi mặt đời sống văn hoá. Ở vùng đất mới, người dân phải trải qua
biết bao khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Vì thế, ngay từ buổi đầu gặp gỡ,
họ đã biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Mối quan hệ
giữa người với người, giữa con người với thiên nhiên trở nên gắn bó chặt chẽ
hơn. Mặt khác, sống trong điều kiện sông nước mênh mông, nhiều kênh rạch,
không bị giới hạn bởi sự ngăn cách từ đó hình thành nếp sống, cách cư xử, nét
sinh hoạt và một phần tính cách con người ĐBSCL. Lưu dân người Việt ở
vùng đất này đa số xuất thân từ những gia cảnh nghèo khó, ít chữ nghĩa. Hơn
nữa, khi vào vùng đất mới, họ cũng ít chịu ảnh hưởng của nho giáo, không
rành ngôn ngữ thánh hiền, không quen dùng văn chương hoa mỹ, thích nói
22
ngắn gọn, nôm na dễ hiểu... Đặc điểm riêng đặc sắc đó của mỗi tộc người
ngày một phát triển và hội nhập vào nhau tạo nên nét đặc trưng không dễ trộn
lẫn của văn hóa vùng Nam bộ, tạo nên tính cách chung của con người Nam bộ
trọng nghĩa, khinh tài, phóng khoáng và hiếu khách... Và vượt lên trên tất cả
là từ rất sớm các cộng đồng cư dân Nam bộ đã có truyền thống đoàn kết, đùm
bọc lẫn nhau, không phân biệt người đến trước, người đến sau, không kỳ thị
dân tộc. Truyền thống quý báu này được hình thành và phát triển trong nhiều
thế kỷ. Càng đi sâu, ta càng thấy thú vị và đầy cảm hứng văn chương. Người
Nam bộ cũng để lại sắc thái rất riêng biệt trong cách diễn xướng dân gian theo
kiểu nói nói như nói vè, nói thơ, nói tuồng... Họ còn được biết đến là những
con người yêu thích âm nhạc và ca hát. Đặc biệt là sân khấu cải lương, hát
bội, đờn ca tài tử.
Có thể nói người Nam bộ trong lịch sử là người ‘‘mang gươm đi mở
cõi’’, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm có ‘‘hào khí Đồng Nai’’, trong
hiện tại, cung cách làm ăn của người Nam bộ thoáng hơn, cởi mở và năng
động chắc chắn sẽ là con người đóng góp sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng và
bảo về đất nước.
Ngoài ra, nói tới sắc thái văn hoá Nam bộ, chúng ta không thể không nói
tới ngôn ngữ - tiếng Nam bộ. Đó là phương ngữ Nam bộ được hình thành
trong quá trình người Việt đến khẩn hoang đồng bằng Nam bộ. Nó thu hút vào
mình ngôn ngữ của những con người từ muôn nơi lưu lạc đến, nhưng đồng
thời cũng sản sinh và phản ánh thế giới tự nhiên và con người nơi vùng đất
mới với bao màu sắc mới mẻ và đa dạng.
ĐBSCL là mảnh đất màu mỡ, trù phú phía Nam của Tổ quốc. Hành trang
tinh thần của người Việt về phương Nam có cả truyền thống thượng võ và cả
nét hào hoa của lịch sử 4000 năm văn hiến. ĐBSCL là vùng đất trẻ, văn hoá
23
vùng đất này dù đã được hình thành trong một thời gian dài nhưng vẫn đang
ngày được định hình rõ nét hơn.
Tóm lại, từ bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hoá, luận án có thêm cơ sở để
làm rõ diện mạo cũng như những đặc điểm nổi bật về cả hai phương diện nội
dung và hình thức của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
1.2. Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long
1.2.1. Quan niệm về truyện ngắn
Truyện ngắn là gì? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời để có thể làm vừa lòng
tất cả mọi người. Khi xác định nội hàm khái niệm truyện ngắn, các nhà
nghiên cứu đã đặt truyện ngắn trong mối quan hệ với các thể loại tự sự khác.
Cách làm phổ biến là so sánh truyện ngắn với tiểu thuyết. Về cơ bản, truyện
ngắn và tiểu thuyết có những đặc điểm giống nhau. Phân tích 600 truyện ngắn
và 300 tiểu thuyết, Helmut Bonhein đã đưa ra kết luận: “Không có yếu tố đơn
lẻ nào trong nhiều định nghĩa truyện ngắn mà không thể tìm thấy trong tiểu
thuyết”[43, tr.420]. Đứng trên quan điểm này, Norman Friedman, một nhà lý
luận tầm cỡ về thể loại truyện ngắn cũng nhận định:“Quá trình quy nạp là thu
thập một mẫu đúng về những gì được coi là truyện ngắn để kiểm tra đặc điểm
của chúng trong mẫu đó và so sánh những đặc điểm này với những đặc điểm
lấy ra từ mẫu đúng của tiểu thuyết”[43, tr.420]. Và Friedman cũng cho
rằng :“Có thể không có sự khác biệt nào giữa truyện ngắn và tiểu thuyết (từ
những yếu tố bề ngoài về độ ngắn dài); hoặc có thể kết quả tốt hơn, đó là sự
khác biệt về cấp độ chứ không phải về chủng loại”[43, tr.421]. Hay nói khác
hơn, ông đã chỉ ra:“Truyện ngắn chỉ khác tiểu thuyết ở quy mô của hành động
và cách thể hiện hành động ở mức độ dài ngắn (tức là khác biệt về cấp độ) chứ
không có sự khác nhau về thể loại (vì cũng là hình thức tự sự hư cấu bằng văn
xuôi)”[43, tr.421]. Như vậy, theo quan niệm của Friedman, nếu so sánh truyện
ngắn với tiểu thuyết ta sẽ thấy một trong những sự khác biệt giữa cốt truyện
24
của truyện ngắn và cốt truyện của tiểu thuyết không phải là sự khác biệt về
tầm cỡ lớn nhỏ của các hành động mà là trong cái cách trình bày các hành
động đó: toàn bộ hay tóm tắt. Một truyện có thể ngắn không phải vì hành
động của nó vốn nhỏ mà chủ yếu quy mô được rút gọn, tóm tắt, trình bày một
cách cô đọng. Trong khi đó quy mô được mở rộng trong tiểu thuyết miêu tả
toàn bộ sự việc đang được trình bày trực tiếp và cụ thể ngay từ khi hành động
bắt đầu diễn ra. Đi theo hướng nghiên cứu này, Ruby.V. Redinger đã đưa ra
quan điểm của mình như sau: “Truyện ngắn là một hình thức văn học, bản
chất của nó bao hàm trong những từ làm thành phần tạo nên tên gọi của nó.
Với tư cách là một câu chuyện, nó kể lại một chuỗi sự kiện hoặc một biến cố
liên quan đến con người trong hoạt động thể chất hoặc tinh thần. Vì thế, giống
mọi hình thức văn xuôi hư cấu khác, nó mô tả bằng ngôn từ và thành công của
nó phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp đạt được giữa người đọc và đối tượng
miêu tả. Với tư cách là truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực hiện mối tiếp
xúc trực tiếp này bởi các phương tiện phổ biến đối với tiểu thuyết, như là xây
dựng nhân vật chậm rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại. Đặc biệt là nó phải
miêu tả với độ nhanh nhạy và trọn vẹn giống như một tấm gương”[17, tr.19].
Dễ nhận thấy trong quan niệm truyện ngắn của Redinger cũng như Friedman,
các nhà lý luận đã lưu ý đến đặc trưng ngắn của thể loại này khi so sánh nó
với tiểu thuyết. Song tiêu chí này thực sự có quan trọng không? Rõ ràng trong
định nghĩa truyện ngắn của Ruby V. Redinger đã cho thấy truyện ngắn không
thể lệ thuộc vào tiểu thuyết về mặt kỹ thuật, nguyên tắc phản ánh… nên việc
tìm hiểu truyện ngắn không thể chỉ dừng lại ở đặc điểm hình thức bên ngoài
độ ngắn dài, số lượng từ mà phải xuất phát từ chính đặc trưng thể loại. Đồng
quan điểm với Redinger, các nhà nghiên cứu thực sự xem trọng tiêu chí này
khi đưa ra những quan niệm khác nhau về truyện ngắn.
25
Nhà văn Nga K.Pauxtopxki đưa ra định nghĩa: “Thực chất truyện ngắn
là gì? Tôi nghĩ rằng truyện ngắn là một truyện viết ngắn gọn, trong đó cái
không bình thường hiện ra như một cái gì bình thường và cái gì bình thường
hiện ra như một cái không bình thường”[43, tr.404].
Giáo sư văn học người Pháp D.Grojnowski viết: “Truyện ngắn là một
thể loại muôn hình muôn vẻ biến đổi không cùng. Nó là một vật biến hoá như
quả chanh của lọ lem. Biến hoá về khuôn khổ ba dòng hoặc ba mươi trang.
Biến hoá về kiểu loại, tình cảm, trào phúng, kỳ ảo hướng về biến cố có thật
hoặc tưởng tượng hoặc phóng túng. Biến hoá về nội dung thay đổi vô cùng tận.
Muốn có chất liệu để kể, cần một cái gì đó xảy ra, dù đó là một thay đổi chút
xíu về sự cân bằng về các mối quan hệ. Trong thế giới của truyện ngắn, cái gì
cũng thành biến cố. Thậm chí sự thiếu vắng tình tiết diễn biến cũng gây hiệu
quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị hụt hẫng”[6, tr.79].
Nhà lí luận văn học N.A.Gulaiep quan niệm: “Truyện ngắn là hình thức
tự sự loại nhỏ, trong đó nó khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn tập
trung mô tả một sự kiện nào đó thường xảy ra trong đời của một nhân vật, hơn
nữa thường bộc lộ một nét nào đó của nhân vật”[110, tr.146].
Như vậy, qua quan niệm về truyện ngắn của một số nhà nghiên cứu
nước ngoài, cho thấy ưu thế lớn nhất của thể loại này là với dung lượng ít
nhưng có thể truyền tải được một nội dung tư tưởng lớn. Mỗi nhà nghiên cứu
đều có lý lẽ và cách lý giải khác nhau nhưng các quan niệm trên cũng có phần
giống nhau. Đại đa số đều cho rằng, truyện ngắn là một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt đời sống rất riêng mang tính chất thể loại. Khác với tiểu
thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn
của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phác họa
một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh trong đời sống tâm hồn con người.