ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
Nguyễn Thế Nam
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ THEO HỢP ĐỒNG
VÀ
XÂY DỰNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
Ngành: Công Nghệ Thông Tin
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ
Nguyễn Thế Nam
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ THEO HỢP ĐỒNG VÀ XÂY
DỰNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HỆ CHÍNH QUY
Chuyên ngành: Công Nghệ Phần Mềm
Cán bộ hướng dẫn: TS. Trương Ninh Thuận
HÀ NỘI - 2010
LỜI CẢM ƠN
Sinh viên thực hiện khoá luận tốt nghiệp đề tài “Nghiên cứu thiết kế theo hợp
đồng và xây dựng công cụ hỗ trợ” xin được bày tỏ lòng chân thành biết ơn tới các thầy
cô giáo Trường Đại học Công Nghệ, Đại học Quốc Gia Hà Nội nói chung và thầy cô Bộ
môn Công nghệ Phần mềm nói riêng. Trong suốt bốn năm qua thầy cô không những tận
tình truyền đạt kiến thức mà còn luôn động viên chúng tôi trong học tập cũng như trong
cuộc sống.
Đặc biệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn, thầy Trương Ninh
Thuận, đã tận tình chỉ bảo, tạo mọi điều kiện cơ sở vật chất cũng như tinh thần cho
chúng tôi hoàn thành khóa luận và sửa chữa những sai sót trong suốt quá trình thực hiện
đề tài.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn tới các bạn sinh viên K51 đã cho chúng tôi những ý
kiến đóng góp có giá trị khi thực hiện đề tài này.
Đề tài “Nghiên cứu thiết kế theo hợp đồng và xây dựng công cụ hỗ trợ” được hoàn
thành trong thời gian hạn hẹp nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất
mong nhận được ý kiến đóng góp từ thầy cô giáo và các bạn để có thể tiếp tục hoàn
thiện hệ thống này hơn.
Hà nội ngày 24 tháng 4 năm 2010
Sinh viên
Nguyễn Thế Nam
TÓM TẮT NỘI DUNG
Khóa luận tìm hiểu về công nghệ thiết kế theo hợp đồng (Design by Contract) [3]
và trình bày những khái niệm cơ bản. Đây là công nghệ giúp cho chúng ta xây dựng đặc
tả giữa các lớp trong một thành phần và xem xét sự kết hợp giữa chúng với nhau. Mở
rộng hơn nữa là đặc tả các thành phần trong một phần mềm và các thành phần phải thỏa
mãn những điều kiện nào đó mới có thể liên kết với nhau để tạo thành phần mềm có tính
tin cậy, tính đúng đắn cao.
Bên cạnh đó khóa luận còn đưa ra một số khái niệm và cơ chế cho tính đúng đắn
của phần mềm. Các cấu trúc đơn giản thường có tính tin cậy hơn những phần mềm có
cấu trúc phức tạp. Nhưng điểm yếu của nó lại không thể phục vụ được nhu cầu ngày
càng tăng lên của người phát triển và người sử dụng. Vì thế, một số cơ chế như cố gắng
giữ cho cấu trúc của phần mềm càng đơn giản càng tốt. Viết văn bản mô tả phần mềm
để người phát triển sau này có thể đọc lại hoặc viết lại. Quản lý bộ nhớ, hay còn được
gọi là “kỹ thuật thu gom rác” cũng làm cho phần mềm tối ưu hơn bình thường. Hoặc là
việc sử dụng lại những công cụ có sẵn của những phần mềm đáng tin cậy trước đó cũng
là một giải pháp thường được các nhà phát triển ứng dụng. Chi tiết hơn nữa là phát triển
tất cả các giai đoạn: phân tích, thiết kế, lập trình, kiểm thử, bảo trì trong một dự án phần
mềm.
Tiếp theo, khóa luận còn đưa ra các mô hình dựa trên CORBA. Khái niệm về kỹ
nghệ phần mềm hướng thành phần. Một phần mềm được tạo ra là do sự ghép nối các
thành phần độc lập lại với nhau. Các thành phần này sẽ không cần phải biên dịch lại
hoặc không cần phải chỉnh sửa lại khi thêm mới một thành phần khác hay là chỉnh sửa
một thành phần có sẵn. Mô hình thành phần CORBA là mô hình chính mà chúng tôi
nghiên cứu và ứng dụng nó trong việc xây dựng công cụ hỗ trợ.
Ngoài ra khóa luận còn đi vào xây dựng công cụ đặc tả và kiếm chứng hỗ trợ
người dùng kiểm tra sự phù hợp của các thành phần khi kết nối với nhau một cách trực
quan. Công cụ có áp dụng những công nghệ mới hiện nay như mô hình Model – View –
Controller (M-V-C) [6] hoặc sử dụng thư viện layer trong lập trình java game, dễ dàng
cho việc lập trình công cụ.
MỤC LỤC
Mở đầu...............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1.......................................................................................................................3
Tính đúng đắn, tính tin cậy của phần mềm........................................................................3
CHƯƠNG 2. .....................................................................................................................9
Giới thiệu về Design by Contract......................................................................................9
CHƯƠNG 3.....................................................................................................................15
Mô hình thành phần CORBA..........................................................................................15
Xây dựng công cụ đặc tả và kiểm chứng thành phần......................................................31
Kết luận............................................................................................................................47
Hướng phát triển..............................................................................................................48
Tài liệu tham khảo...........................................................................................................49
Phụ lục.............................................................................................................................50
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1: Giao diện thành phần CORBA và các cổng.......................................................25
Hình 2: Mô hình MVC.....................................................................................................32
Hình 3: Sơ đồ lớp thể hiện mối liên hệ giữa các đối tượng trong ứng dụng...................34
Hình 4: Sơ đồ lớp thể hiện mối quan hệ kế thừa của các cổng........................................34
Hình 5: Lớp Component..................................................................................................35
Hình 6: Lớp port..............................................................................................................35
Hình 7: Lớp canvaspanel.................................................................................................36
Hình 8: Lớp Contract.......................................................................................................37
Hình 9: Kiến trúc CCM của hệ thống Stock Quoter........................................................38
Hình 10: Giao diện thành phần CORBA và các cổng.....................................................38
Hình 11: Giao diện khởi động ứng dụng.........................................................................40
Hình 12: Giao diện điền thông tin khi thêm mới 1 thành phần.......................................41
Hình 13: Giao diện kết quả sau khi thêm một thành phần thành công
.........................................................................................................................................42
Hình 14: Giao diện điền thông tin khi thêm một cổng mới.............................................43
Hình 15: Giao diện kết quả khi thêm mới cổng thành công............................................44
Hình 16: Giao diện khi kết nối thành công các cổng.......................................................45
Hình 17: Giao diện khi kết nối không thành công các cổng............................................46
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Hợp đồng giữa một hãng hàng không và khành hàng........................................10
Bảng 2: Hợp đồng chèn một từ vào từ điển.....................................................................11
Bảng 3: Bảng ánh xạ từ IDL sang java............................................................................23
Bảng 4: Các lớp đối tượng trong ứng dụng.....................................................................32
Bảng 5: Chi tiết lớp component.......................................................................................35
Bảng 6: Chi tiết lớp port..................................................................................................36
Bảng 7: Chi tiết lớp canvaspanel.....................................................................................36
Bảng 8: Chi tiết lớp Contract...........................................................................................37
DANH MỤC CÔNG THỨC
BẢNG KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ Giải nghĩa
DbC Design by Contract Thiết kế theo hợp đồng
CBSE
Component-Based
Software Engineering
Kĩ nghệ phần mềm hướng thành phần
CBD
Component-Based
Development
Phát triển hướng thành phần
CORBA
Common Object Request
Broker Architecture
Kiến trúc môi giới gọi các đối tượng
phân tán
CCM
CORBA component
Model
Mô hình thành phần CORBA
API
Application Programming
Interface
Giao diện lập trình ứng dụng
Mở đầu
Trong phát triển phần mềm, thay đổi yêu cầu là một tất yếu diễn ra hết sức thường
xuyên mà những nhà phát triển phải chấp nhận và cố gắng điều chỉnh nó. Phần mềm này
ra đời thay thế phần mềm khác là một điều vô cùng bình thường, dễ hiểu. Tại sao lại
như thế? Bởi vì người sử dụng luôn mong muốn có được một phần mềm hữu ích hơn,
tiện lợi hơn và hoạt động tốt hơn. Tuy nhiên, dù phần mềm có thể đáp ứng những nhu
cầu của người sử dụng trong thời gian hiện tại thì cũng không thể đảm bảo nó sẽ luôn
được ưa chuộng. Để có thể tồn tại lâu dài, phần mềm phải thật sự chất lượng. Điều này
đồng nghĩa với việc nó phải không ngừng được cập nhật. Mà như chúng ta đã biết, phần
mềm càng đúng đắn, đáng tin cậy và rõ ràng bao nhiêu thì công việc nâng cấp và phát
triển nó càng dễ dàng bấy nhiêu. Do đó, có thể nói, một trong những tiêu chí của ngành
công nghệ phần mềm mà bất kỳ thời đại nào, bất kỳ sản phẩm phần mềm nào cũng đều
hướng đến là tính đáng tin cậy và đúng đắn. Xuất phát từ nhu cầu ấy, công nghệ thiết kế
theo hợp đồng (Design By Contract) đã ra đời nhằm giúp cho việc đảm bảo cho tính
đáng tin cậy của phần mềm. Đó cũng chính là lý do mà chúng tôi đã chọn đề tài này.
Với mục đích tìm hiểu công nghệ thiết kế theo hợp đồng một cách khá kỹ lưỡng,
chúng tôi đã tiếp cận nó bằng các tài liệu lý thuyết cũng như qua các công cụ có khả
năng hỗ trợ Design By Contract cho các ngôn ngữ lập trình hiện đại. Không dừng ở đó,
chúng tôi còn xây dựng một công cụ về đặc tả và kiểm chứng cho các thành phần trong
ngôn ngữ Java.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ý tưởng chính của thiết kế theo hợp đồng là lập
một “hợp đồng” giữa các đối tượng cung cấp (supplier) và những khách hàng (client)
của nó, tức là những lớp đối tượng khác gọi đến các phương thức của lớp này. Những
client này phải bảo đảm một số điều kiện nhất định khi gọi một phương thức của một
supplier gọi là tiền điều kiện (precondition); đáp lại, sau khi thực thi thủ tục, supplier
phải đáp ứng một số điều kiện tương ứng gọi là hậu điều kiện (postcondition). Những
điều kiện của hợp đồng sẽ được kiểm tra bởi trình biên dịch, và bất cứ sự vi phạm nào
của phần mềm cũng sẽ được phát hiện. Mở rộng hơn là nghiên cứu thành phần phần
mềm. Nó là một trong những nghiên cứu quan trọng trong kỹ nghệ phần mềm hướng
thành phần, thể hiện bước đầu tiên hướng tới việc tái sử dụng thành phần, đặc tả thành
phần mang lại những thông tin cần thiết để người sử dụng có thể hiểu được vì sao và
như thế nào mà thành phần có thể sử dụng được hoặc tái sử dụng. Từ đó nghiên cứu mối
quan hệ giữa các thành phần trong một phần mềm và điều kiện để các thành phần đó có
1
thể liên kết được với nhau. Song song với việc nghiên cứu công nghệ thiết kế theo hợp
đồng, chúng tôi cũng đã nghiên cứu sâu hơn về ngôn ngữ java, mô hình thiết kế Model –
View – Controller (M-V-C) và xây dựng công cụ đặc tả, kiếm chứng giúp cho việc làm
sáng rõ thêm công nghệ mà chúng tôi đã nghiên cứu.
2
CHƯƠNG 1.
Tính đúng đắn, tính tin cậy của phần mềm
1.1. Một số cơ chế mang lại tính đúng đắn
Trước hết, phải nói rằng kỹ thuật định nghĩa thuộc tính của một đối tượng gần như
là có liên quan với cấu trúc của những hệ thống phần mềm. Những kiến trúc đơn giản,
riêng biệt và có khả năng mở rộng sẽ giúp chúng ta đảm bảo tính đáng tin cậy của phần
mềm dễ dàng hơn so với những cấu trúc phức tạp. Đặc biệt, cố gắng giới hạn sự liên
quan giữa các môđun với nhau đến mức tối thiểu nhất sẽ là tiêu điểm cho việc thảo luận
về tính riêng biệt. Điều này giúp ngăn chặn những rủi ro thông thường của tính đáng tin
cậy, ví dụ như những biến toàn cục và việc định nghĩa những cơ chế liên lạc bị giới hạn,
client và những mối quan hệ kế thừa. Nói đến chất lượng phần mềm thì không thể bỏ
qua tính đáng tin cậy. Chúng ta cố gắng giữ cho những cấu trúc càng đơn giản càng tốt.
Tuy rằng điều này vẫn chưa đủ đảm bảo cho tính đáng tin cậy của phần mềm, nhưng dù
sao, nó cũng là một điều kiện cần thiết.
Một cơ chế khác nữa là làm cho phần mềm của chúng ta tối ưu và dễ đọc. Văn bản
mô tả phần mềm không những được viết một lần mà nó còn phải được đọc đi đọc lại và
viết đi viết lại nhiều lần. Sự trong sáng và tính đơn giản của các câu chú thích là những
yêu cầu cơ bản để nâng cao tính đáng tin cậy của phần mềm.
Thêm vào đó, một cơ chế cũng rất cần thiết là việc quản lý bộ nhớ một cách tự
động, đặc biệt là kỹ thuật thu gom rác (garbage collection). Đây là cơ chế được sử dụng
phổ biến trong việc viết ứng dụng hiện nay. Các ứng dụng một cách tự động có thể thu
hồi hoặc xóa đi các mảnh vụn bộ nhớ không còn được sử dụng nữa. Bất kỳ hệ thống nào
có khởi tạo và thao tác với cấu trúc dữ liệu động mà lại thực hiện thu hồi bộ nhớ bằng
tay (tức là do người lập trình điều khiển) hoặc bộ nhớ không hề được thu hồi thì thật là
nguy hiểm.
Ngoài ra, việc sử dụng lại những công cụ của những phần mềm đáng tin cậy trước
đó cũng tăng thêm tính tin cậy cho phần mềm của chúng ta hơn là khi ta xây dựng một
hệ thống mới hoàn toàn.
Tóm lại, tất cả những cơ chế này cung cấp một nền tảng cần thiết để ta có cái nhìn
gần hơn về một hệ thống phần mềm đúng đắn và bền vững.
3
1.2. Biểu diễn một đặc tả
1.2.1. Những công thức của tính đúng đắn
Giả sử A thực hiện một vài thao tác (ví dụ A là một câu lệnh hay thân của một thủ
tục). Một công thức của tính đúng đắn là một cách biểu diễn theo dạng sau:
{P} A {Q}
Công thức 1: Công thức tính đúng đắn
Ý nghĩa của công thức tính đúng đắn {P} A {Q}
Bất kỳ thi hành nào của A, bắt đầu ở trạng thái P thì sẽ kết thúc với trạng thái Q
Những công thức của tính đúng đắn (còn được gọi là bộ ba Hoare [7]) là một ký
hiệu toán học, không phải là một khái niệm lập trình; chúng không phải là một trong số
những ngôn ngữ phần mềm mà chỉ được thiết kế nhằm giúp cho việc thể hiện những
thuộc tính của các thành phần phần mềm. Trong công thức 1, A biểu thị cho một thao
tác, P và Q là những thuộc tính của những thực thể khác nhau có liên quan hay còn được
gọi là những xác nhận. Trong hai xác nhận này, P được gọi là tiền điều kiện
(precondition) và Q được gọi là hậu điều kiện (postcondition).
Ví dụ, chúng ta có một công thức bình thường của tính đúng đắn như sau với giả
sử rằng x là một số nguyên:
{x>=10} x := x+6 {x>=15}
Công thức tính đúng đắn được sử dụng để đánh giá tính đúng đắn của phần mềm.
Điều đó cũng có nghĩa là tính đúng đắn chỉ được xét đến khi nó gắn với một đặc tả nào
đó. Như vậy, khi thảo luận về tính đúng đắn của phần mềm, ta không nói đến những
thành phần phần mềm riêng lẻ A, mà nó là bộ ba bao gồm một thành phần phần mềm A,
một tiền điều kiện P và một hậu điều kiện Q. Mục đích duy nhất của việc này là thiết lập
kết quả cho những công thức tính đúng đắn {P} A {Q}.
Trong ví dụ trên, con số 15 ở hậu điều kiện không phải là lỗi do in ấn hay gõ phím.
Giả sử thực hiện đúng phép tính trên số nguyên ở công thức trên: với điều kiện x>=7 là
đúng trước câu lệnh, x>=15 sẽ đúng sau khi thực hiện câu lệnh.
Tuy nhiên, chúng ta thấy được nhiều điều thú vị hơn:
- Với một tiền điều kiện như vậy, hậu điều kiện hay nhất phải là điều kiện
mạnh nhất, và trong trường hợp này là x>=16.
- Còn với hậu điều kiện đã đưa ra thì tiền điều kiện hay nhất phải là tiền điều
kiện yếu nhất, ở đây là x>=9.
4
Từ một công thức đã cho, chúng ta luôn có thể có được một công thức khác bằng
cách mở rộng tiền điều kiện hay nới lỏng đi hậu điều kiện. Bây giờ, chúng ta sẽ cùng
nhau xem xét nhiều hơn về những khái niệm “mạnh hơn” và “yếu hơn” là thế nào.
1.2.2. Những điều kiện yếu, mạnh
Một cách để xem xét đặc tả theo dạng {P} A {Q} là xem nó như một mô tả các
công việc cho A. Điều này cũng giống như có một mục quảng cáo tuyển người trên báo
đăng rằng “Cần tuyển một người có khả năng thực hiện công việc A khi A có trạng thái
bắt đầu là P, và sau khi A được hoàn tất thì nó phải thỏa mãn Q”.
Giả sử, một người bạn của bạn đang kiếm việc và tình cờ đọc được những quảng
cáo tương tự như thế này, tất cả lương và lợi ích của chúng đều như nhau, chỉ có điều là
chúng khác nhau ở những cái P và Q. Cũng giống như nhiều người, bạn của bạn thì lười
nhác, có thể nói rằng, anh ta muốn có một công việc dễ nhất. Và anh ta hỏi ý kiến bạn là
nên chọn công việc nào. Trong trường hợp này, bạn sẽ khuyên anh ấy thế nào?
Trước hết, với P: bạn khuyên anh ta nên chọn một công việc với tiền điều kiện yếu
hay mạnh? Câu hỏi tương tự cho hậu điều kiện Q. Bạn hãy suy nghĩ và chọn cho mình
một quyết định trước khi xem câu trả lời ở phần dưới.
Trước hết, ta nói về tiền điều kiện. Từ quan điểm của người làm công tương lai,
tức là người sẽ thực hiện công việc A, tiền điều kiện P định nghĩa những trường hợp mà
ta sẽ phải thực hiện công việc. Do đó, một P mạnh là tốt, vì P càng mạnh thì các trường
hợp bạn phải thực hiện A càng được giới hạn. Như vậy, P càng mạnh thì càng dễ cho
người làm công. Và tuyệt vời nhất là khi kẻ làm công chẳng phải làm gì cả tức là hắn ta
là kẻ ăn không ngồi rồi. Điều này xảy ra khi công việc A được định nghĩa bởi:
{False} A {…}
Công thức 2: Tiền điều kiện mạnh, hậu điều kiện không cần phải quan tâm
Trong trường hợp này, hậu điều kiện không cần thiết phải đề cập bởi dù nó có là gì
thì cũng không có ảnh hưởng. Nếu có bao giờ bạn thấy một mục tuyển người như vậy
thì đừng mất công đọc hậu điều kiện mà hãy chớp lấy công việc đó ngay lập tức. Tiền
điều kiện False là sự xác nhận mạnh nhất có thể vì nó không bao giờ thỏa mãn một trạng
thái nào cả. Bất cứ yêu cầu nào để thực thi A cũng sẽ không đúng, và lỗi không nằm ở
trách nhiệm của A mà là ở người yêu cầu hay khách hàng (client) bởi nó đã không xem
xét bất cứ tiền điều kiện nào cần đến. Dù cho A có làm hay không làm gì đi nữa thì nó
cũng luôn đúng với đặc tả.
5
Còn với hậu điều kiện Q, tình trạng bị đảo ngược. Một hậu điều kiện mạnh là một
tin xấu: nó chỉ ra rằng bạn phải mang lại nhiều kết quả hơn. Q càng yếu, càng tốt cho
người làm thuê. Thực tế, công việc ăn không ngồi rồi tốt nhì trên thế giới là công việc
được định nghĩa mà không chú ý đến tiền điều kiện:
{…} A {True}
Công thức 3: Hậu điều kiện mạnh, tiền điều kiện không cần phải quan tâm.
Hậu điều kiện True là một xác nhận yếu nhất vì nó thỏa mãn mọi trường hợp.
Khái niệm “mạnh hơn” hay “yếu hơn” được định nghĩa một cách hình thức từ
logic:
P1 được gọi là mạnh hơn P2, và P2 yếu hơn P1 nếu P1 bao hàm P2 và chúng
không bằng nhau. Khi mọi lời xác nhận bao hàm True, và False bao hàm mọi xác nhận
thì thật là hợp lý để nói rằng True như là yếu nhất và False như là mạnh nhất với tất cả
xác nhận có thể.
Đến đây, có một câu hỏi được đặt ra: “Tại sao công thức 2 là công việc tốt nhì trên
thế giới?” Câu trả lời chính là một điểm tinh tế trong phần định nghĩa ý nghĩa của công
thức {P} A {Q}: sự kết thúc. Định nghĩa nói rằng sự thực thi phải kết thúc trong tình
trạng thoả Q miễn là khi bắt đầu nó thoả P.
Với công thức 1, không có trường hợp nào thoả P. Do đó, A là gì cũng không
thành vấn đề, ngay cả nó là một đoạn mã mà khi thi hành, chương trình sẽ bị rơi vào
một vòng lặp không điểm dừng hay là sẽ gây hỏng máy cũng chẳng sao.
Vì dù A là gì thì cũng đúng với đặc tả của nó. Tuy nhiên, với công thức 2, vấn đề
là ở trạng thái kết thúc, nó không cần thoả mãn bất kỳ thuộc tính đặc biệt nào nhưng
trạng thái kết thúc phải được đảm bảo là có tồn tại.
Những ai đã quen với lý thuyết khoa học máy tính hay những kỹ thuật chứng minh
lập trình sẽ thấy rằng công thức {P} A {Q} dùng ở đây ám chỉ toàn bộ tính đúng đắn,
bao gồm cả sự kết thúc cũng như việc phù hợp với đặc tả. (Tính chất mà một chương
trình sẽ thoả mãn với đặc tả của nó lúc kết thúc là một phần của tính đúng đắn).
Chúng ta đã thảo luận một xác nhận mạnh hơn hay yếu hơn là những “tin tốt” hay
“tin xấu” là dựa trên quan điểm của một người làm công trong tương lai. Nếu bây giờ
thay đổi cách nhìn, đứng trên cương vị của một người chủ, ta thấy mọi thứ sẽ thay đổi:
một tiền điều kiện yếu sẽ là những tin tốt nếu ta muốn các trường hợp thực thi công việc
6
được tăng lên, và một hậu điều kiện mạnh sẽ là tốt nếu ta muốn những kết quả của công
việc thật sự có ý nghĩa.
Sự đảo ngược của những tiêu chuẩn này là đặc trưng của việc thảo luận về tính
đúng đắn của phần mềm, và sẽ xuất hiện lại như khái niệm chính trong luận văn này:
hợp đồng giữa những khách hàng và những môđun cung cấp là một sự ràng buộc giữa
hai bên. Để sản xuất ra một phần mềm hiệu quả và đáng tin cậy thì cần phải có một hợp
đồng đại diện cho sự thoả hiệp tốt nhất của tất cả mối liên hệ giữa những nhà cung cấp
và khách hàng.
1.3. Giao ước cho tính tin cậy của phần mềm
Bằng cách kết hợp những mệnh đề tiền điều kiện pre và hậu điều kiện post trong
thủ tục r, lớp đối tượng “tuyên bố” với những khách hàng của nó:
Nếu các bạn hứa gọi r thỏa mãn pre, tôi hứa sẽ trả về kết quả thỏa mãn post [3]
Trong mối liên hệ giữa người và người hoặc giữa các công ty với nhau, hợp đồng
là một văn bản làm cho những điều khoản của mối quan hệ trở nên trong sáng, rõ ràng.
Thật đáng ngạc nhiên khi trong lĩnh vực phần mềm, nơi mà sự đúng đắn, rõ ràng có vai
trò sống còn, ý tưởng hợp đồng này lại phải mất quá nhiều thời gian để thể hiện mình.
Tiền điều kiện và hậu điều kiện mô tả một hợp đồng giữa thủ tục (đóng vai trò nhà cung
cấp) và những đối tượng gọi đến nó (vai trò khách hàng).
Đặc tính quan trọng nhất của hợp đồng trong công việc của con người là sự đòi hỏi
về “nghĩa vụ” (obligation) và “quyền lợi” (right) cho cả 2 bên – thường là nghĩa vụ của
bên này sẽ trở thành quyền lợi của bên kia. Điều này cũng đúng đối với hợp đồng giữa
các lớp đối tượng:
- Tiền điều kiện ràng buộc khách hàng: nó định nghĩa những điều kiện để
một lời gọi đến thủ tục trở nên hợp pháp. Đây là nghĩa vụ của khách hàng
và là quyền lợi của nhà cung cấp.
- Hậu điều kiện ràng buộc lớp đối tượng: nó định nghĩa những điều kiện cần
phải được đảm bảo bởi thủ tục khi trả về. Đây là quyền lợi của khách hàng
và là nghĩa vụ của nhà cung cấp.
1.3.1. Quyền lợi
Đối với khách hàng, đó là sự đảm bảo những thuộc tính phải có được sau khi gọi
thủ tục.
7
Đối với nhà cung cấp, đó là sự đảm bảo những tính chất phải được thỏa mãn ở bất
cứ nơi nào thủ tục được gọi.
1.3.2. Nghĩa vụ
Đối với khách hàng, đó là sự đáp ứng những yêu cầu được phát biểu trong tiền
điều kiện.
Đối với nhà cung cấp, đó là những gì phải làm mà hậu điều kiện đã định ra.
8
CHƯƠNG 2.
Giới thiệu về Design by Contract
2.1. Giới thiệu
Khi xét đến sự phát triển các phương thức và công cụ của một phần mềm mới, các
nhà phát triển đã có khuynh hướng chú trọng đến năng suất hơn là chất lượng của phần
mềm. Thời đại hiện nay, xu hướng đó đã không còn phù hợp. Trong công nghệ hướng
đối tượng [3] các lợi ích về năng suất đã xếp vị trí thứ yếu, phần lớn các nhà phát triển
đã chuyển sang lợi ích về chất lượng sản phẩm.
Một phần chính trong chất lượng sản phẩm là tính đúng đắn, tính tin cậy của phần
mềm: đó là khả năng của một hệ thống có thể thực hiện các công việc của mình theo các
đặc tả có sẵn và có thể xử lý được các tình huống bất thường. Nói một cách đơn giản,
tính tin cậy tức là không có lỗi.
Có nhiều cách xây dựng nên tính tin cậy cho phần mềm. Chúng ta có thể sử dụng
lại các phương thức có sẵn. Có nghĩa là dùng lại những thành phần của các phần mềm
thông dụng mà đúng đắn, nó làm cho phần mềm mà chúng ta xây dựng đạt được tính tin
cậy hơn là xây dựng mới các phần mềm. Một cách khác, việc bẫy những mâu thuẫn của
chương trình trước khi chúng trở thành lỗi cũng góp phần củng cố thêm tính đúng đắn
của phần mềm. Hoặc là “kỹ thuật thu gom rác” – kỹ thuật thu gọn các mảnh vụn bộ nhỡ
không còn được sử dụng nữa – cũng làm cho phần mềm được tin cậy hơn.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ, để chắc chắn rằng phần mềm hướng đối tượng sẽ thi
hành một cách đúng đắn, chúng ta vẫn cần một hệ thống các phương pháp để xác định
và triển khai các thành phần của phần mềm hướng đối tượng và các mối quan hệ của
chúng trong hệ thống phần mềm. Một phương pháp mới mẻ đã xuất hiện, nó được gọi là
“Design by Contract”, được tạm dịch là “Thiết kế theo hợp đồng”. Theo thuyết Design
by Contract, một hệ thống phần mềm được xem như là tập hợp các thành phần có các
giao tiếp tương tác với nhau dựa trên định nghĩa chính xác của các giao ước trong hợp
đồng.
Lợi ích của “Design by Contract” bao gồm:
• Giúp cho việc hiểu biết rõ hơn về các phương pháp hướng đối tượng và
tổng quát hơn là của cấu trúc của phần mềm.
9
• Tiếp cận một cách có hệ thống đến việc xây dựng hệ thống hướng đối
tượng có ít hoặc hoàn toàn không có lỗi.
• Xây dựng được các framework hiệu quả hơn cho việc gỡ lỗi, kiểm thử.
• Dễ dàng viết tài liệu cho phần mềm.
• Hiểu và kiểm soát được kỹ thuật thừa kế.
• Một kỹ thuật cho mối quan hệ với các trường hợp dị thường, dẫn đến sự an
toàn và hiệu quả cho việc xây dựng các ngôn ngữ xử lý các trường hợp
ngoại lệ.
2.2. Khái niệm về hợp đồng
Trong công việc thường ngày, một hợp đồng được viết bởi hai bên khi một bên
(bên cung cấp) trình bày các công việc với bên kia (bên khách hàng). Mỗi bên mong chờ
các lợi ích từ hợp đồng và chấp nhận các giao ước có trong hợp đồng đó. Thông thường,
mỗi giao ước của bên này sẽ là lợi ích cho bên kia và ngược lại. Mục tiêu của bản hợp
đồng là giải thích rõ ràng các lợi ích và các giao ước.
Một ví dụ đơn giản sau đây minh họa cho một hợp đồng giữa một hãng hàng
không và khách hàng.
Bảng 1: Hợp đồng giữa một hãng hàng không và khành hàng
Giao ước Lợi ích
Bên khách hàng
(khách hàng)
- Phải có mặt ở sân bay ít
nhất 5 phút trước khi
khởi hành.
- Chỉ mang theo hành lý
đã được kiểm định.
- Thanh toán tiền vé máy
bay.
- Đến được
địa điểm mong muốn.
Bên cung cấp
(Hãng hàng
không)
- Đưa
khách hàng điến địa
điểm cần đến
- Không cần quan tâm
khách hàng đến trễ hay
không.
- Có mang hành lý cấm
hay không.
- Đã trả tiền vé chưa.
10
Hợp đồng đảm bảo cho cả bên khách bởi sự chỉ rõ nên thực hiện những gì và cho
bên cung cấp bằng cách chỉ ra bên cung cấp không phải chịu trách nhiệm về những gì
bên thực hiện không thực hiện đúng những quy định trong phạm vi hợp đồng.
Cùng chung một ý tưởng áp dụng cho phần mềm. Xem xét một yếu tố phần mềm
E. Để đạt được mục đích (thực hiện hợp đồng riêng của mình). E sử dụng một chiến
lược nhất định, bao gồm những công việc con t
1
, t
2
,…, t
n
. Nếu một công việc con t
i
nào
đó bất thường, nó sẽ được thực hiện bằng cách gọi một thủ tục R. Nói cách khác, E hợp
đồng ra công việc con cho R. Tình trạng như vậy cần phải được quản lý bằng bảng phân
công nghĩa vụ và lợi ích một cách rõ ràng.
Ví dụ như t
i
là công việc chèn một từ vào từ điển (một bảng mà mỗi phần tử được
xác định bởi một chuỗi ký tự sử dụng như là một khóa). Hợp đồng sẽ là:
Bảng 2: Hợp đồng chèn một từ vào từ điển
Giao ước Lợi ích
Bên thực hiện - Chắc chắn rằng bảng
không đầy dữ liệu và
khóa không phải là chuỗi
rỗng
- Cập nhật
bảng chứa các yếu tố
xuất hiện, liên kết với
các khóa.
Bên cung cấp - Bản ghi
đưa các yếu tố vào bảng,
liên kết với các khóa.
- Không cần phải làm gì
nếu bảng đầy hoặc khóa
là một chuỗi rỗng..
Thiết kế theo hợp đồng được sử dụng ở đây để cung cấp đặc tả chính xác cho các
chức năng của các thành phần và nâng cao tính tin cậy của chúng. Theo Meyer [1992],
một hợp đồng là một tập hợp các xác nhận mô tả chính xác mỗi đặc điểm của thành
phần phải làm gì và không phải làm gì. Xác nhận chính trong công nghệ thiết kế theo
hợp đồng có 3 kiểu: Tính bất biến, tiền điều kiện và hậu điều kiện.
2.3.Tiền điều kiện, hậu điều kiện và tính bất biến
2.3.1. Tiền điều kiện và hậu điều kiện.
Tiền điều kiện và hậu điều kiện được sử dụng để định nghĩa ngữ nghĩa các phương
thức. Chúng chỉ rõ nhiệm vụ được thi hành bởi một phương thức. Việc định nghĩa tiền
điều kiện và hậu điều kiện cho một phương thức là cách để định nghĩa một hợp đồng,
hợp đồng này ràng buộc phương thức và các lời gọi đến nó.
11
Tiền điều kiện mô tả sự ràng buộc mà với sự ràng buộc này, phương thức sẽ thực
hiện một cách đúng đắn. Đó là nghĩa vụ của bên thực hiện và là quyền lợi của bên cung
cấp.
Hậu điều kiện diễn tả các thuộc tính từ kết quả thực hiện một phương thức. Đó là
nghĩa vụ của bên cung cấp và là quyền lợi của bên thực hiện
Ví dụ một hành động xóa bản ghi từ tập hợp cần có tiền điều kiện yêu cầu bản ghi
với khóa chính phải tồn tại và hậu điều kiện yêu cầu bản ghi đó không được nhiều hơn
các yếu tố trong tập hợp đó
2.3.2. Tính bất biến
Tính bất biến ràng buộc gán các kiểu cần giúp cho đúng với các trường hợp của
kiểu mà hành động bắt đầu được biểu diễn trong trường hợp đó. Trong trường hợp của
các phương thức thành phần, chúng ta có thể gắn tính bất biến vào giao diện để xác định
thuộc tính của đối tượng thành phần thực thi giao diện. Ví dụ, tính bất biến có thể nói rõ
được giá trị của một vài thuộc tính luôn phải lớn hơn 0.
Điều kiện bất biến của lớp mô tả các ràng buộc toàn vẹn của lớp. Khái niệm này
quan trọng cho việc quản lý cấu hình và kiếm thử hồi quy vì nó mô tả xâu hơn đặc tính
của một lớp. Điều kiện bất biến của lớp được thêm vào với tiền điều kiện và hậu điều
kiện của mỗi phương thức của lớp:
{INV & P} A {INV & Q}
Công thức 4: Điều kiện bất biến trong công thức tính đúng đắn
INV là điều kiện bất biến được thêm vào. Điều này thể hiện rằng bất biến INV là
không thay đổi trước và sau khi thực hiện A.
2.4.Design By Contract trong Eiffel
Eiffel [4] hỗ trợ rất nhiều tính năng: tiếp cận hướng đối tượng hoàn thiện, khả
năng giao tiếp bên ngoài (có thể giao tiếp với các ngôn ngữ C, C++, Java,…), hỗ
trợvòng đời phần mềm bao gồm việc phân tích, thiết kế, thực thi và bảo trì, hỗ trợ
Design By Contract, viết xác nhận, quản lý ngoại lệ…
Design By Contract hầu như là vấn đề luôn được nhắc đến khi đề cập về Eiffel.
Trong Eiffel, mỗi thành phần của hệ thống đều có thể được thực hiện theo một đặc tả
tiên quyết về các thuộc tính trừu tượng của nó, liên quan đến những thao tác nội tại và
những giao tác của nó với các thành phần khác.
12
Eiffel thực thi một cách trực tiếp ý tưởng Design By Contract, một phương pháp
làm nâng cao tính đáng tin cậy của phần mềm, cung cấp một nền tảng cho việc đặc tả,
làm tài liệu và kiểm nghiệm phần mềm, cũng như việc quản lý các ngoại lệ và cách sử
dụng kế thừa thích hợp.
2.4.1. Biểu diễn Design by Contract trong Eiffel
• Precondition: Được thể hiện bằng từ khóa require
Ví dụ:
require
boolean expressions
Cần phải thỏa mãn biểu thức lô-gic boolean expressions trong mệnh đề require
trước mới có thể thực hiện tiếp thủ tục r ở sau đó.
• Postcondition: Được thể hiện bằng từ khóa ensure
Ví dụ:
ensure
boolean expressions
Sau khi thực hiện thủ tục r, kết quả trả về phải thỏa mãn biểu thức lô-gic boolean
expressions trong mệnh đề ensure
• Class invariant: Được thể hiện bằng từ khóa invariant
Ví dụ:
invariant
boolean expressions
Trong suốt quá trình thực hiện thủ tục r cần phải thỏa mãn biểu thức lô-gic
boolean expressions trong mệnh đề invariant
• Chỉ thị Check: Được thể hiện bằng cặp từ khóa check…end
Ví dụ:
check
assertion_clause
1
assertion_clause
2
13
…
assertion_clause
n
end
• Loop invariant, loop variant
from
initialization
until
exit
invariant
inv
variant
var
loop
body
end
2.4.2. Ví dụ minh họa
Lấy ví dụ cho thuật toán put với công việc chèn một phần tử x vào từ điển với x
chứa một chuỗi các kí tự được coi như là khóa.
Put (x: ELEMENT; key: STRING)is
require
count <= capacity
notkey.empty
do
… Thuật toàn chèn…
ensure
has (x)
item (key) = x
count = old count + 1
end
Mệnh đề requie giới thiệu về điều kiện input, hoặc là tiền điều kiện; mệnh đề
ensure giới thiệu về điều kiện output hay còn gọi là hậu điều kiện. Cả hai điều kiện là ví
14
dụ về sự xác nhận, hoặc điều kiện logic (mệnh đề hợp đồng) liên kết với thành phần
của phần mềm. Trong tiền điều kiện, biến count là số phần tử hiện thời và capacity là số
lượng lớn nhất có thể đưa vào; trong hậu điều kiện, has là hàm boolean để xem từ đó có
không, và item trả lại từ liên kết với khóa. Kí hiệu old count là giá trị count cũ.
Một ví dụ khác về cơ chế gửi tin.
send (m: MESSAGE)is
-- Gửi một tin nhắn m theo chế độ gửi nhanh nếu có thể,
nếu không sẽ chuyển sang chế độ gửi chậm.
local
tried_fast, tried_slow:BOOLEAN
do
if tried_fast then
tried_slow := True
send_slow (m)
else
tried_fast := True
send_fast (m)
end
rescue
if not tried_slow then
retry
end
end
Trong ví dụ này các giá trị logic ban đầu sẽ được khởi tạo là False. Nếu send_fast
không thành công, phần thân của mệnh đề do sẽ được thực hiện lại. Còn nếu việc thực
thi send_slow không thành công, mệnh đề rescue sẽ được thự hiện.
CHƯƠNG 3.
Mô hình thành phần CORBA
15
3.1. Khái niệm cơ bản về công nghệ phần mềm hướng thành phần
3.1.1. Giới thiệu
Có rất nhiều khái niệm cơ bản thường gặp về công nghệ phần mềm hướng thành
phần (CBSE) [8]. Các định nghĩa khác nhau có thể gây ra các nhầm lẫn vì CBSE là một
khái niệm mới mẻ. Nhiều khái niệm vẫn chưa hoàn toàn giải thích hoặc thử nghiệm
trong thực tế, và như một kệ quả, các định nghĩa của chúng vẫn còn rất mơ hồ.
CBSE cơ bản dựa vào khái niệm của thành phần. Các từ ngữ khác như giao diện,
hợp đồng, framework, và khuôn mẫu có liên quan chặt chẽ đến việc phát triển thành
phần phần mềm.
Một thành phần là một đơn vị có thể sử dụng lại của việc triển khai và cấu tạo nên
phần mềm. Một điểm chung ở đây là thành phần có mối quan hệ chặt chẽ với đối tượng,
vì thế, nó là một phần mở rộng của việc phát triển công nghệ hướng đối tượng. Tuy
nhiên, có nhiều nhân tố như chi tiết, khái niệm về cấu tạo và triển khai, thậm chí cả quá
trình phát triển, cũng phải phân biệt rõ thành phần và đối tượng.
Một giao diện quy định cụ thể các điểm truy cập đến thành phần một, và do đó
giúp khách hàng hiểu được chức năng và cách sử dụng của thành phần một. Giao diện
rõ ràng là tách ra từ việc thực hiện các thành phần một. Thực hiện đúng quy định, giao
diện một quy định cụ thể các thuộc tính chức năng của thành phần một. Một mô tả hoàn
toàn chức năng của thành phần là không đủ.
Một giao diện quy định cụ thể các điểm truy cập đến một thành phần, và do đó
giúp khách hàng hiểu dược chức năng và cách sử dụng của thành phần đó. Giao diện
được tách hẳn ra từ việc thực hiện các thành phần. Theo như định nghĩa, một giao diện
quy định cụ thể các thuộc tính, chức năng của một thành phần. Do đó, một mô tả về
chức năng của một thành phần là không đủ.
Các đặc tả thành phần có thể thực hiện được thông qua một hợp đồng, trong đó tập
trung vào việc đặc tả các điều kiện mà thành phần tương tác với môi trường của nó.
Mặc dù các component có thể có các kích cỡ khác nhau và các thành phần lớn được chú
trọng hơn cả. Một tập hợp các thành phần đóng một vai trò cụ thể sẽ được chú trọng hơn
là một thành phần đơn lẻ. Điều này dẫn đến khái niệm framework. Một framework mô
tả một đơn vị lớn của thiết kế và xác định mối quan hệ trong một nhóm nhất định của
các yếu tố. Các yếu tố này có thể là những thành phần.
16