Tải bản đầy đủ (.pdf) (194 trang)

Giáo trình lý thuyết thống kê và phân tích dự báo phần 1 chu văn tuấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.16 MB, 194 trang )

CHU VĂN TUẤN

GIÁO TRÌNH
LÝ THUYẾT THỐNG KÊ VÀ PHÂN
TÍCH DỰ BÁO

NXB TÀI CHÍNH


M ồi n ố i đ ầ u

Là công cụ không thể thiếu trong hoạt động
nghiên cứu và công tác thực tiễn, Lý thuyết Thống kê đã
trở thành một môn học cơ sở của sinh viên tất cả các
chuyên ngành khôi kinh tế. Môn học đã được xuất bản
thành giáo trình nhiều lần. Lần này “G iá o trìn h Lý
*

»

thu yết T h ôn g k ê và P h â n tích d ự b á o ” được biên
soạn trên cơ sỏ tiếp thu những nội dung và kinh nghiệm
giảng dạy môn Lý thuyết Thống kê trong nhiều năm
qua và yêu cầu ứng dụng trong quản lý kinh tế theo xu
thê hội nhập.
Giáo trình biên soạn lần này có nhiều thay đổi,
nhằm phục vụ giảng dạy, học tập của giáo viên và sinh
viên trong tất cả các chuyên ngành của Học viện Tài
chính, đồng thời là tài liệu tham khảo cho tất cả những
người quan tâm đến lĩnh vực thống kê.
Giáo trình do TS. Chu Văn Tuấn và TS. Phạm


Thị Kim Vân đồng chủ biên, cùng tham gia biên soạn là
tập thể giảng viên Bộ môn Thông kè và phân tích dự
báo- Học viện Tài chính bao gồm:
- TS. Chu Văn Tuấn, biên soạn chương 1, 2;

- TS. Phạm Thị Kim Vân biên soạn chương 6, 9;
- Ths. Đinh H ải Phong biên soạn chương 3;


- Ths. Vũ Thị Mận ưà Ths. Nguyễn Lan Phương
biên soạn chương 8;
- Ths. H oàng Thị H oa và Ths. Trần Thị H oa
Thơm biên soạn chương 5;
- Ths. P hạm Tiểu Thanh và Ths. Trần Thị H òa
biên soạn chương 4;
- CN. Nguyễn Văn Thông và Ths. Nguyễn Mạnh

Thắng biên soạn chương 7.
Mặc dù tập thể tác giả đã có rất nhiều cô" gắng
trong quá trình biên soạn, song không thể tránh khỏi
những khiếm khuyết. Tập thể tác giả rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp chân thành của bạn đọc để
lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn.
Học viện Tài chính và tập thể tác giả chân thành
cảm ơn các nhà khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi;
PGS.TS. Tăng Văn Khiên; PGS.TS. Trần Thị Kim Thu;
PGS.TS. Nguyễn Văn Dần; PGS.TS. Trần Xuân Hải;
TS. Lý Minh Khải; TS. Phạm Thị Thắng đã có nhiều ý
kiến đóng góp quý báu trong quá trình biên soạn,
nghiệm thu và hoàn chỉnh góp phần nâng cao chất

lượng khoa học của giáo trình này.

H à Nội, thán g 8 năm 2008
BAN QUẢN LÝ KHOA HỌC

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
4


Chương 1

TỔNG QUAN VỂ THÔNG KÊ HỌC

1. Sơ Lư ơ c Sư RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIÊN CỦA
KHOA HỌC THONG KE
Thông kê học là một môn khoa học xã hội, ra đời
và phát triển do nhu cầu hoạt động thực tiễn xã hội.
Trước khi trở thành một môn khoa học độc lập, thổng kê
học đã có một nguồn gốic lịch sử phát triển khá lâu. Đó
là cả một quá trình tích luỹ kinh nghiệm từ giản đơn
đên phức tạp, được đúc rút dần thành lý luận khoa học
ngày càng hoàn chỉnh.
Thông kê và hạch toán đã xuất hiện trong thời
tiến cổ đại, cách kỷ nguyên chúng ta hàng nghìn năm về
trước. Từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, các chủ nô đã tìm
cách ghi chép, tính toán đế nắm được tài sản của mình
(sô nô lệ, sô' súc vật và các tài sản khác), ở Trung quốc,
Cổ Hy Lạp, La Mã, Ai Cập... người ta đã tìm thấy một

số di tích cổ’ đại chứng tỏ ngay từ thời kỳ này người ta

đã biêt ghi chép sô" liệu. Nhưng công việc ghi chép còn
giản đơn, tiến hành trong phạm vi nhỏ hẹp, chưa mang
tính thông kê rõ rệt.


Dưới chế độ phong kiến, công tác thông kê đã
phát triển ở hầu hết các quốic gia châu Á, châu Âu đều
đã có tổ chức nhiều việc đăng ký và kê khai với phạm vi
rộng, nội dung phong phú có tính chất thống kê rõ rệt,
như; đăng ký nhân khẩu, kê khai ruộng đất và các tài
sản khác... Việc đăng ký kê khai này phục vụ cho việc
thu thuế và bắt lính của giai cấp thống trị. Thống kê tuy
đã có tiến bộ nhưng chưa được đúc kết thành lý luận và
chưa trở thành một môn khoa học độc lập.
Cuối th ế kỷ XVII, lực lượng sản xuất phát triển
mạnh làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
ra đòi. Kinh tê hàng hoá phát triển dẫn đến các ngành
sản xuất riêng biệt tăng thêm, phần công lao động xã
hội ngày càng phát triển. Tính chất xã hội của xản xuất
ngày càng cao, thị trường được mở rộng không chỉ phạm
vi một nước mà mở rộng ra trên phạm vi toàn thế giới.
Hoạt động kinh tế, xã hội ngày càng phức tạp, các giai
cấp xã hội phân hoá nhanh và đấu tranh giai cấp trở
nên gay gắt. Để phục vụ cho các mục đích kinh tế, chính
trị và quân sự, nhà nước tư bản và các chủ tư bản cần
rất nhiều thông tin thường xuyên về thị trường, giá cả,
sản xuất, nguyên nhiên vật liệu, lao động, dân sô"... Do
đó công tác thông kê phát triển nhanh chóng. Sự cố
gắng tìm hiểu các hiện tượng và quá trình kinh tê xã hội
thông qua các biểu hiện về lượng đòi hỏi những người

làm công tác khoa học, những người làm công tác quản
6


lý nhà nước, quản lý kinh doanh đi vào nghiên cứu lý
luận và phương pháp thu thập tính toán số liệu thống
kê. Các tài liệu sách báo về thống kê bắt đầu được xuất
bản. ở một sô' trường học đã bắt đầu giảng dạy thông
kê. Năm 1660, nhà kinh tê học người Đức Công - rinh
(H.conhring, 1606 - 1681) đã giảng phương pháp nghiên
cứu hiện tượng xã hội dựa vào số liệu điều tra cụ thể tại
trường dại học Helmstet. Sau đó ít lâu, một số tác phẩm
có tính chất phân tích thống kê đầu tiên ra đòi, như
cuốn “sô" học chính trị” xuất bản năm 1682 của Uy-liam Pet- ty (Uy-li-am Pet-ty 1623 - 1687) một nhà kinh
tê học người Anh. Trong cuốn sách này tác giả đã dùng
phương pháp độc đáo để nghiên cứu các hiện tượng xã
hội qua các con sô" tổng hợp và so sánh. Các Mác đã
mệnh danh cho Uy- li- am Pet-ty là người sáng lập ra
môn thống kê học. Giữa thê kỷ XVIII (năm 1759) một
giáo sư đại học người Đức, A-Khen-Van (G.achenwall
1719 - 1772) lần đầu tiên dùng danh từ “Statistik” (một
thuật ngữ gốc La-tinh “Status”, có nghĩa là nhà nước
hoặc trạng thái của hiện tượng) - sau này người ta dịch
là “thống kê” - để chỉ phương pháp nghiên cứu nói trên.
Mác, Ăng-ghen, Lênin đã tiếp tục nghiên cứu, phát
triển và có sự đóng góp vô giá vào sự phát triển lý luận
thống kê, phương pháp luận nghiên cứu thống kê và sự
vận dụng thông kê vào việc phân tích kinh tế - xã hội.
Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin



nhiều lần nhấn mạnh ý nghĩa khoa học
lớn của thông kê. Trong các tác phẩm
ghen, Lênin thống kê được diễn tả như
học xã hội độc lập, là công cụ của nhận
cải tạo xã hội.


và thực tiễn to
của Mác, Angmột môn khoa
thức xã hội và

*

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thống kê đã phát triển
rất nhanh. Từ những năm 60 của thế kỷ thứ XIX, Đại
hội thông kê quốc tế đã mở ra để thảo luận các vấn đề lý
luận và thực tế của thông kê. Cuối thế kỷ XIX, viện
thống kê đã được thành lập và tồn tại như một chỉnh
thể. Ngày nay, chức năng thống kê quốc tế được tổ chức
Liên hợp quốc tiến hành.
Từ đó đến nay, thông kê càng ngày càng phát
triển mạnh mẽ và hoàn thiện hơn về phương pháp luận,
nó thực sự trở thành công cụ để nhân thức xã hội và cải
tạo xã hội.




2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN c ứ u CỦA THỐNG KẺ

HỌC
«
2.1. Khái niệm thống kê học
Trong công tác thực tê cũng như trong đời sống
hàng ngày chúng ta thưồng gặp thuật ngữ “Thống kê”.
Thuật ngữ này có thế hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Thứ nhất: Thống kê là các sô liệu được thu thập
để phản ánh các hiện tượng kinh tê - xã hội và ảnh


hưởng tự nhiên, kỹ thuật. Chẳng hạn như: sản lượng
các loại sản phẩm chủ yếu được sản xuất ra trong nền
kinh tê trong một năm nào đó, mực nước cao nhất và
thấp nhất của một dòng sông tại một địa điểm nào đó
trong năm, hoặc dân số của một quốc gia vào thời điểm
nào đó...
Thứ hai: Thống kê là hệ thông các phướng pháp
được sử dụng đế nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã
hội, và ảnh hưởng của yếu tô' tự nhiên, kỹ thuật tới hiện
tượng kinh tê xã hội.
Hoặc, thông kê là việc: Thu thập xử lý sô" liệu,
nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng, phân tích
và dự báo các mức độ của hiện tượng trong tương lai và
ra quyết định trong điều hành sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
Theo khoản 1, điều 3, chương 1- Luật thống kê
chỉ ra: Hoạt động thống kê là điều tra, báo cáo, tổng
hợp, phân tích và cồng bố các thông tin phản ánh bản
chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế xã hội
trong điều kiện thời gian không gian cụ thể do tổ chức

thống kê nhà nước tiến hành.
Từ các quan điểm trên, ta cỏ thể đưa ra khái
niệm về thông kê một cách tổng quát như sau: “Thông
kê là hệ thông các phương pháp dùng để thu thập, xử lý
và phân tích các con số (mặt lượng) của những hiện
tượng sô" lớn để tìm hiểu bản chất và tính quy luật vốn
9


có của chúng (mặt chất) trong điều kiện thời gian và
không gian cụ thể”.

T h ôn g k ê h oc, là k h o a h o c n g h iên cứu vê m ặ t
lư ợn g tro n g m ố i q u a n h ệ m â t th iế t với m ặ t c h ấ t
c ủ a h iện tư ơn g k ỉn h t ế - x ã h ộ i sô lớn, tro n g đ iều
k iệ n thời g ia n và đ ịa đ iể m cụ thể.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có hai mặt chất và
lượng không tách rời nhau, khi chúng ta nghiên cứu
hiện tượng, điều chúng ta muôn biết đó là bản chất của
hiện tượng, nhưng mặt chất còn ẩn bên trong, còn mặt
lượng biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các đại lượng
ngẫu nhiên. Do đó phải thông qua các phương pháp xử
lý thích hợp trên mặt lượng của số lớn đơn vị cấu thành
hiện tượng, tác động của các yếu tô" ngẫu nhiên mới được
bù trừ và triệt tiêu, bản chất của hiện tượng mới bộc lộ
ra và qua đó ta có thể nhận thức đúng đắn bản chất,
quy luật vận động của nó.
Thông kê được chia thành hai lĩnh vực:
+ ThôVig kê mô tả: Bao gồm các phương pháp thu
thập sô" liệu, mô tả và trình bày sô" liệu, tính toán các

đặc trưng đo lưòng. Phần thống kê mô tả được trình bày
trong các chương 2, 3, 4, 5.
+ Thống kê suy diễn: Bao gồm các phương pháp
như: phân tích mốì liên hệ, dự báo... trên cơ sở tác
10


thông tin thu thập từ mẫu. Phần thông kê suy diễn được
trình bày trong các chương còn lại.

2.2. Đôi tương nghiên cứu của thống kê học
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển
của thống kê học, có thể thấy: Thống kê học là một môn
khoa học xã hội, ra đòi và phát triển do nhu cầu của các
hoạt động thực tiễn xã hội. Các hiện tượng mà thống kê
học nghiên cứu là các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội chủ yếu, bao gồm:
- Các hiện tượng về quá trình sản xuất và tái sản
xuất mỏ rộng của cải vật chất xã hội và sự phân phối
theo hình thức sở hữu tài nguyên và sản phẩm xã hội.
- Các hiện tượng về dân số như: số nhân khẩu,
cấu thành của nhân khẩu (giai cấp, giới tính, tuổi tác,
nghề nghiệp, dân tộc...), tình hình biến động của nhân
khẩu, tình hình phân bổ" dân cư theo lãnh thổ.
- Các hiện tượng về đòi sông vật chất và văn hoá
của nhân dân như: mức sông vật chất, trình độ văn hoá,
sức khoẻ...
- Các hiện tượng về sinh hoạt chính trị - xã hội
như: cơ cấu các cơ quan Nhà nước, đoàn thể, sô" người
tham gia tuyển cử, mít tinh...
Thông kê học nghiên cứu các hiện tượng kinh tế xã hội, không nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và kỹ

thuật. Song, do các hiện tượng kinh tế - xã hội và hiện


tượng tự nhiên kỹ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, cho nên trong khi nghiên cứu hiện tượng kinh tế xã hội, thông kê không thể không xét tới ảnh hưởng của
các yếu tô" tự nhiên (thời tiết, khí hậu, địa lý) và các yếu
tố kỹ thuật (phát minh sáng kiến, cải tiến công cụ, áp
dụng kỹ thuật mới) đối vối sự phát triển của sản xuất và
điều kiện sinh hoạt xã hội. Các hiện tượng kinh tê - xã
hội là một bộ phận cấu thành của thê giới vật chất, chịu
sự tác động của nhiều nhân tô", trong đó có yếu tô" tự
nhiên và kỹ thuật. Thu thập và phân tích các số liệu
phản ánh ảnh hưởng của tự nhiên và kỹ thuật đôi với
sản xuất, thống kê xuâ't phát từ nhận thức coi kỹ thuật,
công cụ lao động là yếu tố quan trọng của lực lượng sản
xuất và sự phát triển của sản xuất luôn bắt đầu từ
những biến đổi của lực lượng sản xuất, mà trước hết là
những biến đổi về công cụ lao động. Mặt khác, sản xuất
xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định tới điều kiện tự
nhiên mà xã hội tồn tại. Khi nghiên cứu mặt lượng của
sản xuất xã hội, thông kê cũng nghiên cứu sự thay đổi
điều kiện tự nhiên mà sản xuất mang lại.
Như vậy, đôi tượng nghiên cứu của thông kê rất
rộng, bao gồm cả những hiện tượng xã hội thuộc lực
lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả những hiộn
tượng xã hội thuộc hạ tầng cơ sở lẫn kiến trúc thượng
tầng. Nhưng, khác với các môn khoa học xã hội khác,
thống kê học không trực tiếp nghiên cứu bản chất và
quy luật của hiện tượng xã hội. Thông kê học nghión



cứu nặt lượng trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất
của hện tượng xã hội, nghiên cứu biểu hiện bằng số
lượngcủa các mặt thuộc về bản chất và quy luật của
hiện ượng. Như vậy, có nghĩa là thống kê học cần nêu
lên b:ng con số về qui mô, kết cấu, quan hệ tỷ lệ, tốc độ
phát riển... (tức là sô" lượng và quan hệ sô" lượng) của
hiện ượng nghiên cứu. Sô" lượng và quan hệ số lượng
này kiông phải là trừu tượng, mà bao giò cũng bao hàm
một rội dung kinh tế - chính trị nhất định, chúng giúp
ta nhìn thức được cụ thể bản chất và tính qui luật của
hiện tfỢng nghiên cứu.
Các con sô" thông kê có thể phản ánh được mặt
chất :ủa hiện tượng, vì chất và lượng là hai mặt không
thể tích ròi nhau của sự vật hay hiện tượng, giữa chúng
có mii liên hệ biện chứng với nhau. Mỗi lượng cụ thể
đều {ắn với một chất nhất định; sự biến đổi về lượng
dẫn (ến sự thay đổi về chất. Chính vì vậy, nghiên cứu
mặt ứợng của hiện tượng có ý nghĩa to lớn đốì với việc
nhận thức bản chất của hiện tượng.
Hiện tượng kinh tế - xã hội mà thông kê học
nghiín cứu thường là hiện tượng sô" lớn, tức là một tổng
thể bio gồm nhiều hiện tượng cá biệt. Thống kê học coi
tổng ;hể các hiện tượng cá biệt như một thể hoàn chỉnh
và lố/ đó làm đối tượng nghiên cứu. Sự cần thiết phải
nghim cứu hiện tượng số lớn là do đặc điểm của hiện
tượn;' xã hội và nhiệm vụ nghiên cứu của thống kê học


quyết định. Mặt lượng của hiện tượng cá biệt thường

chịu sự tác động của nhiều nhân tô", trong đó có nhân tô"
tất nhiên (bản chất) và cả nhân tô" ngẫu nhiên (không
bản chất). Mức độ và phương hướng tác động của các
nhân tô" này lên từng hiện tượng cá biệt rất khác nhau.
Nếu chỉ căn cứ vào mặt lượng của hiện tượng cá biệt thì
không thể rút ra được kết luận về bản chất chung của
hiện tượng. Vì vậy, chỉ có thông qua việc nghiên cứu sô"
lớn hiện tượng, tác động của các nhân tô" ngẫu nhiên
được bù trừ và triệt tiêu, bản chất và tính quy luật của
hiện tượng mới có khả năng thể hiện rõ rệt.
Nói thông kê học phải nghiên cứu hiện tượng sô"
lớn, không có nghĩa là tuyệt đối không nghiên cứu hiện
tượng cá biệt. Giữa hiện tượng sô" lớn và hiện tượng cá
biệt tồn tại mối liên hệ biện chứng. Hơn nữa, trong quá
trình phát triển của hiện tượng xã hội thường nảy sinh
một vài hiện tượng cá biệt mới tiên tiến. Cho nên nghiên
cứu hiện tượng số lớn kết hợp với nghiên cứu hiện tượng
cá biệt là điều cần thiết. Nó giúp cho việc nhận thức
hiện tượng xã hội được toàn diện, phong phú và sâu sắc.
Đặc biệt đôi với cồng tác quản lý và phát triển kinh tê
quốc dân, việc nghiên cứu đơn vị và cá nhân điển hình
tiên tiến có ý nghĩa to lớn và không thể thiếu được.
Hiện tượng kinh tế - xã hội bao giờ cũng tồn tại
trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể.
Trong những điều kiện lịch sử khác nhau, hiện tượng xã


hội có đặc điểm về chất và biểu hiện về lượng khác
nhau. Chính vì vậy, tính cụ thể, tính chính xác của sô'
liệu thống kê có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Từ những điều đã phân tích trên, có thể kết luận:
đối tượng nghiên cứu của thông kê học là mặt lượng
trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng
và quá trình kinh tế - xã hội sô' lớn, trong điều kiện thời
gian và địa điểm cụ thể.

3. Cơ S ơ LÝ LUẬN VÀ Cơ s ở PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA THỐNG KÊ HỌC


«

3.1. Cơ sở lý luận
Muôn dùng thổng kê để nhiên cứu mặt lượng
trong mốì liên hệ với mặt chất của hiện tượng và quá
trinh kinh tế - xã hội, trước hết phải dựa trên cơ sở
nhận thức đầy đủ bản chất và quy luật phát triển của
hiện tượng và quá trình đó. Ví dụ: khi nghiên cứu thống
kô tình hình nhân khẩu của một nước, phải dựa trên cơ
sở nhận thức đầy đủ lý luận về dân tộc, về các quy luật
nhân khẩu... muôn thông kê tổng sản phẩm quốc dân
(GDP) ta cần hiểu tổng sản phẩm quốc dân là gì? tổng
sản phẩm quốíc dân tính bằng bao nhiêu phương pháp
và do bao nhiêu nhân tố tạo thành...? Như vậy, có nghĩa
là thông kê học phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh
tế học làm cơ sở lý luận.


Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, kinh tê chính
trị học và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng, nghiên

cứu bản chất và những quy luật chung nhất, cơ bản
nhất về sự phát triển của xã hội. Đó là những môn khoa
học có khả năng giải thích rõ ràng và đầy đủ nhất các
khái niệm, các phạm trù kinh tê - xã hội, vạch rõ các
mối liên hệ ràng buộc và tác động qua lại giữa các hiện
tượng. Do đó, khi nghiên cứu bất kỳ hiện tượng kinh tê xã hội nào cũng phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ
bản chất và quy luật phát triển của hiện tượng, tức là
phải vận dụng lý luận về các khái niệm, các phạm trù,
các quy luật do chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế học
đã vạch ra. Đây là nguyên lý có tầm quan trọng bậc
nhâ't, quyết định tính chất khoa học và chính xác của
thông kê học. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường
hiện nay đã xuất hiện nhiều chỉ tiêu kinh tế khá mới mẻ
mà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đề cập tói, như:
Tổng sản phẩm quốc gia, tổng sản phẩm quốic dân, giá
trị gia tăng... do vậy nếu chỉ dựa vào lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin thôi chưa đủ mà thông kê học còn phải dựa
vào kinh tế học thị trường như kinh tế vi mô, kinh tế vĩ
mô làm nền tảng khoa học cho mình.
Trong hàng loạt tác phẩm của mình, mỗi lần
dùng các phương pháp và số liệu thống kê để nghiên cứu
các hiện tượng kinh tế - xã hội ở Anh, Đức, Nga. Mác,
Ăng-ghen, Lênin đều tiến hành phân tích lý luận trên
giác độ kinh tế, chính trị một cách sâu sắc, coi đó là tiền
đề, là cơ sỏ cho việc phân tích thông kê. Mác đã chỉ rõ:
16


“chỉ SiU khi hiếu rõ những điểu kiện tạo ra tỷ suất lợi
nhuậi, thì mới có thể nhờ vào thông kê mà thực sự

phân ích được tỷ suất tiền công ở các thời kỳ khác nhau
và trrtig những nưốc khác nhau". Lênin cũng khẳng
định: Thông kê phải làm nổi bật được những quan hệ
kinh ế - xã hội do sự phân tích toàn diện xác lập ra, chứ
không nên thông kê để mà thông kê”.

Đôi tượng của thông kê học bao giờ cũng gắn liền
với thíi gian và địa điểm cụ thể. Điều đó đòi hỏi khi
nghiêi cứu thống kê tình hình kinh tế - xã hội nước ta,
không thể chỉ dựa vào lý luận chung của chủ nghĩa duy
vật lịh sử và kinh tê học, mà còn phải dựa vào các
đườn£ lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vì đó là
sản piẩm của việc kết hợp lý luận của chủ nghĩa MácLôninvào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nếu không,
nhữnị kết luận rút ra được sẽ không có ý nghĩa thực
tiễn đ)i với nước ta.
Thông kê học khẳng định rằng: cơ sở lý luận của
thống kê học chỉ có thế là chủ nghĩa Mác - Lênin, chứ
khônị thế là định luật sô lớn của lý thuyết xác suất.
Mặc cù định luật sô lớn rất được coi trọng và được vận
dụng )hổ biến trong nghiên cứu thông kê, nhưng không
thể cc đó là cơ sỏ lý luận được, bỏi vì bản thân định luật
này ch’ có khả năng nói lên hình thức biểu hiện của quy
luật nà không thể vạch rõ nội dung và bản chất của quy
luật. )ịnh luật sô lớn không thê giải đáp được câu hỏi:
bán ciất của quy luật ấy là gì? Vì sao có quy luật ấy?


Những điều kiện tồn tại và phát triển của quy luật (tó?
Rõ ràng là đối với các hiện tượng kinh tế - xã hội, chỉ có
chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tê học mới đưa ra

được những câu hỏi đúng đắn.

3.2. Cơ sở phương pháp luận của thông kê học
Quá trình nghiên cứu thông kê hoàn chỉnh
thường trải qua ba giai đoạn: Điều tra thống kê, tổng
hợp thông kê và phân tích thông kê. Ba giai đoạn này có
liên hệ mật thiết với nhau, vì giai đoạn trưóc sẽ tạo cơ sở
cần thiết cho giai đoạn sau. Nếu một giai đoạn nào đó
tiến hành không tốt thì cũng có ảnh hưởng đến toàn bộ
quá trình nghiên cứu thống kê. Căn cứ vào đặc điểm của
hiện tượng nghiên cứu và nhiệm vụ cụ thể của một giai
đoạn, thống kê học sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khác nhau.
Giai đoạn điều tra thổng kê: Giải quyết nhiệm vụ
thu thập các tài liệu ban đầu về hiện tương nghiên cứu
để dùng làm căn cứ cho việc tổng hợp và phân tích
thông kê. Trong giai đoạn này, thống kê học vận dụng
nhiều hình thức tổ chức, nhiều loại và nhiều phương
pháp điều tra khác nhau, nhằm thu thập các tài liệu
ban đầu một cách chính xác, kịp thòi và đầy đủ. Do tính
chất phức tạp của hiện tượng nghiên cứu, cho nên việc
thu thập tài liệu ban đầu phải được tiến hành trên sô"
lớn các đơn vị, mới giúp cho việc phân tích và rút ra kết
luận đúng đắn.


Giai đoạn tổng hợp thống kê: Có nhiệm vụ chỉnh
lý và hệ thông hoá các tài liệu ban đầu thu thập được
trong điều tra thống kê, nhằm bước đầu nêu lên một sô"
đặc trưng cơ bản của hiện tượng nghiên cứu và tạo cơ sở

cho việc phân tích sau này. Cũng do hiện tượng nghiên
cứu phức tạp, thường bao gồm nhiều đơn vị thuộc các
loại hình khác nhau; cho nên người ta thường không
tổng hợp chung toàn bộ hiện tượng, mà phải tổng hợp
đến từng tổ, từng bộ phận đại diện cho các loại hình
khác nhau. Có nghĩa là muôn tổng hợp thổng kê, người
ta thường dùng phương pháp phân tổ, nhằm phân chia
một tổng thể hiện tượng thành các tổ, các tiểu tổ có sự
khác nhau về tính chất.
Giai đoạn phân tích thông kê: Vạch rõ nội dung
cơ bản của các tài liệu đã được chỉnh lý trong tổng hợp
thông kê, nhằm giải đáp các yêu cầu nghiên cứu đề ra.
Phàn tích thống kê phải xác định được các mức độ của
hiện tượng nghiên cứu, trình độ và xu hướng biến động
cua hiện tượng, tính chất và trình độ chặt chẽ các mối
liên hệ giữa các hiện tượng; dự báo ở mức độ tương lai
của hiện tượng. Trong giai đoạn này, thông kê học phải
vận dụng nhiều phương pháp như: phương pháp tính
các chỉ tiêu tương đổi, tuyệt đôi và bình quân; phương
pháp dãy số biến động; phương pháp chỉ số; phương
pháp bảng cân đối... Thống kê học cũng vận dụng cả
một số phương pháp của toán học như: phương pháp
tương quan, hồi quy, phân tích phương sai, ngoại suy...


Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét các sự vật
và hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội đều
có mốỉ liên hệ hữu cơ với nhau, không một sự vật và
hiện tượng nào lại tồn tại một cách cô lập. Mối liên hệ
của sự vật và hiện tượng luôn luôn diễn ra rất phong

phú và nhiều hình, nhiều vẻ. Do đó, thông kê học cũng
đã xây dựng được một hệ thống nhiều phương pháp
phân tích mối liên hệ như: phương pháp phân tổ,
phương pháp so sánh các dãy sô" song hành, phương
pháp cân đối, phương pháp chỉ sô'...
Mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới chẳng
những có liên hệ hữu cơ với nhau, mà còn luôn luôn ở
trong trạng thái vận động và biến đổi. Liên hệ và vận
động không tách rời nhau: trong liên hệ đã bao hàm sự
vận động, cũng như trong vận động đã bao hàm sự liên
hệ. Sự vận động và biến đổi của thế giới khách quan
diễn ra theo khuynh hướng tiến lên, đó chính là sự phát
triển. Phép biện chứng duy vật không những khẳng
định sự phát triển của thê giới mà còn đi sâu giải thích
cách thức, nguồn gốc, động lực và khuynh hướng của sự
phát triển. Cách thức của sự phát triển là sự tích luỹ
dần về lượng đến một trình độ nhất định thì dẫn tới
những biến đổi về chất. Động lực và nguồn gốc của sự
phát triển là sự đấu tranh của các mặt đôi lập nằm
chính ngay trong bản thân sự vật. Khuynh hướng của
sự phát triển là sự vật cũ mất đi. sự vật mới ra đời; cái
mới thay thế cái cũ. Thông kê học củng xây dựng các


phươrg pháp nghiên cứu sự biến động, đồng thời đi sâu
phân tích cách thức, nguồn gốc, động lực và khuynh
hướng của sự phát triển. Đó là các phương pháp: dãy số
biến cộng, chỉ số...
Thông kê học cũng căn cứ vào các cặp phạm trù
của piép biện chứng duy vật như: cái chung và cái

riêng; nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu
nhiên., để xây dựng nhiều phương pháp phân tích
khác. Các phương pháp này không những phân tích
được iâu sắc và toàn diện bản chất và quy luật phát
triển ĩủa hiện tượng, mà còn được dùng để dự báo sự
phát triển tương lai của hiện tượng.

Tóm lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở
phươrg pháp luận của thống kê học. Vì vậy, phương
pháp ;ô lập từng hiện tượng ra để nghiên cứu, chỉ xét
hiện tượng trong trạng thái tĩnh, chỉ xét mặt lượng đơn
thuần mà không chú ý tới mặt chất của hiện tượng đều
là trá: với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM THƯỜNG DÙNG TRONG
THỐNG KÊ
4.1. Tông thê thông kê
Tông th ê th ố n g k ê : Là tập hợp các đơn vị (hay
phần tử) thuộc hiện tượng nghiên cứu, cần quan sát,
thu thập và phân tích mặt lượng của chúng theo một
hoặc nột sô tiêu thức nào đó.


Các đơn vị (hay phần tử) cấu thành tổng thể
thông kê gọi là đ ơ n vi tổ n g th ể. Ví dụ: muốn tính thu
nhập trung bình của một công nhân viên của doanh
nghiệp (A) thì tổng thể sẽ là tổng số cán bộ công nhân
viên của doanh nghiệp đó, muốn tính chiều cao trung
bình của sinh viên nam lớp X thì tổng thể sẽ là toàn bộ
nam sinh viên của lớp X.

Như vậy, thực chất của việc xác định tổng thể
thống kê là xác định các đơn vị tổng thể. Đơn vị tổng thể
là xuất phát điểm của quá trình nghiên cứu thông kê, vì
nó chứa đựng những thông tin ban đầu cần cho quá
trình nghiên cứu.
Tổng thể trong đó bao gồm các đơn vị (hay phần
tử) mà ta có thể trực tiếp quan sát hoặc nhận biết được
gọi là tổng th ể bộc lộ. (Ví dụ: Tổng thể sinh viên của một
trường, Tổng thể các doanh nghiệp trên một địa bàn...).
Khi xác định tổng thể có thể gặp trường hợp các
đơn vị tổng thể không trực tiếp quan sát hoặc nhận biết
được, ta gọi đó là tổng th ể tiềm ẩn. Khi nghiên cứu các
hiện tượng xã hội ta thường gặp các tổng thể này (Ví dụ:
Tổng thể những người đồng ý (ủng hộ) một vấn đê nào
đó, tổng thể những người ưa thích nghệ thuật cải
lương...).
Tổng thể trong đó bao gồm các đơn vị (hay phần
tử) giông nhau ở một hay một sô đặc điểm chủ yêu có


liên qian trực tiếp đến mục đích nghiên cứu được gọi là

tông h ể đồng chất. Ngược lại, nếu tổng thể trong đó bao
gồm ác đơn vị (hay phần tử) không giống nhau ở những
đặc đểm chủ yếu có liên quan đến mục đích nghiên cứu
được ÍỌĨ là tổng th ể không đồng chất. Ví dụ, mục đích
nghiêi cứu là tìm hiểu về hiệu quả sử dụng vốn của các
doanl nghiệp dệt trên một địa bàn thì tổng thể các
doanl nghiệp dệt trên địa bàn là tổng thể đồng chất,
nhưní tổng thể tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn là

tổng hể không đồng chất. Việc xác định một tổng thể là
đổng chất hay không đồng chất là tuỳ thuộc vào mục
đích Ìghiên cứu cụ thể. Các kết luận rút ra từ nghiên
cứu tiống kê chỉ có ý nghĩa khi nghiên cứu trên tổng
thể đing chất.
Tổng thể thông kê có thể là hữu hạn, cũng có thể
được :oi là vô hạn (không thể hoặc khó xác định được sô"
đơn \ị tổng thể như tổng thể trẻ sơ sinh, tổng thể sản
phẩn do một loại máy sản xuất ra...). Cho nên khi xác
định tổng thể thông kê không những phải giới hạn về
thực hể (tổng thể là tổng thể gì), mà còn phải giới hạn
về thii gian và không gian (tổng thể tồn tại ở thời gian
nào, ihông gian nào).

4.2. Tổng thể mẩu
Tổng thể mẫu là tổng thể bao gồm một sô' đơn vị
đượcchọn ra từ tổng thể chung theo một phương pháp
lấy nẫu nào đó.


4.3. Quan sát
Quan sát là cơ sở để thu thập sô" liệu và thông tin
cần nghiên cứu. Chẳng hạn trong điều tra chọn mẫu,
mỗi đơn vị mẫu sẽ được tiến hành ghi chép, thu thập
thông tin và được gọi là một quan sát.

4.4. Tiêu thức thông kê
Tiêu thức thống kê ỉà khái niệm dùng để chỉ các
đặc điểm của đơn vị tông thể.
Ví dụ: Khi nghiên cứu nhân khẩu, mỗi nhân khẩu

có những tiêu thức như: giới tính, độ tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo... Khi nghiên cứu
các doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp có các tiêu thức
như: số lượng công nhân, vốn cô" định, vốn lưu động, giá
trị sản xuất...
Tiêu thức thống kê được chia thành hai loại:
• Tiêu thức thuộc tính: là

phản ánh
tính chất hay loại hình của đơn vị tổng thể, không có
biểu hiện trực tiếp bằng các con sô. Ví dụ các tiêu thức
như: giới tính, nghê nghiệp, tình trạng hôn nhân, dân
tộc, tôn giáo... là các tiêu thức thuộc tính.
tiêu

th ứ c

• Tiêu thức sô” lượng: là tiêu thức có biểu hiện
trực tiếp bằng con số. Ví dụ: tuổi, chiều cao, trọng lượng
của con người, năng suất làm việc của công nhân...
Các trị sô" cụ thể khác nhau của tiêu thức sô lươner
gọi là lượng biến. Ví dụ: tuổi là tiêu thức số lượner. tuổi
24


không phải là lượng biến. Lượng biến là: 18 tuổi, 20
tuổi, 3) tuổi.
Lượng biến có thể phân thành hai loại.
» Lượng biến rồi rạc: là lượng biến mà các giá trị
có thể:ủa nó là hữu hạn hay vô hạn và có thể đếm được.

» Lượng biến liên tục: là lượng biến mà các giá trị
có thể có của nó có thể lấp kín cả một khoảng trên trục
sô". Ví dụ: trọng lượng, chiều cao của sinh viên; năng
suất cia một loại cây trồng.
Các tiêu thức thuộc tính hoặc tiêu thức sô" lượng
chỉ có hai biểu hiện không trùng nhau trên một đơn vị
tổng thể, được gọi là tiêu thức thay phiên. Ví dụ, tiêu
thức fiới tính là tiêu thức thay phiên vì chỉ có hai biểu
hiện li nam và nữ. Đối với tiêu thức có nhiều biểu hiện
ta có hể chuyển thành tiêu thức thay phiên bằng cách
rút gcn thành hai biểu hiện. Ví dụ: thành phần kinh tế
chia thành quốc doanh và ngoài quốc doanh; sô" công
nhân :ủa các doanh nghiệp chia thành nhỏ hơn 500 và
lớn hm hoặc bằng 500.

4.5. Chỉ tiêu thống kê
Chỉ tiêu thống kê là phạm trù biểu hiện đặc điểm
về rrựt lượng trong sự thông nhất với mặt chất của tổng
thể hện tượng nghiên cứu trong điểu kiện thời gian và
khônf gian cụ thế.


Hoặc, chỉ tiêu thống kê là những con số chỉ mặt
lượng gắn với mặt chất của hiện tượng số lớn trong điều
kiện thòi gian, địa điểm cụ thể.
Theo khoản 3 Điều 3 Chương 1 Luật Thống kê
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định:
“Chỉ tiêu thống kê là chỉ tiêu mà biểu hiện bằng sô" của
nó phản ánh quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu, quan hệ
tỉ lệ của hiện tượng kinh tế - xã hội trong không gian và

thời gian cụ thể”.
Căn cứ theo tính chất và và nội dung biểu hiện
chỉ tiêu thống kê có thể phân biệt thành hai loại:
• Chỉ tiêu số lượng: là các chỉ tiêu biểu hiện qui
mô, khối lượng của tổng thể. Ví dụ: sô" nhân khẩu, sô
doanh nghiệp, vốn cô" định, vốn lưu động của một doanh
nghiệp, tổng sản phẩm quốc nội, diện tích gieo trồng, số
sinh viên đại học...
• Chỉ tiêu

chất

lượng: là các chỉ

tiêu

biểu hiện

tính chất, trình độ phổ biến, quan hệ so sánh trong tổng
thể. Ví dụ: giá thành đơn vị sản phẩm là một chỉ tiêu
chất lượng, nó biểu hiện quan hệ so sánh giữa tổng giá
thành và số lượng sản phẩm sản xuất ra, đồng thời nó
phản ánh tính chất phổ biến về mức chi phí cho một đơn
vị sản phẩm cho một đơn vị đã được sản xuất ra. Tương
tự, các chỉ tiêu năng suất lao động, năng suất cây trồng,
tiền lương... là các chỉ tiêu chất lượng.


×