Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.24 KB, 50 trang )

Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước
đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về nguồn vốn đầu tư - Vai trò và
mối quan hệ của các nguồn vốn trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
I - Khái niệm về nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư và vốn đầu tư.
Đầu tư là sự bỏ ra hoặc hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để thực hiện các
hoạt động nhằm đạt được các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định
trong trong tương lai
Vốn đầu tư là lượng tiền để đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế -
xã hội.Vốn đầu tư được đăc trưng bởi những điểm sau đây:luôn luon gắn với
một chủ nhất định,có giá trị về mặt thời gian,có khả năng sinh lời.
2. Khái niệm nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân
phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và
của xã hội.
Về bản chất: nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích
luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuẩt xã hội
Nguồn vốn đầu tư bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn
đầu tư nước ngoài.
II - Phân loại
1. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước của mỗi quốc gia được hình thành chủ yếu
từ: tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp và
vốn huy động thông qua các tài sản quốc gia.
1.1 Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp Nhà nước.
1.1.1.Nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho


đầu tư. Đó là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia.
Ngân sách Nhà nước được hình thành từ việc thu thuế, phí, lệ phí, từ vay
viện trợ ưu đãi của nước ngoài, vay trên thị trường vốn quốc tế và vay trong dân
dựa trên việc phát hành trái phiếu chính phủ.
1
Hiện nay có sự đa dạng vốn đầu tư Nhà nước, không có sự tách biệt giữa:
đầu tư Nhà nước cho sự phát triển chung của xã hội và đầu tư Nhà nước cho sản
xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà phải xác định cụ thể nguồn vốn ngân sách
không thể đầu tư tràn lan được, mà phải hạn chế trong một số lĩnh vực chủ yếu
nhất định
Để làm tăng ngân sách Nhà nước, tức là tăng tiết kiệm chính phủ thì phải
tăng thu và tăng tiết kiệm trong chi ngân sách. Trong thu ngân sách thì thu từ
thuế chiếm tỷ trọng lớn.
*Vai trò:
- Nguồn vốn được sử dụng cho các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh…
- Nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư vào các lĩnh
vực cần có sự tham gia của Nhà nước.
- Nguồn vốn dùng để chi cho công tác lập kế hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội, vùng lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Vốn ngân sách là cơ sở để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các
thành phần kinh tế khác đầu tư.
1.1.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ
chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với
các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay có
trả, và phải trả với một lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay vốn
hay sau khi đầu tư (đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này có vị
trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ.

Hiện nay ở nước ta chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước nhằm tập trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản
phẩm quan trọng, then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm;
giảm sự bao cấp và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
*Vai trò:
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng trong
việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước.Với cơ chế tín dụng
nhằm tránh sự thất thoát và lãng phí nguồn vốn, các doanh nghiệp vay vốn sử
dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả hơn do phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn
vay.Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển
từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án
có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
- Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thường dùng để phục vụ công tác quản
lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực
hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo
2
định hướng chiến lược của mình. Điều này giúp tăng trưởng kinh tế và thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân bổ và sử dụng vốn vay tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển
những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm
nghèo…
Và trên hết,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn có tác
dụng tích cực trong việc chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa-hiện đại hóa
Cho đến năm 2001,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
đầu tư vào ngành công nghiệp trên 60% tổng vốn đầu tư(gần 55% sồ dự án)đã
góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào cơ cấu kinh tế.
1.1.3. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn này được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền

kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước
khá lớn.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do ngân
sách Nhà nước cấp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp (đầu tư mới), từ quỹ khấu
hao của doanh nghiệp đó (đầu tư thay thế), từ vốn vay (vay ngân hàng thương
mại, quỹ tín dụng đầu tư của cán bộ công nhân viên, từ cổ phần )…
*Vai trò:
- Đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước thường được tập trung vào
phát triển các lĩnh vực mà khu kinh tế khác không muốn làm, hoặc cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội và các ngành công nghiệp then chốt. Việc phát triển những lĩnh
vực trên là rất cần thiết để phát triển kinh tế, do đó hiệu quả chung, nhất là hiệu
quả về mặt xã hội của nó có thể cao.
- Nguồn vốn này là một trong những nguồn vốn quan trọng đóng góp lớn
cho sự phát triển kinh tế, tạo việc làm.
- Đóng góp quan trọng vào sản phẩm quốc nội của cả nước.
- Góp phần hình thành gộp về tài sản cố định rất có ý nghĩa đối với nền
kinh tế
1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã và lượng kiều hối.
1.2.1.Tiết kiệm của dân cư:
Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của
dân cư, sau khi đã đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu
dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Phạm vi thu nhập của
dân cư bao gồm: thu nhập từ kết quả lao động, từ sản xuất và kinh doanh dịch vụ
của bản thân dân cư và gia đình họ, kể cả xí nghiệp gia đình có quy mô nhỏ
3
(không phải là công ty); thu nhập do người thân từ nước ngoài gửi về; thu nhập
do thừa kế; thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ.
Tiết kiệm khu vực dân cư là một bộ phận quan trọng của tiết kiệm trong

nước, đóng góp vai trò chủ yếu trong việc hình thành vốn đầu tư của các quốc
gia, đây là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng.
1.2.2.Tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh:
Nguồn vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và tiết kiệm (các khoản thu nhập của
doanh nghiệp sau khi trả thuế và trả cổ tức); từ vốn đi vay hoặc tăng vốn cổ
đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
Phần tích luỹ của các doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tổng quy mô
vốn của toàn xã hội.
Hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đạt hiệu quả, tạo doanh thu cao
hơn so với doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh doanh đa ngành với nhiều
lĩnh vực khác nhau, giải quyết công ăn vịêc làm cho hàng triệu người lao động,
đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
2.Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào
quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Nó bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,
vốn tín dụng thương mại, vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn từ thị trường vốn quốc
tế.
2.1.Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
2.1.1. Khái niệm chung.
* Nguồn vốn ODF (Official Development Finance ): là nguồn tài trợ phát
triển chính thức do các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ cung cấp. Nguồn này bao
gồm: viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác
trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu.
* Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance ) là nguồn tài chính
do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một
nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
* Nội dung viện trợ:

- Viện trợ không hoàn lại: yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được
xác đinh dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần
trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Đối với loại viện trợ này chiếm 25% tổng
vốn ODA, thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến
thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện
trợ này lại là viện trợ nhân đạo như lương thực, thuốc men hoặc các loại hàng
4
hoá khác... nên chúng rất khó huy động vào mục đích đầu tư phát triển. Nhưng
bên cạnh đó các khoản viện trợ này thường kèm theo một số điều kiện về tiếp
nhận, về đơn giá...
- Viện trợ có hoàn lại: thực chất là cho vay ưu đãi với điều kiện “mềm” có
thể sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát triển. Tính chất ưu đãi thể hiện ở khía cạnh
đó là: lãi suất thấp; thời hạn cho vay dài, Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thời
gian là 30 năm, Ngân hàng thế giới là 40 năm; thời gian ân hạn từ khi vay đến
khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài, khoảng từ 5-10 năm trở lên, Nhật Bản ân hạn là
10 năm.
- Viện trợ hỗn hợp: bao gồm phần cấp không và phần còn lại thực hiện theo
hình thức vay tín dụng ( có thể ưu đãi hoặc bình thường ).
* Các hình thức viện trợ: theo mục đích và cách tiếp cận nhận viện trợ thì
ODA được thực hiện thông qua các hình thức sau.
- Hỗ trợ cán cân thanh toán, thường có nghĩa là hỗ trợ tài chính trực tiếp
nhưng đôi khi lại là hỗ trợ hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khấu. Ngoại tệ hoặc hàng
hoá chuyển vào trong nước thông qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể
đựơc chuyển thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào
nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường trong nước, và số thu nhập bằng
bản tệ được đưa vào ngân sách của chính phủ.
- Tín dụng thương mại với các điều khoàn mềm ( lãi suất thấp, hạn trả
dài...). Trên thực tế là một dạng hỗ trợ có ràng buộc.
- Viện trợ chương trình là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác
viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời

hạn nhất định, mà không phải xác định nó sẽ phải được sử dụng như thế nào.
- Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức. Hỗ trợ dự án
thường liên quan đến hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kĩ thuật và trên thực tế thường
có cả hai yếu tố này: Hỗ trợ cơ bản thường chủ yếu về xây dựng (đướng xá, cầu
cống, trường học, bệnh viện ). Thông thường các dự án này có kèm theo một bộ
phận của viện trợ kĩ thuật, dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra
những hoạt động nhất định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho
các đối tác nhận viện trợ; hỗ trợ kĩ thuật thường chủ yếu chỉ tập trung vào
chuyển giao tri thức hoặc tăng cường lập cơ sở kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu
tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư (quy hoạch, lập các luận chứng
kinh tế, kĩ thuật...). Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ thông
thường, nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kĩ thuật phân tích (kinh tế, quản lý,
thống kê, thương mại, hành chính Nhà nước, các vấn đề xã hội..
2.1.2. Đặc điểm của nguồn vốn ODA.
- ODA là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài mà các nhà tài trợ không
trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể gián tiếp tham gia dưới hình thức nhà
thầu hoặc chuyên gia. Danh mục các dự án ODA phải có sự thoả thuận với nhà
tài trợ.
5
- ODA gồm: viện trợ không hoàn lại và viện trợ có ưu đãi nhưng nếu quản
lý và sử dụng kém hiệu quả thì nó sẽ là gánh nặng nợ trong tương lai.
- Các nước nhận viện trợ ODA phải có đủ 1 số điều kiện nhất định thì mới
được nhận viện trợ. Điều này tuỳ thuộc vào quy định của từng nhà tài trợ.Ví dụ:
để nhận tài trợ ưu đãi của IMF nước chủ nhà phải có cổ phần đóng góp vào IMF
và số tiền vay sẽ phụ thuộc vốn cổ phần.
- Chủ yếu dành hỗ trợ cho dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: giao thông
vận tải, y tế giáo dục..
- Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ là các tổ chức viện trợ đa phương
và các tổ chức viện trợ song phương...Các nước cung cấp viện trợ nhiều nhất
hiện này là Mỹ, Nhật, Pháp, Anh, Úc, Thuỵ Điển...

2.2.Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một thời
gian sẽ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay, các nước cho vay nhận lợi
nhuận thông qua lãi suất tiền vay.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn
không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào về chính trị xã hội và có toàn quyền sử
dụng vốn vay này. Tuy nhiên, điều kiện ưu đãi của nguồn vốn này không dễ
dàng như đối với nguồn vốn ODA, thủ tục vay lại tương đối khắt khe và nghiêm
ngặt, có những quy định riêng về thời gian trả nợ, cộng với lãi suất cao nên gây
cản trở không nhỏ đối với các nước nghèo.
Đây là nguồn vốn vay với lãi suất thương mại, được đánh giá là lãi suất
tương đối cao, thêm vào nữa là sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng nên
nguồn vốn tín dụng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu
cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có
thể được dùng cho mục đích đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng
nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng của
các nước đi vay là có triển vọng. Tuy nhiên, nếu các nước tiếp nhận không sử
dụng hiệu quả nguồn vốn này thì khả năng xảy ra tình trạng mất khả năng chi trả
dẫn đến vỡ nợ là rất cao.
2.3.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
* Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức quốc tế mà chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào quá trình sản xuất kinh doanh để trực tiếp
quản lý hoặc tham gia quản lý vào quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra.
Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà
cả với những quốc gia đang phát triển.
* Đặc điểm:
-Việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.
6
-Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào nước

đó vốn bằng tiền mà còn chuyển giao cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu...(Công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kĩ thuật -
công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...
( công nghệ mềm)
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực, giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động...vào các nước tiếp nhận.
2.4. Thị trường vốn quốc tế.
Trái phiếu quốc tế: là trái phiếu phát hành bằng đồng tiền không phải là
đồng tiền Nhà nước, có nhà phát hành để vay vốn các nhà đầu tư nước
ngoài.Việc phát hành các trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế của các
quốc gia nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển hoặc bù đắp thiếu hụt về cán
cân thương mại quốc tế. Trái phiếu chính phủ cho phép các quốc gia huy động
vốn với khối lượng lớn, kỳ hạn dài.. Ưu điểm của trái phiếu quốc tế cũng như
việc đi vay trong thị trường tài chính trong nước như nhà phát hành có khả năng
độc lập về tài chính, có thể chủ động sử dụng vốn vay mà không bị phụ thuộc
bởi những điều kiện đặt ra từ người cho vay. Tuy nhiên, việc phát hành trái
phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế có những đặc điểm riêng cơ bản như:
- Thị trường trái phiếu chính phủ chịu ảnh hưởng của sự biến động của thị
trường vốn quốc tế, chịu sự ảnh hưởng cuả nền kinh tế thế giới và nhất là sự
phát triển kinh tế của các nước có ngoại tệ được sử dụng để định giá trái phiếu
hoặc khu vực nơi phát hành trái phiếu..
- Trái phiếu chính phủ chịu sự biến động của tỷ giá ngoại tệ. Trái phiếu
quốc tế có thể mua bằng ngoại tệ, vay nợ và trả nợ bằng ngoại tệ nên khả năng
các quốc gia gặp rủi ro trong trả nợ bằng ngoại tệ là rất cao.
- Trái phiếu chính phủ không thể giãn nợ hoặc hoãn nợ, bắt buộc các quốc
gia phải bố trí vốn hoàn trả khi đáo hạn.
- Việc phát hành trái phiếu chính phủ phải tuân thủ những luật pháp và
thông lệ quốc tế, vậy nên yêu cầu phải có được sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ khi 2 bên ký kết hợp đồng.
Đối với trái phiếu của Việt Nam, những đặc điểm trên là những đặc điểm

cần được lưu ý trong khi phát hành bởi trái phiếu của chúng ta vẫn còn non trẻ
(chỉ chính thức phát hành từ năm 2005). Do vậy, cùng với việc học hỏi kinh
nghiệm của các nước đi trước, chúng ta phải cố gắng để nâng cao định mức tín
nhiệm quốc gia.
Tóm lại, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư được thể hiện qua bảng số liệu sau:
7
Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam
Tổng số 2001 2002 2003 2004 2005 2006
NSNN 23.6% 22.7% 23.7% 22.8% 21.9% 22.5%
Tín dụng TM 16.8% 16% 12.5% 10.9% 9.2% 9.1%
DN nhà nước 17% 16.8% 13.9% 14.8% 15.3% 15.2%
Vốn ngoài quốc
doanh
25% 27.2% 29.7% 31.8% 33% 32.4%
Vốn FDI 17.6% 17.3% 16.3% 16.1% 16.3% 15.4%
Vốn khác - - 3.9% 3.6% 4.3% 5.4%
III – Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong việc
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong những năm gần đây nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng tự hào
trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng vai trò
hết sức quan trọng.Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư, chuyển dịch cơ cấu
giữa các ngành, vùng, bước đầu đã hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lí, tạo ra
thế và lực cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và cộng
đồng quốc tế. Đảng và nhà nước ta đã xác định rõ vai trò quan trọng của nguồn
vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế với nguyên tắc “ Vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan
trọng”
1. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn quyết định..
Vốn trong nước là nội lực của mỗi quốc gia vì vậy nó mang tính ổn định
bền vững, giảm được những ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế do tác động của

thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước trên thế giới. Với nguồn vốn
này chúng ta hoàn toàn có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng mà
không bị phụ thuộc vào bất kì tổ chức, quốc gia nào, và nó cũng sẽ là nhân tố tạo
điều kiện cho việc thu hút nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả. Tính quyết định
của nguồn vốn trong nước thể hiện ở những mặt sau:
1.1 Nguồn vốn trong nước là nhân tố góp phần ổn định đầu tư trong
nước, là cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài:
Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi 1 quốc gia không chỉ phát
triển đơn lẻ mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì
thế, nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế
8
giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong
nước thì sẽ có được thế chủ động trong việc điều hành nền kinh tế và ổn định
các chính sách kinh tế.
Ngoài ra, việc tận dụng nguồn vốn trong nước cũng giúp chúng ta có được
sự phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế có nhiều con đuờng khác nhau.
Nhiều nước đã chọn con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát
triển kinh tế đất nước. Thực tế đã cho thấy các nước này có thể đạt được mức
tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền vững và có sự lệ thuộc
vào nước cho vay, bởi họ không thấy được cũng như không phát huy được tính
quyết định của nguồn vốn trong nước.
Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI
trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng
25% - 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ
tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng
hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một số ít quốc gia
có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề sử dụng nguồn
vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, tự bản thân chúng
ta phải xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và

ổn định, có cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ nhân công có tay nghề,
cán bộ quản lí có chuyên môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vồn
nước ngoài để phát triển kinh tế. Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn
trong nước.
Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây
vẫn là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong
nước không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như vậy
thì mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được.
Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới việc thu
hút vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế.
1.2.Nguồn vốn trong nước chiếm phần lớn trong cơ cấu vốn đầu tư
phát triển:
Nguồn vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế ( > 50%) trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. .Nếu tỉ trọng này quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ dẫn
đến giảm khả năng thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập của
các tập đoàn xuyên quốc gia gây lũng đoạn thị trường, thu hẹp thị trường của
các doanh nghiệp trong nước và sản xuất trong nước không phát triển. Các
doanh nghiệp của nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
khả năng cạnh tranh còn hạn chế ở nhiều mặt, sự hỗ trợ từ Nhà nước với hệ
thống chính sách pháp luật là rất cần thiết.Chính vì vậy chúng ta phải giữ cho tỉ
trọng nguồn vốn trong nước ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của nền
kinh tế.Như vậy chúng ta có thể chủ động ứng pho kịp thời với các biến động
9
của nền kinh tế, cũng như trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp VN cạnh tranh
trên thị trường, nhất là trong bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức WTO
1.3.Nguồn vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho hoạt động đầu
tư:
Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các
hoạt động đầu tư.Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn
khác nhau và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát

triển.Với mỗi giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên
cho việc phát triển những ngành kinh tế phù hợp.Muốn xây dựng một đất nước
phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có một sự
phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lí..Việc đầu tư vốn trong nước để xây
dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông…vào ngành, địa
phương nào sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài. Vì vậy việc sử dụng vốn trong nước cho ngành nào, vùng nào cần
phải được cân nhắc kĩ theo sự định hướng đúng đắn của Nhà nước sẽ giúp nền
kinh tế phát triển nhanh chóng
2.Vai trò của nguồn vốn nước ngoài :là nguồn vốn quan trọng :
Các nước đang phát triển luôn có nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài
nguyên phong phú.Vậy tại sao họ vẫn mãi chỉ là “đang phát triển”? Thực ra vấn
đề lớn nhất hiện nay của những nước này là thiếu vốn đầu tư nên không thể phát
huy được hết những tiềm lực của bản thân. Trong hoàn cảnh như vậy, nguồn vốn
từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát triển ban đầu của các
nước này. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới như hiện
nay các nước đang phát triển bị đặt trong tình huống phải tạo ra tốc độ phát triển
nhanh để đuổi kịp và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.Có thêm sự hỗ
trợ từ bên ngoài sẽ rất có ích cho các nước nghèo trên con đường phát triển
.2.1. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ nguồn vốn trong nước trong việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế .
2.1.1 Góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng.
Thực trạng chung của những nuớc đang phát triển như Việt Nam là kết cấu hạ
tầng còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ: đường, cầu, sân bay, nhà máy điện, tàu biển,
cảng, viễn thông, trường học, bệnh viện… đều trong tình trạng yếu kém. Vì vậy,
để duy trì cho tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam nhất thiết phải đầu
tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản và đồng bộ. Trong khi đó ngân sách
nhà nước lại vô cùng eo hẹp. Chính vì thế, nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò
vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường đòi
hỏi vốn đầu tư lớn nhưng việc thu hồi vốn lại chậm, khả năng sinh lời thấp, nên

không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở thành giải pháp hiệu quả cho
việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả những
nước phát triển cũng đã lựa chọn ODA để đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng.
10
Nguồn vốn ODA cho phép phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và
hiệu quả. Với khối lượng vốn lớn, thời hạn vay dài, lãi suất thấp và được cung
cấp từ nhiều nhà tài trợ khác nhau, ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành đồng
thời nhiều dự án trên địa bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được
sự phát triển mang tính chất đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng, nhờ đó, tạo
được năng suất tổng hợp phục vụ hiểu quả đối với hoạt động sản xuất kinh
doanhvà sự phát triển chung của toàn xã hội.
Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để
mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.Như đã biết, để
có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một
lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải đảm bảo cho họ có được môi trường đầu tư
tốt ( cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn định...),
đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao. Muốn vậy,
đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải thiện và xây
dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng...Nguồn vốn để Nhà nước
có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn ODA giúp bổ
sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một khi môi trường đầu tư
được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy
đầu tư trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình
sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn
vốn bổ sung quan trọng cho các nước dang phát triển, còn có tác dụng tăng khả
năng thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư
phát triển trong nước cho các nước này.

2.1.2 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các
yếu tố cấu thành nền kinh tế. Một nước có nền kinh tế phát triển phải có một cơ
cấu kinh tế hợp lí.Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước thì cần rất
nhiều các yếu tố nguồn lực.Trong đó yếu tố vốn đóng vai trò quyết định.Nếu chỉ
dựa vào nguồn vốn trong nước sẽ không thể đáp ứng được, có thêm nguồn vốn
nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nguồn vốn nước ngoài làm thay đổi cơ cấu ngành của nước tiếp nhận đầu
tư: chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch
vụ và sau cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ; thay đổi cơ cấu bên trong một
ngành sản xuất từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, lao động nhiều sang sản
xuất có năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng lao động ít; Thay đổi cơ cấu
bên trong của một lĩnh vực sản xuất từ lĩnh vực có hàm lượng công nghệ thấp
sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học công
nghệ cao.
2.1.3.Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
11
Nguồn nhân lực có một vị trí hết sức quan trọng tác động đến sự phát
triển của mỗi quốc gia.Hiện nay việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngày
càng được chú trọng. Đặc biệt ở những nước đang phát triển như VN, nguồn
nhân lực dồi lực dồi dào nhưng chất lượng không cao, vấn đề này càng trở nên
cấp thiết.
Nguồn vốn ngoài nước tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận
đầu tư liên quan đến cả số lượng và chất lượng lao động. Số lượng lao động ở
đây được hiểu là số lao động có việc làm. Còn đối với chất lượng, là sự thay đổi
cơ bản, nâng cao năng lực, kĩ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua
trực tiếp đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao trình độ lao động.Thông qua các
dự án về huấn luyện đào tạo chuyên môn, các chương trình về cử chuyên gia,
các chương trình cử các đoàn khảo sát về phát triển …… giúp cho các nước
nhận viện trợ phát triển nguồn nhân lực.

2.1.4.Hỗ trợ tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ:
Ngoài các yếu tố về vốn, nguồn nhân lực thì khoa học công nghệ được coi
là yếu tố then chốt tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là yếu tố quyết
định để các nước có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện được cuộc
sống.
Đối với các nước đang phát triển, công nghệ giúp những nước này theo kịp
tốc độ tăng trưởng kinh tế ở những nước công nghiệp phát triển dựa trên lợi thế
của những nước đi sau. Nguồn vốn nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với quá trình phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và
năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư thông qua hiệu ứng tích cực. Nó có
tác động đến phát triển công nghệ của một quốc gia thông qua: chuyển giao
công nghệ; phổ biến công nghệ và phát minh công nghệ.
2.1.5.Góp phần cải thiện cán cân xuất nhập khẩu
Đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy xuất khẩu thông qua xây dựng năng
lực xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các công ty nước ngoài tham
gia vào quá trình sản xuất với mức công nghệ từ đơn giản đến trung bình và cao,
xây dựng các nhà máy lắp ráp để xuất khẩu, phổ biến ở các khu chế xuất, xây
dựng các ngành công nghiệp xuất khẩu mới, tham gia khai thác tài nguyên để
xuất khẩu rồi phân phối sản phẩm qua hệ thống công ty mẹ công ty con
Thông qua hoạt động xuất khẩu và thay thế nhập khẩu đã mang lại nguồn
thu ngoại tệ cho nước tiếp nhận đầu tư từ đó cũng góp phần cải thiện cán cân
thanh toán. Việc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản xuất những mặt
hàng mà nước tiếp nhận đầu tư chưa có khả năng sản xuất đã giúp cho các nước
này không phải nhập khẩu những hàng hoá đó, làm giảm lượng ngoại tệ phải
thanh toán
2.2. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ nguồn vốn trong nước trong việc thực
hiện các mục tiêu xã hội
2.2.1.Giải quyết việc làm nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống.
12
Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp nhận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng

doanh nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa
phương vào trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo
việc làm cho người lao động hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình
thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh
nghiệp này và khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ
tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội.. Ngoài ra điều kiện lao động và chăm
sóc về mặt sức khoẻ, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư
tốt hơn so với các doanh nghiệp địa phương.Với nguồn thu nhập ngày càng
được cải thiện thì chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao.
2.2.2. Là công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang và chậm phát triển
thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo.
Công cụ chủ yếu để thực hiện mục tiêu này chính là từ nguồn viện trợ
ODA. Đối với các nước nghèo ODA là một cơ hội nâng cao chất lượng cuộc
sống của những người nghèo. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 mục tiêu
của viện trợ ODA là giảm một nửa tỷ lệ người cực nghèo (mức thu nhập dưới 1
USD/ngày, giảm 2.3 lần tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi, giảm 3/4 tỷ lệ
chết của sản phụ và mọi trẻ em đều được đến trường...
Chương II : Thực trạng huy động, sử dụng và mối quan hệ giữa nguồn
vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế Việt Nam
I. Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định trong việc thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế, thực trạng nguồn vốn trong nước:
1.Vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước với sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế VN:
1.1.Hiện nay trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn trong nước
luôn chiếm tỉ trọng lớn và giữ vai trò chủ đạo.
Theo số liệu thống kê ta có thể nhận thấy Vốn trong nước luôn chiếm tỉ
trọng trên 70% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và có xu hướng tăng lên. Sự
tăng lên đó là có sự đóng góp đáng kể của nguồn vốn ngoài quốc doanh. Sở dĩ
nguồn vốn này gia tăng trong những năm gần đây là do sự xuất hiện ngày càng

nhiều của các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu
quả, đồng thời lượng tiền trong dân cư cũng tăng mạnh do người dân đã từ bỏ
thói quen cất trữ tiền để đem đi đầu tư , cũng phải kể đến lượng kiều hối những
năm qua đã tăng đáng kể.
Mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam trong thời kì 2006 - 2010 là: tổng vốn
đầu tư phát triển đạt 2.200.000 tỷ đồng (140 tỷ USD), bằng 40% GDP trong đó
vốn trong nước chiếm 65%. Và khẳng định.:" Nguồn vốn trong nước giữ vai trò
quan trọng, mang tính chất quyết định".
13
1.2.Nguồn vốn trong nước đã được sử dụng hiệu quả trong những năm
qua,chúng ta đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, phát triển
các cơ sở nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, và các
yếu tố xã hội khác.
Nhờ huy động tốt các nguồn lực, khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh, cho
phép dành được một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư vào một số công trình
chủ yếu quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi
mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng,
từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển
đổi sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; đã và đang đầu tư nhiều cơ sở
sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông,
thuỷ lợi, công nghiệp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường,
giảm nhẹ thiên tai.
Bên cạnh đó, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đã được tập trung đầu tư
cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường, y tế xã
hội, các chương trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện
phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh thành còn khó khăn, các vùng thường bị thiên
tai bão lũ.
Đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế chiếm khoảng 70% tổng đầu tư toàn xã hội
và chiếm khoảng trên 55% trong tổng đầu tư ngân sách.
Tổng đầu tư cho Giao thông vận tải và bưu điện trong 5 năm qua tiếp tục

duy trì ở mức 12% vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách
chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn ngân sách. Đã tập trung đầu tư cho hệ
thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn, đặc
biệt là ở vùng núi, vùng biên giới hải đảo. Đã hoàn thành một số đoạn đường
quan trọng trên các trục đường quốc lộ như Đường mòn Hồ Chí Minh, đồng thời
khởi công và tập trung đầu tư cho một số dự án lớn.
Đầu tư vào lĩnh vực xã hội: tỷ lệ đầu tư trong 5 năm đạt 28% tổng mức đầu
tư toàn xã hội và 43.5% vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, trong đó:
Về Giáo dục đào tạo, chúng ta đã tập trung đầu tư tạo bước chuyển biến về
giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo công nhân lành nghề,
thêm nhiều trường đại học ra đời, những trường đại học đầu ngành không ngừng
nâng cao đổi mới, đại học vùng, các trường cao đẳng và dạy nghề cũng đáp ứng
được nhu cầu lớn về học tập.
Về Khoa học và công nghệ: tập trung xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho
các cơ quan khoa học công nghệ, hạ tầng kĩ thuật về công nghệ thông tin và khu
vực công nghệ cao Hoà Lạc, khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh
viện gen Trung ương.Chúng ta đầu tư thêm nhiều trang thiết bị mới phục vụ cho
công tác nghiên cứu và ứng dụng với những ngành khoa học mũi nhọn.Cụ thể
nhiều phòng thí nghiệm trọng điểm được xây dựng, hạ tầng kĩ thuật Internet, các
trung tâm phát triển phần mềm, tin học hoá hoạt đông thông tin quản lí hành
chính Nhà nước cũng được triển khai một cách sâu rộng.Tập trung vào các
14
ngành mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu mới và công nghệ tự động hoá.
Như vậy với việc không ngừng hoàn thiện chính sách huy động vốn, hoàn
thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã huy động được khối lượng vốn đầu
tư lớn; hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình quan trọng về cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội.
Sự ra đời của các Quỹ ĐTPT đã tạo tiền đề cho việc chuyển hoá một phần
hoạt động đầu tư của Nhà nước sang cho toàn xã hội nhằm thực hiện chủ trương

“Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhà nước chỉ tập trung đầu tư vào các dự án,
chương trình quan trọng, những dự án không có khả năng thu hồi vốn, hoặc
những dự án phục vụ lợi ích cộng đồng. Đối với các dự án, chương trình gắn
liền với kinh tế xã hội theo địa bàn và có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thì việc
đầu tư sẽ được xã hội hoá thông qua các kênh khác nhau, trong đó có kênh Quỹ
ĐTPT.
Vốn trong nước từ quỹ đầu tư phát triển đã hình thành thêm một định chế
trung gian tài chính mới góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn
trong nước.
1.3. Nguồn vốn trong nước mang tính định hướng cho các nguồn vốn
ngoài nước tham gia đầu tư vào các lĩnh vực, các vùng ngành, địa phương.
Việt Nam bắt đầu chú trọng phát triển các khu công nghiệp và các khu chế
xuất xuất khẩu. Từ những năm 90, số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đầu
tư tăng lên mỗi năm. Trong 7 năm từ 2001 - 2007, có khoảng 9500 dự án với
tổng vốn đầu tư 98 tỷ USD so với
155 dự án và 1,55 tỷ USD thời kì 1999 - 2000.
Vốn của Quỹ ĐTPT đã phát huy tác dụng là nguồn vốn "mồi" để huy
động các nguồn vốn khác từ mọi thành phần kinh tế trong xã hội, tạo nên động
lực mới để thu hút các nguồn lực tài chính trên địa bàn cùng tham gia đầu tư.
Trong những năm gần đây, ngoài các tỉnh thành phố lớn như thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng...Nhà nước ta đã chú trọng tập trung vốn vào các
thành phố khác như Đà Nẵng, Bình Định, Bình Dương…khiến các tỉnh này đã
có những bước phát triển đáng kể. Bình Dương và Đà Nẵng là hai khu công
nghiệp lớn , đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và thu hút nguồn vốn
của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.4.Nguồn vốn đầu tư được sử dụng để đa dạng hóa các loại hình đầu tư:
Trước kia nguồn vốn trong nước chỉ được sử dụng chủ yếu để phát triển
các thành phần kinh tế nhà nước do nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chiếm tỉ
lệ rất lớn.
Ngày nay,với sự góp mặt của nhiều nguồn vốn mới nên các hình thức đầu

tư cũng được đa dạng hóa.ví dụ như chúng ta có thêm các loại công ty liên
15
doanh liên kết,tập đoàn.đây đều là những hình thức mới nhằm thu hút vốn nước
ngoài và tăng hiệu quả nguồn vốn trong nước
Vì nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định như vậy nên chúng ta đang
cố gắng thu hút ngày càng nhiều vốn trong nước đặc biệt là từ doanh nghiệp và
dân cư để tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hôi. Cụ thể tình hình thu hút vốn từ
các nguồn trong nước như sau:
2.Thực trạng huy động và sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
2.1.Ngân sách nhà nước:
Đối với nguồn vốn Nhà nước ta trong những năm gần đây chiếm gần 50%
vốn đầu tư toàn xã hội. Trên thực tế, đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước đã góp phần
tạo dựng và phát triển nhanh, mạnh hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực theo
hướng CNH-HĐH, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới; góp phần xoá đói giảm
nghèo và giải quyết vấn đề bức thiết của đất nước. Nguồn vốn từ Nhà nước đã
thực sự giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và thu hút các nguồn vốn khác huy động cho
đầu tư phát triển ngày càng tăng và đa dạng hơn. Công tác quản lý Nhà nước về
đầu tư phát triển, về xây dựng đã có một số tiến bộ đáng kể.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, quy mô vốn Nhà nước đã giảm
dần trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, nhưng giá trị tuyệt đối lại không
ngừng gia tăng. Đến nay, lượng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh lên đến
gần 340.000 tỷ đồng (báo cáo của Bộ Tài Chính) gấp 2 so với năm 2000. Nguồn
vốn đã được tập trung đầu tư vào những lĩnh vực quan trọng thiết yếu, tránh
được sự dàn trải.
Hiện nay đã thành lập tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước
(SCIC) với vốn điều lệ ban đầu là 5.000 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách Nhà
nước cấp 1.000 tỷ đồng, còn lại là vốn tiếp nhận từ các công ty thực hiện chuyển
giao về Tổng công ty. Đây là một trong số 19 tổng công ty và tập đoàn kinh tế
trực thuộc Chính phủ, thuộc sở hữu 100% vốn Nhà nước và được tổ chức theo

mô hình tập đoàn tài chính. SCIC có mục tiêu chính thúc đẩy cải cách các doanh
nghiệp Nhà nước và chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy
thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển ;làm đầu mối hỗ trợ các
doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ;nâng cao hiệu quả quản
lý, sử dụng và đầu tư vốn và tài sản Nhà nước, chuyển việc quản lý doanh
nghiệp có vốn của Nhà nước từ phương thức hành chính sang phương thức kinh
doanh vốn, chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn (cấp vốn không hoàn lại) sang hình
thức đầu tư tài chính vào doanh nghiệp ; có sự phân định giữa chức năng quản lý
Nhà nước của các bộ chủ quản, UBND các cấp với chức năng kinh doanh của
các doanh nghiệp ; thúc đẩy việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị
doanh nghiệp.
2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước:
16
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, qua hơn 6 năm thực
hiện, đến nay đã khẳng định tính đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế
- xã hội chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện khả năng tích luỹ
vốn của ngân sách Nhà nước, cùng với chính sách thu hút đầu tư, chính phủ đã
có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ đầu tư phát triển
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thành tựu đạt được của nguồn vốn này thể hiện ở một số mặt sau
đây:
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã góp phần tăng cường cơ sở
vật chất kĩ thuật, nâng cao năng lực của nền kinh tế. Nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số
vốn đầu tư của toàn xã hội, giai đoạn 2000-2004 đạt: 13%-14%, đến nay khoảng
20%. Khoảng 32% tổng số vốn cho vay được đầu tư vào vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn và đặc biệt kho khăn- nơi các dự án đầu tư có hiệu quả kinh
tế và khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao không hấp dẫn các nhà đầu tư và tổ

chức tín dụng. Như vậy sẽ từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển
và đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền tạo đà cho các vùng kinh tế cùng
phát triển.
- Hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế:
Về phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế: hàng nghìn km cầu đường giao thông
được làm mới và nâng cấp mở rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước nhất là vùng miền núi,vùng biên
giới hải đảo.
Phát triển các ngành sản phẩm công nghiệp trọng điểm: vốn tín dụng phát
triển của Nhà nước đầu tư cho các nhà máy đóng tàu có khả năng đóng mới
hàng chục trọng tải từ 6500 tấn đến 53000 tấn mỗi năm; Ngành đường sắt được
đầu tư đóng mới , nguồn vốn này cũng có phần tăng thêm năng lực sản xuất xi
măng, thép…
Phát triển kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn: trên 800 dự án
trong lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn được vốn tín dụng phát triển đầu tư,vì vậy
năng lực chế biến sản phẩm nông lâm thuỷ hải sản được tăng thêm, trồng mới
240 nghìn rừng nguyên liệu…Nhiều chương trình dự án vẫn đang được vốn tín
dụng phát triển của Nhà nước tiếp tục đầu tư.
- Tạo sự chuyển biến về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn
cho đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính: tổng nguồn vốn trong
nước của kênh tín dụng và phát triển của Nhà nước đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu
cầu giải ngân của các dự án đầu tư và hợp đồng xuất khẩu ..
- Giải quyết các vấn đề xã hội: vốn tín dụng đã đầu tư vào sử dụng hàng
trăm bệnh viện, trường học, trường dạy nghề, các khu nhà ở và đô thị mới. Các
17
dự án được đầu tư bằng vốn này góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu
lao động, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ sức khoẻ và nâng cao mức sốn cho
người dân, đặc biệt người dân ở khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng
Đồng Bằng sông Cửu Long.
Tình hình huy động vốn của quỹ ĐTPT tính đến hết năm 2004, nguồn vốn

hoạt động của các Quỹ ĐTPT đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng gấp gần 10 lần so với
năm 1997 và gấp 2,7 lần so với năm 2000. Trong đó, nguồn vốn chủ sở hữu
chiếm gần 40% tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ. Vốn điều lệ của các Quỹ
ĐTPT phần lớn có nguồn gốc từ ngân sách địa phương. Ngoài ra, các Quỹ cũng
tự bổ sung thêm vốn điều lệ để mở rộng hoạt động. Mặc dù nguồn vốn bổ sung
thêm còn chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10% tổng vốn điều lệ của Quỹ) nhưng đã
cho thấy nhiều Quỹ đã hoạt động có hiệu quả; nguồn vốn được bảo toàn và phát
triển. Tính đến 31/12/2004, tổng số dư các nguồn vốn huy động đạt trên 2.200 tỷ
đồng, chiếm trên 60% tổng vốn hoạt động. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn đạt
bình quân trên 40%/năm. Thực tiễn triển khai hoạt động của các Quỹ ĐTPT -
chính là quỹ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở địa phương 8 năm qua
cho thấy đây là một chủ trương đúng; cho phép giải quyết đồng thời nhiều mục
tiêu khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
2.3.Nguồn vốn từ doanh nghiệp Nhà nước:
Đây là một nguồn vốn quan trọng đang góp phần quan trọng vào sự tăng
trưởng kinh tế của nước ta. Với lợi thế nguồn lực lớn, lực lượng đông đảo, lại
hoạt động trong nhiều ngành kinh tế thiết yếu của đất nước, nguồn vốn đầu tư
của các doanh nghiệp này đã mang lại rất nhiều tác động quan trọng tới nền kinh
tế. Mặc dù tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh doanh kém hơn khối doanh nghiệp
tư nhân hay khu vực có vốn đầu tư Nhà nước nhưng rõ ràng các doanh nghiệp
Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, ví dụ như:
ngành điện, ngành đường sắt, viễn thông liên lạc…Cho dù có diễn ra cổ phần
hoá nhiều doanh nghiệp nhằm hạn chế những hoạt động kém hiệu quả và thất
thoát vốn, nhưng những thành tựu và hiệu quả hoạt động trong một số ngành
chủ chốt của nền kinh tế là không thể phủ nhận được về vai trò của nguồn vốn
này. Ví dụ :ngành điện đã đóng góp vào GDP hơn 2 tỷ USD, mặt khác nhà máy
điện đã cung cấp lượng điện thiết yếu phục vụ cho đời sống sinh hoạt của người
dân và phục vụ sản xuất. Gần đây ngành điện đã đưa vào vận hành đường dây
500 KV Bắc-Nam mạch 2, kịp thời cung cấp điện cho miền Bắc. Đồng thời đang
xây dựng 23 nhà máy điện với tổng công suất 8000 MW, trong đó có 20 nhà

máy thuỷ điện ở vùng sâu, vùng xa…góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
những vùng khó khăn.
Cùng với việc sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước
thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước
(DNNN) là khâu quan trọng. Vốn đầu tư cho các DNNN do các ngân hàng
thương mại Nhà nước cho vay chiếm xấp xỉ đến trên dưới 50%.
Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo
hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh
18
tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công
nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc
phục tình trạng lỗ và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
.4.Vốn tư nhân:
Mặc dù doanh nghiệp Nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, nhưng theo thực tế thì khu vực tư nhân lại là yếu tố quan trọng giúp
nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Điểm nổi bật về đầu tư trong 5 năm qua là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư
từ khu vực kinh tế tư nhân. Do tác động của luật Doanh nghiệp năm 1999, từ
năm 2000 đến 2005 đã có trên 160 nghìn doanh nghiệp đăng kí thành lập mới
với số vốn đăng kí khoảng 321 nghìn tỷ đồng, số doanh nghiệp tham gia thị
trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 23% về số lượng và tăng 51,7% về vốn
đăng kí; số lượng doanh nghiệp thành lập mới từ 2001-2005 bằng 2,6 lần so với
giai đoạn 10 năm từ 1991 đến 2000 cộng lại với số vốn đăng kí gấp 7,7 lần.Luật
đầu tư mới được áp dụng năm 2007 cũng tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để
các doanh nghiệp tham gia.
Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh trong nước liên tục tăng và
vượt cao hơn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Vốn đầu tư của khu vực
dân cư và tư nhân năm 2001 chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2007
tăng lên 37%.
Doanh nghiệp dân doanh đã đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu,

nhất là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản…và tạo ra
nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Với 96% doanh nghiệp dân
doanh là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đóng góp 26% tổng sản phẩm trong
nước, 8% tổng thu ngân sách Nhà nước, 31% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp,
78% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ, 64% khối lượng vận
chuyển hàng hoá và tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi có khả năng tiếp nhận 91% số lao động mới
hàng năm và số lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước, góp phần ổn định xã hội và nâng cao thu nhập của người lao động
Doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân là một bộ phận rất quan trọng của nền
kinh tế nước ta. Hiện nay Việt Nam có khoảng 230000 doanh nghiệp, trong đó
khoảng 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ của tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ
đóng góp khoảng trên 30% tổng sản lượng công nghiệp tạo ra khoảng 40% lao
động việc làm… chưa kể hợp tác xã, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên thành
doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy, bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội
vay vốn hơn từ ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có những chính sách cởi
mở thông thoáng nhằm phục vụ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn
vốn vay dễ dàng. Những động thái trên của một số ngân hàng đã thể hiện sự
thông thoáng cởi mở trong việc phát triển phục vụ các đối tượng, đồng thời
19
những tin tốt lành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang có nhu cầu rất lớn dễ
dàng tiếp cận được với nguồn vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh.
Có thể nói, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân của Việt
Nam đang ở đoạn non trẻ, thiếu vốn, thiếu trang bị kĩ thuật hiện đại so với các
doanh nghiệp tại các nước tiên tiến. Do đó việc tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ tiếp cận vốn để đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng thị
trường, nâng cao sức cạnh tranh là hết sức quan trọng.
Ngoài việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân thì phát triển mô hình hợp

tác xã là một trong những nội dung quan trọng trong phương hướng phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn 2006-2010 mà Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ X đã đề cập. Trước hết phải kể đến việc nhiều HTX đã trở thành cầu nối
kinh tế giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, góp phần tăng cường năng lực sản xuất hàng hoá khu vực nông
nghiệp, nông thôn và kinh tế hộ sản xuất. Các hợp tác xã nông nghiệp trong thời
gian qua đã thực hiện tốt vai trò khuyến nông, dịch vụ thuỷ lợi, bảo vệ thực vật,
trông coi đồng ruộng và an ninh ở nông thôn…Nhìn chung các HTX nông
nghiệp đã đóng vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp,
đưa giá trị sản xuất bình quân ở phía Bắc từ 22 triệu đồng lên 37 triệu đồng/ha/
năm. Với định hướng phát triển mô hình hợp tác xã chủ yếu tập trung vào phát
triển công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là công nghiệp chế biến… yếu tố quan trọng
để thúc đẩy mô hình phát triển đó chính là chính sách về vốn.
Theo báo cáo của Cục HTX&PTNT, năm 2005, gần 4450 HTX hoạt động
có lãi, chiếm tỷ lệ 77% tổng số HTX, tăng 8% so với 2002. Mức lãi bình quân
của mỗi HTX là 24,5 triệu đồng. Tuy con số lãi còn hết sức khiêm tốn, nhưng
cho thấy hơn 2/3 số HTX đã hoạt động có lãi và bảo toàn được vốn.
Cũng trong thời gian qua số HTX tín dụng tiếp tục tăng và hoạt động có
hiệu quả, với hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân hoạt động theo mô hình mới, vừa
hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng, vừa hoạt động theo Luật HTX.
Ngoài các nguồn vốn đã nói trên thì nguồn vốn có được từ sự đầu tư về
nước của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thời kỳ đổi mới cũng là một
nguồn vốn quan trọng tác động đến nền kinh tế - xã hội của nước ta.với Luật
Khuyến kích đầu tư trong nước, với số vốn của Việt Kiều đăng kí trên 5000 tỷ
đồng, trong đó có một số dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Để
triển khai dự án đầu tư, các chủ đầu tư đã thành lập doanh nghiệp dưới 3 loại
hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Lĩnh
vực đầu tư kinh doanh của doanh nhân Việt Kiều chủ yếu là thương mại dịch vụ
(chiếm 58% dự án), lĩnh vực sản xuất ( chiếm 25% dự án). Đối với ngành công
nghiệp xây dựng chỉ chiếm 5% do đòi hỏi vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn dài. Các

doanh nghiệp đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài của người Việt Nam định cư
ở nước ngoài đi vào hoạt động đã tạo ra doanh thu bình quân trên 40 triệu
USD/năm, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của nước ta trung bình trên 20
triêu USD/năm. Bên cạnh đó, cho đến nay các dự án này của Việt kiều đã tạo ra
việc làm cho hơn 7 nghìn lao động trong nước. Ngoài đầu tư như trên thì còn có
20

×