Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.94 KB, 64 trang )

Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ ngày 11/01/2007 Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Khi ra nhập tổ chức này nguyên tắc được áp
dụng với các nước thành viên là không phân biệt đối xử giữa các quốc gia và
giữa nhà đầu tư trong nước với nước ngoài, tham gia vào một sân chơi quốc
tế có những thuận lợi và cũng có nhiều thách thức cho sự phát triển của mỗi
quốc gia.Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, sự phát triển của
khoa học và công nghệ đang dần kéo dài khoảng cách các nước phát triển
với các nước đang phát triển. Vì thế để có thể rút ngắn khoảng cách với các
nước phát triển tránh tụt hậu thì đòi hỏi Việt Nam phải đi tắt đón đầu, nhanh
chóng tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước tận dụng mọi nguồn
lực cả bên trong lẫn bên ngoài để phát triển.
Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay trung bình là 7,5%/năm và
tốc độ tăng trưởng dân số 1,8%/năm, để phấn đấu đến năm 2020 nâng mức
thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi hiện nay tức là ở mức 2000 USD
một người/một năm thì đòi hỏi phải bổ sung nguồn vốn để đầu tư phát triển
là 126 tỷ USD, hơn GDP hiện tại ở mức 86 tỷ. Nhìn vào con số trên ta thấy
với tích lũy nội bộ tối đa cũng không đủ đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho đầu tư
phát triển vì thế chiến lược trong dài hạn là làm sao để thu hút nguồn vốn
nước ngoài.
Vấn đề đặt ra làm thế nào để huy động được nguồn vốn to lớn đó,
nghiên cứu khía cạnh của mối quan hệ nhân quả “nguồn vốn càng được sử
dụng có hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn” nên nhóm em đã chọn đề
tài “Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài” để
làm rõ sự tác động qua lại giữa hai nguồn vốn để từ đó thấy được vai trò của
từng loại vốn và mối quan hệ giữa chúng cũng như những giải pháp quản lý
và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn, góp phần tạo cái nhìn tổng quát về
hai nguồn vốn này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn
PGS. TS Từ Quang Phương


TS. Phạm Văn Hùng
đã tận tình hướng dẫn giúp chúng em hoàn thành tốt bài tập.
Bài làm không tránh khỏi những thiếu sót kính mong thầy
giáo và các bạn góp ý để chúng em hoàn thiện bài viết.
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 1
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ BẢN CHẤT CỦA NGUỒN VỐN
ĐẦU TƯ
1. Khái niệm:
1.1 Vốn đầu tư:
Là nguồn lực tích luỹ được của xã hội, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch
vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới các dạng
tiền tệ các loại hoặc hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình và hàng hoá đặc
biệt khác.
1.2 Nguồn vốn đầu tư:
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện
dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát
triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân
phối vốn đầu tư cho phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước
và của xã hội.
2. Phân loại:
Đứng dưới góc độ vĩ mô, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu
tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước:
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy nội bộ của toàn bộ nền
kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái
sản xuất xã hội. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm
nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.

2.1.1 Nguồn vốn nhà nước:
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu
tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 2
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách
Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường
được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ
trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của
Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội,
định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều
chỉnh đời sống xã hội.
Ngân sách nhà nước có vai trò điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy
phát triển kinh tế. Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành
cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc
quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền
kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu
kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí
đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các
ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự
ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể
thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt
động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình

thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để
chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh
không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong
ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc
chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc
huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực
hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 3
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Bên cạnh đó, nguồn vốn này còn góp phần giải quyết các vấn đề
xã hội.Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có
hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức
trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách
dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
Ngoài ra còn góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình
ổn giá cả thị trường hàng hoá. Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng
quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết
thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia.
Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của
chính phủ. Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính
sách tiền tệ thích hợp ngân sách nhà nước góp phần điều tiết thông qua chính
sách thuế và chi tiêu của chính phủ.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền
kinh tế quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở
rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên,
bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước…). Đi cùng với sự mở rộng
quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước
cũng gia tăng đáng kể. Tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn
2001-2005 tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước

hàng năm tăng bình quân hàng năm đạt gần 23% GDP. Nguồn thu ổn định
từ sản xuất trong nước đã bước đầu dần dần tăng. Tổng chi ngân sách nhà
nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước bình quân bằng
28% GDP. Trong đó chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2% tổng chi
ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Trong những năm tiếp theo, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có xu hướng
gia tăng về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về tỉ trọng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá
trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng
đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như
trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử
dụng như một công cụ quản lý điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn
1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị
trí quan trọng trong chính sách đầu tư của nhà nước.
Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước mới chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 2001-2005
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 4
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín
dụng đầu tư của nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và
phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích
cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với
cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc
hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư,
sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là
một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương
thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ

công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu
tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế ngành, vùng,
lĩnh vực theo chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ
mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn
thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng nguồn vón
tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn,
giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn
tín dụng đầu tư và phát triển của nàh nước có tác dụng rất tích cực trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước: Nguồn vốn này
chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh
nghiệp nhà nước. Theo bộ kế hoạch và đầu tư, thông thường nguồn vốn của
doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14-15% tổng số vốn đầu tư toàn xã
hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị,
hiện đại hóa day chuyền công nghệ của doanh nghiệp.Được xác định là
thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm
giữ một khối lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng
đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với
sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng
được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia
tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
2.1.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 5
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,
phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo ước tính
của bộ kế hoạch và đầu tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân
doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong đó phần tiết kiệm của dân

cư tham gia gián tiếp vào đầu tư vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25%
tổng tiết kiệm của dân cư; phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực
tiếp khoảng 5% GDP và bằng 33% số tiết kiệm được. Trong giai đoạn
2001-2005, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn
đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục gia
tăng cả về quy mô và tỷ trọng.
Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của khu vực tư nhân và hộ gia
đình có vai trò đặc biết quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Trong 20
năm thực hiện chính sách đổi mới, nhà nước liên tục hoàn thiện các chính
sách nhằm tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế hộ gia
đình mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và phát triển đan xen, hỗn hợp các hình thức
sở hữu trong nền kinh tế. Với Luật Doanh nghiệp thống nhất (2005) và Luật
đầu tư chung (2005) chính thức có hiệu lực từ giữa năm 2006, các tầng lớp
dân cư và khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục được khuyến khích, động viên
đại bộ phận tích lũy cho đầu tư phát triển.
Với khoảng vài trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh (doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã) đã, đang và
sẽ đi vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng
góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Bên cạnh đó, nhiều hộ
gia đình cũng đã trở thành đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Ở mức
độ nhất định, các hộ gia đình cũng là một trong những kênh tập trung và
phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Nguồn vốn trong dân cư còn phụ thuộc vào tu nhập và chi tiêu của các
hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: Trình độ phát
triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy
mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp); Tập quán tiêu dùng của dân cư; Chính sách động
viên của nhà nước thông qua các chính sách thuế thu nhập và các khoản
đóng góp của xã hội.

2.2. Nguồn vốn nước ngoài:
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 6
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm bộ phận tích lũy của cá
nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể
huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn
đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (International Capital Flows). Về thực
chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao
nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu
chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát
triển thường được các nước có thu nhập thấp đặc biệt quan tâm. Dòng vốn
này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và
điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu
chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - Official Development
Finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -
Offical Development Assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó,
ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. Vì vậy, khi đề cập đến
nguồn tài trợ phát triển chính thức chỉ đề cập đến nguồn ODA
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2.2.1. Nguồn vốn ODA:
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và
các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát
triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất
cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời
hạn cho vay dài, khối lượng cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố
không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.

Yếu tố không hoàn lại ( thành tố hỗ trợ) của từng khoản vay được xác
định dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần
trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Công thức tính hệ số thành tố tài trợ
(GE) như sau:
GE = 100% [1 –
d
ar
][1 -
)(
)1(1)1(1
aGaMd
dd
aMaG

+−+
]
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 7
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Trong đó:
r- Tỷ lệ lãi suất hàng năm
a- Số lần trả nợ trong năm
d- Tỷ suất chiết khấu
G- Thời gian ân hạn
M- Thời hạn cho vay
Trong thời gian qua, việc thu hút ODA phục vị cho sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước
và quốc tế có nhiều thuận lợi. Kể từ năm 1993 đến hết năm 2006, Việt Nam
đã tổ chức được 14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng mức vốn
cam kết hơn 36 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay Việt Nam
có trên 45 đối tác hợp tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quố tế

và phi chính phủ đang hoạt động.
Trong số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm cả viện trợ không hoàn
lại chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi. Số vốn
ODA cam kết này được sử dụng trong nhiều năm, tùy thuộc vào các chương
trình và dự án cụ thể. Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA, Chính
phủ Việt Nam đã định hướng nguồn vốn ODA ưu tiên cho các lĩnh vực giao
thông vận tải; phát triển hệ thống nguồn điện, mạng lưới chuyển tải và phân
phối điện; phát triển nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy
sản, lâm nghiệp kết hợp xóa đói giảm nghèo; cấp thoát nước và bảo vệ môi
trường; y tế, giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ, tăng cường năng
lực và thể chế…
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ
2006-2010, Chính phủ Việt Nam tích cực chủ trương huy đọng mọi nguồn
vốn trong đó nguồn vốn ODA vẫn tiếp tục đóng vị trí quan trọng. Tổng
nguồn vốn ODA thực hiện dự kiến khoảng 11-12 tỷ USD trong 5 năm
2006-2010 chiếm khoảng 80% tổng vốn ODA cam kết.
Khi xem xét trên góc độ nguồn vốn đầu tư, ODA là một trong những
nguồn vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này,
một phần vốn ODA có thể đưa vào ngân sách đáp ứng mục tiêu chi cho đầu
tư phát triển của nhà nước, một phần có thể đưa vào các chương trình tín
dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước và một phần có thể vận hành theo các dự
án độc lập. Theo ước tính phần chuyển vào ngân sách nhà nước chiếm
khoảng 15% tổng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi
kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án,
thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 8
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài
chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng

nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Tức là ngoài những yếu tố thuộc về nội dung
dự án tài trợ, còn cần có phương pháp thoả thuận để vừa có thể nhận vốn,
vừa bảo đảm được những mục tiêu có tính nguyên tắc.
2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế:
Đây là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay từ các ngân hàng thương
mại quốc tế với một mức lãi suất nhất định. Sau một thời gian, các nước này
phải hoàn trả cả vốn và lãi, các ngân hàng thương mại quốc tế sẽ thu được
lợi nhuận từ lãi suất của khoản vay.
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với
nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn
với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với
nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt,
mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận
trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường
thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng
thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và
thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để
đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng
của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay
là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn
khá hạn chế.
2.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với
các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển.
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn
vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ
cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận
được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước

nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những
ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 9
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu
tư .
Không những là nguồn vốn bổ sung quan trọng, đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện
cái cân thanh toán quốc tế. Ngoài ra đóng góp cho ngân sách nhà nước của
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kể ( hàng năm khu
vực kinh tế này đã nộp ngân sách nhà nước hàng tỷ USD).
2.2.4. Thị trường vốn quốc tế:
Là nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới, bằng
việc bán trái phiếu, cổ phiếu của chính phủ, các công ty trong nước ra nước
ngoài.
Nguồn vốn này có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài
để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các
điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn
trong các quan hệ khác. Bên cạnh đó còn tạo điều kiện cho nước tiếp nhận
vốn tiếp cận với thị trường vốn quốc tế .
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị
trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế
các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên
phạm vi toàn cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua
thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Trong những năm gần đây
dòng vốn này đã và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng.
3. Bản chất của vốn đầu tư:
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm
hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái

sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học
Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại
diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm
là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ
cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”.
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 10
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan
hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên
quan đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai
khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu
tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m)
trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi
đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất
xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của
khu vực II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I
không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu
vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong
quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn,
nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy

mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy
mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I,
đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác
phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm
tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác,
con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát
triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay
nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được
đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà
kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng
quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 11
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được
chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là
phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
Hay: (I) = (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính
song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là
người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán
hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm
sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất

khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản
xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với
tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng
lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế
đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu
vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu
tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành
bởi cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh
nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia
đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh nghiệp lại thực hiện đầu tư
khi chưa hoặc tích luỹ chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham gia giải
quyết vấn đề bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời
dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát
hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định, theo quy
trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó từ các doanh
nghiệp, hộ gia đình hay các cá nhân - người dư thừa hoặc tạm thời dư thừa
vốn.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế
không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể
lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang
cho nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế
có thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 12
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
nước ngoài. Trong trường hợp này, mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư
được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích

luỹ nội bộ nền kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động
vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở
thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu
tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện
thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài
hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền
kinh tế.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG
NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI
2. Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài.
Sau khi tiến hành cải cách nền kinh tế năm 1986 nền kinh tế
Việt Nam dần mở cửa để cho nền kinh tế phát triển theo quy luật vốn có của
nó-nền kinh tế thị trường cũng là lúc các nhà đầu tư nước ngoài thăm dò và
bắt đầu bỏ vốn để đầu tư vào Việt Nam. Kể từ đó đến nay nguồn vốn từ
nước ngoài đổ vào ngày càng nhiều mặc dù có giai đoạn giảm sút. Việt Nam
đã huy động một khối lượng vốn rất lớn từ bên ngoài để phát triển kinh tế-xã
hối có thời kì hoạt động của nguồn vốn bên ngoài còn đóng góp nhiều hơn
so với nguồn vốn trong nước vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nhưng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một quốc gia, nguồn vốn
trong nước và nguồn vốn nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ, bổ sung cho
nhau trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và nguồn vốn
đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng không thể thiếu
1. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định:
1.1 Vốn trong nước với vấn đề phát triển kinh tế
Vốn trong nước luôn được coi là nội lực, bệ phóng cho phát triển nền
kinh tế
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 13
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Vốn trong nước với là nguồn đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho phát
triển kinh tế. Bên cạnh đầu tư nước ngoài, vốn trong nước dành cho tái đầu

tư, mở rộng quy mô phát triển cũng như thành lập thêm những mảnh ghép
quan trọng của nền kinh tế luôn được đặc biệt quan tâm và chiếm tỷ lệ cao.
Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Với việc vốn trong nước
được đưa vào tái đầu tư, nó góp phần tăng GDP theo hệ số nhân tiền, với
việc vốn trong nước dành cho phát triển kinh tế ngày càng cao, đồng nghĩa
với việc đóng góp vào GDP của nguồn vốn này ngày càng lớn.
Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay
đổi cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc
gia tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều. Các doanh nghiệp nhà nước
là hạt nhân trong vai trò này. Khi các doanh nghiệp nhà nước được coi là
xương sống của nền kinh tế, việc thành lập, đưa vào hoạt động cũng như
định hướng phát triển cho các doanh nghiệp nhà nước đóng góp rất tích cực
cho vai trò này.
Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn
diện, không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền
kinh tế tăng trưởng, phát triển mộtc cách bền vững. Việc nhà nước dành vốn
để đầu tư phát triển cho các khu vực còn khó khăn, hay cân đối nguồn vốn
giữa các vùng thể hiện rất rõ vai trò này.
Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế,
đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc huy động vốn trong xã hội, mà chủ
yếu là từ khu vực tư nhân và dân cư an toàn hơn nhiều so với việc in tiền
hay vay từ nước ngoài bởi nó hạn chế được lạm phát hay nguy cơ nợ nước
ngoài, cũng theo hướng này, tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
được đẩy nhanh, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình
độ nhất định tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng
như tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài, tạo nền tảng vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do việc

Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 14
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
xây dựng cơ sở hạ tầng yêu cầu vốn lớn và thời gian đầu tư dài, nên việc nhà
nước dùng vốn trong nước, chủ yếu là ngân sách nhà nước để hoàn thiện cơ
sở hạ tầng là một trong những vai trò quan trọng.
Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt
tiêu cực của nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thởi tạo dựng một
khung xương vững chắc cho nền kinh tế, chống lại những cơn sóng gió từ thị
trường kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2 Vốn trong nước với các vấn đề xã hội
Nguồn vốn trong nước góp phần tích cực trong công cuộc xóa đói
giảm nghèo, đảm bảo an sinh và công bằng xã hội.
Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm
giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Các
chương trình 134,135 của chính phủ. Đảm bảo an sinh và công bằng xã
hội đầu tư vào những khu vực khó khăn để vực dậy nền kinh tế của khu
vực đó tạo công ăn việc làm,cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc
sống,khắc phục thiên tai,bệnh dịch và thực hiện cứu trợ xã hội... Đầu
thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, do đó bên cạnh
việc được hỗ trợ từ bên ngoài, việc tích cực sử dụng và sử dụng thông
minh nguồn vốn trong nước là một vấn đề mang tính quyết định hiệu quả
của công cuộc này.
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự góp phần chuyển dịch cơ
cấu của nền kinh tế Việt Nam từ tập trung sang nền kinh tế thị trường, đồng
thời nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp.
Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; mở ra nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới đa dạng, phong
phú, đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ cho nhà nước; đã dẫn

nhập những công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào việc phát triển
kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động,…
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 15
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài tăng bền vững ở tất cả các địa phương trong cả nước, góp phần
thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam trong một số ngành
kinh tế quan trọng của đất nước như viẽn thông, khí hoá dầu, tin học, ô tô...
Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài còn có tác động lan toả đến các
thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế thông qua sự liên kết doanh
nghiệp.
Trong 20 năm qua, đầu tư nước ngoài cũng đã đem lại cho Việt Nam
những cơ hội được tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới. Nhờ đó năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp
Việt Nam cũng được nâng lên.
Đóng góp quan trọng dễ thấy nhất đó là tăng cường nguồn vốn đầu tư
cho tăng trưởng.
Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một trong những kênh
chủ yếu, có tính đột phá để nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực
vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by doing), nhờ đó đã hình
thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề khá
cao.
Đẩy mạnh xuất khẩu cũng là đóng góp nổi bật, thể hiện rõ nét vai trò
của FDI trong suốt 20 cải cách kinh tế vừa qua.
Nhìn chung, đầu tư nước ngoài đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Các dự án đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi
dần đời sống sản xuất, kinh doanh của địa phương, có tác dụng kích thích
sản xuất của các thành phần kinh tế khác phát triển. Bên cạnh đó, kết quả
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng khả quan

trong năm 2003 và được Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
đánh giá là “… Có sự chuyển biến mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng cao hơn
các thành phần kinh tế khác”. Cụ thể, năm 2003, doanh thu của khu vực này
đạt 16 tỉ USD, tăng hơn 30% so với năm trước, trong đó riêng doanh thu
xuất khẩu đạt 6,3 tỉ USD, chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhờ những kết quả trên nên khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng
14,3% GDP cả nước. Trên 4.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
tạo việc làm ổn định cho khoảng 700 ngàn lao động trong nước, chưa kể
những lao động gián tiếp tại các vùng nguyên liệu trên phạm vi toàn quốc.
Các dự án đầu tư nước ngoài đã khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng,
làm thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương cũng như vùng lãnh thổ, tạo cơ hội
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 16
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
đẩy mạnh sự hợp tác, liên kết kinh tế trong phạm vi tỉnh, thành phố. Năm
2003, một số địa phương đã tăng cường xúc tiến đầu tư với hoạt động xúc
tiến trực tiếp ở cả trong, ngoài nước và thu được những kết quả tích cực, như
Nghệ An, Quảng Nam, Bình Dương…
Tạo việc làm cũng là đóng góp quan trọng, không thể phủ nhận của
khu vực Đầu tư nước ngoài.
Khi đầu tư vào Việt Nam, khu vực đầu tư nước ngoài đã thành lập ra
rất nhiều việc làm ở các lĩnh vực mà nó đầu tư vào, trong đó nhiều lao động
đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Mặc dù so với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thì số việc làm được tạo ra còn hạn chế, nhưng “chất lượng” của lực
lượng lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài tốt hơn rõ rệt. Nhiều cán
bộ, công nhân trong khu vực này đã và đang là những “hạt nhân” để phát
triển lực lượng lao động trình độ, tay nghề cao của Việt Nam. Thêm vào đó,
số việc làm tạo ra nhờ hiệu ứng lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài cũng
có thể là một con số đáng kể.
Mặt khác, trong suốt 20 năm qua, vốn đầu tư nước ngoài đã đóng
góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước cũng như đưa vào ngân

sách đáp ứng mục tiêu chi cho đầu tư phát triển của nhà nước.
Đầu tư nước ngoài góp phần phát triển thương hiệu quốc gia
Nhận thức được rõ ràng vai trò quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài
đối với nền kinh tế, việc tìm cách thu hút nguồn vốn này cho phát triển kinh
tế càng quan trọng.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, khi quyết định đầu tư vào một quốc
gia nào thì đó không chỉ đơn thuần là nơi đặt nhà máy sản xuất mà quốc gia
đó còn đem lại những lợi thế về sản phẩm do nhận thức về hình ảnh và tên
tuổi của đất nước nơi đặt nhà máy đem lại cho nhà đầu tư.
Vì thế, phát triển một thương hiệu quốc gia để thu hút vốn đầu tư từ
nước ngoài là một công việc rất quan trọng, đặc biệt là đối với những nước
đang phát triển như Việt Nam.
Chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần nằm trong một kế
hoạch tổng thể xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia. Phát triển
thương hiệu quốc gia dành cho vốn đầu tư nước ngoài là các hoạt động xúc
tiến nhằm tạo ra một hình ảnh hấp dẫn về một quốc gia như là một địa điểm
đầu tư lý tưởng.. Do đó, phát triển thương hiệu vốn đầu tư nước ngoài
thường được những cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia chịu trách nhiệm thực
hiện để cung cấp thông tin cho những nhà đầu tư tiềm năng và cung cấp dịch
vụ cho những đầu tư tương lai. Phát triển thương hiệu quốc gia để thu hút
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 17
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
vốn đầu tư nước ngoài không phải là một công việc mới mẻ, nhưng tiến trình
này chỉ trở nên mạnh mẽ hơn khi quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra sự tăng
trưởng chưa từng có các nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ những nước phát
triển và đang phát triển. Phát triển thương hiệu quốc gia cho nguồn vốn này
có tính bền vững hơn so với các công cụ khác để thu hút vốn nước ngoài như
các chính sách ưu đãi về thuế, đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ của chính phủ,
xây dựng các khu chế xuất.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, đảm

bảo cho nhu cầu ngoại tệ của đất nước, nâng cao năng lực xuất nhập
khẩu, đầu tư ra nước ngoài và trả nợ, tạo đà tăng trưởng vả phát triển.
Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn, có phải đơn thuần chỉ là tăng
thêm về lượng???
Như chúng ta đã biết, đầu tư phát triển là một điều sống còn trong thời
đại ngày nay, chỉ có đầu tư phát triển và mở rộng sản suất thì mới có thể có
khả năng tồn tại và phát triển trong thời đại này, và không chỉ có đầu tư
trong nước mà các doanh nghiệp còn vươn cánh tay của mình ra nước
ngoài.Trong phạm vi của đề tài này thì chúng ta chỉ xem xét tới ảnh hưởng
của hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài đối với các nước tiếp nhận
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào.
Đầu tiên chúng ta có thế thay ngay được rằng, nguồn vốn nước ngoài
làm gia tăng nguồn vốn của toàn xã hội, xét về mặt số lượng thì hai nguồn
vồn này cộng lại với nhau thành 1 nguồn lực lớn hơn. Tuy nhiên, dưới góc
độ kinh tế thì chúng ta không chỉ đơn thuần xem xét về mặt số lượng mà
chúng ta còn phải tìm hiểu sự tương tác giữ hai nguồn vốn, khi nào chúng bổ
sung, hỗ trợ cho nhau, và khi nào chúng kìm hẫm nhau, làm cho nền kinh tế
bị ảnh hưởng và lâm vào tình trạng khó khăn?? Liệu rằng vốn đầu tư nước
ngoài có thể thay thế cho vốn trong nước hay chỉ là sự bổ sung để tạo xung
lực phát triển??? Phần này chúng ta sẽ giải quyết để làm sáng tỏ những câu
hỏi đó.
Xét trên phép tính ban đầu, chúng ta có ba trường hợp:
1+1=2: Đây không chỉ là sự kết hợp về mặt số lượng mà còn thể hiện sự
riêng rẽ về tác động của 2 nguồn vốn. Điều này chứng tỏ việc chưa có sự
tương tác giữa 2 nguồn vốn, đây là trường hợp rất hiếm gặp và thường khó
xảy ra trong thực tế, thực chất điều này chỉ đúng khi xét về số lượng, còn hai
nguồn vốn trong nước và nước ngoài thực tế luôn vận động và tương tác,
ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên điều này có thể đúng với giai đoạn đầu trong
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 18
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài

quá trình vốn nước ngoài mới được chuyển vào các nước đang và chậm phát
triển, lúc này thì vốn nước ngoài chưa kịp phát huy tác hết tác dụng của
mình.
1+1>2: Khi hai nguồn vốn tương tác với nhau đã thúc đẩy sự hỗ trợ
phát triển giữa hai nguồn vốn tạo thêm các giá trị gia tăng tích cực, thể hiện
qua:
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu vốn cho tăng trưởng
và phát triển là rất lớn, tuy nhiên tiềm lực về kinh tế tài chính lại có hạn, vì
vậy việc có thêm nguồn vốn ngoài nước là khá quan trọng, góp tăng tổng
vốn đầu tư cho toàn xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Một khi
hiểu, nắm rõ và vận dụng hiệu quả mối quan hệ hữu cơ giữa hai nguồn vốn
này, sẽ góp phần làm gia tăng của cải của quốc gia đó. Điều này được thể
hiện qua các khía cạnh cụ thể như:
Góp phần làm tăng tính đa dạng của trong các loại hình doanh nghiệp.
Bên cạnh những doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân còn có thêm các doanh
nghiệp liên doanh với nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tức là việc xuất hiện nhiều loại hình doanh nghiệp mới và nhiều lĩnh vực,
thành phần kinh tế mới ra đời ra môi trường kinh doanh cạnh tranh, buộc các
doanh nghiệp trong nước phải gia tăng khả năng cạnh tranh của mình để có
thể tồn tại và phát triển khi phải đối đầu với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài có lợi thế hơn về nhiều mặt. Việc xuất hiện nhiều loại hình
doanh nghiệp với các hình thức sở hữu vốn khác nhau phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam. Phát triển kinh doanh đa
dạng linh hoạt cũng góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
trong nước: nhiều mặt hàng,dịch vụ mới ra đời đáp ứng đòi hỏi ngày càng
cao của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, hai nguồn vốn có tác động với nhau và tác động tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế: nhanh chóng, đúng hướng và ngày càng hoàn chỉnh.
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội được đầu tư nâng cao hơn .
Ngoài ra mối quan hệ giữa hai nguồn vốn còn góp phần thúc đẩy phát

triển năng lực khoa học công nghệ cho quốc gia, đặc biệt là qua các dự án có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạo cú hích cho khoa học công nghệ:thông
qua việc chuyển giao công nghệ. Điều này thể hiện ở việc chuyển giao công
nghệ tiên tiến, đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực. Các doanh nghiệp
trong nước, muốn cạnh tranh được cũng buộc phải học hỏi, nâng cao các
năng lực này của mình. Nhờ đó góp phần tạo ra một nền khoa học công nghệ
tiên tiến cho quốc gia cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 19
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội được đầu tư nâng cao hơn:những
nguồn vốn vay ưu đãi của nước ngoài giúp Chính phủ đầu tư tốt hơn cho cơ
sở hạ tầng,và giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội.
Khi nhận thức rõ ràng về mối quan hệ tích cực giữa hai nguồn vốn, sẽ
góp phần sử dụng hiệu quả và có chất lượng, điều này góp phần nâng cao vị
thế của quốc gia trên trường thế giới cũng như uy tín của thương hiệu quốc
gia.
1+1<2: Đây là khi 2 nguồn vốn trong và ngoài nước kìm hãm nhau phát
triển, thậm chí gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế xã hội của một quốc
gia. Về điểm này thì có lẽ là ít người nghĩ tới, vì đó chính là mặt trái của vốn
đầu tư nước ngoài. Với tâm lí chuộng hàng ngoại, nhất là với các nước đang
và chậm phát triển khi mà nhận thức cuả người dân còn chưa cao thì tâm lí
sính ngoại là điều đương nhiên, nhất là trong thời kì hôi nhập và phát triển
như ngày nay.
Thế nên vốn nước ngoài cũng như được bao phủ xung quanh bởi một
lớp hào nhoáng như vậy, nhưng dưới con mát của các chuyên gia kinh tế thì
nó cũng đã bộc lộ không ít những nhược diểm và những nhược điểm của nó
ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn trong nước.
Thứ nhất: là vấn đề vốn đối ứng. thông thường để vốn đầu tư nước
ngoài muốn phát huy tác dụng cần có một tỉ lên vốn đối ứng trong nước
thích hợp. Tỉ lệ này khác nhau tùy theo ngành và mức độ kĩ thuật mà vốn

nước ngoài rót vào. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn nước ngoài thì trong
nước cũng cần phải chuẩn bị một số cơ sở nhất định tạo điều kiện cho vốn
nước ngoài phát huy được hiệu quả . Về mặt kĩ thuật thì có thể đưa ra một tỉ
lệ xác định giữa vốn nước ngoài và vốn đối ứng. Tính tương đồng về những
yêu cầu đầu tư trên nhưng nét cơ bản giữa các nước đang phát triển cho
phép, từ kinh nghiệm quốc tế , xác định trên đại thể tỉ lệ này trong từng giai
đoạn cụ thể.
Trong giai đoạn đầu do nhu cầu vốn nghiêng về đầu tư cho hệ thống cơ
sở hạ tầng và phát triển nông nghiệp, tỉ lệ này thường là thấp( 1 đồng vốn
nước ngoài cấn 1-1,5 đồng vốn trong nước). Ở giai đoạn sau, khi các chương
trình đấu tư nghiêng về các ngành công nghiệp chế biến, có hàm lượng vốn
và kĩ thuật cao thì tỉ lệ này thường tăng lên ( 1/ 1,5- 2,5)
Nói chung đây là những tỉ lệ bắt buộc về mặt kĩ thuật. nó đòi hỏi phải
đáp ứng đầy đủ nếu không muốn làm giảm hiệu quả đàu tư của vốn nước
ngoài.
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 20
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
Khi phân tích kinh nhiệm của hàng loạt các nước đang phát triển, người
ta nhận thấy rõ rang không phải cứ một quốc gia cứ vay mượn nhiều vốn
nước ngoài thì đều đạt mức tăng trưởng cao. Chân lí thực tiễn ở đây dường
như ngược lại: đa số các nước vay mượn nhiều nhất đều không đạt tốc độ
tăng trưởng tương xứng, thậm chí còn bị suy thoái và quá tải vì nợ. Một lí do
hiển nhiên là các nước này không bảo đảm được tương quan hợp lí giữa vốn
vay nước ngoài và vốn đối ứng trong nước. Kết quả tất yêu hoặc là hiệu quả
vốn đầu tư sản xuất rất thấp, hoặc là phải chuyển một phần lớn vốn vay sang
đầu tư tiêu dùng( nhập khẩu hàng tiêu dùng). Với mô hình phát triển hướng
nội, thúc đẩy sản xuất thay thế nhập khẩu, nói chung nền kinh tế dễ sa vào
khuynh hướng huy động và sử dụng vốn nước ngoài theo kiểu này.
Ở nước ta ngay trong thời bao cấp, đã trả giá không ita cho việc rút ra
bài học này khi tiếp nhận và sử dụng viện trợ từ các nước bạn.

Vấn dề đặt ra ở đây là cần phải chuẩn bị nguồn vốn đối ứng đủ khi đặt
chương trình vay mượn quốc tế và thu hút rộng rãi đậu tư nước ngoài vào
trong nước. Nhiệm vụ có liên quan là xác định rõ lịch biểu (tiến độ) vốn
chảy vào để có thế có các giải pháp huy động vốn trong nước kịp thời. Các
giải pháp này bao gồm trong cơ chế kích thích tiết kiệm và huy đông vốn tập
trung qua ngân hàng. Chúng liên quan tới toàn bộ hệ thống điều tiế vĩ mô
thông qua các công cụ tiền tệ.
Kinh nghiệm tạo vốn đối ứng của các nước châu Á nói chung là rất hữu
ích và đa dạng dồi với những nước đi sau như chúng ta. Những giải pháp ấy
chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn trong phần sau của đề tài.
Thứ hai: Nợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách. Ở phần trên chúng ta
vừa nghiên cứu và chỉ ra rằng vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn để trang
trải và bù đắp sự thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên ở phần này thì ta lại nêu ra
một quan điểm mới rằng vốn đầu tư nước ngoài có thể gây nợ, điều đó là
đương nhiên, nhưng tại sao lại gây thâm hụt ngân sách- điều ngày có đúng
không, chúng ta hãy cùng nghiên cứu.
Xét với nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) dù có điều kiện ưu đãi
cao nhất, cho đến các khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị
trường tài chính quốc tế thì nghĩa vụ nợ (bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng
luôn luôn đặt ra cho người vay. Một cơ cấu nợ mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là
những khoản vay thương mại “nóng”, lãi cao, và bằng những ngoại tệ không
ổn định theo xu hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những xung lực lạm phát
mạnh. Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không được quản lý
tốt và sử dụng có hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản
vay mới, với những điều kiện có thể ngặt nghèo hơn – chiếc bẫy nợ sập lại,
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 21
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
con nợ rơi vào vòng xoáy mới: Nợ-vay nợ mới-tăng nợ-tăng vay… Vòng
xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy lạm phát: Nợ-tăng
nghĩa vụ nợ-tăng thâm hụt ngân sách-tăng lạm phát. Lúc này dịch vụ nợ sẽ

ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã hội, làm
căng thẳng thêm trạng thái khát vốn và hỗn loạn xã hội. Hơn nữa, việc “thắt
lưng buộc bụng” trả nợ khiến nước nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất, trong
đó có hàng tiêu dùng mà trong nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân
đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát. Nợ nước ngoài có thể làm sụp đổ cả
một chính phủ, nhất là ở những nơi tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm
là phổ biến của giới cầm quyền, đi kèm với việc thiếu những giải pháp xử lý
mềm dẻo khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ, đổi nợ thành đầu tư, đổi
cơ cấu và điều kiện nợ, xin xoá nợ từng phần…). Do vậy, sự chủ động và
tỉnh táo khống chế nợ ở mức độ an toàn, theo những dự án đầu tư cụ thể,
được luận chứng kinh tế – kỹ thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám
sát của chủ nợ để tránh hao hụt do tham nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích
là những nguyên tắc hàng đầu cần được tuân thủ trong quá trình vay nợ nước
ngoài.
Như vậy thì lúc này, vốn nước ngoài không những không tạo ra tích
lũy đẻ tăng vốn đầu tư trong nước và còn làm cho ngân sách của nhà nước bị
thâm hụt co nghĩa vụ trả nợ. Thường thì dối với các khoản vay ODA, thời
gian ân hạn và gia hạn thường dài nên các nước đang và chậm phát triển
trong ngắn hạn đều muốn thu hút và vay thật nhiều, điều đó làm gia tăng thu
nhập cũng như là tích lũy trong ngắn hạn, nhưng về lâu về dài thì con cháu
của họ mới là người phải trả nợ và khi đó thì gánh nặng nợ mới được thế
hiện rõ. Và vòng luẩn quẩn ở trên mới càng sát thực tế.
Còn đối với FDI tuy là không măng lại gánh nặng cho các nước
được đầu tư nhưng nó lại gây ra những ảnh hưởng khác tác động tới nguồn
vốn trong nước. Đó là vấn đề thứ ba.
Thứ ba: Sự phụ thuộc vào Khoa học và công nghệ cũng như sự lệ
thuộc về mặt kinh tế và chính trị của các nước tiếp nhận vốn đầu tư nươc
ngoài. gây ra sự phụ thuộc về khoa học công nghệ. Đó là sự không làm chủ
được công nghệ hiện đại của nước ngoài gây ra tình trạng bị động trong việc
sử dụng nguồn vốn trong nước.

Điều này thể hiện qua việc nước tiếp nhận vốn nước ngoài bị lệ
thuộc vào nước đầu tư về khoa học công nghệ. Đây là hậu quả của việc
không học hỏi nâng cao năng lực, phụ thuộc ỷ lại quá nhiều vào chuyên gia
nước ngoài. Do đó, không thể biến khoa học công nghệ cao thành chất xám
cũng như kỹ năng cho mình. Một khi không có sự trợ giúp từ bên ngoài nữa
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 22
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
sẽ gây ra lúng túng, sai sót trong quản lý, vận hành, thậm chí gây hậu quả
nghiêm trọng. KHông chỉ có vậy, nó còn hạn chế khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước khi hoạt động với kỹ thuật lạc hậu, nguồn nhân
lực hạn chế về năng lực.
Một vấn đề nảy sinh nữa đó là sự lệ thuộc về chính trị kinh tế, và sự
phụ thuộc vốn trong nước vào vốn nước ngoài. Thiếu vốn ở các nền kinh tế
đang phát triển là vấn đề phổ biến, do vậy nguồn vốn nước ngoài là quan
trong không thể thiếu, tuy nhiên, khi phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn
này, sẽ tạo hiệu ứng không tốt, đặc biệt là khi các nhà đầu tư rút vốn, sẽ gây
không ít ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế xã hội. Do vậy, quốc gia nhận vốn
đầu tư nước ngoài rất dễ bị lệ thuộc kinh tế vào nước đầu tư, từ đó phát sinh
các lệ thuộc về chính trị xã hội. Ngoài ra, khi nhận vốn viện trợ phát triển,
nhất là ODA từ các chính phủ của các nước phát triển, nước nhận viện trợ bị
ràng buộc nhiều về kinh tế chính trị, như vậy, sử dụng không hiệu quả nguồn
vốn này sẽ gây ra những hậu quả khó lường.
Trước hết chúng ta xét tới FDI: thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn
đầu tư này chỉ thực sự tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm
tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất
và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực xuất khẩu, khả năng cạnh
tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nước chủ nhà và
giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực tế. Ngược lại, nếu thiên về
khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong bóng, kích thích và thoả mãn
những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết

của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực
tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do
đó làm tăng các xung lực lạm phát tương lai của đất nước.
Mặt khác, nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần
“mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công
nghệ lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế tương đối của nước bắt đầu
muộn” sẽ bị tước bỏ – đó là một mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận
không chỉ không cải thiện được tình trạng công nghệ, khả năng xuất khẩu,
mà còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ
“bất cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải kể
thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ
thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Như vậy FDI không
những không lám gia tăng vốn trong nước mà lại còn làm lãng phí nguồn
vốn trong nước vì để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán
của các chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư
đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 23
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
vào trong nước sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và
dịch vụ tương ứng. “Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung
lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra. Do
vậy , hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không như mong đợi, hoặc không
tương xứng với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân
lực và môi trường, tức “một tiền gà, ba tiền thóc”.
Khi sử dụng không hiệu quả vốn nước ngoài sẽ dẫn tới nguy cơ thâm
hụt ngân sách do trả nợ vì nguồn vốn sử dụng không tạo ra được giá trị gia
tăng cũng như hiệu quả về tài chính, kinh tế xã hội. Điều này làm tăng nguy
cơ nợ nước ngoài và nhiều vấn đề chính trị khác.
Thứ tư, vốn nước ngoài có thể tạo ra sự phát triển kinh tế giả tạo ở
nước đầu tư, tạo ra một nền kinh tế bong bóng và kèm theo đó là sự chảy

máu chất xám và tài nguyên ngay trên chính đất nước của họ. cuộc khủng
hoảng tài chình tiền tệ ở chấu Á năm 1997 đã để lại cho chúng ta một bài
học lớn về việc thu hút vốn nước ngoài. Nguyên nhân trực tiếp của nóa
chính là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các
nước châu Á. Sự phụ thuộc vào đồng vốn nước ngoài một cách chặt chẽ đã
khiến cho các nước châu Á bị hẫng khi các nhà đầu tư nước ngoài dồng loại
rút vốn ra.
Thứ năm, vốn đầu tư nước ngoài lấn át vốn đầu tư trong nước. Chúng
ta thấy rằng vốn đầu tư nước ngoài không chỉ bổ sung mà cón lấn át cả vốn
đầu tư trong nước. Khi không cân đối tỷ trọng giữa hai nguồn vốn hiệu quả
sẽ xảy ra tình trạng này.
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 24
Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ
NGOÀI NƯỚC THEO NGUỒN HÌNH THÀNH
Trong phần lí luận chung chúng ta đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hai
nguồn vồn trong nước và nước ngoài trên cơ sỏ lí luận. trong phần này chún
ta sẽ dụng thực tiễn để chứng minh cho những lí luận mà chũng ta đã đưa ra
trong phấn trước.mặt khác, tìm hiểu về thực trạng của các nguồn vốn cũng
sẽ cho chúng ta cách nhìn đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa hai nguồn cũng
như vai trò của chúng trong sự phát triển của đất nước.
Trước hết chúng ta cần có một cái nhìn tổng quan về cơ cấu các nguồn
vốn đầu tư phát triển trong giai đoạn hiện nay:
Bảng 1. Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển.
Năm Tỉ lệ
VĐT/GDP
%
Tổng số
%
Khu vực trong nước

Tổng số KTNN Ngoài
quốc
doanh
Khu vực

VĐTNN
Tỉ lệ
VĐT
trong
nước/
nước
ngoài
1995 27.1 100 69.6 42 27.6 30.4 2.29
1996 100 74 49.1 24.9 26 2.85
1997 28.3 100 72 49.4 22.6 28 2.57
1998 100 79.3 55.5 23.4 20.7 3.83
1999 19.7 100 82.7 58.7 24 17.3 4.78
2000 32.9 100 81.3 57.5 23.8 18.7 4.35
2001 34 100 81.6 58.1 23.5 18.4 4.43
2002 34.3 100 81.5 56.2 25.3 18.5 4.41
2003 35.9 100 81.3 56.5 26.7 16.5 5.06
( Tổng hợp thời báo kinh tế Việt Nam)
I. Thực trạng nguồn vốn trong nước:
Sau cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ 1997. rút kinh nghiệm từ bài học
của các nước đi trước thì Đảng ta xác định nhiệm vụ và giải pháp quan
trọng trong phát triển kinh tế xã hội là “ huy động tối đa nguồn lu để lực
phát triển kinh tế xã hội là nội lực, nguồn lực trong dân và tăng sức thu hút
Nhóm 5 – Kinh tế đầu tư 49D 25

×