Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Rủi ro tỷ giá.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.89 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG & QUẢN TRỊ KINH DOANH

Giảng viên hướng dẫn : Cô Diễm Trinh
Sinh viên thực hiện : Nhóm 6
Lớp : Ngân hàng K31
Quy Nhơn 3/2011

Trong môi trường toàn cầu hoá nền kinh tế, đặc biệt là hội nhập trong lĩnh
vực tài chính - ngân hàng, kinh doanh ngoại tệ là nghiệp vụ quan trọng trong hoạt
động của các ngân hàng thương mại (NHTM) nhằm thoả mãn nhu cầu của khách
hàng và nâng cao khả năng sinh lời cho ngân hàng (NH). Việc tham gia các giao
dịch ngoại hối ngày càng gia tăng đã đặt các NHTM trước nguy cơ rủi ro tỷ giá do
sự biến động của tỷ giá và do các ngân hàng thường xuyên không cân bằng về trạng
thái ngoại tệ. Lịch sử đã ghi lại không ít dấu ấn về sự đổ vỡ ngân hàng như: Sự phá
sản của ngân hàng Herstatt năm 1974, sự sụp đổ của tập đoàn Barings hay gần đây
nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á, trong đó rủi ro tỷ giá là
một trong những nguyên nhân cơ bản. Vậy rủi ro tỷ giá mà các ngân hàng thương
mại Việt Nam (NHTMVN) đang đối mặt là gì và làm thế nào để hạn chế được rủi
ro này?
Chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về khái niệm rủi ro tỷ giá va phân tích những
biểu hiện, nguyên nhân, và giải pháp khắc phục của loại rủi ro này.
I_Khái niệm về rủi ro tỷ giá :
Theo quan điểm của các học giả Mỹ, “ rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được”, “ rủi ro là tổng hợp của những sự ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác
suất”. Rủi ro thường được đo lường bằng độ chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế với
mức lợi nhuận dự kiến. Đối với NH, rủi ro có thể hiểu là mối đe doạ bị tổn thất một
phần vốn của mình và không đạt được thu nhập hay đòi hỏi các khoản chi phí bổ
sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất định.
Rủi ro tỷ giá phát sinh khi NH kinh doanh mua bán cho chính mình, hay nói
một cách khác, rủi ro tỷ giá là rủi ro xuất hiện khi có sự dịch chuyển tỷ giá của các


ngoại tệ mà NHTM giữ dưới dạng tài sản Có, tài sản Nợ hoặc cả hai tức là tạo trạng
thái ngoại hối mở (open or unhedged position) để đầu cơ kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi
II_Biểu hiện của rủi ro tỷ giá :
Khi đánh giá rủi ro người ta đánh giá sự ảnh hưởng của cả 2 yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến lãi (lỗ) của hoạt động kinh doanh.
Mối quan hệ đó được thể hiện qua công thức tính lãi (lỗ) đối với từng loại
ngoại tệ khi tỷ giá biến động như sau:
Lãi (lỗ) đối với ngoại tệ i = (trạng thái ngoại hối ròng của ngoại tệ i) x (mức
biến động của tỷ giá ngoại tệ i).

(công thức I)
Có 2 loại trạng thái biểu hiện rủi ro:
*Trạng thái trường ( trạng thái ròng >0) :
 Giá trị tài sản bằng ngoại tệ > giá trị Nợ bằng ngoại tệ
 Rủi ro xảy ra khi tỷ giá giảm ( nếu tỷ giá tăng thì những NH có vị thế đoản
ngoại tệ bị thiệt hại).
*Trạng thái đoản ( trạng thái ròng <0) :
 Giá trị tài sản bằng ngoại tệ < giá trị Nợ bằng ngoại tệ
 Rủi ro xảy ra khi tỷ giá tăng ( nếu tỷ giá giảm thì những NH có vị thế
trường về ngoại tệ sẽ bị thiệt hại).
Ví dụ minh hoạ :
Vietcombank là định chế tài chính hàng đầu có uy tín nhất Việt Nam trong
lĩnh vực kinh doanh ngoại hối.
Ngày 30/12/2010 ngân hàng Vietcombank đã nhận gửi của khách hàng A
khoản tiền 50.000 USD kỳ hạn 6 tháng đồng thời cho khách hàng vay 70.000 USD
cùng kỳ hạn. Ngoài ra ,doanh số mua bán ngoại tệ của ngân hàng Vietcombank là:
mua vào từ khách hàng C 135.000 USD và bán ra cho khách hàng D 900.000 USD
kỳ hạn 6 tháng.Tình hình thị trường tiền tệ trong năm 2010 có một số thông tin như
sau(số liệu của ngày 30/12/2010 của ngân hàng VCB):
Đơn vị %/năm

Tỷ giá Mua Bán Lãi suất (kỳ hạn 6 tháng ) Gửi Vay
USD/VND 19495 19500 VND 11 11,5
GBP/USD 1,6299 1,6663 USD 1,2 5
Lưu ý tất cả các giao dịch ngoại tệ của Vietcombank đều bằng USD và có
cùng thời hạn 6 tháng. Trước tiên chúng ta xác định trạng thái ròng giao dịch ngoại
tệ cùng kỳ hạn của Vietcombank như sau:
Nhận gửi của khách hàngA 50.000USD kỳ hạn 6 tháng. Như vậy Vietcombank có
khoản phải trả cho khách hàng 6 tháng nữa đến hạn cả gốc và lãi:
50000.(1+0,012 x 6/12) = 50300 USD.
Cho vay khách hàngB 70.000USD kỳ hạn 6 tháng. Như vậy Vietcombank có khoản
phải thu từ khách hàng 6 tháng nữa đến hạn cả gốc và lãi:
70000.(1+0,05 x 6/12) = 71750 tỷ USD.
Mua của khách hàng C kỳ hạn 6 tháng : 135000 USD
Bán của khách hàng D kỳ hạn 6 tháng : 900000 USD
Trạng thái ròng ngoại tệ giao dịch cùng kỳ hạn tính theo công thức:
NE
USD
= (A
USD
– L
USD
) + (CL
USD
– CS
USD
)=(71750– 50300)+(135000 – 900000)=-
743550 USD < 0. Như vậy Vietcombank có trạng thái ròng giao dịch ngoại tệ kỳ
hạn 6 tháng âm 743550 USD. Với trạng thái âm này, nếu USD lên giá Vietcombank
bị tổn thất giao dịch, ngân hàng sẽ rơi vào trạng thái ngoại tệ đoản
III_Nguyên nhân của rủi ro tỷ giá:

- Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến rủi
ro tỷ giá đối với các NHTMNN.
Tỷ giá VND/USD biến động thường xuyên qua các năm theo chiều hướng
đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài.
Qua theo dõi cho thấy: Trong suốt một quãng thời gian khá dài, tỷ giá VND/USD
chỉ biến động tăng một chiều với một biên độ hẹp, thêm vào đó thị trường ngoại hối
Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan hiếm ngoại tệ.Các doanh nghiệp nhập khẩu
chỉ muốn tìm mọi cách kí hợp đồng kì hạn mua ngoại tệ để đảm bảo thanh toán hợp
đồng xuất nhập khẩu.
Sự biến động tỷ giá trong giai đoạn 2000-2004 được thể hiện qua bảng sau:
Ta thấy mức dao động năm 2000 biến động + 490 đồng (3,5%),
năm 2001 biến động + 550 đồng (3,8%),
năm 2002 biến động +321 đồng (2,13%),
năm 2003 biến động +265 đồng (1,72%),
năm 2004 là năm Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá biến động liên tục nhằm
hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các NH nhưng mức độ biến động cũng
không vượt quá 140 đồng (+ 0,89%).
Như vậy, tỷ giá VND/USD có biến động nhưng không nhiều trong giai đoạn
2000-2004 và mức biến động cao nhất đạt ở mức 3,8%.
1. Nguyên nhân chủ yếu do cán cân vốn thặng dư, lượng kiều hối khá dồi
dào hơn nữa do USD mất giá so với EURO và một số đồng tiền khác, lãi suất USD
vẫn duy trì ở mức thấp đáng kể so với lãi suất VND dẫn đến nhu cầu USD không
tăng.
- Những biến động này đã gây rủi ro cho các NHTMVN. Rủi ro ở đây phụ
thuộc vào trạng thái ngoại tệ mà NH đang duy trì. Rủi ro tỷ giá là rủi ro tiềm tàng
đối với các NHTMVN. Rủi ro này thể hiện qua:
- Trong hai năm 2003, 2004, 4 NHTM Nhà nước hàng đầu đều có trạng thái
ngoại hối mở tuy nhiên về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn quy định của NHNN
(không vượt quá 30% vốn tự có). Tuy nhiên, vị thế của các NH không hề giống
nhau, một số NH có vị thế trường về ngoại tệ và một số NH có vị thế đoản về ngoại

tệ. Điều đó có nghĩa là dù tỷ giá có biến động theo chiều hướng nào đều gây bất lợi
cho các ngân hàng. Nếu tỷ giá tăng thì những NH có vị thế đoản ngoại tệ bị thiệt hại
và ngược lại nếu tỷ giá giảm thì những NH có vị thế trường về ngoại tệ sẽ bị thiệt
hại.
- Hầu như doanh số mua vào thấp hơn doanh số bán ra cũng do các NHTM
thường duy trì trạng thái ngoại tệ tạm thời là đoản, do đó, phải đối mặt với rủi ro
khi tỷ giá tăng. Điều này cũng cho thấy thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển
theo hướng một chiều, luôn ở tình trạng cầu lớn hơn cung.
Thực tế Việt Nam cho thấy sự thay đổi mặt bằng lãi suất có ảnh hưởng rất
lớn đến tỷ giá giữa VND và USD. Từ năm 2000 trở đi, đồng USD liên tục tăng giá
so với VND, điều này thúc đẩy tâm lý muốn găm giữ ngoại tệ, các NHTM sẽ có
nhận định là duy trì trạng thái ngoại hối trường ròng sẽ có lợi. Tuy nhiên do chênh
lệch lãi suất VND và USD quá lớn dẫn đến người nắm giữ USD lại có thu nhập
thấp hơn người nắm giữ VND. Điều đó có nghĩa là nếu ngân hàng huy động USD
với lãi suất thấp và bán ngoại tệ trên thị trường để cho vay với lãi suất cao, duy trì
vị thế đoản ngoại tệ không những bị thiệt hại mà còn có lợi mặc dù USD có tăng
giá.
2. Nguyên gây do kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn:
- Kiến thức về nghiệp vụ chuyên môn để vận hành giao dịch và đo lường rủi
ro quá yếu kém, kĩ năng xử lí dữ liệu bằng điện toán chưa cao, chưa có những bộ
phận nghiên cứu dự đoán sự thay đổi tỷ giá trên thị trường.
Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các
NHTMVN chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích thanh toán, cho vay
ngoại tệ mà quên đi yếu tố bảo hiểm tỷ giá nên trong kinh doanh tiền tệ NH đóng
vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch hơn là nhà tạo lập thị trường. Cũng chính vì
tư tưởng trên nên NH rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích
kĩ thuật. Hầu như rất ít NH sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm
cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NH mạnh
về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu các NH chỉ kinh doanh cho khách hàng. Thật sự
thì cho dù NH kinh doanh với NH hay kinh doanh đầu cơ cho chính họ thì việc phân

tích tốt sự biến động tỷ giá cũng như dự báo được sự biến động tỷ giá sẽ giúp cho
NH quản lý rủi ro tỷ giá một cách hiệu quả.
Một điểm bất lợi của các NHTMVN so với NH ở những nước phát triển như:
Singapore, Hong Kong là tại VN chưa có hệ thống EBS (Electronic Brokerage
System) nên giá mà các NH được cung cấp bởi Reuters hay các hãng tin khác cũng
chỉ là tỷ giá tham khảo chứ chưa phải là tỷ giá giao dịch thật sự trên thị trường. Bởi
lẽ chỉ có thông qua EBS các nhân viên kinh doanh ngoại tệ (dealer) mới có thể thấy
được các luồng tiền dịch chuyển trên thị trường, thứ hai, thông qua EBS các
NHTMVN có thể thấy được lệnh trên thị trường bán/ mua ở mức giá nào, từ đó có
thể biết được đâu là vùng cản (resistance), đâu là vùng nâng đỡ (support)và các lệnh
ngăn lỗ (stop loss order –SL ODA) được đặt ở đâu. Hơn nữa, các NHTM nên đầu tư

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×