Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tổng hợp câu hỏi ôn tập triết học nâng cao và đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.46 KB, 29 trang )

CÂU 1: Trình bày khái quát những nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật biện chứng. Vai trò của
nó đối với nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng hiện nay?
1) Khái niệm về thế giới quan (TGQ) và thế giới quan duy vật biện chứng (TGQDVBC)
a) Khái niệm TGQ
Con người luôn có nhu cầu về nhận thức thế giới cũng như nhận thức về bản thân trong mối quan hệ
với thế giới để điều chỉnh hoạt động của mình. Kết quả của quá trình nhận thức ấy tạo nên TGQ.
Vây, TGQ là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người,
về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
TGQ có các chức năng như: chức năng nhận thức, chức năng xác lập giá trị, chức năng bình xét,
đánh giá, chức năng điều chỉnh hành vi…
b) Khái niệm về TGQDVBC.
- TGQDV là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối
với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện
thực.
- Trong TGQDV thì chỉ có 1 thế giới duy nhất là thế giới vật chất. TGQDV cũng thừa nhận sự tồn tại của
các hiện tượng tinh thần, song quan niệm mọi biểu hiện của tinh thần đều có nguồn gốc từ vật chất. Vì vậy
trong quan hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật chất là cái có trước, tinh thần có sau và bị vật chất quyết định.
2) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
a) Khái niệm vật chất và ý thức
- Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó .Nhưng theo Lênin định
nghĩa :"vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm
giác ,được cảm giác của chúng ta chép lại,chụp lại ,phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ".
- Ý thức là sự phản ánh có tính chất năng động, sáng tạo của bộ óc con người về thế giới khách quan; là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng ý thức là đặc tính và
là sản phẩm của vật chất ,là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và ngôn ngữ.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Theo quan điểm DVCB: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động
lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn; trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức.
*). Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức.
Lê- Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất Từ định nghĩa
của Lê Nin đã khẳng định vật chất là thực tại khách quan vào bộ não của con người thông qua tri giác và


cảm giác. Thật vậy vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức.
Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra đời của ý thức. Phải
có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài con người mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác
ý thức là sự tương tác giữa bộ não con người và thế giới khách quan. Ta cứ thử giả dụ, nếu một người nào đó
sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay không có bộ não thì không thể có ý thức được. Cũng như câu
chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không được tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của
cậu ta sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn không có ý thức.
Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý thức. Nhờ có lao động
mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế hơn đối với hiện thực... ngôn ngữ là cần nối để
trao đổi kinh nghiệm tình cảm, hay là phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc
của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức cũng
phải thay đổi theo.


VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn.
VD2. Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông tin là rất yếu kém sở dĩ
như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dậy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật
chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều. VD2. Đã
khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức chỉ là như thế đó.
*). Ý thức tác động trở lại vật chất.
Từ định nghĩa về ý thức nêu trên ta thấy các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất cách
mạng mẽ. VD. Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây chuyền
sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng không
thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói “ Không có lý
luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính độc lập tương đối vì nó có
tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại. Vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.

Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động thực tiễn của con người
trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất
quy luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới quan.
VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 1000 0C thì con người tạo ra các nhà máy
gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ
công xa xưa.
VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội VI, đảng ta chuyển nền
kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt
đất nước ta đã thay đổi hẳn.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con
người trong quá trình cải tạo thế giới quan. VD. Nhà máy sử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển
hình, từ việc không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và rác hữu
cơ là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý nổi và cho đến nay nó chỉ là
một đống phế liệu cần được thanh lý.
3) Ý nghĩa mỗi quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với nhận thức và thực tiễn.
Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách
quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan của ý thức. Theo nguyên tắc
phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công
và có hiệu quả khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng thực tế
khách quan với phát huy tính năng động chủ quan; phát huy tính năng động chủ quan là phải trên cơ sở và
trong phạm vi điều kiện khách quan, chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiễn.
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất,
có thái độ tôn trọng với hiện thực khách quan, mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo
quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã
hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động của con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để
xác định chủ trương, đường lối, chính sách, kế hoạch…; phải lấy thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện;
phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.


- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực năng động, sáng tạo của ý thức và

phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy.Điều này đỏi
hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức và truyền bá
nó vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng quần chúng hành động. Mặt
khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực
cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chống chủ nghĩa kiêm
nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động…trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
4) Sự vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước.
*) Thứ nhất là phải tôn trọng khách quan:
- Cần phải có một chủ trương, đường lối đúng đắn xuất phát từ hiện thực khách quan:
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước ,nền kinh tế miến bắc bị suy
giảm nghiêm trọng. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,cơ cấu kinh tế mất cân đối ,năng suất lao động thấp…
sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp ,hàng hoá cho xuất
khẩu ,ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo
lộn ,nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm 1976-1980 về xây
dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh tế 1975 ví dụ như: phấn đấu đạt 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu ha đất
khai hoang… Những chỉ tiêu này được đưa ra mang tính chất chủ quan mà không xuất phát từ hiện thực
khách quan, từ tình hình kinh tế nước ta lúc bấy giờ cho nên đã dẫn tới những hậu quả là nền kinh tế phát
triển chậm, sự trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cảI tạo XHCN và quản lý kinh tế.
Qua đó ta thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất ,thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và
chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép BCDV khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn
sẽ bị đào thải.
Trước tình hình kinh tế đó ,Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu ,phân tích tình hình ,lấy ý kiến của
nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế .Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó
có:phải luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan .Đảng đã đề ra
đường lối đổi mới ,mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta.
Tại đại hội VI Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình ,tìm ra đúng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế xã hội

và đã đề ra nhiều phương hướng nhiệm vụ trong việc đổi mới ,nhất là về kinh tế ,thực hiện chương trình kinh
tế với 3 mục tiêu : lương thực -thực phẩm ,hàng tiêu dùng ,xuất khẩu. Hình thành nền kinh tế nhiêu thành
phần ,thừa nhận kinh tế tư sản sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân ,đổi mới cơ chế quản lý.
- Khi đã có mục đích, đường lối đúng đắn thì phải tổ chức được lực lượng vật chất để thực hiện:
Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chúng ta xác định: “động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi
nguồn lực của các thành phần kinh tế và của toàn xã hội”
*) Thứ hai là phải phát huy tính năng động chủ quan:


- Đảng và nhà nước ta đã khẳng định “ giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu”. Trong đó “Nền giáo dục VN là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại
lấu CN ML và TTHCM làm nền tảng”. Đối với khoa học thì Đảng và Nhà nước ta “ thực hiện cơ chế kết
hợp giữa KHXH và KHTN, KH công nghệ…phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học
và công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài…
- Đảng và Nhà nước ta khơi dậy trong nhân dân long yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người
VN, quyết tâm dưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Chủ trương sử dụng tối ưu những phương tiện thông
tin đại chúng cũng như đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân nắm bắt và làm chủ
những tri thức mới về khoa học và công nghệ…
Câu 2 : Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Vai trò của nó đối với nhận thức khoa học và thực tiễn hiện nay. Đảng ta đã vận dụng quan
điểm này trong đường lối đổi mới đất nước như thế nào?
Trả lời
1.Khái niệm vật chất và ý thức :
*Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
*Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não con người một cách năng động và sáng tạo (là hình
ảnh chủ quan của thế giới quan).
2.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng :

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau, vừa thống nhất vừa đối lập.
a.Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức : Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách
quan độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của
bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
-Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người là hình ảnh chủ quan về thế giới quan. Thế giới
quan không chỉ là nguồn gốc của ý thức mà còn quy định nội dung của ý thức.
-Thế giới khách quan như thế nào thì ý thức phản ánh như thế ấy.
-Khi thế giới quan thay đổi thì sớm hay muộn ý thức cũng phải thay đổi theo.
-Thế giới khách quan cũng là nơi ý thức được vật chất hóa và thể hiện sức mạnh của mình.
b.Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất bởi vì ý thức có tính năng động, sáng tạo cho nên ý thức
có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
-Ý thức có thể tác động trở lại vật chất theo hai chiều hướng :
+Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong
quá trình cải tạo thế giới vật chất.
+Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan ở mức độ nhất định có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn
của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
-Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con người dựa trên những
tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan để từ đó đề ra mục tiêu,
phương hướng, biện pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.
Vai trò tích cực chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế giới thực được phát triển
đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới khách quan và các điều kiện vật chất
khách quan.
*Ý nghĩa phương pháp luận :
-Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong nhận thức phải đảm bảo nguyên tắc
“Tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo các quy luật khách quan.
-Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động hoạt động thực tiễn của con
người cho nên cần phải phát huy tính năng động, chủ quan, tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng

cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn
của con người.
Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý trí cũng như thái độ thụ động chờ đợi vào điều kiện vật chất, hoàn
cảnh khách quan.


*Vai trò của nó đối với nhận thức khoa học và thực tiễn hiện nay :
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý
thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát
huy tính năng chủ quan của mình.
+Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quyluật tự nhiên và xã hội. Điều
này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách
quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh
không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủquan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý trí.
- Nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn thì con người phải phát huy tính năng động chủ quan.
- Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố
con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. ý thức muốn tác động trở
lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn.
Điều
ấy
có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ
khâu nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, phải có ý chí,
phải có phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức
về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra
phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực
hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn. Cuối cùng bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có

thể thực hiện được mục tiêu đề ra. ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động
đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc
xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tưtưởng có thể làm cho con
người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy, phải phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan;
đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi
mới hiện nay.
-Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bạitrong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quantrọng là "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan".Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng chủ trương: "huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và
ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước"., muốn vậy phải "nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạngkém phát triển, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công
bằng,
dân
chủ,
văn
minh"...
*Sự vận dụng của Đảng ta trong đường lối đổi mới đất nước dựa trên mối quan hệ duy vật biện chứng
giữa vật chất và ý thức :
Để khắc phục những sai lầm, thiếu sót trước thời kỳ đổi mới là: duy ý chí, chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai
đoạn; trong quá trình đổi mới ( từ 1986) Đảng ta đã vận dụng đứng đắn hơn mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức. Thấm nhuần vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, Đảng ra đã đề ra và quán triệt bài
học “ Phaả xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng sự thật khách quan và haàh dộng theo quy luật khách
quan”. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của ý thức Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới trước hết là đổi mới tư
duy và coi đó là tiền đề của mọi sự đổi mới đất nước. Sự thành công của quá trình đổi mới tư duy trên cơ sở
lấy chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng của Đảng, chống đa nguyên, đa đảng, đưa
khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo thành quốc sách hàng đầu… đã giúp Đảng và nhân dân ta thực hiện

thắng lợi quá trình đổi mới đất nước, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế với các nuớc trong khu vực và
trên thế giới… Tiến tới mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ công bằng và văn minh.
CÂU 3: Trình bày khái quát những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vai trò của nó đối
với nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng hiện nay?
1) Khái niệm phép biện chứng (PBC) và phép biện chứng duy vật (PBCDV)


Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biến chứng của thế giới thành hệ thống các
nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và
thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với
phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: "Phép biện chứng duy vật
là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy".
2) Khái quát những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:
a) Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối liên hệ sự tác động qua lại
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt các giai đoạn phát triển của một sự vật
hiện tượng. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới theo đó các sự vật hiện
tượng trong thế giới dù có đa dạng có khác nhau đến thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ là những dạng cụ thể
khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
Các mối liên hệ có tính khách quan phổ biến và đa dạng chúng giữ vai trò khác nhau quy định sự vận
động phát triển của sự vật hiện tượng. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức không nên tuyệt đối hóa mối
liên hệ nào và cũng không nên tách rời mối liên hệ này khỏi các mối liên hệ khác bởi trên thực tế các mối
liên hệ còn phải được nghiên cứu cụ thể trogn sự biến đổi và phát triển của chúng
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biển khái quát bức trnah toàn cảnh về thế giới trong những mối liên hệ
chằng chịt giữa các sự vật hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan tính có hạn của sự vật
hiện tượng trogn thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng

nhiều mối liên hệ có hình thức vai trò khác nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến con người rút ra
được những quan điểm nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Nguyên lý về sự phát triển:
Trog phép biện chứng duy vật phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần vừa nhảy vọt
làm cho sự vật hiện tượng cũ mất đi sự vật hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân.
Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật hiện tượng. Phát triển đi
theo đường xoáy ốc cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao
hơn, thể hiện tính quanh co phức tạp có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trogn quá trình phát triển sự vật hiện tượng
chuyển hóa sagn chất mới cao hơn phức tạp hơn làm cho cơ cấu tổ chức phương thức vận động và chức năng
của sự vât ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có tính khách quan, phổ biến đa dạng. Từ nguyên lý về sự
phát triển, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
b) Sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật nhận thức bắt đầu từ sự phản ánh những sự vật hiện
tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh những sự vật hiện tượng này với những sự vật hiện
tượng khác phân biệt chỗ giống nhau và khác nhau giữa chúng, nhận thức đi đến sự phân biệt cái riêng cái
chung. Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật hiện tượng nhất định và cái đơn nhất. Cái chung là
phạm trù dùng để chỉ những mặt những thuộc tính lặp lại trogn nhiều sự vật nhiều hiện tượng. Cái đơn nhất


là phạm trù dùng để chỉ những mặt những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại
ở các sự vật hiện tượng khác. Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với nhau.
Cái chugn chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng ngược lại cái riêng chỉ tồn tại trong mối
liên hệ với cái chung, bao hàm cái chung, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái
bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật. VILenin viết: “ cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng là cái chung. Bất cứ cái chung nào

cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ
vào cái chung. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái
riêng thuộc loại khác”
nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại tương tác giữa các mặt các yếu tố, hoặc giữa các sự vật hiện tượng
với nhau dẫn đến sự xuất hiện ra mối liên hệ nhân quả. Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt
trong một sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất đinh. Kết
quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các sự vật hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân kết quả có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau. Nguyên nhân là cái sinh ra kết
quả nên luôn có trước kết quả, sau khi xuất hiện kết quả có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân.
Sự phân biệt nguyên nhân kết quả có tính tương đối. Một sự vật hiện tượng trong mối quan hệ này là nguyên
nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân quả vô tận.
Do vậy nguyên nhân kết quả bao giờ cũng ở trong mối quan hệ cụ thể.
Tất nhiên và ngẫu nhiên
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan con người nhận thức được tính không một nghĩa không
cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của sự vật hiện tượng nên phân chia chúng thành nhóm các
mối liên hệ nhất định phải xảy ra đúng như thế và nhóm các mối liên hệ có thể xảy ra thế này hay thế khác.
Tất nhiên do mối liên hệ bản chất do những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật hiện tượng quy định và
trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ ko thể khác được. Ngẫu nhiên do mối liên hệ
không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định, có thể xuất hiện có thể không xuất
hiện có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác.
Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ biện chứng với nhau. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường
đi cho mình thoogn qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho
tất nhiên. Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho sự phát triển diễn
ra nhanh hoặc chậm, trong hình thức này hay hình thức khác. Sự phân biệt tất nhiên ngẫu nhiên có tính
tương đối, trong những điều kiện nhất đinh, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
Nội dung và hình thức
Việc nhận thức nội dung và hình thức gắn liền với việc nghiên cứu các yếu tố quy định sự tồn tại của
sự vật và phương thức tồn tại của nó. Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt những yếu tố tạo nên sự vật

hiện tượng. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật hiện tượng.
Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại quy định lẫn nhau, trong đó nội dung giữa vai trò
quyết định. Nội dung đòi hỏi phải có hình thức phù hợp với nó. Khi nội dung thay đổi thì hình thức cũng


phải thay đổi theo. Tuy nhiên hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung.
Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó là động lực thúc đẩy nội dung phát triển, còn không phù hợp hình
thức cản trở sự phát triển của nội dung. Cùng một nội dung trong quá trình phát triển có thể biểu hiện dưới
nhiều hình thức và ngược lại cùng một hình thức có thể phù hợp những nội dung khác nhau.
Bản chất và hiện tượng
Khi có được nhận thức tương đối đầy đủ về những mặt những mối liên hệ tất yếu và những đặc tính
riêng của sự vật thì nhận thức đó vẫn chưa vươn tới sự phản ánh đầy đủ về sự vật. Để nhận thức đúng sự vật
từ các hiện tượng phong phú nhiều vẻ con người tiếp tục đi sâu nghiên cứu bản chất của sự vật. Bản chất là
tổng hợp tất cả những mặt những mối quan hệ tất nhiên tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại vận
động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài bên ngoài của sự vật
Giữa bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Bản chất và hiện tượng thống nhất
với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ: bản chất thể hiện thông qua hiện tượng, còn hiện tượng là sự thể
hiện của bản chất, bản chất “được ánh lên” thông qua hiện tượng. Tuy vậy, “nếu như hình thái biểu hiện và
bản chất sự vật phù hợp trực tiếp với nhau thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”. Hiện tượng thể hiện bản chất
trong hình thức đã cải biến, nhiều khi xuyên tạ nội dung thực sự của bản chất bằng cách bổ sung vào bản
chất một vài tính chất, yếu tố do hoàn cảnh cụ thể quy định, làm hiện tượng phong phú hơn bản chất. Bản
chất tương đối ổn định ít biến đổi hơn còn hiện tượng động hơn thường xuyên biến đổi hơn.
Khả năng và hiện thực
Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng, chúng ta có thể
phán đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo chiều hướng nào, nghĩa là chúng ta có thể nhận thức
được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật hiện tượng. Khả năng là cái hiện chưa xảy ra
nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có đang tồn tại thực sự.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận động phát
triển của sự vật. Trong hiện thực bao giờ cũng chứa đựng những khả năng nhất định, ngược lại khả năng lại

nằm trong hiện thực và khi đủ điều kiện sẽ biến thành hiện thực mới. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện
thực diễn ra rất phức tạp. Trong từng giai đoạn phát triển của sự vật thường xuất hiện nhiều khả năng. Khả
năng nào biến thành hiện thực là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Trong hoạt động thực tiễn phải dự báo các
khả năng và tạo điều kiện cho khả năng tốt thành hiện thực và ngăn ngừa khả năng xấu.
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống bất biến, mà phát triển cùng với
sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Mối quan hệ giữa các phạm trù của các ngành khoa học với các
phạm trù cần liên hệ chúng với nhau và với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật bởi dù quan
trọng đến mấy chỉ riêng các phạm trù hoặc các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật cũng không
phản ánh đầy đủ các mối liên hệ của thế giới.
c) Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại :
Chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Trong đó chất là tính quy định khách
quan vốn có của sự vật hiện tượng. Trong đó, chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật là sự thống
nhất hữu cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải cái khác. Lượng là tính quy định vốn có của
sự vận động, phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất
và lượng. Giới hạn trong đó những thay đổi căn bản về chất được gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt
quá giới hạn độ sẽ làm cho chất của sự vật biến căn bản. Điểm mà tại đó sự thay đổi căn bản về chất được


thực hiện gọi là điểm nút. Bước nhảy là bước thay đổi căn bản về chất của sự vật do sự thay đổi căn bản về
chất của sự vạt do sự tahy đổi về lượng trước đó gây ra. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay
đổi về chất còn có chiều ngược lại. Đến lượt nó, sự thay đổi về chất lại tác động đến lượng thúc đẩy lượng
tiếp tục phát triển.
Nắm được nội dung quy luật này sẽ tránh nôn nóng đốt cháy giai đoạn tích lũy về lượng không kịp
thời chuyển những thay đổi về lượng sang những thay đổi về chất từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang
những thay đổi mang tính cách mạng và ngược lại không biết sử dụng chất mới để thúc đẩy lượng tiếp tục
phát triển.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn gốc động lực của sự vận động, phát triển.
Theo phép biện chứng mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Mọi sự vật đều

có những mặt đối lập. Sự tác động giữa chúng tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự vật. Mâu thuẫn biện
chứng là phổ biến, khách quan, vốn có của sự vật. Các mặt đối lập lại vừa tương đối tạm thời đấu tranh là
tuyệt đối vĩnh viễn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của sự vận động
sự phát triển.
Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn của sự vật
cũng như tìm ra con đường đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định:
Chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là quá trình khách quan tự thân là
quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật
hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình phủ định của phủ định tạo thành sự vận động phát triển
không ngừng mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Trải qua một số lần phủ định, sự vật hiện tượng
dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới cao hơn và như vậy phát triển không đi theo đường
thẳng mà theo đường xoáy ốc
Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới. Nó
đòi hỏi phải xuất phát từ những điều kiện khách quan cho phép phải tạo điều kiện tiền đề cho cái mới chiến
thắng cái cũ phải biết kế thừa và phát triển sáng tạo những cái tích cực đã đạt được từ cái cũ đồng thời phải
thấy được tính chất quanh co phức tạp trong quá trình ra đời cái mới
3) Ý nghĩa đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn (Quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm
lịch sử - cụ thể )
a) Quan điểm toàn diện trong nhận thức và thực tiễn:
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi muốn nhận thức được bản chất của dự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét
sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể
của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác;
tránh cách xem xét phiến diện 1 chiều. Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét đánh giá từng mặt, từng
mối liên hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phải triển của sự
vật, hiện tượng, tránh chủ nghĩ triết chung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật
ngụy biện, coi cái cơ bản thành cái ko cơ bản, ko bản chất thành bản chất….


- Trong nhận thức, quan điểm toàn diện cho phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có

của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu. Hơn nữa, quan điểm toán diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật
hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
- Quan điểm toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện 1 chiều; đối lập với chủ nghĩa triết chung và thuật
ngụy biện. Cả chủ nghĩa triết chung và thuật ngụy biện đều là những biểu hiện của phương pháp luận sai
lầm trong việc xem xét các sự vật hiện tượng.
- Từ quan điểm toàn diện trong nhận thức, chúng ta rút ra cách nhìn đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo
đó, muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác
nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật và hiện tượng. Song trong từng
bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết.
b) Quan điểm phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
- Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Theo đó,
phát triển là sự vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ nảy sinh những
tính quy định mới, cao hơn về chất. làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật hiện
tượng cùng chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
- Để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, chúng ta phải thấy được sự thống nhất
giữa sự biến đổi về lượng đối với sự biến đổi về chất trong quá trình phát triển; phải chỉ ra được nguồn gốc
và động lực bên trong; phải xác định được xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ định biện
chứng quy định;
- Quan điểm phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến
đổi, chuyển hóa để ko chỉ nhận thức sự vật hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được
khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
- Quan điểm phát triển yêu cầu phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.Mỗi giai đoạn phát triển lại có những
đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy phải có sự phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác
động phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để hạn chế sự phát triển đó.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái mới, sớm phát
hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển thay thế cái cũ; phải
chống lại quan điểm bảo thu trì trệ.
c) Quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn

- Đặc trưng cơ bản của quan điểm lịch sử - cụ thể là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng trong điều kiện môi trường cụ thể. Điểm xuất phát của quan điểm này là sự tồn tại, vận động,
phát triển của các sự vật hiện tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của hiện tượng sự vật cũng khác
nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không
gian thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau đó.
- Nghiên cứu sự vật hiện tượng trong sự vận động, phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó, biết phân
tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong
các yếu tố của nội dung quan điểm lịch sử - cụ thể.


- Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại
của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo
những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai
đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu và giải thích được những thuộc tính,
những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật và hiện tượng.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem các sự vật hiện tượng trong các mối liên hệ cụ thể của
chúng.
- Nhận thức sự vật hiện tượng theo quan điểm lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của
chúng theo thời gian, cũng như trong không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng
của sự vật hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác cũng
đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa cụ thể, không thấy sự vật hiện tượng trong cả quá trình vận động biến
đổi. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự
vật hiện tượng là điều tất yếu.
Câu 4:
Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật và ý nghĩa phương pháp luận.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

*Khái niệm sự liên hệ phổ biến nói lên sự ràng buộc, phụ thuộc, tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tuợng, hoặc giữa các mặt, các yếu tố cấu thành của chúng, trong đó sự tác động lẫn nhau là nội dung quan
trọng nhất của sự liên hệ.
* Tính chất: Sự liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tuợng có tính khách quan vì những mối liên hệ hiện
thực của bản thân thế giới vật chất là tự có, là thuộc tính cố hữu của vật chất chứ không do thần linh thuợng
đế hay " ý niệm tuyệt đối" nào đó sinh ra cả. Sự liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tuợng có tính phổ biến.
Mọi sự vật đều tồn tại trong trong mối quan hệ giữa các sự vật hiện tuợng khác nhau. Sự liên hệ giữa các sự
vật hiện tuợng trong thế giới là rất phong phú và đa dạng: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ
bản và liên hệ không cơ bản, liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu, liên hệ chung và liên hệ đặc thù, liên hệ trực
tiếp và liên hệ gián tiếp, liên hệ không gian và liên hệ thời gian...
* Nội dung nguyên lý:
- Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều luôn luôn tồn tại trong các mối liên hệ xác định (tồn tại
trong các mối liên hệ phổ biến) và trong vô vàn các mối liên hệ khác nhau tức là luôn luôn tồn tại trong tính
quy định, tính tương tác, những biến đổi tác động tới nó. Như vậy mỗi một sự biến đổi trong thế giới đều có
khả năng khách quan tất yếu tác động đến những biến đổi khác một cách trực tiếp, gián tiếp…
- Với mỗi một sự vật, hiện tượng nhất định trong một điều kiện xác định thì các mối liên hệ mà nó có
là không đồng nhất về vị trí và vai trò. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài.Mối liên hệ bên trong là
sự tác động qua lại, sự quy định, chuyển hoá lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự
vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ này nói chung không giữ vai trò quyết định đối với sự


tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật.Nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể
tác động đối với sự tồn tại,sự vận động và sự phát triển của sự vật.
* Ý nghĩa phuơng pháp luận:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm toàn diện tức là khi nghiên
cứu sự vật hiện tuợng thì phải xem xét chúng trong tất cả các mối liên hệ, tất cả các tác động qua lại giữa
chúng, hoặc tât cả các mối liên hệ, các tác động qua lại các mặt, các bộ phận cấu thành của chúng, phải đặt
sự vật hiện tuợng trong các điều kiện không gian, thời gian nhất định, phải nghiên cứu quá trình vận động,
phát triển trong quá khứ, hiện tại, tuơng lai. Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức sự vật hiện tuợng

chúng ta phải xem xét trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con nguời. Trong những hoàn cảnh lịch sử
nhất định, con nguời chỉ có thể nhận thức đến một mức độ nào đó và thường không đầy đủ trọn vẹn, do vậy
không đuợc tuyệt đối hoá tri thức đã đạt đuợc mà phải thấy rằng chúng cần đuợc bổ sung, phát triển trong
những điều kiện mới. Trong thực tiễn quan điểm toàn diện đòi hỏi: để cải tạo đuợc sự vật hiện tuợng chúng
ta phải bằng hoạt động vật chất của mình làm biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật hiện tuợng. Đê
giải quyết nhiệm vụ của thực tiễn, chúng ta phải đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng với nhau,chứ
không giải quyết một cách độc lập, tách biệt, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phuơng tiện khác
nhau để giải quyết một cách toàn diện, vững chắc, không chồng chéo, chúng ta phải kết hợp chính sách dàn
đều và chính sách có trọng điểm .
Quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra, chú ý đúng mức tới
hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó tới sự phát triển của nó trong bối cảnh thực tế với những
điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể. Khi xem xét một quan điểm , học thuyết nào đó cũng phải đặt
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chân lý cụ thể tức là nó chỉ đúng trong phạm vi tuơng đối mà thôi vuợt qua
giới hạn đó chân lý không còn đúng nữa.
Bước vào thời kỳ đổi mới ( 1986 ) Đảng đã chỉ ra 2 nhiệm vụ chiến luợc để phát triển đất nuớc là xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Trong đó xây dựng Tổ Quốc và nhiệm vụ giữ vai trò quyết định sự thắng lợi của
quy trình đổi mới đất nuớc theo định huớng Xã hội chủ nghĩa, khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát
của quá trình đổi mới Đảng coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về CNXH là khâu đột phá, đổi mới
kinh tế là trọng tâm, đổi mới văn hoá là cần thiết, trong đó khoa học, giáo dục công nghệ phải trở thành quốc
sách hàng đầu.
2 Nguyên lý về sự phát triển.
* Khái niệm:
Theo quan điểm siêu hình thì phát triển là sự tăng lên hay giảm xuống thuần tuý về mặt số luợng mà
không có sự thay đổi về chất, hoặc nếu có sự thay đổi về chất thì diễn ra trong phạm vi khép kín giản đơn.
Quan điểm duy tâm nói chung cũng đều phủ nhận sự phát triển nếu có thừa nhận cũng quy nguồn gốc của sự
phát triển về các lực luợng siêu nhiên như ý niệm tuyệt đối, thần linh, thuợng đế... phủ nhận nguồn gốc vật
chất khách quan của sự phát triển. Theo phép biện chứng duy vật thì phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn hiện



đến hoàn thiện hơn.
- Phát triển là những quá trình biến đổi với 3 đặc trưng sau:
+ Sự biến đổi về chất ở trình độ mới cao hơn
+ Quá trình biến đổi về mặt cơ cấu tổ chức hệ thống và về cơ chế phương thức hoạt động của hệ
thống
+ Là sự biến đổi diễn ra một cách toàn diện hoá.
* Tính chất:
- Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc và động lực của sự phát triển nằm ngay trong bản
thân các sự vật hiện tuợng, do các mâu thuẫn của chúng quy định, nhờ vào sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập bên trong của sự vật hiện tuợng đã quy định quá trình vận động và phát triển của chúng. Tính
khách quan của sự phát triển thể hiện trong các quy lụât lượng -chất, quy luật phủ định của phủ định
- Tính phổ biến của sự phát triển: phát triển là khuynh huớng chung nhất, chủ yếu nhất của sự vật
hiện tuợng trong thế giới, cả trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Trong giới tự nhiên hữu sinh sự phát triển càng
ngày càng rõ rệt của các loài sinh vật từ thấp tới cao, cấu trúc cơ thể ngày càng phức tạp, từ đơn giản đến đa
bào, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Các chức năng của sự sống cũng phát triển ngày càng hoàn
thiện hơn. TRong xã hội sự phát triển biểu hiện ở việc nâng cao khả năng lao động và tư duy, thông qua sự
phát triển của các phuơng thức sản xuất giúp con người nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo thế
giới. Trong tư duy, sự phát triển biều hiện ở khả năng nhận thức thế giới ngày càng đầy đủ, sâu sắc, đúng
đắn hơn qua các giai đoạn lịch sử.
* Nội dung nguyên lý:
- Phát triển là những khuynh hướng khách quan và phổ biến ở trong mọi lĩnh vực của tự nhiên xã hội,
nhận thức, tư duy trong giới tự nhiên đó là quá trình phát triển từ vật chất đơn giản đến phức tạp hơn, trong
nhận thức từ chưa biết chính xác đến chính xác hơn.
- Tính khách quan và phổ biến ở các quá trình phát triển còn thể hiện ở chỗ: trong các quá trình biến
đổi luôn luôn bao hàm khả năng, cơ hội tạo ra cái mới ở trình độ cao hơn.
- Mọi con đường của sự phát triển dưới sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau do đó không bao
giờ là con đường thẳng, luôn luôn quanh co phức tạp. Trên con đường phát triển bao hàm nhiều giai đoạn
không loại trừ những bước thụt lùi tạm thời.
- Luận điểm về mô hình phát triển: không có một mô hình phát triển tuyệt đối cho mọi lĩnh vực. Trái
lại tuỳ theo các điều kiện cụ thể mà tồn tại các mô hình phát triển đa dạng.

- Quy luật phát triển: Mọi quá trình phát triển dù diễn ra với những con đường và mô hình khác nhau
nhưng tất cảđều tuân theo những quy luật chung trong đó có 3 quy luật cơ bản của mọi quá trình phát triển:
+ Quy luật thay đổi dần về lượng dẫn đến thay đổi nhảy vọt về chất ( quy luật về phương thức phát
triển ).
+ Quy luật vè nguồn gốc vàđộng lực của sự phát triển ( quy luật về thống nhất vàđấu tranh các mặt
đối lập )
+ Quy luật về hình thức có tính chu kỳ của sự phát triển ( quy luật phủđịnh của phủđịnh).
* Ý nghĩa phương pháp luận


Nguyên lý về sự phát triển đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm phát triển trong nhận thức khoa học và
trong hoạt động thực tiễn. Khi nhận thức các sự vật hiện tuợng chúng ta chúng ta không chỉ vạch ra quá trình
vận động mà còn phải vạch ra khưynh huớng phát triển của chúng, đặt chúng trong phạm vi rộng lớn của thế
giới và trong điều kiện lịch sử cụ thể để thấy đuợc khuynh huớng phát triển thông qua những buớc quanh co,
phức tạp phải thấy đuợc quá trình phát sinh, phát triển, diệt vong của sự vật hiện tuợng, xây dựng niềm tin
khoa học vào sự tất thắng của cái mới, cái tiến bộ. Trong hoạt động thực tiễn phải có quan điểm phát triển,
phân kỳ nhiệm vụ thực tiễn để giải quyết chúng theo từng bước từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp,
chống thái độ chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, trái lại chống thái độ bảo thủ, trì trệ, định kiến, tư duy
phải năng động tìm ra khả năng mới, con đuờng mới, phuơng pháp mới thúc đẩy sự phát triển.
Vận dụng đúng đắn quan điểm phát triển vào đuờng lối đổi mới đất nuớc Đảng ta phân kỳ qúa trình
phát triển thành từng thời kỳ, buớc đi thích hợp, từ thấp tới cao: 1986-1990, 1991-1996,1996-2000,20012020. Nhờ đó phát huy nội lực, vận dụng đuợc sức mạnh tổng hợp của thời đại đưa đất nuớc ta từng bước
phát triển vững chắc trên con đuờng chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu mà vẫn đảm bảo định
huớng XHCN
Câu 5: 3 quy luan trong phep bien chung.
. Định nghĩa quy luật
Trong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được
tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”.
Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học phản
ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng. V.I. Lênin viết: “ Khái niệm là một quy luật trong
những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính thống nhất và về liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau

và tính chỉnh thể của quá trình thế giới”.
Với tư cách là cái tồn tại ngay trong hiện thực, quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại
giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
II. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
1. Khái niệm về chất và khái niệm về lượng
a. Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự
thống nhất hữu cơ các thuộc tính, làm cho nó và phân biệt nó với cái khác
b. Khái niệm về lượng
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về số lượng, quy
mô, trình độ của sự vật, hiện tượng hoặc nhịp độ của sự vận động và phát triêể của chúng, cũng như các
thuộc tính của chúng
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
a. Sự thống nhất giữa lượng và chất
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Chất và lượng đều có tính khách quan, song chúng
không tồn tại 1 cách tách biệt nhau mà luôn luôn gắn liền hữu cơ với nhau và cùng xác định sự tồn tại của sự
vật hiện tượng. Sự thống nhất biện chứng, hữu cơ giữa chất và lượng trong một khuôn khổ nhất định mà
trong đó, sự thay đổi về lương chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, hiện tượng gọi là độ
b. Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Trong khuôn khổ của sự vật, hiện tượng thì chất là mặt tương đối ổn định, song lượng mà không ổn định mà
thay đổi thường xuyên, không ngừng. Sự biến đổi tăng lên hoặc giảm xuống về lượng có đặc điểm là dần
dần và tuần tự. Sự tăng hay giảm về lượng không phải diễn ra vô tận mà có xu hướng tích luỹ dần để đạt tới
điểm nút. Tại điểm nút, sự biến đổi về lượng sẽ chuyển thành sự biến đổi về chất, độ bị phá vỡ, sự vật hiện
tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng mới ra đời thay thế, với chất và lượng mới, tồn tại trong 1 độ mới
c. Sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng


Khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi về chất, tức sự nhảy vọt, diễn ra 1 cách nhanh chóng, đột ngột,
căn bản và toàn diện. Chất cũ mất đi, chất mới ra đời thay thế.Chất đổi như vậy cũng làm cho lượng đổi, vì
cùng với chất mới, lượng mới cũng ra đời với những yếu tố mới về lượng như con số mới, đại lượng mới,

mức độ mới. Trong độ mới này, quy luật lượng chất. Trong độ mới này, quy luật lượng chất lại được diễn ra,
quy định sự biến đổi và sự phát triển tiếp theo của sự vật. hiện tương. Và cứ như vậy quy luật này cùng các
quy luật khác của phép biện chứng quy định sự vận động và phát triển của thế giới đên vô cùng tận, không
có điểm kết thúc cuối cùng
d.Sự nhảy vọt về chất cũng rất phong phú, đa dạng với nhiều hình thức nhảy vọt khác nhau
Được quy định bới tính chất của bản thân sự vật, hiện tượng, bởi những mâu thuẫn vốn có của chúng hoặc
do những hoàn cảnh cụ thể trong đó diễn ra sự nhảy vọt. Nhìn chung có 1 số hình thức nhảy vọt cơ bản như :
nhảy vọt đột biến, nhảy vọt dần dần, nhảy vọt toàn bộ và nhảy vọt trong tự nhiên và nhảy vọt trong xã
hội..v..v
* Tóm lại, bất sự vật hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng
quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật hiện tượng thông qua bước nhảy vọt. Chất mới
ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng,quy định sự vận động, phát triển tiếp theo của sự vật, hiện
tượng mới.Và cứ như vậy, quy luật lượng - chất quy định cách thức của sự phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới đến vô cùng vô tận và k có điểm dừng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược
lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới
hạn nhất định thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn chúng ta phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động
của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “ tích tiểu thành đại”, “năng nhặt chặt bị”, “góp
gió thành bão”…. Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm
bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí,
nôn nóng,” đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra một
cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua ý thức của con người. Do đó, khi đã tích
luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang
tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ,”hữu khuynh”
thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.

Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận
dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố
chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc về quy luật này. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ
thể hay quan hệ cụ thể chúng ta lựa chọn hình thức bước nhảy phù hợp để đạt tới chất lượng và hiệu quả
hoạt động của mình. Song con người và đời sống xã hội của con người rất đa dạng phong phú do rất nhiều
yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ
làm thay đổi về chất của từng yếu tố.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành
sự vật. Do đó, trong hoạt động của mình chúng ta phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các
yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn trên cơ sở hiểu
biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm
cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy
thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể làm cho tập thể đó vững mạnh.
III. Quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập
1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập
là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sinh vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn
biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Các mặt đối lập tồn tại
không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau
đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó,” sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao
hàm cả sự “ đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của


mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng
thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt
đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và

tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo
thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các
mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật, sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh
gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự thống nhất của các mặt đối
lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất(…)
của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ
lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự
thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu
thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày
càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyễn hoá lẫn
nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới ; sự vật
cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối
lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động
và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật . Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của
sự vận động và sự phát triển.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như sau:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn
trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát
triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời thay thế.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải
đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể

thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những
mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V.I.Lênin viết: “ Sự phân đôi của cái thống
nhất và sự nhận thức của các bộ phận của nó, đó là thực chất…của phép biện chứng”.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị
trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng
mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như
thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải
quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hoà mâu
thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều
kiện đã chín muồi. Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều
kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải
có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt,
vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể..
IV. Quy luật phủ định của phủ định
1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự
vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển
của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.
Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.


Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu
trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ
bản sau: Tính khách quan và tính kế thừa.
Phủ định biện chứng là sự phủ định gắn liền với sự phát triển,tạo tiền đề cho sự phát triển, là một khâu tất
yếu của quá trình phát triển, đó chính là sự thay thế cái cũ bằng cái mới cao hơn, phức tạp hơn và hoàn thiện
hơn
2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định

Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố
mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị
thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ
định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp
hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với
sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện,
sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vậtgiữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái
đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái
đựợc sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy, sau hai lần phủ định sự
vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát
triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
Từ sự phân tích đã được nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ
định như sau:
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ đó
phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước và
bổ xung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường “xoáy ốc”.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận sau đây:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Quá
trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co,
phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Xã
hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như cuộc sống của con người đều diễn ra theo chiều hướng đó.
Xã hội loài người phát triển từ công xã nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản sẽ đến xã hội
phủ định xã hội tư bản - chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Xã hội tư bản đã
đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó, đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong
tương lại.
Ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng. Do đó, chúng ta phải tìm hiểu những đặc điểm đó
để có cách tác động phù hợp sao cho sự phát triển nhanh hoặc phát triển chậm. Điều này phụ thuộc vào tác

dụng của sự vật đối với đời sống của con người. Chẳng hạn, nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy
nhanh sự phát triển của nó, còn nếu nó có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó.
Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay
thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở phát triển kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ,
do đó, nó luôn luôn biểu hiện là giai đoạn phát triển cao của sự vật vận dụng vào xem xét sự vật, điều này
tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
Trong giới tự nhiên cái mới xuất hiện một cách tự phát, còn trong xã hội cái mới ra đời gắn liền với hoạt
động có ý thức của con người. Chính vì thế, trong hoạt động của mình chúng ta phải biết phát hiện cái mới,
tích cực và ủng hộ nó. Khi mới ra đời cái mới luôn còn yếu ớt, ít ỏi, vì vậy, chúng ta phải ra sức bồi dưỡng,
tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó. Trong khi đấu tranh chống lại cái cũ chúng
ta phải biết “lọc thô, lấy tinh”, cải tạo cái cũ để nó phù hợp với điều kiện mới, phải biết chân trọng những giá
trị của quá khứ. Đồng thời, chúng ta phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái lỗi thời cản
trở sự phát triển của con người và xã hội. Chẳng hạn, hiện tại có những người muốn khôi phục lại tục lệ cũ
trong việc cưới, việc tang, lễ hội,…
Theo quan điểm biện chứng về sự phát triển, trong quá trình phủ định, chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc
những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử dụng chúng như là tiền đề của sự nảy sinh cái mới tiến bộ hơn, biết


giữ hình thức và cải tạo nội dung cho phù hợp như ông cha ta đã nói: “bình cũ rượu mới”. Hơn nữa chúng ta
phải biết lựa chọn để tiếp thu cái mới cho phù hợp chống cả tư tưởng “cũ người mới ta” trong đời sống xã
hội và cuộc sống của con người.
Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật mà chúng ta nghiên cứu trên dây, đề cập đến những
phương diện khác nhau của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong thực tế, sự vận động và phát
triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự tác động tổng hợp của tất cả những quy luật cơ bản do phép biện
chứng duy vật trừu tượng hoá và khái quát hoá. Do đó trong hoạt động của mình, cả hoạt động nhận thức lẫn
hoạt động thực tiễn, chúng ta phải vận dụng tổng hợp những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc, năng
động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy, hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học
tập mới đạt được chất lượng và hiệu quả cao.
Câu 6 Trình bày khái quát nộ dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác, Ý nghĩa của nó đối
với công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế nước ta hiện nay.

1. Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội:
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất
định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với LLSX ở một trình độ nhất định và với một KTTT
được xây dựng lên trên những QHSX đó.
Phân tích: Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội có các đặc trưng: là một chỉnh thể sống, vận động, có
cơ cấu phức tạp. Trong đó có 3 mặt cơ bản, phổ biến nhất là: LLSX, QHSX và KTTT. Các mặt đó gắn bó,
tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển xã hội.
+ Trong các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế – xã hội thì LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật của
mọi hình thái kinh tế – xã hội, QHSX là cơ sở kinh tế, CSHT của xã hội là tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt xã hội với xã hội khác. KTTT có chức năng, vai trò duy trì, bảo vệ, phát triển CSHT và các mặt của đời
sống xã hội.
- Sự ra đời lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức về đời sống
xã hội.
- Lý luận đó đưa ra quan điểm duy vật về xã hội, chỉ ra sản xuất là là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức
sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung.
- Lý luận đó cũng chỉ ra xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt, các lĩnh vực có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng.
- Lý luận đó đã mang lại một phương pháp luận thật sự khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải
tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
* Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương
thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
- Thứ hai: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên,
máy móc giữa các cá nhân mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau.
- Thứ ba: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
- Thứ tư: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi
dân tộc do điều kiện lịch sử - cụ thể mà con đường phát triển riêng, đặc thù.
2. Kết cấu và mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố của hình thái kinh tế xã hội
2.1. Lực lượng sản xuất:

a. Định nghĩa: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất tạo ra
của cải vật chất, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất là thước đo quan
trọng nhất của sự tiến bộ xã hội
b. Kết cấu của LLSX
- LLSX là sự thống nhất của hai yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất.


+ Người lao động (sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư liệu lao động được
kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, kết hợp với các yếu
tố đạo đức, tâm lý, khoa học … biết sử dụng TLSX để tạo ra của cải vật chất.Lênin nói “LLSX hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”
+ Tư liệu sản xuất: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao gồm đối tượng lao
động và tư liệu lao động
Đối tượng lao động: không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên được con
người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Đối tượng lao động gồm 2 dạng: dạng tự nhiên sẵn có và dạng
nhân tạo
Tư liệu lao động: là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối tượng lao động. Tư
liệu lao động gồm 2 bộ phận: công cụ lao động và phương tiện lao động
Công cụ lao động là vật nối trung gian giữa người và tư liệu lao động. Theo Ănghen “Công cụ lao động là khí
quan của bộ óc người, là tri thức được vật thể hóa có tác dụng nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ cho
con người”
Tóm lại:
Trong các yếu tố này không thể thiếu người lao động, người lao động là nhân tố chủ quan hàng đầu của
LLSX. Hơn thế nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ.
Khi con người tiến hành lao động SX thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất, động nhất và cách
mạng nhất. Tóm lại, trình độ của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người
* Khoa học công nghệ (chỉ ngày nay mới có)
Vai trò của Khoa học công nghệ theo quan điểm của triết học Mác:
+ Khoa học có vai trò nâng cao trình độ người lao động
+ Khoa học có vai trò nâng cao công cụ lao động

+ Khoa học có vai trò kết hợp người lao động với công cụ lao động, tao nên năng suất lao động cao và đây là
cái đích cuối cùng của Khoa học.
2. Quan hệ sản xuất:
Khái niệm: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan
Mỗi loại QHSX đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội
b. Kết cấu quan hệ sản xuất:
Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
=> 3 mặt của QHSX có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với TLSX
là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ khác. Mác nói “Trong mối quan hệ này
thì quan hệ sản xuất là quan trọng nhất nhưng QH sở hữu này không phải đơn giản mà có được”
- Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
+ Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX: Trong quá trình hoạt động sản xuất, LLSX không ngừng
được hoàn thiện và phát triển mà trước hết là phát triển công cụ sản xuất. Đến một trình độ nhất định, tính
chất của LLSX thay đổi về cơ bản khi đó QHSX cũ lỗi thời trở thành vật cản đối với sự phát triển của LLSX.
Đến một mức độ nhất định QHSX ấy bị phá vỡ để xác lập một kiểu QHSX mới cao hơn từ đó một phương
thức sản xuất mới ra đời, một hình thái kinh tế xã hội mới xuất hiện.
+ Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:
> Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó góp phần thúc đẩy LLSX phát triển.


> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm LLSX: QHSX đã lỗi thời trước trình độ phát triển của LLSX, QHSX
xác lập một cách duy ý chí đi quá xa so với LLSX.
Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung là cái
quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo.
Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định nhất đối với sự phát triển của QHSX. Trong lực lượng SX còn
nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất đối với việc hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất là do tính
chất và trình độ của LLSX quyết định quan hệ chặt chẽ như thế nào giữa người lao động với người lao động

chứ không phải do phương pháp của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác chứng
minh, Mác nói “Trong PTSX kiếm sống của mình mà con người làm thay đổi các quan hệ xã hội của mình,
các cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa phong kiếm, cái cối xay chạy bằng hơi nước đẹm lại
xã hội có nhà TBCN”.
Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được QHSX. Cho nên dẫn đến mâu
thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
Như vậy, ta có thể khẳng định:
Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình độ của LLSX là quy luật chung cho toàn xã hội
loài người, chính sự tác động của quy luật này làm cho xã hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế
XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.
Quy luật này là cơ sở lý để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển của lịch sử.
Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đường lối của Đảng, phê phán các chủ trương sai
lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất mới.
Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của nhân loại.
Khái niệm CSHT và KTTT
* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế – xã
hội nhất định.
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng
xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những QHSX thống trị, những QHSX là tàn dư của xã hội
trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều
QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu
QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chugn của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định.
Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT.
* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và
những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các
quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức
của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của
KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước – công cụ

của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư
tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT:
CSHT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX đang tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định của
xã hội tạo thành cơ cấu nền tảng kinh tế của xã hội đó.
3 khả năng tồn tại của CSHT trong xã hội:
> CSHT đồng nhất với 1 kiểu QHSX.
> CSHT đồng nhất với 2 kiểu QHSX.
> CSHT có số lượng QHSX lớn hơn 2.
+ Số lượng QHSX lớn hơn 1 đặc trưng cho CSHT của xã hội đó là kiểu QHSX thuộc về phương thức SX
chiếm sự thống trị trong xã hội đó.


- KTTT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và các thiết chế tương ứng phản ánh
CSHT của xã hội đó.
+ 2 bộ phận:
> Tư tưởng, tinh thần
> Thiết chế tổ chức
- Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
+ Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT:
> CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT.
> Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT do vậy để giải quyết triệt để mâu
thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết mâu thuẫn trong CSHT làm nhân tố quyết định.
+ KTTT tác động trở lại đối với CSHT:
> Khi KTTT phù hợp với CSHT sẽ góp phần thúc đẩy CSHT phát triển.
> Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT
* Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, vì:
+ Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy luật khách
quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong một hoàn cảnh khách quan nhất
định mà họ hải tích ứng.

+ Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét đến cùng là quan hệ
quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của LLSX.
+ Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là quy luật QHSX phù
hợp với trình độ của LLSX, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
+ Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm sự phát triển tuần tự
theo xu hướng tổng quát chung, vừa bao hàm khả năng một quốc gia này hay một quốc gia khác trong tiến
trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này để lên một chế độ xã hội khác cao hơn (lấy ví dụ đối
với lịch sử thế giới và Việt Nam).
2. Sự vận dụng của Đảng ta:
+ Lý luận về hình thái kinh tế – xã hội nói chung và nguyên lý về sự phát triển các hình thái kinh tế, là một
quá trình lịch sử tự nhiên giúp chúng ta có một cơ sở khoa học để đi sâu nhận thức xã hội, quy luật phát triển
của nó, chống CNDT, CNDV máy móc về xã hội.
+ Đảng ta nhất quán cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế
giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga, việc Việt Nam đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển lịch sử nhân loại và đất nước ta
(Phân tích những khó khăn, thuận lợi và bài học của 10 năm đổi mới ở nước ta).
+ Để tiến lên một xã hội mới – xã hội XHCN, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ LLSX, tiến hành CNHHĐH, từng bước thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và củng
cố, hoàn thiện KTTT XHCN.
Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế – xã hội ở Việt Nam hiện nay là phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, phải làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng KTTT XHCN, xây dựng nhà nước
XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------Câu 7 :Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ? Vận dụng quy luật này luận chứng tính tất yếu của sự tồn tại và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ?
*Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:


1. Lực lượng sản xuất:

a. Định nghĩa: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất tạo ra
của cải vật chất, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người
- Lực lượng sản xuất là thước đo quan trọng nhất của sự tiến bộ xã hội
b. Kết cấu của LLSX
- LLSX là sự thống nhất của hai yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất.
+ Người lao động (sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư liệu lao
động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, kết hợp
với các yếu tố đạo đức, tâm lý, khoa học … biết sử dụng TLSX để tạo ra của cải vật chất.
Lênin nói “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”
+ Tư liệu sản xuất: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao gồm đối
tượng lao động và tư liệu lao động

Đối tượng lao động: không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận của giới tự
nhiên được con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Đối tượng lao động gồm 2 dạng: dạng tự
nhiên sẵn có và dạng nhân tạo

Tư liệu lao động: là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối tượng
lao động. Tư liệu lao động gồm 2 bộ phận: công cụ lao động và phương tiện lao động


Công cụ lao động là vật nối trung gian giữa người và tư liệu lao động. Theo Ănghen
“Công cụ lao động là khí quan của bộ óc người, là tri thức được vật thể hóa có tác dụng nối dài bàn tay và
nhân lên sức mạnh trí tuệ cho con người”



Phương tiện lao động (xe, nhà kho)
Tóm lại:
Trong các yếu tố này không thể thiếu người lao động, người lao động là nhân tố chủ quan hàng đầu của
LLSX. Hơn thế nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ.

Khi con người tiến hành lao động SX thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất, động nhất và cách
mạng nhất. Tóm lại, trình độ của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người
* Khoa học công nghệ (chỉ ngày nay mới có)

-

Vai trò của Khoa học công nghệ theo quan điểm của triết học Mác:
+ Khoa học có vai trò nâng cao trình độ người lao động
+ Khoa học có vai trò nâng cao công cụ lao động
+ Khoa học có vai trò kết hợp người lao động với công cụ lao động, tao nên năng suất lao động cao và đây là
cái đích cuối cùng của Khoa học.
2. Quan hệ sản xuất:
a. Khái niệm: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

-

Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan

-

Mỗi loại QHSX đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội

b.

Kết cấu quan hệ sản xuất:
- Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
=> 3 mặt của QHSX có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó quan hệ sở hữu đối với TLSX
là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ khác. Mác nói “Trong mối quan hệ này

thì quan hệ sản xuất là quan trọng nhất nhưng QH sở hữu này không phải đơn giản mà có được”
3. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:


• Tính chất của LLSX: là tính chất của TLSX và của người lao động. Nền SX đó bằng thủ công cá thể
hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự đòi hỏi phân công lao động trong nên sản xuất.
• Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình độ tổ chức lao động
xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất + kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người + trình độ
phân công lao động.
a. QHSX được hình thành và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX:
- LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất nhưng trong đó LLSX là mặt động thường
xuyên biến đổi, còn QHSX mang tính bảo thủ, trì trệ hơn, thể hiện con người luôn cải tiến công cụ để giảm
nhẹ lao động, thời gian lao động, tạo nên năng suất lao động hiệu quả cao. Vì vậy công cụ lao động là yếu
tốt động nhất trong LLSX cho nên cộng cụ lao động thay đổi dẫn đến QHSX thay đổi theo và thể hiện SX
ngày càng mang tính chất xã hội hóa cao.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung là
cái quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo.
- Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định nhất đối với sự phát triển của QHSX. Trong lực lượng
SX còn nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất đối với việc hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất
là do tính chất và trình độ của LLSX quyết định quan hệ chặt chẽ như thế nào giữa người lao động với người
lao động chứ không phải do phương pháp của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác
chứng minh, Mác nói “Trong PTSX kiếm sống của mình mà con người làm thay đổi các quan hệ xã hội của
mình, các cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa phong kiếm, cái cối xay chạy bằng hơi nước
đẹm lại xã hội có nhà TBCN”.
- Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được QHSX. Cho nên dẫn
đến mâu thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
- LLSX phát triển được là nhờ nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn cảnh địa lý, trình độ phát triển
của khoa học, còn QHSX chỉ giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của LLSX.
- QHSX là sự phản ánh LLSX nhưng chính nó lại quy định mục đích của SX, khuynh hướng phát triển

của các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Bởi
vậy nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho
LLSX phát triển. Còn nếu QHSX không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó sẽ cản trở LLSX.
- Sự tác động của QHSX đối với LLSX: chỉ khi xem xét QHSX trong một tình huống đầy đủ với ba
mặt của nó, đồng thời chịu sự chi phối của yếu tố chung:
+ Các quy luật kinh tế cơ bản
+ phụ thuộc vào trình độ của người lao động
+ tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, công nghệ
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì khi LLSX phát triển tới mức QHSX cản trở sự phát triển của
nó thì CMXH là bước cuối cùng để thay đổi QHSX hiện có.
Như vậy, ta có thể khẳng định:
Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình độ của LLSX là quy luật chung cho toàn xã hội
loài người, chính sự tác động của quy luật này làm cho xã hội loài người phát triển từ hình thái kinh tế XH
này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.
-

Quy luật này là cơ sở lý để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển của lịch sử.

Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đường lối của Đảng, phê phán các chủ trương
sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất mới.
-

Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của nhân loại.

* Vận dụng quy luật:
Ở Việt Nam, sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) chúng ta đã tiến
lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Vào buổi đầu, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng ta đã


xây dựng CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện chiến tranh, mô hình đó đã đóng vai

trò tích cực nhưng trong điều kiện hoà bình, mô hình đó dần dần bộc lộ những hạn chế và dẫn đến khủng
hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của ĐCSVN đã đưa ra đường
lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận thức cho đúng mục tiêu,
và con đường tiến lên CNXH ở nước ta. ĐCSVN đã định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập
trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát
triển của LLSX của nước ta trong điều kiện hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất
trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước, và gắn phân công lao động trong nước với
quốc tế và khu vực, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng. Những thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong
20 năm đổi mới đã chính minh tính đúng đắn của đường lối đó.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa LLSX, phát huy nguồn lực
toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi ngành kinh tế, phát triển, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và
đào tạo, phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng
XH CN, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế trí thức, định hướng tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Với sự phát triển của LLSX, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Xu hướng tất yếu là
không dừng ở CNTB mà tiến lên CNCS. Việt Nam đang trong quá trình quá độ lên CNXH, vì thế chúng ta
cần hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chính trị và cơ cấu chính trị.
---------------------------------------------------------------------------------------------------Câu 8: Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng con người? Ý nghĩa
của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người:
Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà triết học tiền
bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới quan của CNDVBC, Mác
khẳng định: “ Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”.
Quan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con
người là: mặt sinh học và mặt xã hội.
+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải chung chung,
trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển của nó.

+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài
của thế giới vật chất.
+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang tính xã hội.
Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn
tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội.
+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao tiếp trong đời
sống xã hội.
2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về giải phóng con người
- Triết học Mác nói chung, của triết học về con người trong triết học Mác – Lênin nói riêng là vấn đề giải
phóng con người, từ giải phóng những con người cụ thể sẽ tiến đến giải phóng nhân loại.
- Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là giải thoát về mặt
tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài
tự nhiên - Chỉ là giải phóng ảo tưởng.
- Triết học Mác – Lênin xác định ‘bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con
người, những quan hệ của con người về với bản thân con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao
động bị tha hóa’.


- Giải phóng con người là xoá bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở về với chính
mình, phát triển bản tính chân chính của mình.
- Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế
giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóng con người.
3. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới:
+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:
+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các công cụ lao
động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người.
+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải biến thế giới,
bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất, cùng với sự phát triển của xã
hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân
tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử.

+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm nên. Để phát
huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau:
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp
và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá
nhân là động lực trực tiếp.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay
nghề.
- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cả
cộng đồng.
- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi
ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi
ích cá nhân người lao động. Nguồn lực con người là cơ bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH.(coi con người là
trung tâm của sự phát triển xã hội).
9.Thế nào là cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng. mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước
ta hiện nay ntn?
9..1. Khái niệm CSHT
Là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái KT-XH nhất định. CSHT của
hình thái KT-XH thường bao gồm 3 loại QHSX đồng thời cùng tồn tại.
• QHSX thống trị
• QHSX tàn dư
• QHSX mầm móng
CSHT bao gồm nền kinh tế nhiều thành phần Đặc trưng của CSHT là do QHSX thống trị quyết định;
QHSX thống trị giữ vai trò chỉ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX còn lại, nó tác động
trực tiếp tới xu hướng chung của đời sống KT XH. Trong XH có giai cấp đối kháng thì CSHT cũng có tính
chất đối kháng và xung đột giai cấp.
9.2.Khái niệm KTTT
Là toàn bộ những QĐ, tư tưởng về CT, tư tưởng, PQ, đạo đức, TG, nghệ thuật,… và các thể chế tương
ứng như Nhà nước, Đảng phái, đoàn thể, giáo hội,… được hình thành trên một CSHT nhất định. Mỗi yếu tố



×