Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

điều hành nghiệp vụ thị trường mở năm 20002014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.06 KB, 37 trang )

Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

1.

Lời mở đầu

Nền kinh tế Việt nam sau hơn hai mươi năm đổi mới đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng và to lớn, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Kết quả đó có sự đóng góp
rất lớn từ việc vận hành đúng đắn, chính xác chính sách tiền tề của ngân hàng nhà
nước. Trong đó nghiệp vụ thị trường mở là quan trọng nhất, bởi vì những nghiệp vụ
này là yếu tố quyết định nhất với những thay đổi trong cơ sở tiền tệ và là nguồn chính
gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ.
Tuy nhiên, hiện nay còn tồn tại các vấn đề về số lượng, chủng loại hàng hoá,
sức hấp dẫn của nghiệp vụ thị trường mở...do nghiệp vụ này còn quá mới mẻ ở Việt
Nam và chưa thu hút được sự quan tâm của mọi người.
Do đó tìm hiểu về nghiệp vụ thị trường mở là một việc rất cần thiết, mang đến
một hiểu biết đầy đủ tạo cơ sở để có thể đánh giá và đưa ra những giải pháp cho hoạt
động thực tế của chúng ta. Tuy nhiên hoạt động thị trường mở trong thời gian qua vẫn
bộc lộ một số hạn chế, nên việc nghiên cứu nhằm phát triển nghiệp vụ thị trường mở
của ngân hàng nhà nước Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách cả về phương diện lý luận
cũng như thực tiễn. Vì vậy, em xin lựa chọn đề tài tiểu luận: “ Điều hành nghiệp vụ thị
trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn 2000 - 2014”
2.
Mục tiêu nghiên cứu:
• Hệ thống hóa cơ sở lý luận về công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Trung
Ương.
• Phân tích, đánh giá thực tiễn về việc sử dụng công cụ thị trường mở của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam

Đề xuất các giải pháp và kiến nghị
3. Đối tượng nghiên cứu: Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.


4. Phạm vi nghiên cứu: nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
trong giai đoạn 2000-2014.
5.
Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp luận triết học: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử

Phương pháp khảo sát thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh tư duy logic
và khái quát vấn đề
6.
Kết cấu:
Chương I: Lý luận về nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 1


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

Chương II: Thực trạng điều hành nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà
nước từ năm 2000 đến nay.
Chương III: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành nghiệp vụ thị
trưởng mở của Ngân hàng Nhà nước

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 2



Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành chính sách tiền tề, thị trường mở ở
Việt Nam đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/07/2000, đánh dấu một bước phát
triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tề của Ngân hàng Nhà nước theo
phương pháp gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển nền kinh tế đất
nước.
Trong điều kiện của nền kinh tế Việt Nam, “nghiệp vụ thị trương mở là nghiệp
vụ Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua và bán ra các loại giấy tờ có giá ngắn hạn
nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất
ngắn hạn”. (Nghiệp vụ ngân hàng Trung Ương – Đại học kinh tế Quốc dân).
Do tính chất thời hạn của công cụ sử dụng trong NVTTM nên NVTTM không
chỉ được thực hiện trên thị trường tiền tệ (thị trường của các công cụ tài chính ngắn
hạn) mà còn được thực hiện trên cả thị trường vốn (thị trường của các công cụ tài
chính dài hạn) hay nói cách khác là được thực hiện thị trường tài chính.
Trong khái niệm này cũng không có thời hạn về chủ thể tham gia TTM là cá
nhân hay tổ chức. Vì bất kỳ đối tượng mà NHTW mua hoặc bán là ai thì NHTW vẫn
thực hiện được chính sách tiền tệ (CSTT) tác động đến cơ số tiền tệ làm tăng giảm
lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế , mà cụ thể hoạt động của nó được hình trình
bày ở phần tiếp theo.

2.
2.1


Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM
Hàng hoá
Phạm vi hàng hoá được giao dịch trên TTM
Về nguyên tắc, mọi tài sản có thể mua bán trên TTM vì chúng đều là tài sản thế


chấp. Tuy nhiên, khác với tái cấp vốn thông qua hình thức cho vay có đảm bảo ở chỗ
tài sản thế chấp trên NVTTM phải là tài sản có khả năng thanh khoản cao (tức khả
năng chuyển sang tiền mặt của tài sản) đảm bảo quản lý dễ dàng đồng thời đáp ứng
yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn. Tài
sản hội đủ các điều kiện như vậy chỉ có thể là công cụ tài chính thuật ngữ gọi là giấy tờ
có giá được sử dụng trên NVTTM mỗi nước có thời hạn là khác nhau.


Một số hàng hoá được giao dịch trên TTM ở Việt Nam
Theo điều 8, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 các loại giấy tờ có giá được
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 3


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

giao dịch thông qua TTM gồm:


Tín phiếu kho bạc



Tín phiếu ngân hàng Nhà nước



Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn do Thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thòi
kì.
Như vậy hiện nay chỉ có giấy tờ có giá ngắn hạn mới được sử dụng để giao dịch
trên TTM . Thực tế đó ở Việt Nam và một số nước khác là do thị trường tài chính chưa

phát triển nên NVTTM chưa có khả năng sử dụng các giấy tờ có giá dài hạn làm công
cụ của mình, về lâu dài, khi điều kiện pháp lý cho phép phạm vi giấy tờ có giá sẽ được
mở rộng không chỉ gồm các loại ngắn hạn mà các loại trung và dài hạn có thể xem xét
làm công cụ giao dịch, với điều kiện công cụ đó có khả năng thanh khoản cao.
Vì sao nói giấy tờ có giá trung và dài hạn sẽ được sử dụng trên TTM khi điều
kiện cho phép ? Ta biết rằng hành vi mua vào và bán ra giấy tờ có giá là hoạt động
thường xuyên trên TTM. Lúc này mua vào thì lúc khác bán ra, thậm chí NHTW có thể
thực hiện hành vi mua lại ngay lập tức sau khi hành vi bán được thực hiện nếu phát
hiện ra mình đã mua quá nhiều và vì vậy đã đưa tiền vào lưu thông quá mức cần thiết.
Và ngược lại thay hành vi bán bằng hành vi mua khi cảm thấy sự “ ngột ngạt, nghẽn
tắc” của hoạt động kinh tế vì không đủ cần thiết trong lưu thông mà nguyên nhân do
NHTW bán ra một số lượng giấy tờ có giá quá lớn. Chính vì hành vi mua bán trao đổi
thường xuyên các giấy tờ có giá tạo ra khả năng kết nối nhiều nguồn vốn ngắn hạn
thành vốn trung và dài hạn để thoả mãn nhu cầu của chủ thể kinh tế trên thị trường
vốn. Một nền kinh tế có thị trường chứng khoán, có thị trường tài chính phát triển thì
tính chất dài à hạn của nguồn vốn chỉ tồn tại ở phía người phát hành mà bản chất
nguồn vốn dài hạn này là một chuỗi các nguồn ngắn hạn tạo thành. Chúng ta không e
ngại khi mua chứng khoán trung và dài hạn thì vốn sẽ bị đọng lại một chỗ. Thời hạn
của giấy tờ có giá sẽ không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của CSTT vì đã có
phưong thức giao dịch theo hợp đồng mua lại trên TTM xử lý một cách thích hợp.
Như vậy có thể nói phạm vi hàng hoá trên TTM là không bị giới hạn. ở Việt Nam
và các nước khác cũng không nằm ngoài quy luật chung. Khi thị trường tài chính phát
triển thì giấy tờ có giá có giá trung và dài hạn sẽ được sử dụng làm công cụ của
NVTTM ở Việt Nam.

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 4


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ


2.2. Chủ thể tham gia NVTTM
2.2.1. Phạm vi thành viên tham gia NVTTM

Chủ thể tham gia NVTTM rất đa dạng và phong phú. Tuy vậy, cũng tuỳ thuộc vào
quy định riêng của mỗi nước mà các thành viên tham gia vào NVTTM là khác nhau.
Thông thường chủ thể tham gia bao gồm : NHTW, các tổ chức tín dụng, các tổ chức
phi tín dung, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân... nhưng không phải tất cả các chủ thể
đều có thể tham gia mà phải có những điều kiện cần thiết. Có 3 điều kiện để xem xét
phạm vi thành viên, đó là:
-

Thứ nhất : NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả

tiền mặt và tiên gửi , về mặt lý thuyết thành viên tham gia mua bán trong trường hợp
này được mở rộng không những chỉ gồm các tổ chức tín dụng mà còn cả các tổ chức
khác, thậm chí có thể cả các cá nhân miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi.
-

Thứ hai : nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng

đa năng như hệ thống tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay thì phạm vi thành viên
tham gia mở rộng đến tổ chức tín dụng là đủ .
-

Thứ ba: khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán, nếu cá nhân không có séc

hoặc tiền trên tài khoản gửi tại NHTW thì không thể tham gia mua bán được trên thị
trường mở, nếu tổ chức tín dụng(TCTD) không có mạng kết nối với NHTW trong điều
kiện giao dịch trên mạng thì cũng không thể trở thành thành viên.
2.2.2. Điều kiện tham gia thị trường mở ở Việt Nam

Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham gia
thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau. Những người
tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở. Những người tham gia vào Nghiệp vụ thị
trường mở:
• Các Ngân hàng thương mại.
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy
trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua thị
trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì:

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 5


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn gửi và
dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt
của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
• Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công ty tài
chính, quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập qua
việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn hạn hoặ dài
hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay
đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp
nhất.
Đó là động cơ của họ để tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
• Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để kiếm lời
trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại
chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… để kiếm

lời.
• Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá ngắn
hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các chứng
khoán phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi lãi suất
dự đoán.
• Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.
Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán
các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất kinh
doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua
nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.
• Ngân hàng Trung Ương.
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường
thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống
ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ.
Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều tiết hoạt động tín
dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh
doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện
theo đúng mục tiêu của nó.
• Kho bạc Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái
phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt động của
thị trường mở.
Theo điều 5, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 thì thành viên
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 6


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ


tham gia TTM phải có các điều kiện sau:
-

Có tài khoản tiền gửi tại NHTW

-

Có nối mạng máy tính với NHTW

-

Có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán

-

Chấp hành quy định NVTTM

-

Có đăng kí tham gia NVTTM
Các tổ chức tín dụng khi đượcNHTW công nhận là thành viên tham gia NVTTM

sẽ được cấp mã số chữ kí cho những người đại diện qua máy tính, máy Fax và mã số
chữ kí cho những người đại diện tổ chức tín dụng cũng như người tham gia giao dịch
thực hiện chế độ bảo mật với các giao dịch

3. Phương thức hoạt động thị trường mở
3.1. Phương thức giao dịch song phương
Tuỳ thuộc vào trạng thái khối lượng thị trường, NHTW tiếp cận NVTTM bằng
một trong hai hướng :

Dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHTW ngay lập tức
mua vào hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn(mua bán hẳn).
Nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ hoặc dự trữ trong
thời gian tới là thiếu ổn định thì NHTW thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền
tệ bằng các họp đồng mua lại đối với trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng
các giao dịch mua bán đảo ngược khi muốn giảm dự trữ tam thời.
Như vậy có hai hình thức giao dịch chủ yếu là hình thức mua bán hẳn và hình
thức mua bán có thời hạn.


Mua - bán hẳn : là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên

bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại. Với phương thức này,
chỉ được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại (tức thời gian thanh toán
còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá được mua, bán thông
qua nghiệp vụ TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định trong từng thời kỳ(ở Việt
Nam hiện nay là 90 ngày).


Mua bán có kỳ hạn(giao dịch có thời hạn): là việc bên bán bán và chuyển giao giấy tờ

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 7


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

có giá cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có giá
đó sau thời gian nhất định.
Theo cách chia này, thì hình thức mua bán có thời hạn bao gồm hai hình thức
là họp đồng mua lại và bán - mua đảo ngược mà các nước thường hay sử dụng. Trong

đó, họp đồng mua lại được sử dụng trong trường họp NHTW muốn tăng dự trữ tạm
thời còn hình thức bán- mua đảo ngược sử dụng trong trường hợp NHTW muốn giảm
dự trữ tạm thời.


Hợp đồng mua lại: khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực tiếp vào

việc ký họp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng
khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một
ngày nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách
tự động khi họp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ
vào hệ thống tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện họp đồng mua lại thường
là 7 ngày.


Bán- mua đảo ngược, khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao dịch theo

hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một họp đồng bán ngay
chứng khoán cho nhà môi giới và một họp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các
chứng khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện họp đồng thường là 7 ngày.
3.2. Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn
đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai
phương thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối
lượng .
3.2.1 Phương thức đẩu thầu khối lượng (đấu thầu với lãi suất cố định)
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp
vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có
giá mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :
NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có

giá cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 8


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

cần bán).
Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc
cần bán theo mức lãi suất do NHTW công bố
Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đon vị tham gia
dự thầu theo nguyên tắc sau :


Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khơi lượng dự
thầu.



Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hon khối lượng NHTW cần mua hoặc
cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ theo tỷ lệ thuận với
khối lượng dự thầu của các TCTD.
3.2.2.

Phương thức đẩu thầu lãi suất

Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở
khối lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc
cần bán.

NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua
hoặc cần bán.
Các đon vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần
mua hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần
trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ
tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại lãi suất sẽ được
sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.
Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường họp NHTW bán) và lãi suất

dự thầu thấp nhất (trường họp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối lượng giấy tờ có
giá NHTW cần mua hoặc cần bán.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc
theo lãi suất riêng lẻ:


Lãi suất thống nhất: là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi suất

trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.


Lãi suất riêng lẻ: khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi suất dự

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 9


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.

 Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :



Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khôi lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu.



Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua
hoặc cần bán thì khôi lượng trúng thầu của các TCTD được tính tỷ lệ thuận với khối
lượng dự thầu của các TCTD đó.

4. Các nhân tố ảnh hướng đến nghiệp vụ thị trường mở
a. Phạm vi thành viên tham gia


Thứ nhất, về lý thuyết, Ngân hàng trung uơng muốn can thiệp trực tiếp vào luợng
tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi thì thành viên tham gia mua bán
trong truờng họp này đuợc mở rộng không những chỉ gồm tổ chức tín dụng mà còn
cả các tổ chức khác, thậm chí có thể cả các cá nhân, miễn là họ có tiền mặt và tiền
gửi.



Thứ hai, nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo huớng đa
năng nhu hệ thống tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay thì phạm vi thành viên
tham gia mở rộng đến tổ chức tín dụng là đủ.



Thứ ba, khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán. Những cá nhân không có séc

hoặc tiền trên tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng trung ương thì không thể tham gia
mua bán được trên nghiệp vụ thị trường mở, nếu tổ chức tín dụng không có mạng
kết nối với Ngân hàng trung ương trong điều kiện giao dịch trên mạng thì cũng
không thể trở thành thành viên.

b. Phạm vi hàng hoá
Mọi tài sản có thể mua hoặc bán trên thị trường vì chúng đều là những tài sản
thế chấp. Nhưng tài sản thế chấp nghiệp vụ thị trường mở phải là tài sản có khả
năng thanh khoản cao, đảm bảo quản lý dễ dàng, đồng thời đáp ứng yêu cầu điều
hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn, đó chính là
các giấy tờ có giá. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định: Các công cụ
được sử dụng để giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở hiện nay là các tín phiếu
kho bạc nhà nước, tín phiếu ngân hàng nhà nước, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 10


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

có giá ngắn hạn khác.

c. Giá và lãi suất


Giá và lãi suất bao gồm giá mua, giá bán trên nghiệp vụ thị trường mở, các căn cứ
để xác định giá, quan hệ giữa giá và lãi suất, phương thức đấu thầu.



Giá và lãi suất là hai đại lượng ngược chiều nhau. Khi mua giấy tờ có giá, người
mua cần mua với loại có giá thấp, tức lãi suất cao, còn khi bán thì người bán muốn

bán với giá cao, tức lãi suất thấp.



Giá của giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy, lãi
suất cũng là một mục tiêu mà Ngân hàng trung ương cần quan tâm khi quyết định
phương thức đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở.



Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối luợng trên nghiệp vụ thị truờng mở tùy vào
mục tiêu của Ngân hàng trung ương. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng
và lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có
giá.

d. Phương thức giao dịch
Nghiệp vụ này cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian giao dịch và
một phương thức giao dịch tùy ý, phù họp với yêu cầu của chính sách tiền tệ.


Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi, biểu hiện sự trì trệ trong lưu
thông tiền tệ. Trong trường họp này, phương thức giao dịch sẽ là mua hoặc bán hẳn
giấy tờ có giá, nhằm tạo ra một sự chuyển động tiền tệ ban đầu cần thiết. Ngoài ra,
nghiệp vụ mua bán hẳn cho phép sửa sai bằng cách đảo ngược giao dịch: nếu phiên
giao dịch trước mua quá nhiều, thì phiên giao dịch này có thể bán để giải quyết số
chênh lệch đó và ngược lại.




Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân
như: thời vụ, thiên tai hoặc dự đoán tình hình khó chính xác...Để hạn chế các sai
sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch sẽ là phương thức mua, bán có
kỳ hạn gọi là họp đồng mua lại.

e. Trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ
Ngân hàng trung ương là người đề ra và vận hành chính sách tiền tệ. Đe kiểm
soát được lượng cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế, đảm bảo ổn định thị trường
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 11


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

tiền tệ, Ngân hàng trung ương không những chỉ sử dụng công cụ nghiệp vụ thị
trường mở mà còn sử dụng tổng họp các công cụ khác của chính sách tiền tệ như:
tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tín dụng, hạn mức tín dụng, tỷ giá hối
đoái. Trình độ phối họp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ đảm
bảo sự linh hoạt, hài hòa, chủ động trong việc sử dụng chúng sao cho có hiệu quả
nhất.

f. Công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán
Việc kết nối theo một chương trình phần mềm hiện đại trong nội bộ Ngân
hàng trung ương, giữa trưởng ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở, các ủy viên
và người trực tiếp điều hành sàn giao dịch, giữa Ngân hàng trung ương với các
ngân hàng thành viên, đảm bảo thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công
nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có
giá, tạo lập và ký họp đồng mua lại, đến khâu thanh toán chuyển tiền và làm các
loại thông báo, báo cáo... được thuận tiện. Có thể nói việc hiện đại hóa hệ thống
thanh tóan và mạng lưới thông tin trong ngành ngân hàng không những giúp cho
hệ thống ngân hàng phát triển mạnh, mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc thực

hiện và phát triển nghiệp vụ thị trường mở thành công.

5.

Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM
5.1 Khái niệm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng
Nghiệp vụ TTM được coi là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, có hiệu
quả nhất vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi
trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong lượng tiền cung
úng. Việc NHTW mua trên TTM làm tăng cơ số tiền tệ và do đó làm tăng lượng tiền
cung ứng, còn việc bán trên TTM thì thu hẹp cơ số tiền tệ và làm giảm lượng tiền cung
ứng. Vậy để hiểu rõ cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM chúng ta cần
lắm chắc các khái niệm về cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng :
Cơ số tiền tệ ( hay lượng tiền cơ bản (MB-Money Base) bao gồm lượng tiền trong

lưu thông (C) cộng với lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng (R ) (bao gồm
cả tiền dự trữ bắt buộc mà các NHTM gửi tại NHTW (RR) và dự trữ vượt quá nằm
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 12


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

trong két của các NHTM(ER)
Lượng tiền cung ứng( hay mức cung tiền (MS) là tổng số tiền có khả năng thanh

toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kì hạn tại các
NHTM(D).
Như vậy, mức cung tiền lớn hon nhiều so với lượng tiền cơ bản bởi do hoạt động “tạo
ra tiền” của các NHTM. Để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh sự sụp đổ, phá sản của
các ngân hàng, NHTW quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định (rr). Đó là số tiền

bắt buộc mà mỗi NHTW phải gửi ở NHTW trên tổng số tiền gửi của NHTM
5.2 Cơ chế tác động của NVTTM
NVTTM tác động lên cung tiền và lãi suất trên thị truờng bằng việc mua bán các
giấy tờ có giá trên TTM.
Khi NHTW thay mặt chính phủ đua chứng khoán ra thị trường thứ nhất để phát
hành, nhân dân và các tổ chức đem tiền mặt đến mua nck. Đó là nghiệp vụ bán trên
TTM của NHTW. Như vậy với nghiệp vụ này NHTW đã hút bớt một lượng tiền ra
khỏi lưu thông hoặc làm cho dự trữ của các TCTD giảm làm giảm khối lượng cho vay
tín dụng của các TCTD; qua đó ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, số nhân tiền tệ làm lượng
tiền cung ứng MS giảm và lãi suất trên thị trường tăng
Dĩ nhiên không phải đợi đến khi chính phủ nhờ phát hành, bản thân NHTW cũng
có chứng khoán riêng của nó do tích luỹ hoặc do các đơn vị khắc thế chấp . Khi cần
thu hẹp lượng tiền mặt ngoài lơu thông NHTW vẫn trực tiếp thực hiện nghiệp vụ bán
như một hoạt động bình thường.
Ngược lại với nghiệp vụ bán là nghiệp vụ mua, nếu NHTW muốn phát hành tiền
vào lưu thông quaTTM, nó đơn giản dùng tiền mặt mua chứng khoán trên thị trường
thứ cấp hoặc của các TCTD. Khi cá nhân hay tổ chức bán chứng khoán cho NHTW,
chứng khoán về tay NHTW ngược lại tiền mặt trong nền kinh tế tăng. Như vậy khi
mua chứng khoán trên TTM, NHTW đã thêm một lượng tiền vào lưu thông làm tăng
lượng tiền cung ứng và làm lãi suất thị trường giảm.
Phát hành tiền trên nghiệp vụ TTM cũng được coi là nghiệp vụ phát hành thanh

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 13


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

khiết. Bởi vì tiền mặt tăng thêm trong lưu thông đã được cân đối bởi lượng chứng
khoán, một dạng hàng hoá hay sản vật tăng thêm trong taì sản của NHTW. Đây là cách
phát hành tiền ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.


6.

Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ thị trường mở

 Ưu điểm:
− Thông qua việc mua – bán các GTCG NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường
tiền tệ, từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín
dụng.
− Sử dụng công cụ này đảm bảo độ linh hoạt và chính xác cao. Trong NVTTM, tác động
vào cung ứng tiền có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào để thay đổi dự trữ hoặc cơ số
tiền lớn hay nhỏ. NHTW có thể thực hiện bằng cách mua, bán khối lượng lớn hay nhỏ
chứng khoán. NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về
việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Ví

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 14


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

dụ: nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều giấy tờ có
giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán
trên thị trường mở. Việc tác động đến khối lượng tiền tệ có thể được hoàn thành nhanh
chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số
tiền hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
− NHTW luôn có thể chủ động số lượng tiền “bơm” vào hay “hút” ra khỏi lưu thông
bằng cách khống chế lượng mua và bán.Mặt khác tính linh hoạt còn thể hiện ở chỗ
NHTW vừa thực hiện mua ngay sau đó lại bán ngược lại.
− Khi sử dụng công cụ này, NHTW vẫn đảm bảo được tính cạnh tranh của NHTM đặc
biệt là trong đấu thầu lãi suất. Các ngân hàng tham gia nghiệp vụ thị trường mở một

cách tự nguyện theo các nguyên tắc của thị trường, không mang tính chất bắt buộc và
không phải chịu một “khoản thuế” như công cụ dự trữ bắt buộc.
Nghiệp vụ thị trường mở có hai loại: (1) nghiệp vụ thị trường mở năng động
được thực hiện với mục đích thay đổi dự trữ của hệ thống ngân hàng; (2) nghiệp vụ thị
trường mở hụ động thực hiện nhằm bù đắp lại những biến động của các nhân tố khác
ảnh hưởng đến dự trữ (ví dụ những biến động của tiền gửi của Chính phủ tại NHTW,
các can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá…). Hai loại
nghiệp vụ này giúp cho việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng của NHTW trở nên linh
hoạt hơn nhiều so với các công cụ ra đời trước đó.
Nhờ những ưu điểm nêu trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ
hữu hiệu nhất trong các công cụ của CSTT. Tuy nhiên, việc thực hiện công cụ này đòi
hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói
riêng. Ngoài ra, NHTW phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của
lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng.
 Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận được, nghiệp vụ thị trường mở còn
có những hạn chế nhất định như sau:
− Thị trường mở là một bộ phận của thị trường tài chính. Do vậy, công cụ này sẽ chỉ phát
huy tối đa hiệu quả khi có một thị trường tài chính phát triển. Hàng hoá của thị trường
phải phong phú, có khả năng đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Về bản

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 15


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

thân mình, NHTW phải có khả năng dự báo tốt vốn khả dụng của toàn bộ hệ thống
ngân hàng.
− Ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở tới cơ số tiền tệ có thể bị triệt tiêu bởi các tác
động ngược chiều nên dự trữ của ngân hàng không tăng – giảm tương ứng sau các hoạt

động mua – bán chứng khoán của NHTW. Các tác động ngược chiều này gồm có dòng
chảy ngược chiều của vốn do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc do số dư tiền
gửi của ngân sách tại NHTW tăng lên làm cho các hoạt động mua hoặc bán chứng
khoán của NHTW bị triệt tiêu một phần hoặc toàn bộ.
− Khi lãi suất thị trường giảm như là một kết quả do tiền trung ương MB tăng lên, không
phải lúc nào khối lượng tín dụng của nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Điều này
còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và ổn định của
môi trường đầu tư.
Vì vậy, mặc dù đây là một công cụ rất chủ động và có tính minh bạch của
NHTW song khả năng phát huy hiệu quả để đạt được các mục tiêu cuối cùng của
CSTT không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào NHTW mà còn bị chi phối bởi các yếu tố
môi trường vĩ mô, hành vi của công chúng và quyết định của NHTM nữa.
7. Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở


Tạo sự sôi động cho thị trường tài chính., phát triển thị trường tiền tệ. Thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở mở ra một kênh dẫn truyền vốn mới cho các tổ chức tín
dụng. Với sự tham gia của NHTW, thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá trở
nên sôi động hơn.



Như vậy, thị trường mở tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng nguồn vốn tạm
thòi nhàn rỗi hiệu quả hơn và đa dạng hoá thêm các nghiệp vụ kinh doanh của các
ngân hàng. Thị trường mở góp phần đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh của các
TCTD. Các TCTD không chỉ đơn thuần thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh truyền
thống như cho vay, bảo lãnh, dịch vụ ... mà còn sử dụng một nguồn vốn nhất định
để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh mới là mua bán các GTCG. Thị trường mở
cũng thúc đẩy các mối quan hệ mang tính kinh doanh giữa các thành viên tham gia
thị trường.




Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở giúp NHTW chủ động trong điều hành chính

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 16


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

sách tiền tệ thông qua mức cung tiền. Khi NHTW thực hiện mua bán CK trên thị
trường mở sẽ tác động đến cơ số tiền, từ đó làm thay đổi cung tiền. Thị trường mở
có tính 2 chiều, NHTW có thể bơm tiền hoặc rút tiền trong lưu thông.


Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng để điều chỉnh vốn khả dụng của Ngân
hàng. NHTW mua làm tăng cơ số tiền , đồng thời làm tăng cung tiền và tăng dự trữ
của hệ thống NHTM và ngược lại



Bên cạnh đó, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở còn giúp NHTW đánh tín hiệu ra
thị trường về điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai, định hướng và chỉ đạo
lãi suất thị trường, qua đó có thể hạn chế những biến động của lãi suất.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
1.

Thực trạng hoạt động thị trường mở giai đoạn 2000- 2014

Nếu như trong các năm 2000 - 2001 doanh số giao dịch trên thị trường mở còn
khiêm tốn, thì tù* năm 2002 - 2005, doanh số giao dịch tăng hàng năm trên 200%, năm
2004 bằng 2,92 lần năm 2003 và 16 lần năm 2001, năm 2005 doanh số giao dịch bắng
165,5 % so với năm 2004. Bên cạnh đó đến năm 2005 đã có 22 tổ chức tín dụng được
chúng nhận là thành viên NVTTM, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới khai trương
hoạt động; trong đó có 4 NHTM nhà nước, 10 NHTM cô phần, 1 ngân hàng liên
doanh, 5 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, lcông ty tài chính và quỹ tín dụng nhân dân
trung ương.
Phân tích thực trạng thời gian qua thì doanh số NHNN mua vào ngắn hạn các loại
giấy tờ có giá qua thị trường mở tăng nhanh qua các năm và nhìn chung tăng nhanh

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 17


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

hơn tốc độ tăng trưởng của tổng doanh số giao dịch NVTTM. Đặc biệt doanh số mua
vào năm 2004 tăng cao, bằng 6.18 lần so với năm 2003. Doanh số mua vào năm 2005
bằng 165,1% so với năm 2004. Thực tế đó đã chứng tó kết quả đôi mới của NHNN
trong điều hành chính sách tiền tệ, nhưng diễn biến thị trường cũng cho thấy các
NHTM thường xuyên thiếu vốn khả dụng
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002 Năm
2004 Năm 2005
Doanh số trúng thầu
mỗi

phiên
giao
dịch
NVTTM
giai2003
đoạnNăm
2000-2005
DS trúng thầu bình quân 173
82
105
198
504
649

DS trúng thầu cao nhất 250
DS trúng thầu thấp nhất 0

400

1.000

1.111

3.442

3.939

0

0


0

0

0

Qua diễn biến của bảng số liệu trên cho thấy doanh số trúng thầu bình quân của
từng phiên tăng lên qua các năm: năm 2000 đạt 173 tỉ đồng thì năm 2005 đã đạt 649 tỉ
đồng tăng 3,7 lần. Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện của thị trường tiền tệ ngày càng tăng.
Trước khi thực hiện các phiên đấu thầu khối lượng, ban điều hành NVTTM công
bố lãi suất để các thành viên đặt thầu mua bán giấy từ có giá. Lãi suất công bổ
này là lãi suất trúng thấu trong các phiên đấu thầu khối lượng thường chỉ có một
lãi suất nhất định. Tuy nhiên, do lãi suất trúng thầu đã được NHNN xác định nên các
thành viên không có sự lựa chọn về lãi suất khi giao dịch với NHNN và lãi suất này
chưa phản ánh được nhu cầu về vốn của các thành viên trên thị trường. Đây là một
nhược điếm của phương thức đấu thầu khối lượng trong giao dịch thị trường mở.
Năm 2006: NHNN đã thực hiện 162 phiên nghiệp vụ thị trường mở, với thời hạn
ngắn 7- 56 ngày, phương thức đấu thầu lãi suất. Tổng danh số giao dịch năm 2006
khoảng 124.234 tỷ đồng, tăng khoảng 21% so với năm 2005. Doanh số giao dịch bình
quân một phiên khoảng 767 tỷ đồng/phiên, tăng khoảng 18% so với năm 2005. Lãi
suất trúng thầu trong các phiên chào mua dao động trong khoảng 6.1-8.5%/năm. Lãi
suất trúng thầu trong các phiên chào bán có xu hướng giảm dần từ 4.5-5.0%/năm từ
đầu năm đến tháng 12/2006 còn 0.8-0.95%/năm. Nghiệp vụ thị trường mở được thực
hiện đều đặn 3 phiên/ tuần.
Đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của hoạt động ngân hàng và sự phát triển
nhanh chóng của công nghệ thông tin, từ năm 2003, Sở Giao dịch đã được Thống đốc
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 18



Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

NHNN giao Chủ đầu tư Dự án “Trang thiết bị máy móc, nối mạng và thiết kế phần
mềm nghiệp vụ thị trường tiền tệ và lưu ký GTCG tại Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà
nước - Giai đoạn I” do Quỹ Hỗ trợ Pháp và Ngân hàng Phát triển Châu Á tài trợ (gọi
tắt là Dự án AFD).
Đến tháng 11/2007, chương trình chính thức được đưa vào sử dụng, cho phép
các giao dịch thị trường tiền tệ nói chung và các giao dịch nghiệp vụ TTM nói riêng
được kết nối trực tiếp giữa NHNN và các thành viên, nhanh chóng và hiệu quả, tạo
điều kiện cho NHNN thực hiện nghiệp vụ TTM một cách kịp thời, thể hiện ở kết quả
hoạt động trong 5 năm qua, từ năm 2008 đến 2012.
Năm 2008: nghiệp vụ TTM được điều hành khá linh hoạt, kết họp với các công cụ

CSTT khác để điều tiết vốn khả dụng cho các TCTD ở mức hợp lí, góp phần ổn định
thị trường tiền tệ. Các nghiệp vụ TTM được thực hiện hàng ngày, chủ yếu thông qua
hình thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất nhằm ổn định thị trường.
Trong 7 tháng đầu năm, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn
182 và 364 ngày, với lãi suất phổ biến tương ứng lần lượt là 7,5%/năm và 7,75%/năm.
Đồng thời, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các TCTD, NHNN đã thực hiện các phiên chào
mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21 và 28 ngày); khối lượng chào mua hàng
ngày được xác định dựa trên nhu cầu vốn thanh toán và tình hình thị trường tiền tệ.
Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng
bước nới lỏng CSTT để thúc đẩy phát triển sản xuất. NHNN tiếp tục thự hiện các phiên
chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn 7 - 1 4 ngày với khối lượng và lãi suất phù họp vói các
loại lãi suất thời điểm đó.
Về hoạt động thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc: cả năm có 31 đợt đấu thầu

tín phiếu được tổ chức. Giá trị trúng thầu là 20.730 tỷ đồng, đạt 78% khối lượng chào
thầu và gần gan đôi giá trị trúng thầu năm 2007. Lãi suất trúng thầu giảm mạnh từ

15,7% xuống 8,38%.

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 19


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

Nguồn: Báo cáo thường niên của NHNN năm 2008
Năm 2009: nghiệp vụ TTM được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung -

cầu vốn của các TCTD. Các giao dịch nghiệp vụthịtrường mở được thực hiện hàng
ngày, chủyếu là các giao dịch mua giấy tờcó giá với kỳhạn ngắn (7, 14 ngày)
Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳhạn 14 ngày, lãi suất
giảm dần từ 9% xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều
kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu,
nhu cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên
nhu cầu tham gia các phiên chào mua nghiệp vụ TTM không cao với doanh sốtrúng
thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình
quân mỗi phiên đạt khoảng 1.000 tỷ đồng/phiên.
Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng tăng
cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào
mua qua nghiệp vụ TTM, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên chào mua tăng
mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6.000 tỷ đồng/phiên,
gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã
chào mua qua kênh nghiệp vụ TTMvới khối lượng bình quân xấp xỉ 15.000 tỷ
đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán tăng cao trong
dịp Tet dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt 7 ngày và 14 ngày với
lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và 7-8%/năm. Đồng thời, để chủ động kiểm
Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 20



Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong hệthống, NHNN
đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6
tháng; phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu
thầu bán tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số đạt 102 tỷ đồng.
Năm 2010: Tương tự năm 2009, các giao dịch nghiệp vụ TTM được thực hiện
hàng ngày, chủ yếu là các giao dịch mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14 và 28
ngày) với mục tiêu theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt; hỗ trợ vốn cho các TCTD,
hạn chế tình trạng thiếu vốn dẫn đến chạy đua tăng lãi suất.
Trong 9 tháng đầu năm 2010, chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn ngắn vói lãi suất
7% cho kỳ hạn 7 ngày; 7,5% cho kỳ hạn 14 ngày và 8% cho kỳ hạn 28 ngày. Khối
lượng chào thầu bình quân là 5.400 tỷ/phiên với mức trúng thầu bình quân là 3.200
tỷ/phiên.
Trong 3 tháng cuối năm 2010, NHNN chỉ còn chào mua kỳ hạn 7 ngày, với lãi
suất tăng dần từ 7% lên 10%. Khối lượng chào thầu bình quân là 7.160 tỷ/phiên với
mức trúng thầu bình quân là 6.970 tỷ/phiên.
Năm 2011: với mục tiêu là tiếp tục theo đuổi CSTT thắt chặt nhằm kiềm chế lạm
phát nhưng vẫn đảm bảo an toàn cho hệ thống các TCTD, trong suốt 9 tháng đầu năm
2011, NHNN chủ yếu chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn chỉ 7 ngày, lãi suất tăng
mạnh từ 10% vào năm ngoái lên 15%/năm. Khối lượng chào thầu bình quân là 8.400
tỷ/phiên với mức trúng thầu bình quân là 8000 tỷ/phiên.
Bắt đầu từ khoảng nửa cuối tháng 9, khi mà tốc độ tăng trưởng tín dụng được
kiểm soát theo kế hoạch, lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt, NHNN cho thấy động thái nới
lỏng trên TTM khi chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 và 14 ngày, lãi suất giảm 1%
còn 14%/năm. Khối lượng chào thầu bình quân là 3.400 tỷ/phiên, giá trị trúng thầu
bình quân khoảng 91%.
Năm 2012: Từ suốt tháng 3 đến trung tuần tháng 8, hoạt động của Ngân hàng Nhà


nước trên TTM rất ổn định, đột nhiên từ cuối tháng 8 cường độ và lưu lượng giao dịch
lại tăng đột biến.
Thị trường tài chính trở nên đầy rẫy bất ổn và nghi ngờ kể từ sau khi cơ quan

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 21


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

quản lý mạnh tay trấn áp nhóm tài phiệt thao túng các ngân hàng thương mại và vi
phạm các quy định về an toàn và lành mạnh tài chính.
Bên cạnh đó, NHNN cũng đã phát hành tín phiếu với kỳ hạn dài hơn, 28, 56 và
91 ngày, để hút lượng tiền dư thừa khoảng 200 nghìn tỷ đồng (do NHNN dùng để mua
xấp xỉ 10 tỷ USD) ra khỏi hệ thống NHTM. Tổng lượng tín phiếu chưa đáo hạn cuối
năm 2012 vào khoảng 53,5 nghìn tỷ đồng.
Năm 2013: Nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục được NHNN điều hành linh hoạt,
thận trọng để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán và
các thời điểm nhu cầu thanh khoản của các TCTD tăng cao; đồng thời điều tiết lượng
vốn khả dụng bằng VND dư thừa của các TCTD thông qua phát hành tín phiếu
NHNN, góp phần ổn định thị trường tiền tề, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định tỷ
giá, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tề trong từng thời kỳ.
Ngân hàng nhà nước thực hiện chào mua GTCG hàng ngày, chủ yếu là kỳ hạn
ngắn 7 ngày nhằm phát tín hiệu ổn định tâm lý thị trường và hỗ trợ một số TCTD gặp
khó khăn vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất chào mua được điều chỉnh
giảm từ 7.0-6.5-6.0-5.5%/năm phù hợp với mặt bằng các lãi suất điều hành của NHNN
và diễn biến lãi suất thị trường. Phương thức đấu thầy chủ yếu là đấu thầu khối lượng.
Khối lượng chào mua GTCG được điều chỉnh phù hợp với diễn biến vốn khả dụng,
diễn biến thị trường tiền tệ. Khối lượng trúng thầu bình quân khoảng 698 tỷ đồng/
phiên.

Các kỳ hạn tín phiều phát hành trong năm 2013 gồm: 28, 56, 91, 154 và 182
ngày. Khối lượng trúng thầu bình quân khoảng 1.583 tỷ đồng/phiên; lãi suất trúng thầu
của các kỳ hạn có xu hướng giảm, phù hợp với diễn biến lãi suất thị trường và tình
hình thanh khoản của hệ thống.
Năm 2014: ngày 20/11/2014, Kho bạc Nhà nước huy động thành công 473 tỷ
đồng trên 4.000 tỷ đồng gọi thầu. Trong đó, trái phiếu kỳ hạn 5 năm trúng thầu 215 tỷ
đồng trên 1.500 tỷ đồng gọi thầu, với mức lãi suất trúng thầu 5,3%/năm. Tại kỳ hạn 15
năm, Kho bạc Nhà nước đấu thầu thành công 258 tỷ đồng trên 1.000 tỷ đồng gọi thầu,

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 22


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

với mức lãi suất trúng thầu 7,50%/năm. Riêng kỳ hạn 10 năm không có trái phiếu
trúng thầu.
Nếu tính riêng từ 1/1/2014 đến nay, giá trị giao dịch của trái phiếu chính phủ và
tín phiếu kho bạc đạt 712,657 nghìn tỷ đồng và 13,535 nghìn tỷ đồng; tương đương
với giá trị giao dịch bình quân phiên đạt gần 3.254,14 tỷ đồng cho trái phiếu và 61,80
tỷ đồng cho tín phiếu.
Lãi suất của các tín phiếu đều giảm so với năm liền kề trước đó. Cụ thể, tính đến
hết tháng 9/2014, lãi suất của tín phiếu 7 ngày khi cho vay qua giao dịch repo ở
ngưỡng 5%/năm, giảm 0,5 điểm phần trăm so với đầu năm. Lợi suất của tín phiếu 28
ngày, 56 ngày và 91 ngày giảm lần lượt 140, 20 và 108 điểm cơ bản so với thời điểm
đầu năm, về mức 2,6%, 3% và 3,42%/năm tương ứng. Lãi suất trúng thầu trên thị
trường trái phiếu giảm mạnh kể từ cuối năm ngoái, tạo đà cho lợi suất của tín phiếu 28
ngày, 56 ngày và 91 ngày phát hành trên thị trường mở giảm theo.
Lãi suất của tín phiếu 7 ngày thông qua giao dịch repo được giữ ổn định ở mức
5,5%/năm từ đầu năm đến tháng 4, sau đó giảm còn 5%/năm và duy trì từ đó đến nay.
Về cơ bản, thông qua giao dịch repo, các ngân hàng thương mại sẽ cầm cố giấy tờ có

giá tại NHNN để vay đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, lãi suất trên
thị trường liên ngân hàng đang trong xu hướng giảm từ đầu năm, khiến lãi suất giảm
trên thị trường mở.

2. Phân tích mức độ hiệu quả của việc thực hiện nghiệp vụ Thị trường mở
2.1 Tác động đến lạm phát
Sau khoảng thời gian dài đàm phán, việc trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2007 đã tạo ra một kỳ vọng tăng
trưởng vô cùng mạnh mẽ cho nền kinh tế. vốn đầu tư, từ tiết kiệm của người dân
cũng như từ các nhà đầu tư nước ngoài, được dồn về thị trường tài chính một cách
nhanh chóng. Tổng dư nợ giữa năm 2007 là gần 1 triệu tỷ đồng, nằm trong khoảng
90% - 100% GDP năm 2007.
Tình hình tăng trưởng nóng, kèm theo đó là tác động của khủng hoảng kinh tế
thế giới, đã dẫn đến hậu quả tất yếu là lạm phát đã có những biến động khó lường
và dao động trong biên độ lớn. Lạm phát đạt mốc 12,7% vào năm 2007, sau đó

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 23


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

tăng lên mức kỉ lục 22,3% năm 2008 và giảm đột ngột xuống 6,9% vào năm 2009.
Để giảm thiểu thiệt hại và mất mát do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, năm 2009, Chính phủ đã nhanh chóng đưa ra các chính sách vĩ mô như:
CSTT, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thương mại... mà nổi bật nhất là gói
kích cầu nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định và duy trì hệ thống an
sinh xã hội. Đen năm 2010, độ trễ của chính sách này mới phát huy mặt trái khiến
tỷ lệ lạm phát lên mức 11,75% và năm 2011 tăng lên mức 18,13% so với cùng kỳ
năm 2010. Sang đến năm 2012, lạm phát lại giảm xuống mức 6,8% và ổn định đến
hết quý 1/2013.


Trước dấu hiệu lạm phát tăng nhanh từ đầu năm 2008, trên TTM, NHNN đã
thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày, với lãi suất phổ biến
tương ứng lần lượt là 7,5%/năm và 7,75%/năm. Đặc biệt, vào tháng 3/2008,
NHNN thể hiện sự mạnh tay trong việc kiềm chế lạm phát bằnng đợt phát hành tín
phiếu bắt buộc kỳ hạn 364 ngày. Đợt phát hành này đã rút 20.300 tỷ đồng ra khỏi
thị trường; đồng thòi, các TCTD cũng không được phép sử dụng tín phiếu này
trong nghiệp vụ tái cấp vốn với NHNN.
Nếu xét riêng về tác động kiềm chế lạm phát năm 2008, nghiệp vụ TTM
không có tác dụng. Khối lượng 20.300 tỷ đồng tín phiếu phải được các TCTD mua
trong một thời gian rất ngắn, gấp 20 - 40 lần con số 500 - 1000 tỷ đồng (là khối
lượng trúng thầu trong các phiên đấu thầu thường kỳ). Khối lượng phải mua lớn,

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 24


Tiểu luận môn Ngân hàng Nhà nước và chính sách tiền tệ

không được gia hạn mua, cộng với quy định không được sử dụng tín phiếu để tái
cấp vốn, buộc các TCTD nhỏ và trung phải đi vay trên liên ngân hàng, dẫn đến lãi
suất liên ngân hàng tăng cao (từ ngày 15 — 19/2, lãi suất vay qua đêm trên liên
ngân hàng tăng từ 30% lên 43%/năm), tạo áp lực lạm phát cho nền kinh tế, gây ra
tác động ngược vói mục tiêu điều hành. Kết quả là tháng 10/2008, NHNN lại cho
phép các TCTD giao dịch tái cấp vốn với NHNN bằng tín phiếu này; đồng thời cho
phép các TCTD rút tín phiếu trước hạn nếu có yêu cầu. Tiền quay trở lại hệ thống
khiến cho lạm phát năm 2008 không được kiềm chế mà tăng cao kỉ lục.
Sau giai đoạn sau đỉnh điểm lạm phát 2008, nghiệp vụ TTM được NHNN
điều hành khá linh hoạt nếu xét theo góc độ hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD với
các phiên đấu thầu diễn ra liên tục như đã phân tích ở phần 1. Kiểm soát lạm phát
cũng được xem là một trong những mục tiêu điều hành TTM, tuy nhiên hiệu quả

không cao. Cụ thể, để chủ động kiểm soát lạm phát năm 2009, NHNN đã thực hiện
chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng;
phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu
thầu bán tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số đạt 102 tỷ
đồng. Trong năm 2011, lạm phát cao và CSTT phải thắt chặt; do đó, các công cụ
TTM phải nhằm mục đích hút tiền về. Tuy nhiên, các TCTD đang khó khăn thanh
khoản và thiếu vốn để đảm bảo mục tiêu tăng truởng tín dụng, nên biện pháp hút
tiền về qua TTM không thực hiện đuợc. Nếu tiến hành bán tín phiếu bắt buộc sẽ lại
dẫn đến kết quả nhu năm 2008.
Trong năm 2012, tình hình kinh tế mang màu sắc ngược lại: lạm phát giảm
xuống nhanh dưới một con số, nền kinh tế hoạt động trì trệ, tăng trưởng tín dụng
quá thấp

Trần Văn Quang – Cao học TCNH TC07.T5Page 25


×