Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Lịch sử hình thành và thành tích của không quân Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.86 KB, 8 trang )

Lịch sử hình thành và thành tích của không quân Việt Nam
I.Lịch sử hình thành không quân Việt Nam.
1. Khái quát chung
Ngày 9 tháng 3 năm 1949: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh
Quân đội Quốc gia Việt Nam ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không
quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu.
Ngày 3 tháng 3 năm 1955: Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA
thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ngày
này được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam.
Ngày 24 tháng 1 năm 1959: Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành
Quyết định số 319/QĐ thành lập Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu
trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu Sân bay và Cục Hàng
không dân dụng Việt Nam.
Ngày 22 tháng 10 năm 1963: Cục Không quân chuyển thành Bộ Tư lệnh
Không quân (gồm một số binh chủng) thuộc Quân chủng Phòng không-
Không quân.
Ngày 16 tháng 5 năm 1977: thành lập Quân chủng Không quân. Quân
chủng Không quân gồm các binh chủng Không quân tiêm kích, Không quân
tiêm kích-bom, Không quân vận tải, Không quân trinh sát,... và tồn tại đến
năm 1999.
Từ ngày 3 tháng 3 năm 1999: trở lại là một thành phần (gồm một số binh
chủng) trong Quân chủng Phòng không-Không quân.
2.Sự hình thành các trung đoàn không quân tiêm kích
Ngay từ tháng 3 năm 1956, các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên
cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Đoàn học lái máy bay tiêm kích
có 50 người, do Phạm Dưng làm trưởng đoàn (sau này Đào Đình Luyện thay)
được cử sang học tập tại Trung Quốc.
Lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đầu tiên được thành lập là
Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, do Trung tá
1
Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy,


Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó. Trung đoàn này được huấn luyện
trên cao nguyên Vân Quý - Trung Quốc.
Đoàn không quân "Sao Đỏ" đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang góp phần
xứng đáng trong trận Điện Biên Phủ trên không
Ngày 3 tháng 2 năm 1964, lễ thành lập Trung đoàn không quân đầu tiên
được tổ chức tại Mông Tự, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ban đầu Trung đoàn
có 32 chiếc máy bay chiến đấu kiểu MiG-17, 4 chiếc máy bay kiểu MiG-15,
số phi công có 70 người, được đào tạo ở Trung Quốc trở về nước cùng với số
máy bay MiG-17A được viện trợ. Từ tháng 4 năm 1965 chuyển sang máy bay
MiG-21.
Ngày 4 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân tiêm kích thứ 2 là
Trung đoàn 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17
phi công MiG-17, do Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn
Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số
máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực. Đến cuối năm 1965, Không quân Việt
Nam có thêm một số máy bay MiG-21 do Liên Xô viện trợ, tuy nhiên, mãi
đến tháng 3 năm 1966, số máy bay này mới về đến Việt Nam. Từ năm 1979
Trung đoàn 923 trang bị máy bay tiêm kích-bom Su-22.Vào giữa thập niên
1990, do nhu cầu hiện đại hóa từng bước lực lượng không quân Việt Nam đã
2
mua một số Su-27 nhằm thay thế dần một số chiến đấu cơ Mig-21 đã hết hạn
sử dụng và nâng cao khả năng tác chiến của lực lượng không quân.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên
hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các
trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên
của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đến tháng 3 năm 1972, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 3 thành lập,
trung đoàn 927, mật danh Đoàn Lam Sơn.
Ngày 29 tháng 3 năm 1973, thành lập Sư đoàn phòng không 673 tại Trị-
Thiên.

Ngày nay quân chủng phòng không và quân chủng không quân hợp nhất
lại là: Quan chủng phòng không - không quân. Từ một đội bay vận tải (1954)
đến một trung đoàn không quân tiêm kích (1964), ngày nay không quân ta đã
trở thành một lực lượng hoàn chỉnh trong quân chủng PK - KQ bao gồm:
- Các sư đoàn không quân tiêm kích, tiêm kích bom.
- Các trung đoàn máy bay vận tải, trực thăng, trực thăng vũ trang.
- Hệ thống sân bay nằm trên các địa bàn quan trọng trên phạm vi
cả nước, đảm bảo cho tất cả các loại máy bay hiện đại hạ cánh, cất cánh.
- Hệ thống các nhà máy, kho tàng hiện đại, có thể sửa chữa lớn các
loại máy bay và sản xuất phụ tùng thay thế.
- Hệ thống các nhà trường đào tạo phi công, cán bộ tham mưu, cán
bộ kỹ thuật có trình độ đại học và sau đại học.
Như vậy, ta có thể thấy rằng lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam
đã có những bước phát triển nhanh và rất vững chắc.
II.Thành quả của không quân Việt Nam
Trong kháng chiến chống Mỹ, không quân làm nhiệm vụ tác chiến phòng
không, bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện cho miền Nam.Từ 1959÷1964,
tuy còn non trẻ, không quân ta đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng như:
bay chuyên cơ, vận chuyển trong nước và quốc tế. Đặc biệt. trong những năm
3
1960÷1962, không quân ta đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ bay tiếp tế, thả dù,
phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chiến đấu trên chiến trường Đông Dương.
Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của không
quân đế quốc Mỹ, không quân Việt Nam non trẻ phải đương đầu với một đối
tượng tác chiến dày dạn kinh nghiệm, có số lượng đông, được huấn luyện bài
bản, có trang bị kỹ thuật hiện đại.
Khi bước vào cuộc chiến đấu với không quân nhà nghề Mỹ, không quân
ta chỉ có một số lượng ít ỏi máy bay MIG-17 của trung đoàn không quân tiêm
kích 921 . Nhiệm vụ của không quân lúc này là sẵn sàng chiến đấu “mở mặt
trận trên không thắng lợi" đánh thắng trận đầu. Chủ trương của ta là lấy đánh

nhỏ để diệt địch và rèn luyện bộ đội. Những diễn biến trên không của cuộc
đối đầu giữa không quân ta và không quân Mỹ có thể được tóm tắt như sau:
- Ngày 3-4-1965 , không quân Mỹ đánh khu vực cầu Hàm Rồng (Thanh
Hoá). Chớp thời cơ, nắm chắc âm mưu thủ đoạn của địch, tận dụng yếu tố bất
ngờ, biên đội 4 máy bay MIG-17 đã xuất kích trận đầu, bắn rơi: 2 máy bay 8U
của không quân hải quân Mỹ, “Mở mặt trận trên không thắng lợi”. Ngày 3-4
trở thành ngày truyền thống của bộ đội không quân.
- Ngày 4-4 mặc dù địch đông hơn ta gấp bội, nhưng với ý chí quyết
thắng và tinh thần dũng cảm ngoan cường, 4 máy bay MIG-17 của ta đã bắn
rơi 2 máy bay F-105 (thần sấm) của không quân Mỹ. Đây là mốc lịch sử đánh
dấu bước phát triển của không quân ta.
- Trước đó 15-2-1965 các phi công của ta là Nguyễn Văn Ba và Lê Tiến
Phước đã dùng 1 máy bay T-28 ta thu được của địch bắn rơi 1 máy bay C-1
23 của Mỹ - Nguỵ trên vùng trời biên giới Việt Lào khi chúng bay vào thả
biệt kích trên lãnh thổ chúng ta.
- Từ tháng 4-1965 đến tháng 6-1966, không quân ta đã xuất kích chiến
đấu 24 trận, bắn rơi 26 máy bay các loại của Mỹ.
- Năm 1967-1968, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc một cách
toàn diện, quy mô lớn, liên tục và ác liệt hơn. Cuộc chiến đấu của không quân
4
ta ngày càng khẩn trương, quyết liệt, không quân ta vừa phải tập trung lực
lượng cùng với các lực lượng phòng không khác. Đánh bại các bước leo thang
của địch bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và chấp hành các nhiệm vụ khác, vừa phải
nổ lực nhanh chóng nâng cao chất lượng bộ đội để đáp ứng yêu cầu phái triển
về tổ chức và trang bị mới, để giành thắng lợi lớn hơn.
- Những trận đầu đánh thắng có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, quân sự
“hạ uy thế của không lực Hoa Kỳ "mở đầu truyền thống chiến thắng vẻ vang
của Không quân Nhân dân Việt Nam.
- Thời kỳ sau này không quân ta đã được trang bị máy bay tiêm kích
MIG-21 hiện đại hơn, lực lượng được bổ sung dồi dào hơn. Do đó ta đã mở

rộng phạm vi hoại động, đánh địch từ xa, trên nhiều hướng, nhưng vẫn giữ
được yếu tố bí mật, bất ngờ, càng ngày càng phát huy được tính năng và sở
trường của từng loại máy bay. MIG-21 đánh xa (ngoài phạm vi của hoả lực
phòng không ) với các phương pháp dẫn đường thích hợp dùng tốp nhỏ, chiếc
lẻ tiến công vào đội hình lớn của địch. Từ đó phát triển thành chiến thuật "
đánh nhanh thọc sâu”. MIG - 17 được chỉ đạo đánh gần, độ cao thấp, kết hợp
cơ động mắt bằng với động cơ thẳng đứng. Cơ động mặl bằng nhanh phải
thay đổi tâm lượn, tạo được yếu tố bất ngờ, đánh nhanh, rút nhanh, không
ham quần lâu với địch. Trong mọi trường hợp phải giữ tốt đội hình cảnh giới,
đánh có công kích, có yểm hộ, rút khỏi chiến đấu đúng lúc, đúng thời cơ, chú
trọng cơ động độ cao thấp, lợi dụng hoả lực cao xạ yểm trợ để về căn cứ an
toàn.
- Khi đánh hiệp đồng hai loại máy bay đã hỗ trợ chi viện cho nhau cả về
chiến thuật và hoả lực. Ví dụ trận đánh hiệp đồng giữa MIG-21 và MIG-17
ngày 23-08-1967 tại Tuyên Quang, Thanh Sơn (Vĩnh Phú).
- Ta đã dùng một biên đội 2 máy bay MIG-21 và biên đội 4 máy bay
MIG-17, hiệp đồng chiến đấu bắn rơi 4 máy bay Mỹ (2 máy bay F-4 và 2 máy
bay F-105).
5

×