Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.51 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................... 1
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................2
CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................3
I. Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp,
nông thôn của các nước đang phát triển ..................................................3
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp......................................................3
2. Vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế......................................3
3. Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đến phát triển nông nghiệp và
nông thôn...................................................................................................4
4. Kinh nghiệm của các nước đi trước......................................................4
4.1. Kinh nghiệm chung ở các nước đang phát triển............................4
4.2 Kinh nghiệm của một số nước cụ thể ...........................................6
II. Các chính sách kinh tế tác động đến phát triển kinh nông nghiệp và
nông thôn....................................................................................................11
1. Chính sách sử dụng đất nông nghiệp..................................................11
2. Chính sách hỗ trợ giá trong nước........................................................12
3. Chính sách bảo hộ nông nghiệp..........................................................14
3.1 Bảo hộ bằng thuế quan................................................................15
3.2 Bảo hộ bằng biện pháp phi thuế quan..........................................15
Tác động của các chính sách đối với Việt Nam...................................16
I. Chính sách đổi mới nông nghiệp, nông thôn.......................................16
II. Một số chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn .....................17
1. Chính sách ruộng đất ..........................................................................17
2. Chính sách thuế sử dụng đất ..............................................................19
3. Chính sách đầu tư ...............................................................................20
4. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn ............20
5. Chính sách giá ....................................................................................21
6. Tín dụng nông thôn và các dịch vụ tài chính .....................................26
Định hướng, kiến nghị của Việt Nam..................................................28
1


LỜI MỞ ĐẦU
Vào thế kỷ XXI, nông nghiệp vẫn tiếp tục là công cụ chính cho sự phát
triển bền vững và giảm nghèo, ¾ số người nghèo tại các nước đang phát triển
sống ở khu vực nông thôn- 2,1 tỷ người sống dưới mức 2$/ngày và 880 triệu
người sống dưới mức 1$/ngày. Sinh kế của họ hầu như phụ thuộc vào nông
nghiệp. Dù họ ở đâu và làm gì thì phát triển nông nghiệp vẫn là việc cấp bách
để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỉ về giảm một nửa số dân đang
phải chịu cảnh nghèo đói vào năm 2015 và tiếp tục giảm nghèo trên diện
rộng.
Việt Nam là một trong những nước có xuất phát điểm kinh tế thấp. Nền
kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế nói chung, ngành nông nghiệp Việt Nam đang có những bước chuyển
mình mạnh mẽ. Hàng loạt các chính sách phát triển của nông nghiệp – nông
thôn ra đời nhằm hỗ trợ, khuyến khích sự tăng trưởng đó. Và tuy nền nông
nghiệp rất rộng lớn, đa dạng và thay đổi nhanh chóng nhưng với các chính
sách đúng đắn và đầu tư hỗ trợ cấp địa phương, quốc gia và rộng hơn nữa là
toàn cầu, nông nghiệp vẫn tạo ra các cơ hội mới cho hàng trăm triệu người
nghèo nông thôn thoát nghèo.
Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận và xem xét lại một cách nghiêm túc
vấn đề phát triển nông nghiệp và coi đó như một vấn đề trung tâm của mục
tiêu phát triển quốc gia.
Với những lý do đó, nhóm chúng em – KH3 đã chọn đề tài “Sự cần
thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở
các nước đang phát triển. Những chính sách cơ bản của Chính phủ trong
thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghiên cứu tác động của các
chính sách này đối với việc phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta”
với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn TS Phạm Ngọc Linh, nhóm em đã nỗ
lực để hoàn thành bài viết. Mặc dù vậy, việc mắc phải những sai sót là điều
không thể tránh khỏi, vì vậy chúng em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp từ phía thầy giáo và các bạn để bài viết của nhóm em được hoàn

thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp,
nông thôn của các nước đang phát triển
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông
nghiệp đã có từ hàng nghìn năm nay kể từ khi con người bỏ nghề săn bắn và
hái lượm. Do lịch sử lâu đời này mà nền kinh tế nông nghiệp thường được nói
đến như nền kinh tế truyền thống.
Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người.
Lương thực là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra. Con ngưới
không thể sống thiếu lương thực và hơn cả là không có sản phẩm nào thay thế
lương thực được. Do đó nước nào cũng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương
thực.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện khách
quan. Nông nghiệp khác cơ bản với các ngành khác ở chỗ tư liệu sản xuất chủ
yếu là đất đai.
Ở các nước đang phát triển nông nghiệp tập trung nhiều lao động hơn
hẳn so với các ngành khác, trung bình thường chiếm từ 60%-80% lực lượng
lao động xã hội. Ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ là 75%.
2. Vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trong trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối
với các nước đang phát triển.
Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông
Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu,
đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương
thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông
nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế.

Khu vực nông nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát
triển kinh tế, với ý nghĩa lớn lao là vốn tích luỹ ban đấu cho công nghiệp hoá.
Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thị trường quan
trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu
dùng.
3
3. Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đến phát triển nông nghiệp và nông
thôn.
Thành công hay thất bại của những nỗ lực nhằm chuyển biến nền nông
nghiệp không những phụ thuộc vào khả năng sản xuất của người nông dân
trong việc nâng cao năng suất cây trồng và năng suất lao động mà quan trọng
hơn là phụ thuộc váo sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nông dân.
Trong nến nông nghiệp truyền thống người nông dân không muốn và
cũng không có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết
định sự chuyển động của nông nghiệp. Do đó, Chính phủ cần có chính sách
giúp đỡ về kĩ thuật và hướng dẫn họ thực hiện những biện pháp này.
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia
đình là chủ yếu. Do đó họ không có khả năng xây dựng các cơ sở hạ tầng. Để
giúp họ đầu tư theo mô hình lớn như hệ thống điện, đường sá, thuỷ lợi…
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho họ dưới nhiều hình thức đầu tư để tạo
điều kiện phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro cao do hoạt động sản xuất của nó phụ
thuộc nhiều vào yếu tố khách quan, như thời tiết,sâu bệnh… Mặt khác do đặc
điểm về sự co giãn của cung-cầu sản phẩm nông nghiệp thường làm cho giá
cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó, Chính phủ cần có chính sách bảo hộ và
trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất nông nghiệp.
4. Kinh nghiệm của các nước đi trước
4.1. Kinh nghiệm chung ở các nước đang phát triển
Chính sách kinh tế đối với nông nghiệp và nông thôn ở một số nước:

- Các chính sách tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, bao gồm:
• Chính sách về ruộng đất.
• Chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất, bao gồm các chính sách về
tín dụng, các chính sách tạo vốn, các chính sách hỗ trợ phân bón,
thuốc trừ sâu.
• Chính sách nghiên cứu, triển khai nông nghiệp nhằm giúp nông dân
nâng cao các kiến thức sản xuất.
• Các chính sách hỗ trợ đầu ra của sản xuất.
4
• Các chính sách đối với nông thôn, thủy lợi phí.
- Các chính sách tác động gián tiếp đến sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, bao gồm:
• Chính sách hỗ trợ, điều tiết sản xuất nông nghiệp, thông qua việc
thúc đẩy hay hạn chế xuất khẩu.
• Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế nông thôn.
• Chính sách trợ cấp lương thực và thực phẩm cho cho tiêu dùng (trợ
cấp tiêu dùng trong xã hội).
• Chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp – dịch vụ nông
thôn.
Bài học kinh nghiệm từ lý luận và thực tiễn các nước:
- Chính sách kinh tế của các chính phủ đối với nông nghiệp – nông thôn
thường thực hiện:
• Coi trọng phát triển sản xuất, tạo cơ sở đảm bảo an toàn lương thực
và những nhu yếu phẩm quan trọng nhất cho nông thôn và an toàn
xã hội.
• Trợ giúp nông dân nghèo ở nông thôn là tư tưởng chung nhất trong
chính sách đối với nông nghiệp – nông thôn.
- Cùng với khuyến khích phát triển sản xuất, chính sách phải hướng vào
tái tạo các nguồn lực đầu vào và bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sự phát
triển nông nghiệp lâu bền.

- Sự lựa chọn chính sách phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, đối với
từng khu vực nông thôn có trình độ phát triển khác nhau đóng vai trò quyết
định đối với sự thành công của các chính sách.
- Cải cách và đổi mới chính sách kinh tế đối với nông nghiệp – nông
thôn là quá trình liên tục, không có khuôn mẫu định sẵn cho bất kỳ nước nào.
Kinh tế nông nghiệp – nông thôn chỉ có thể phát triển thành công trong cơ chế
thị trường khi các thể chế hoạt động đồng bộ.
- Tất cả các chính sách mà chính phủ có thể áp dụng đều quan trọng và
cần thiết, song nên tập trung vào các chính sách :hỗ trợ vốn, kĩ thuật sản xuất;
chính sách giá cả, thị trường; chính sách dầu tư cơ sở hạ tầng; chính sách
nhằm giảm điều tiết kinh tế nông thôn và thực hiện bảo trợ sản xuất.
5
Những phân tích về cơ sở khoa học và kinh nghiệm của các nước cả về
mặt thành công và chưa thành công là cơ sở quan trọng để nghiên cứu, xem
xét các chính sách của nước ta trong giai đoạn đổi mới vừa qua, đồng thời là
căn cứ để tiếp tục kiến nghị toàn diện hệ thống chính sách trong giai đoạn
mới.
4.2 Kinh nghiệm của một số nước cụ thể
Phát triển là sự kế thừa và phát huy. Không một đất nước nào có thể phát
triển trong sự tách biệt với các nước khác. Việt Nam cũng vậy. Trong công
cuộc phát triển nông nghiệp – nông thôn, những bài học và kinh nghiệm có
được từ những nước đi trước luôn là một trong những bài học quý giá góp
phần vào hình thành sứ mệnh này. Việt Nam đang ở trong thời kỳ quan trọng
để chuẩn bị cất cánh. Những bài học điển hình mà Việt Nam có thể học hỏi là:
Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan.
a. Trung Quốc
Trung Quốc là một nước lớn, dân số đông. Vì vậy vấn đề tam nông
(nông nghiệp- nông thôn- nông dân) đã trở thành vấn đề cơ bản của Cách
mạng và xây dựng của Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước
láng giềng có nhiều điểm tương đồng, công cuộc cải cách ở Trung Quốc và ở

Việt Nam đều bắt đầu từ nông thôn. Trải qua 3 năm cải cách ở Trung Quốc,
22 năm đổi mới, nghiên cứu về tam nông và xử lý vấn đề tam nông ở Trung
Quốc vừa có ý nghĩa khoa học, vừa mang tính thực tiến sâu sắc, góp phần gợi
mở những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.
Trong quá trình thực hiện “bốn hiện đại hóa”, Trung Quốc bắt đầu cải
cách ở nông thôn trước bằng việc khoán sản lượng tới hộ. Do được làm chủ
ruộng đất, tự chủ làm ăn, tính tích cực sản xuất của người nông dân được phát
huy, sản xuất lương thực nhanh chóng tăng lên, đời sống nhân dân chưa từng
có sự cải thiện khá rõ nét.
Một số chính sách đã được triển khai ở Trung Quốc và mang lại kết quả
đáng kể:
- Bằng việc xóa bỏ thuế nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc đã chấm
dứt lịch sử nông dân làm ruộng mà phải nộp thuế. Sản lượng lương thực tăng
liên tục bốn năm liền 2007: 500 triệu tấn với việc xóa bỏ thuế nông nghiệp,
gồm cả thuế chăn nuôi, thuế đặc sản, mỗi năm giảm nhẹ gánh nặng đóng góp
cho nông dân 133,5 tỷ nhân dân tệ.
6
- Trung Quốc cũng toàn diện thực hiện giáo dục nghĩa vụ (9 năm) miến
phí: không phải nộp học phí , không phải mua sách giáo khoa 150 triệu học
sinh của những gia đình khó khăn được trợ cấp sinh hoạt phí toàn phần hoặc
một phần. Cơ bản giải quyết được nạn tráng niên bị mù chữ tại miền Tây.
- Thành lập được bước đầu hệ thống y tế công và hệ thống dịch vụ khám
chữa bệnh cơ bản khắp nông thôn. Cải tạo và xây dựng mới 188.000 trạm y tế
hương, trấn trang bị thêm thiết bị y tế cho 117.000 trạm y tế hương, trấn…
Điều kiện khám chữa bệnh ở nông thôn được cải thiện rõ rệt. Chế độ hợp tác
chữa bệnh kiểu mới ở nông thôn được xác lập, đã mở rộng tới 87% huyện với
730 triệu nông dân tham gia.
- Hệ thống dịch vụ văn hóa công nông thôn bước đầu hoàn thiện.
- Hỗ trợ việc học nghề cho các tầng lớp thu nhập thấp trong toàn xã hội
66,6 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm tài chính của chính quyền trung ương, trong

đó, phần đáng kể giành cho nông dân. Trung bình mỗi năm giúp 8 triệu lao
động nông thôn có việc làm.
- Thành lập chế độ bảo đảm mức sinh hoạt thấp nhất ở nông thôn từ năm
2007. Hơn 35,5 triệu nông dân được đưa vào phạm vi bảo hiểm này. Cấp cho
“ tam nông” 1.600 tỷ nhân dân tệ trong 5 năm tài chính của chính quyền trung
ương, trong đó dùng cho xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn là gần 300 tỷ nhân
dân tệ. Xây mới và cải tạo 1,3 triệu km đường nông thôn, giải quyết cho 97,88
triệu cư dân nông thôn gặp khó khăn trong việc cung cấp nước uống và nước
uống không an toàn.
- Trong 5 năm qua, đời sống nhân dân có sự cải thiện đáng kể, được
nâng từ mức trung bình toàn quốc 2.622 nhân dân tệ/đầu người/năm (năm
2003) lên 4.140 nhân dân tệ (năm 2007)
Các chính sách cải cách thành công đã đem lại những thành tựu to lớn
trong sản xuất nông nghiệp. Tổng giá trị sản lượng thuần (đã trừ đi lạm phát)
của nông – lâm - ngư nghiệp1997 tăng 3,4 lần so với 1978, bình quân tăng
6,6%/năm, gấp 2,8 lần tốc độ tăng giai đoạn trước cải cách. Trong giai đoạn
1978 – 1997, sản xuất lương thực tăng bình quân 2,6%/năm cao hơn mức tăng
dân số1,5%/năm khiến bình quân lương thực đầu người tăng từ mức 306
kg/người năm 1957 lên 402kg/người năm 1997, sản lượng bông tăng
4%/năm… Năm 1998, Trung Quốc đứng đầu thế giới về nông sản chủ yếu:
lương thực, thịt, bông, lạc…Nhờ sản xuất phát triển mức tiêu dùng thịt, trứng,
sữa của người Trung Quốc đã đạt mức trên mức chỉ tiêu trung bình thế giới,
thu nhập của người nông dân tăng 16 lần trong 20 năm cải cách. Nhà Nước
7
Trung Quốc đã làm nên kỳ tích góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu ăn, măc
cho 1,2 tỷ dân có mức sống ngày càng tăng tạo cơ sở căn bản cho quá trình
công nghiệp hóa.
b. Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, 60% dân số Hàn Quốc ở nông
thôn.Trong đó tuyệt đại đa số là tá điền.Hầu hết ruộng đất thuộc sở hữu của

giai cấp địa chủ. Cuối những năm 40, chính phủ Hàn Quốc ban hành Luật cải
cách ruộng đất với hai điểm cơ bản: giới hạn quyền sở hữu ruộng đất không
quá 3 ha và cấm hình thức thuê tá điền để canh tác, tuy nhiên cuộc cải cách
này chỉ được thực hiện nửa vời. Cùng thời gian đó, một số chính sách có lợi
cho sự phát triển nông thôn của chính quyền Păc-chung-hi được ban hành
:Ngân hàng Nhà Nước cùng với các hợp tác xã tín dụng đã phát triển vốn đầu
tư , góp phần thúc đẩy tỉ lệ tăng trưởng từ 1,6% thời kì 1957-1960 lên 8,8%
thời kì 1962-1965. Đời sống của hàng chục triệu nhân dân được cải thiện, tạo
ra thị trường nội địa rộng lớn cho việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu . Nhưng từ cuối những năm 60 Hàn Quốc quyết định
chuyển sang áp dụng chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Chiến
lược này đã làm giảm thu nhập của các hộ nông dân và gây ra làn sóng phản
đối mạnh mẽ. Để trấn an tinh thần trong cả nước, chính quyền Hàn Quốc đã
đề ra chương trình phát triển nông thôn với các chính sách để tăng số tiền cho
nông dân vay, mua ngũ cốc của nông dân với giá cao và bán lại với giá thấp,
thay giống lúa cũ bằng giống lúa mới năng suất cao, khuyến khích xây dựng
cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các hợp tác xã sản xuất và
các đội lao động để sửa chữa cầu cống, đường xá và nâng cấp nhà ở. Thời
gian đầu, chương trình này đã đem lại một kết quả tích cực. Tuy nhiên sau đó
lại bộc lộ những khuyết tật đáng kể. Chính sách trợ giá quá mức cho nông sản
đặc biệt là việc thu mua lúa gạo của nông dân đắt gấp đôi giá thị trường thế
giới, đã làm cho Ngân sách Nhà Nước thiếu hụt ngày càng lớn. Việc thay thế
giống lúa mới tuy đạt được sản lượng cao hơn nhưng nông dân lại phải vay nợ
để mua phân bón hóa học và thuốc trừ sâu. Còn việc thành lập các hợp tác xã
và các hộ lao động phần nhiều không dựa vào cơ sở tự nguyện của người dân
mà do sự thúc ép của chính quyền các cấp để chạy theo các chỉ tiêu của
chương trình xây dựng “cộng đồng mới” ở nông thôn. Như vậy, Nhà nước
Hàn Quốc từ chỗ là một nhân tố góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của nền
kinh tế quốc dân trong một thời gian đã biến thành” vật hy sinh” của chiến
lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu. Tất cả các nhân tố nói trên đã làm

8
sản xuất Nhà Nước sa sút và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Sự chênh
lệch về mức thu nhập bình quân/ hộ gia đình, chất lượng hộ gia đình, phúc lợi
xã hội và các dịch vụ công cộng khác… thúc đẩy phần lớn lực lượng lao động
trẻ rời nông thôn đổ xô ra thành thị. Sự bất mãn của nông dân tăng lên dẫn
đến cuộc biểu tình lớn biến thành náo loạn trước trụ sở Quốc hội Hàn Quốc ở
Seoul 1988.
Để làm dịu bớt tình hình, các chính quyền tiếp theo ở Seoul phải điều
chỉnh chiến lược kinh tế xã hội theo hướng coi trọng tầm quan trọng của phát
triển nông thôn. Kế hoạch “ mười năm cải tiến cơ cấu nông thôn” đã được
đưa ra nhằm cụ thể hóa “ Kế hoạch tổng thể về phát triển toàn diện nông
thôn”.
Kế hoạch bao gồm bốn điều lớn:
- Thứ nhất: Cải thiện cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hóa
và công nghiệp hóa nông thôn. Coi trọng áp dụng công nghệ sinh học (kỹ
thuật gien) trong các ngành trồng trọt và chăn nuôi, mở rộng khả năng chế
biến, tiếp thị nhằm biến nông nghiệp Hàn Quốc thành ngành phát triển toàn
diện, có chức năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
- Thứ hai: Thông qua các chính sách ưu tiên về đào tạo, tuyển dụng và
biện pháp khác để thu hút thêm lao động trẻ vào sản xuất nông nghiệp, giữ
một tỷ lệ thích đáng thanh niên ở lại nông thôn.
- Thứ ba: nới lỏng những hạn chế pháp lý đối với quyền sở hữu ruộng
đất tối đa để mở rộng các quy mô trang trại cùng với quá trình thúc đẩy cơ
giới hóa các hoạt động canh tác.
- Thứ tư: nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư nông thôn lên
ngang với mức bình quân của một hộ làm công ăn lương ở thành phố. Đồng
thời cải thiện chất lượng các dịch vụ…
Để thực hiện kế hoạch trên, chính phủ Hàn Quốc đã chi ra trên 42 tỷ won
tương đương với 52,5 tỷ USD trong giai đoạn 1992-1998.
Tóm lại, mặc dù đã trở thành một nước công nghiệp mới, Hàn Quốc vẫn

coi trọng phát triển nông nghiệp nông thôn để đảm bảo cân đối hợp lý trong
toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế xã hội.
c, Đài loan:
Trong số các nước Nics , Đài Loan được đánh giá là nước có mô hình
thành công nhất về việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp/ đô thị
với nông nghiệp/ nông thôn. Đài Loan không có các điều kiện tự nhiên thuận
lợi, sau cuộc chiến tranh Trung- Nhật 1985 Đài Loan trở thành thuộc địa của
9
Nhật và sau này khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản rời khỏi
Đài Loan, chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng lên nắm quyền cai trị ở đây.
Với viện trợ kinh tế, tài chính và bảo hộ quân sự ở Mỹ, chính quyền Đài Loan
đã cố gắng tìm ra các chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp. Kết quả
chỉ trong vòng hơn 3 thập kỷ, Đài Loan từ một nước nông nghiệp kém phát
triển , nơi ngự trị của giai cấp địa chủ phát canh thu tô , đã trở thành một
trong 4 con rồng châu Á.
Từ 1952-1990 sản lượng nông nghiệp tăng 4,5 lần, sản lượng công
nghiệp tăng 50 lần. Tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 56% tổng lao động xã
hội 1952 giảm xuống còn 12,95% năm 1990 nhưng tổng sản lượng nông
nghiệp lại tăng từ trên 700 triệu $ lên 12 tỷ $ riêng nông sản xuất khẩu đã tăng
từ 114 triệu $ lên trên 4tỷ $.
Để đạt được các thành tựu trên, Đài Loan đã sử dụng các giải pháp và
biện pháp sau:
- Một là: đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện cho việc hình
thành các trang trại với quy mô nhỏ bằng cách : giảm tô cho tá điền từ 50%
xuống còn 37,5 % thu hoạch chủ yếu, bán chịu cho nông dân ruộng đất công
cộng, trưng mua số ruộng đất của địa chủ vượt quá giới hạn quy định ( 3ha
đối với ruộng nước, 6 ha đối với ruộng cạn) để bán lại cho nông dân theo
phương thức trả dân.
- Hai là: đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông
thôn. Việc đem lại ruộng đất cho người làm ruộng đã làm cho nông dân “

biến cát thành vàng” tạo điều kiện cho việc thực hiện chiến lược công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu (giai đoạn 1953-1962) đồng thời cho phép người nông
dân có thể bỏ một phần tích lũy để thực hiện một nền nông nghiệp đa canh.
- Ba là: đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát
triển nông thôn. Trong nhiều thập kỷ, Đài Loan rất coi trọng phát triển rộng
rãi mạng lưới giao thông vận tải – cả đường bộ, đường sắt đến khắp các vùng
nông thôn, tạo điều kiện cải thiện hoạt động sản xuất, sinh hoạt ở nông thôn,
đồng thời cho phép mở mang các cơ sở công nghiệp ngay tại xóm. Từ những
năm 1970, chế độ giáo dục bắt buộc đã được kéo dài từ sáu thành chin năm.
Trình độ học vấn của dân cư nông thôn và đô thị được nâng cao đáng kể.
- Bốn là: chú ý phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước, không
tập trung quá mức vào những khu vực công nghiệp và đô thị khổng lồ.
Hầu hết các cơ sở công nghiệp nhỏ vẫn được đặt tại các thôn xóm. Cách
làm đó vừa không đòi hỏi bỏ vốn đầu tư lớn để xây dựng các cơ sở công
10
nghiệp tại thành phố, vừa làm cho các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ có thể thích
ứng nhanh với sự biến động của thị trường trong và ngoài nước. Nhiều cơ sở
cỡ trung bình và lớn cũng được rải đều ra các thành phố nhỏ và trung bình.
Chiến lược này đã góp phần làm giảm sự chênh lệch về thu nhập trung bình
giữa 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất từ 15/1 trong những
năm 1950 xuống còn 4/1 đầu những năm 1990.
- Năm là: Lựa chọn phương thức sử dụng đất phù hợp với các loại hình
hợp tác tự nguyện để đẩy mạnh công việc khuyến nông.
Công nghiệp hóa đặt ra yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất của các trang
trại gia đình nhằm ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, giảm chi phí sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm. Nhưng đối với người dân Đài Loan, ruộng đất vẫn
được coi là cơ sở quan trọng để đánh giá vị trí mọi gia đình trong xã hội. Do
đó, mặc dù nhiều người đã chuyển sang làm những nghề phi nông nghiệp, có
thu nhập cao hơn nghề nông nhưng họ vẫn muốn giữ ruộng đất để truyền lại
cho con cháu. Thong tình hình ấy, người Đài Loan đã tìm ra giải pháp tích tụ

ruộng đất để truyền lại ruộng đất bằng cách chuyển quyền sử dụng đất cho
người khác, nhưng chủ ruộng đất vẫn giữ quyền sở hữu. Người ta gọi đó là
phương thức sản xuất ủy thác. Người dân này nhận ruộng đất ủy thác của
người khác để mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
tăng năng suất lao động, tăng thu nhập. Đến nay có khoảng ¾ số trang trại đã
áp dụng phương thức này.
II. Các chính sách kinh tế tác động đến phát triển kinh nông nghiệp và
nông thôn
1. Chính sách sử dụng đất nông nghiệp
Đất đai luôn là tài sản chủ yếu của nông dân, đặc biệt là người nghèo ở
nông thôn, nó là cơ sở cho các hoạt động kinh tế xã hội và sự vận hành của thị
trường. Các thể chế liên quan đến đất đai, chính sách đất đai luôn chịu tác
động của sự không hoàn hảo của thị trường
Nói đến chính sách đất đai trong nông nghiệp trước hết là nói đến quyền
sở hữu, quyền sử dụng đất đai cảu người nông dân, đó là yếu tố quan trọng
trong các chính sách đất đai và quyết định đến cai trò của các chính sách này:
Thứ nhất, việc đảm bảo quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai sẽ tăng
cường khuyến khích các hộ gia đình và cá nhân đầu tư cũng như thường
xuyên tạo cho họ khả năng tiếp cận tốt hơn với tín dụng.
11

×