Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Đề tài quy trình và phương pháp nuôi cá biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 93 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Trong những năm gần đây, tình hình ni tơm ở nước ta đã và đang gặp một
số khó khăn nhất định. Môi trường ô nhiễm, dịch bệnh lây lan ngày càng
nghiêm trọng, khó giám sát, quản lý. Cộng đồng dân cư ở các vùng nuôi tôm
trước đây đang gặp nhiều khó khăn về đời sống, nợ nần khơng có khả năng chi
trả. Để góp phần cải thiện và phát triển ổn định nghề nuôi trồng thủy sản ở Việt
Nam, vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu phát triển đa dạng hóa các đối tượng
ni, các hình thức nuôi, luân canh xen vụ. Để tận dụng hệ thống ao đìa ni
tơm đang bỏ khơng, hoang phí, đồng thời đẩy mạnh phát triển nuôi cá lồng trên
biển, việc nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản, sản xuất giống nhân tạo và
ni thương phẩm các lồi cá biển có giá trị kinh tế là vấn đề hết sức cần thiết
và cấp bách hiện nay.
Việt Nam có lợi thế bờ biển dài 3260km với nhiều eo vịnh, nhiều diện tích
đất ven biển cho nên rất thuận lợi để phát triển nuôi cá biển cả về nuôi lồng
trên biển và nuôi trong ao đất. Mặt khác, chúng ta còn gần thị trường tiêu thụ
cá biển sống lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản. Cho nên
phát triển nuôi biển là một trong những định hướng của nước ta từ nay đến
2010. Nhưng thực tế trong những năm vừa qua tốc độ phát triển của ngành còn
chậm và chưa phát huy được tiềm năng và lợi thế. Theo thống kê của Bộ Thuỷ
sản, sản lượng cá biển nuôi của Việt Nam năm 2004 mới chỉ đạt 13.865 tấn
trong khi đó mục tiêu đề ra đến 2010 sản lượng ni phải đạt 200.000 tấn. Qua
đánh giá phân tích thì có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tuy nhiên một trong
những yếu tố quan trọng để Việt Nam chưa đẩy nhanh được tốc độ phát triển
nuôi cá biển là chưa chủ động được con giống (Lê Xân, 2006).
Bên cạnh việc quy hoạch, sắp xếp lại và định hướng phát triển nuôi trồng
thủy sản bền vững, nghề nuôi cá biển ở nước ta bắt đầu có những bước phát
triển đáng kể. Nhiều lồi cá có giá trị kinh tế đã và đang được nghiên cứu ni
như: cá Mú (Epinephelus spp) cá Giị (Rachycentron canadum), cá Hồng
(Lutjanus erythropterus), cá Đù Mỹ (Scyaenops ocellatus), cá Chẽm (Lates
calcarifer), cá Chẽm Mõm Nhọn (Psammoperca waigiensis) cá Cam (Seriola
spp),…Một số đối tượng đã được đưa vào sản xuất trên qui mơ lớn, góp phần


vào việc tăng sản phẩm xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa. Các loài
cá thuộc họ cá Sơn Biển (Centropomidae) mà điển hình là cá Chẽm (Lates
1


calcarifer) đã được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau. Hiện đã có qui
trình sản xuất giống nhân tạo và ni thương phẩm hồn thiện.
Hiện nay, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá biển ở nước ta
mới bắt đầu hình thành, từng bước được cải thiện, nâng cao và tiếp thu kinh
nghiệm của thế giới. Nên các qui trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và ni
thương phẩm chưa được hồn thiện. Cơng trình ni (cụ thể là lồng nuôi) đa
phần là qui mô nhỏ đơn giản. Kỹ thuật nuôi biến đổi hàng ngày và phát triển
một cách đa dạng tùy theo điều kiện từng vùng. Vì vậy, trong phạm vi cuốn sách
này khơng thể cung cấp đến độc giả tất cả những cải tiến kỹ thuật, những giải
pháp kỹ thuật đặc thù theo từng địa phương, những biến đổi liên tục qua từng
vụ, từng năm…Chúng tôi hy vọng với những đặc điểm sinh học cơ bản của các
đối tượng cá biển nuôi, những qui trình kỹ thuật cũng như kinh nghiệm sản
xuất, được trình bày trong tài liệu này sẽ giúp cho bạn đọc tích lũy và hệ thống
được các kiến thức cần thiết để tìm hiểu sâu hơn về các đối tượng cá biển nuôi.
Hiểu rõ hơn và nắm được các bước cơ bản, chủ yếu của các qui trình kỹ thuật
ni, thơng qua đó dễ dàng tiếp cận với bất cứ một giải pháp kỹ thuật nuôi mới
hoặc một phương pháp nuôi mới nào khác, để cải tiến, áp dụng đẩy mạnh nghề
nuôi cá biển phát triển nhanh, ổn định và bền vững.
Trong q trình biên soạn, chúng tơi đã sử dụng các tư liệu, các kết quả
nghiên cứu về sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá biển của nhiều tác giả
trong và ngồi nước. Tuy nhiên, có một số vấn đề được tham khảo từ các bài
giảng, các ghi chép không rõ nguồn gốc, nên không thể tránh khỏi sự thất lạc
xuất xứ, khó khăn cho việc trích dẫn tài liệu tham khảo. Rất mong được sự
lượng thứ của các tác giả và xin chân thành cảm ơn. Mặc dù đã có nhiều cố
gắng, nhưng bài giảng vẫn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận

được những ý kiến đóng góp của độc giả, của những nhà nghiên cứu, để tiếp tục
nhận được những thành tựu nghiên cứu mới, và những kinh nghiệm sản xuất, bổ
sung vào bài giảng ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

2


Chương I:
BÀI MỞ ĐẦU
I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ NHIỆM VỤ MƠN HỌC
1. Khái niệm:
Kỹ thuật ni cá biển là một môn học chuyên nghiên cứu các đặc điểm sinh
học chủ yếu và những qui trình kỹ thuật ni của một số đối tượng cá biển có
giá trị kinh tế.
3


2. Vị trí và nhiệm vụ mơn:
- Kỹ thuật ni cá biển là một trong những môn học chuyên môn chính của
sinh viên ngành Ni trồng Thủy sản.
- Giúp cho sinh viên vận dụng kiến thức tổng hợp từ các mơn học cơ bản, cơ
sở để tìm hiểu, nắm được các đặc điểm sinh học chủ yếu của các loài cá biển
nuôi. Đồng thời cung cấp cho sinh viên những thơng tin, những qui trình kỹ
thuật ni đã đúc kết từ thực tế sản xuất, nghiên cứu trong và ngoài nước.
3. Mục đích yêu cầu:
Sinh viên phải nắm được các đặc điểm sinh học của các loài cá biển kinh tế
ni. Các biện pháp kỹ thuật ni để có thể áp dụng vào thực tế sản xuất và
nghiên cứu, sau khi tốt nghiệp ra trường.
II. CÁC TIÊU CHUẨN TUYỂN CHỌN MỘT ĐỐI TƯỢNG CÁ BIỂN
ĐƯA VÀO NUÔI.

+ Khi chọn một đối tượng cá biển đưa vào nuôi cần dựa vào các tiêu chuẩn
sau:
- Là lồi cá có giá trị kinh tế, đặc biệt là có giá trị xuất khẩu
- Có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh.
- Có phân bố gần khu vực ni hoặc khả năng thích ứng với điều kiện mơi
trường tốt.
- Nguồn giống: có giống tự nhiên xuất hiện hàng năm và có khả năng
nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo.
- Có thể ăn các loại thức ăn thay thế thức ăn của loài, đặc biệt là thức ăn
tổng hợp.
- Sức đề kháng khỏe, ít bệnh tật.
+ Một số vấn đề cần nghiên cứu trước khi đưa một đối tượng cá biển vào
nuôi:
- Nghiên cứu sản xuất con giống nhân tạo của các đối tượng cá biển nuôi
đã được lựa chọn.
- Nghiên cứu xây dựng các hệ thống cơng trình ao ni bán thâm canh,
thâm canh và lồng ni thích hợp, hữu hiệu trong việc kiểm sốt dịch
bệnh và chất thải. Đặc biệt chú ý đến vấn đề ô nhiễm môi trường.
- Nghiên cứu chế biến thức ăn cơng nghiệp cho các đối tượng cá biển
ni. Tìm kiếm nguồn protein thay thế cho bột cá và sử dụng một cách
hiệu quả các loại thức ăn đã có.
4


- Nghiên các biện pháp phòng và trị bệnh cá.
- Triển khai nghiên cứu, nuôi thử nghiệm để xây dựng các qui trình kỹ
thuật. Các mơ hình ni.
- Qui hoạch, phân vùng phát triển dài hạn với cơ cấu đối tượng ni và
mức độ phát triển (diện tích, số lồng, sản lượng…) phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và các ngành có liên quan.

Việc lựa chọn đối tượng ni và xây dựng kế hoạch nghiên cứu phát
triển công nghệ mang tính chiến lược rất cao. Chọn lựa đúng với kế
hoạch hợp lý sẽ giảm thiểu những rủi ro và tăng thêm cơ hội thành công
của nghề nuôi cá biển.
- Sau khi ni thử nghiệm thành cơng, hồn thiện qui trình kỹ thuật, từ đó
chuyển giao cơng nghệ ni cho người đân phát triển nuôi đại trà, công
nghiệp với qui mô lớn.
III. TÌNH HÌNH NI CÁ BIỂN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM.
1.TRÊN THẾ GIỚI.
Nuôi cá biển phục vụ xuất khẩu tuy mới phát triển vào những năm 80 của thể
kỷ XX, nhưng đã đạt được những kết quả ngoài mong muốn và trở thành hướng
mới rất quan trọng để phát triển nghề cá thế giới nối chung và của nhiều quốc
gia nói riêng.
Lĩnh vực này đang phát triển rất mạnh, trên thế giới có thể chia làm 4 khu
vực có nghề ni cá biển phát triển mạnh nhất hiện nay: Tây Bắc Âu, Địa Trung
Hải, Nam Mỹ, Đông Á và Đơng Nam Á. Nhìn chung nghề ni cá biển xuất
khẩu có một số đặc điểm nổi bật: các đối tượng ni khơng nhiều, hầu hết là
những lồi q hiếm có nhu cầu ngày càng cao trên thị trường thế giới. Nhưng
nguồn lợi tự nhiên của chúng lại rất hạn chế và đã bị khai thác kiệt quệ. Phương
thức nuôi cá ở các nước tiên tiến hiện nay chủ yếu là công nghiệp và các thành
tựu khoa học công nghệ mới nhất được áp dụng nhanh chóng; cơng nghiệp ni
cá biển phát triển rất nhanh và lan rộng nhưng ít gây ô nhiễm tới môi trường
biển; sản phẩm xuất khẩu đều là mặt hàng có giá trị cao nên hiệu quả kinh tế của
hoạt động này rất thuyết phục.
1.1 Khu vực Tây Bắc Âu:
Đây là khu vực đứng đầu thế giới về nuôi cá biển xuất khẩu cả về sản
lượng, trình độ khoa học cơng nghệ, hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.
5



Đặc điểm nổi bật của nghề nuôi cá biển ở Tây Bắc Âu là chọn đúng đối tượng
có nhu cầu cao và luôn tăng lên không chỉ ở Châu Âu mà cịn trên phạm vi thế
giới. Đó là cá Hồi Đại Tây Dương (Salmo salar). Đã gần 3 thập kỷ phát triển
nuôi cá Hồi Đại Tây Dương phục vụ xuất khẩu, nhưng đến nay lĩnh vực này vẫn
phát triển vững chắc và đầy triển vọng. Kết quả to lớn mà các nước như Na Uy,
Anh, Pha-rôi-e, Đan Mạch…thu được, đã cổ vũ nhiều quốc gia ở các khu vực
khác học tập và phát triển rất có hiệu quả.
1.1.1 Ni cá biển xuất khẩu ở Na Uy.
Na Uy đang dẫn đầu thế giới về nuôi cá biển xuất khẩu trong suốt nhiều
thập kỷ
qua và trong tương lai còn tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa. Vào đầu thập kỷ 80
của thế kỷ trước, hạm tàu khai thác cá biển hùng mạnh của Na Uy bị khủng
hoảng trầm trọng do mất các ngư trường quốc tế. Nghề cá dựa hẳn vào khai thác
lúc đó bị suy giảm trầm trọng. Để thốt ra khỏi cuộc khủng hoảng này, Na Uy
đã chọn chiến lược mũi nhọn phát triển nghề cá là nuôi nhân tạo cá biển phục vụ
xuất khẩu. Toàn bộ sức mạnh kinh tế và khoa học công nghệ được ưu tiên cho
nghề nuôi cá biển.
Với mục tiêu chủ yếu là xuất khẩu, nên người ta đã tập trung nghiên cứu, dự
báo về nhu cầu tiêu thụ cá Hồi, cá Tuyết , cá Bơn và cá Thu. Cuối cùng, người ta
chỉ chọn một đối tượng ưu tiên hàng đầu là cá Hồi Đại Tây Dương. Cho đến nay
thực tiễn chứng tỏ sự lựa chọn lúc đó là rất đúng đắn.
Ngay từ đầu, việc phân công trách nhiệm trong nghề nuôi cá Hồi cũng khá
mạch lạc, rõ ràng. Chính phủ Na Uy giao trách nhiệm cho các cơ quan nghiên
cứu khoa học nghề cá tập trung vào việc nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo
chất lượng cao, chế biến thức ăn công nghiệp cho cá ở tất cả các giai đoạn,
nghiên cứu các công nghệ ni tăng sản, nghiên cứu cách phịng, chữa bệnh cho
cá nuôi và các biện pháp bảo vệ môi trường biển khỏi bị ô nhiễm. Các cơ quan
thiết kế và đóng tàu cá được giao nhiệm vụ thiết kế chế tạo các thiết bị nuôi cá
công nghiệp như hệ thống lồng đặt ở biển, các hệ thống trại ương cá giống, các
máy móc cơ khí hóa và tự động hóa phục vụ ni cá. Các ngân hàng có nhiệm

vụ cấp tín dụng và hồn tồn thõa mãn các dịch vụ về tài chính cho mọi nhu cầu
phục vụ ni cá. “Hội những người nuôi cá Hồi Na Uy” được thành lập để tập
hợp tất cả các chủ trang trại chuyên nuôi cá Hồi trong một tổ chức với các qui
định về nghĩa vụ và quyền lợi thiết thực. Vì mục tiêu chủ yếu của nghề cá Na
Uy nói chung và ni cá Hồi nói riêng là xuất khẩu nên “Hội những nhà xuất
6


khẩu cá Hồi Na Uy” cũng được thành lập ngay sau đó. Càng về sau tổ chức này
lại càng phát huy tác dụng và tỏ ra là rất cần thiết, góp phần to lớn vào phát triển
nghề ni cá biển xuất khẩu của Na Uy. Để củng cố và tiếp tục phát triển vững
chắc lĩnh vực này trên thế giới, Na Uy cịn có đóng góp quan trọng vào việc thàh
lập “Thị trường cá Hồi quốc tế” mà thành viên hiện nay là các nước: Na Uy,
Anh, Chile, Canada, Mỹ…
Sản lượng cá Hồi nuôi của Na Uy gần 3 thập kỷ qua tăng trưởng rất nhanh và
luôn gây ngạc nhiên cho các giới quan sát. (*)Hiện nay Na Uy chiếm 65% sản
lượng nuôi cá Hồi Đại Tây Dương của thế giới và chiếm 33% tổng sản lượng
nuôi tất cả các loại cá Hồi trên thế giới.
Cá Hồi Đại Tây Dương là lồi cá q hiếm ln có giá tri cao trên thị trường
thủy sản thế giới. Với sản lượng 310 nghìn tấn (1997) tuy chỉ chiếm 11% tổng
sản lượng thủy sản toàn quốc, nhưng lại đạt giá trị rất cao: 1,17 tỷ USD (giá trị
cá nuôi nguyên liệu). Na Uy hiện có 320 cơng ty và hàng nghìn trang trại ni
cá Hồi được chun mơn hóa cao độ. Có cơng ty hay trang trại vừa sản xuất con
giống vừa nuôi thương phẩm, vừa chế biến sản phẩm xuất khẩu, nhưng có nhiều
cơ sở chỉ chuyên sản xuất con giống hay chuyên nuôi cá thương phẩm. Các cơ
sở nuôi cá Hồi dù là công ty hay trại đều là tư nhân.
Phương thức nuôi cá ở Na Uy là nuôi công nghiệp theo chu kỳ khép kín. Các
cơ sở sản xuất con giống nhân tạo khơng chỉ hồn tồn đáp ứng nhu cầu trong
nước mà còn xuất khẩu sang các nước Tây Bắc Âu khác. Công nghiệp sản xuất
thức ăn nhân tạo rất phát triển và ngày càng hoàn thiện. Các loại thức ăn cho

mọi q trình ni đều khơng chỉ có chất lượng cao mà cịn có khả năng phịng
và chữa bệnh cho cá. Hình thức ni chủ yếu là ni lồng biển hoặc nuôi trong
các bể bê tông xây sát biển. Năng suất nuôi cá thương phẩm đạt khoảng 10kg/m 3
lồng trong một vụ nuôi. Cá thương phẩm khối lượng từ 2 – 4kg/con.
Do mục tiêu là xuất khẩu nên người ta đặc biệt chú trọng phát triển công
nghiệp bảo quản và chế biến cá nuôi. Các sản phẩm xuất khẩu từ cá Hồi ni
đều là các mặt hàng có giá trị cao và rất đa dạng. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là
cá Hồi tươi nguyên con (đã moi ruột, móc mang). Khối lượng xuất khẩu tăng rất
nhanh từ 141 nghìn tấn năm 1994 lên 205 nghìn tấn năm 1997 đạt giá trị 725
triệu USD. Mặt hàng cá Hồi đơng giữ vị trí thứ 2 với khối lượng xuất khẩu 47
nghìn tấn, đạt giá trị 180 triệu USD (1997). Các sản phẩm cao cấp khác như cá
Hồi phi lê, cá Hồi đơng phi lê, cá Hồi hun khói, cá Hơi đóng hộp có khối lượng
7


ít. Tổng khối lượng các sản phẩm cá Hồi xuất khẩu của Na Uy năm 1997 là 278
nghìn tấn, đạt giá trị 1,08 tỷ USD.
Nghề nuôi cá biển xuất khẩu của Na Uy đạt được thành tích kỳ diệu, trở thành
lĩnh vực sản xuất rất lớn và đạt hiệu quả cao. Sản phẩm cá nuôi chỉ chiếm 11%
tổng sản lượng thủy sản, nhưng đã đóng góp 36% giá trị xuất khẩu thủy sản của
Na Uy. Gần đây Na Uy đã vượt Mỹ và trở thành cường quốc số 2 thế giới về
xuất khẩu thủy sản (3,3 tỷ USD năm 1997), Riêng cá Hồi nuôi nhân tạo phục vụ
xuất khẩu đã vượt 1 tỷ USD/năm là điều mà chưa quốc gia nào đạt được.
Tuy nhiên nghề nuôi cá biển xuất khẩu của Na Uy phát triển nhanh, đạt kết
quả lớn, nhưng họ cũng đã gặp khơng ít khó khăn. Tình hình dịch bệnh thường
xun, có thể dẫn đến thất bại hồn tồn nếu khơng có các biện pháp phịng
chống hiệu quả và kịp thời. Vấn đề gây ô nhiễm môi trường biển cũng là vấn đề
rất lớn. Điều đáng chú ý là đã gần 3 thập kỷ tiến hành nuôi cá tăng sản, nhưng
nhìn chung nước biển ven bờ của Na Uy vẫn giữ được trong sạch. Đây cũng là
thành tựu lớn của họ đóng góp cho kinh nghiệm ni trồng thủy thế giới. Tuy

vậy, khó khăn lớn nhất cho nghề ni cá biển của Na Uy là tìm được đầu ra, thị
trường ổn định cho sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay, việc cạnh tranh trên thị
trường cá Hồi nuôi thế giới vẫn rất gay gắt. Các nước khác như Anh, Đan Mạch,
Chi lê, Mỹ, Canada…ln tìm cách hạ giá thành sản phẩm cá nuôi và giành giật
quyết liệt thị trường. Do vậy giá xuất khẩu cá Hồi nuôi tiếp tục giảm. Mặc dù
vậy, Na Uy vẫn rất lạc quan vào lĩnh vực nuôi cá biển xuất khẩu của họ. Năm
1998, Na Uy đã xây dựng xong dự án nuôi cá biển xuất khẩu đến năm 2010.
trong tương lai gần, họ sẽ vẫn là cường quốc hàng đầu thế giới về lĩnh vựuc này.
Mục tiêu là 1 triệu tấn cá biển ni vào năm 2010, trong đó một nửa là cá hồi
Đại Tây Dương, một nửa là cá Tuyết, cá Bơn và cá Thu Bắc Đại Tây Dương.
1.1.2 Các quốc gia Tây Âu khác.
+ Anh: nước Anh đứng thứ 2 Tây Âu về nuôi cá Hồi. Riêng sản lượng nuôi
cá Hồi Đại Tây Dương (Salmo salar) đã lên đến 75 nghìn tấn năm 1997, tăng 10
lần so với sản lượng năm 1987. Nghề nuôi cá Hồi Đại Tây Dương của Anh chủ
yếu ở vùng biển thuộc Scotland. Tại đây có 54 cơng ty chun ni cá Hồi Đại
Tây Dương.
Nhìn chung, ni cá Hồi của Anh đạt trình độ cao khơng kém gì Na Uy.
Phương thức ni cơng nghiệp đạt trình độ cơ giới hóa và tự động hóa rất cao.
Tất cả các cơ sở nuôi cá Hồi đều được trang bị máy tính ngay từ thập kỷ 80. Thể
tích các lồng nuôi cá đạt 7,3 triệu m3 nước. Mức tăng trưởng sản lượng gần đây
8


rất cao, đạt trung bình 10% năm. Năng suất ni trung bình đạt 9,5kg/m 3 lồng
trong một vụ ni. Cá thương phẩm 2 – 2,5kg/con.
Điều khác biệt của nghề nuôi cá Hồi ở Anh là khơng phải xuất khẩu tồn bộ
sản lượng như Na Uy mà chỉ khoảng một nửa. Do nhu cầu của thi trường trong
nước rất cao. Nên một mặt họ vẫn xuất khẩu cá Hôi nuôi sang EU. Một mặt họ
vẫn nhập từ Na Uy, Pha-rôi-ê. Anh cịn là quốc gia ni cá Hồi nước ngọt nổi
tiếng ở châu Âu. Sản lượng đạt 17 nghìn tấn năm 1997. Đây cũng là lồi cá q

hiếm được ưa chuộng khơng kém gì cá Hồi biển.
+ Quần đảo Pha-rơi-ê: Quốc đảo này chỉ có 47 nghìn người, nhưng lại có
tổng sản lượng thủy sản tới 260 nghìn tấn, trong đó có 18 nghìn tấn cá Hơi ni.
Có lẽ, đây là quốc gia có sản lượng cá ni bình qn trên đầu người cao nhất
thế giới. Hằng năm họ xuất khẩu trên 200 nghìn tấn hải sản, thu về 350 triệu
USD (1997), trong đó có 72 triệu USD từ xuất khẩu cá Hồi ni.
Sự thành cơng của Na Uy đã khích lệ quốc gia hải đảo nhỏ bé này phát triển
nghề nuôi cá Hồi xuất khẩu. Sản lượng tăng rất nhanh từ 13 nghìn tấn năm 1995
lên 18 nghìn tấn năm 1997, trong đó xuất khẩu 15 nghìn tấn sản phẩm cá Hồi
nguyên con ướp lạnh. Sản lượng cá nuôi chiếm 7% tổng sản lượng thủy sản,
nhưng giá trị xuất khẩu lại rất cao, chiếm 21%. Lĩnh vực nuôi cá Hồi xuất khẩu
của họ tuy mới ra đời, nhưng đã có đóng góp rất lớn cho việc phát triển sản xuất
và xuất khẩu thủy sản, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất của quốc gia này.
Ngoài các quốc gia Tây Bắc Âu nêu trên, nghề nuôi cá biển xuất khẩu đang
phát triển mạnh ở Aixơlen, Airơlen, Đan Mạch, Hà lan và Phần lan. Các đối
tượng nuôi chủ yếu là cá Hồi Đại Tây Dương, cá Bơn, cá Tuyết, cá Thu. Trong
tương lai nghề nuôi cá biển ở Tây Âu được coi là hướng mới đầy triển vọng.
1.2 Khu vực Địa Trung Hải.
Nghề nuôi cá Vược xuất khẩu của Hy Lạp nhanh chóng thu được kết quả
ngồi mong đợi, châm ngịi cho sự bùng nổ lĩnh vực này ra toàn khu vực ven
Địa Trung Hải. Vốn có nghề ni hải sản nói chung và ni cá nói riêng kém
phát triển, vùng Địa Trung Hải bỗng dưng trở thành khu vực sôi động nhất với
mức tăng sản lượng cá nuôi nhanh nhất thế giới. Điều rất đặc biệt là nhiều quốc
gia Hồi giáo Bắc Phi và Trung Đơng, vốn khơng có truyền thống nuôi cá biển,
cũng đang khẩn trương thực thi các dự án lớn về nuôi cá và kết quả thu được
cũng đáng bất ngờ (72 nghìn tấn, năm 1997).
Như vậy chỉ sau thời gian rất ngắn vùng biển Địa Trung Hải đã trở thành khu
vực nuôi cá Vược lớn nhất thế giới. Đến cuối thế kỷ XX, sản lượng cá Vược
9



ni ở đây sẽ đạt 100 nghìn tấn. Ngồi cá Vược là chủ lực, nhiều nước đã phát
triển nuôi cá Hồi, cá Tầm gốc Nga, cá Ngừ vây xanh, cá Chình và cá Rơ Phi,
nhưng chỉ chiếm 3% sản lượng.
Dẫn đầu về nuôi cá biển ở khu vực này là Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia, Tây
Ban Nha. Các quốc gia Hồi giáo như: Ai Cập, Tuynidi, Ma Rốc, Xiri…mãi tới
năm 1994 – 1995 mới bắt đầu tiến hành nuôi cá biển, nhưng chỉ sau 2 năm đã
đạt sản lượng vài nghìn tấn cá Vược/mỗi nước.
+ Hy Lạp: Mãi đến năm 1986 Hy Lạp mới thí nghiệm ni nhân tạo hai lồi
cá Vược Địa Trung Hải đang có nhu cầu rất cao ở thị trường Italia. Họ dự đoán
rằng 2 loài cá này đã bị khai thác kiệt quệ và trong tương lai có nhu cầu tiêu thụ
ngày càng tăng khơng chỉ ở Italia mà cịn ở Pháp, Đức, Tây Ban Nha…
Hai đối tượng được chọn nuôi là cá Vược châu Âu (Dicentrachus labrax) và
ca Trác Vàng (Sparus aurata) theo tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%. Do ngay từ
đầu nghề nuôi cá đã theo phương thức công nghiệp, nuôi bằng lồng biển, thức
ăn tổng hợp, chất lượng cao, phòng trừ bệnh tốt nên sản lượng tăng nhanh. Chất
lượng cá đông xuất khẩu đáp ứng thị trường thu được kết quả thật bất ngờ.
Sản lượng cá nuôi của Hy Lạp tăng nhanh từ con số 0 năm 1986 lên 21 nghìn
tấn (1996) và 28 nghìn tấn (1997). Chỉ sau 10 năm, Hy Lạp từ chỗ khơng có
nghề ni cá biển, đã trở thành quốc gia nuôi cá biển xuất khẩu lớn nhất khu vực
Địa Trung Hải và dẫn đầu châu Âu và sản xuất cá Vược. Hiện nay, Hy Lạp có
220 cơ sở sản xuất cá Vược.Trong đó gần một nửa tự sản xuất được con giống
nhân tạo. Tất cả các cơ sở sản xuất đều là tư nhân và là thành viên của “Liên
hiệp nuôi trồng hải sản Hy Lạp”
Ni cá Vược xuất khẩu nhanh chóng trở thành lĩnh vực sản xuất mũi nhọn
của nghề cá Hy Lạp. Xuất khẩu đạt 140 triệu USD năm 1997. Chính kết quả này
đã thúc đẩy phong trào nuôi cá Vược xuất khẩu lan ra nhanh chóng khắp các
nước quanh khu vực Đia Trung Hải.
+ Italia: Nghề nuôi cá Vược ở Italia cũng phát triển rất nhanh và đạt 7.500 tấn
năm 1997, đứng thứ 3 ở khu vực Địa Trung Hải. Đặc điểm nổi bật của nghề

ni cá biển Italia là trình độ khoa học cơng nghệ và chun mơn hóa cao. Các
công ty nuôi thủy sản của Italia không tập trung hồn tồn vào ni cá thương
phẩm mà họ cịn sản xuất cá Vược giống để xuất sang khắp các quốc gia ven
Địa Trung Hải. Hầu như 12 quốc gia đang phát triển nuôi cá Vược ở Địa Trung
Hải đều nhập khẩu con giống từ Italia. Các công ty sản xuất cá giống tập trung ở
vùng đảo Xixin (miền Nam Italia). Ngồi ra, các cơng ty của Italia cịn xuất
10


khẩu rộng rãi các máy móc, trang thiết bị phục vụ nuôi cá, thức ăn công nghiệp
và tổ hợp các lồng nuôi cá biển. Nghề nuôi cá Vược ở Italia chỉ phục vụ nhu cầu
nội địa, vì Italia là thị trường tiêu thụ cá vược lớn nhất EU.
+ Thổ Nhĩ Kỳ: Là quốc gia có sản lượng cá Vược ni đứng thứ 2 ở khu vực
Địa Trung Hải (11.000 tấn năm 1997). Nghề nuôi cá Vược của Thổ Nhĩ Kỳ phát
triển cả ở Địa Trung Hải và biển Bắc Hải. Cơng nghệ ni đạt trình độ cao, chủ
yếu nhập khẩu từ các nước thành viên EU. Phương thức nuôi công nghệp bằng
lồng biển. Cả nước có 90 cơng ty và trang trại nuôi cá Vược. Sản phẩm cá nuôi
vừa phục vụ nhu cầu cho khách du lịch nước ngoài ngày càng tăng, vừa xuất
khẩu một phần sang thị trường Italia. Năm 1997, xuất khẩu cá Vược nuôi đạt 21
triệu USD.
+ Pháp: Từ 1992 đến 1997 sản lượng cá Vược nuôi của Pháp tăng lên 10 lần
đạt 4.800 tấn, đứng vào hàng các nước sản xuất cá Vược chính ở Địa Trung Hải.
pháp có 60 cơng ty và trang trại chun nuôi cá Vược. Giống như Italia, các
công ty nuôi cá của Pháp rất năng động . Sản phẩm của họ rất đa dạng, vừa xuất
khẩu cá giống, vừa xuất khẩu cơng nghệ, máy móc phục vụ ni cá, chủ yếu cho
các quốc gia Bắc Phi.
+ Tây Ban Nha: Từ năm 1991 đến 1997 sản lượng cá Vược nuôi của Tây Ban
Nha tăng 12 lần và đạt 6.300 tấn, đứng hàng thứ 4 ở khu vực Địa Trung Hải.
Tây Ban Nha là quốc gia nuôi trồng hải sản lớn nhất ở khu vực Địa Trung Hải.
Đối tượng nuôi chủ yếu của họ là Vẹm Xanh (200 nghìn tấn/năm). Ngồi ra họ

cịn ni nhiều lồi khác như cá Hồi biển, cá Bơn, cá Ngừ Vây Xanh và cá Vược
là đối tượng quan trọng nhất. Tây Ban Nha là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn
nhất Tây Âu, nên sản phẩm nuôi không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.
Các quốc gia Hồi giáo Bắc Phi như Ai Cập, Tuynidi, Ma Rốc, Angiêri cũng
đang rất quan tâm phát triển nuôi cá biển, đặc biệt là cá Vược. Từ năm 1994 –
1995, hầu như tất cả các nước Bắc Phi ven Đia Trung Hải đã có nghề ni cá
Vược. Do mạnh dạn nhập khẩu công nghệ nuôi cá biển tiên tiến của Tây Âu, nên
sản lượng của họ tăng rất nhanh.
1.3 Khu vực Nam Mỹ
Nghề cá Nam Mỹ nổi tiếng từ lâu với các quốc gia khai thác hải sản hàng đầu
thế giới như Pêru, Chilê, Argentina…gần đây, phong trào nuôi hải sản xuất khẩu
phát triển rất nhanh với các nước mới như Equado, đứng thứ 2 thế giới về nuôi
tôm xuất khẩu. Đặc biệt Chilê, chỉ sau một thời gian ngắn đã trở thành quốc gia
nuôi cá biển xuất khẩu hàng đầu Tây Bán Cầu và đứng thứ 2 thế giới.
11


+ Chilê: Nghề cá Chilê được FAO đánh giá là có hiệu quả nhất ở Châu Mỹ La
tinh. Trước đây nghề cá mang tính độc canh, chỉ tập trung khai thác cá nổi kém
giá trị để chế biến bột cá xuất khẩu, nên hiệu quả không cao. Từ cuối thập kỷ 80
thế kỷ XX, Chilê đã đề ra chính sách mới, coi nuôi cá biển xuất khẩu là hướng
quan trọng khơng kém gì khai thác. Chỉ sau một thời gian ngắn, công nghiệp
nuôi cá Hồi xuất khẩu lớn mạnh, đạt kết quả bất ngờ, vượt quá sự mong đợi. Sản
lượng cá Hồi ni năm 1988: 5 nghìn tấn, đến năm 1998 đạt 205 nghìn tấn.
Tốc độ tăng trưởng của nghề nuôi cá Hồi xuất khẩu của Chilê đã gây ngạc
nhiên lớn cho các giới quan sát. Theo tuyên bố mới đây của ông Chủ tịch hiệp
hội những người nuôi cá Hồi Chilê, thì giá thành sản xuất một đơn vị sản phẩm
cá Hồi của họ là thấp nhất thế giới. Nguyên nhân chủ yếu để họ đạt được điều
này là điều kiện tự nhiên của Chilê rất lý tưởng cho việc phát triển nuôi cá Hồi.
Hệ thống các đầm, các eo ngách ven biển rất thuận lợi để xây dựng các trại sản

xuất cá giống (các nước Tây Âu phải xây dựng trong nhà); vùng nước ven bờ
khá trong sạch, có điều kiện nhiệt độ lý tưởng cho việc ni tăng sản cá Hồi
bằng lồng; có cơng nghiệp bột cá lớn thứ 2 thế giới, cung cấp đầy đủ bột cá chất
lượng cao nhất cho công nghiệp sản xuất thức ăn tổng hợp phục vụ nuôi cá. Họ
mạnh dạn nhập khẩu công nghệ nuôi cá biển tiên tiến nhất của Na Uy, Nhật,
Canada, Mỹ…
Vì mục tiêu là xuất khẩu nên các sản phẩm cá Hồi nuôi của Chilê khá đa dạng
và đạt tiêu chuẩn rất cao. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Chilê là cá Hồi ướp
đông nguyên con, chiếm 70% khối lượng, cá Hồi tươi chỉ chiếm 25%, 5% là cá
Hồi đóng hộp. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản (60%), tiếp theo là Mỹ
(30%), còn lại là các thị trường Châu Á. Xuất khẩu cá Hồi ni của Chilê nhanh
chóng trở thành lĩnh vực thu ngoại tệ lớn. Năm 1995, xuất khẩu 77 nghìn tấn,
đạt 320 triệu USD, bằng gần một nửa giá trị xuất khẩu 1,06 triệu tấn bột cá (660
triệu USD). Năm 1997, giá trị xuất khẩu cá Hồi đạt 700 triệu USD, vượt xa giá
trị xuất khẩu bột cá. Mục tiêu phấn đấu của họ là đạt 300 nghìn tấn vào cuối thế
kỷ XX, để sau đó khơng chỉ đuổi kịp mà còn vượt Na Uy. Mức 1 tỷ USD xuất
khẩu cá biển nuôi của họ dần trở thành hiện thực.
1.4 Khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Đây là khu vực có nghề ni cá biển sớm nhất và cho sản lượng lớn nhất (ước
tính khoản 1 triệu tấn/năm). Tuy vậy, ở đây sản phẩm tuy rất lớn nhưng chủ yếu
phục vụ nhu cầu nội địa, những lồi cá biển ni có sản lượng lớn nhất (cá
Măng Biển) thì ít có giá trị xuất khẩu. Một số lồi cá ni có giá trị xuất khẩu
12


cao lại có sản lượng vùa ít, vừa bấp bênh, trình độ kỹ thuật, sản xuất rất chênh
lệch giữa các nước. Có nước đạt trình độ đỉnh cao của thế giới (Nhật Bản, Đài
Loan), nhưng cịn nhiều nước vẫn ni cá biển với trình độ thấp, chưa giải quyết
tốt mối quan hệ giữa phát triển nuôi cá với bảo vệ môi trường và bảo vệ nguồn
lợi.

+ Đài Loan: Là quốc gia đạt được nhiều thành tích ni cá biển xuất khẩu của
khu vực. Đến nay họ nuôi nhân tạo được hàng chục lồi cá biển, trong đó có
nhiều lồi có giá trị xuất khẩu rất cao như cá Mú, cá Hồng, cá Chẽm…Họ không
chỉ xuất khẩu cá nuôi thương phẩm, mà còn xuất cả cá bố mẹ, cá giống, thức ăn
cho cá, các máy móc, thiết bị phục vụ ni cá, chuyển giao công nghệ nuôi cá và
liên doanh với nước ngồi trong lĩnh vực ni cá biển. Nhìn chung, trình độ
khoa học cơng nghệ về ni cá biển của Đài Loan, tuy chưa bằng Nhật Bản,
nhưng cũng vào hàng tiên tiến ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Sản lượng
cá biển nuôi của Đài Loan không nhiều, khoảng 100 nghìn tấn/năm, sản phẩm
có giá trị xuất khẩu chỉ khoảng 1/3.
Đối tượng cá biển nuôi ở Đài Loan khá phong phú. Các lồi cá biển ni có
giá trị xuất khẩu cao trước hết là cá Chẽm (Lates calcarifer), đạt sản lượng ổn
định 10 nghìn tấn/năm (1996). Họ xuất khẩu chủ yếu là cá sống sang thị trường
Hồng Kông, Singapo, Nhật Bản…Cá Mú Đen (Acanthopagrus macrocephalus)
được nuôi rộng rãi với sản lượng 7.000 tấn (1996). Đây là sản phẩm xuất khẩu
rất quan trọng. Giá cá sống 8-9 USD/kg. Cá Mú (Epinephelus spp) là những lồi
cá ni có giá trị kinh tế cao, sản lượng 2.000 – 4.000 tấn/năm. Giá cá sống 20 –
22 USD/kg. Ngồi ra, họ cịn ni cá Hồng (Lutjanidae), sản lượng 190 tấn, cá
Mú Bạc (Pagrus major) 110 tấn, cá Trác Vàng (Sparidae) 1.133 tấn (1996). Các
lồi này đều có giá trị xuất khẩu cao.
+ Các nước Đơng Nam Á: Tuy là khu vực có sản lượng nuôi cá biển rất lớn,
nhưng sản phẩm chủ yếu là cá Măng Biển ít có giá trị xuất khẩu. Tuy có nhiều
điều kiện thuận lợi, nhưng nghề ni cá biển xuất khẩu ở khu vực này còn rất
nhỏ bé, chưa tạo được sản phẩm có giá trị cao, có sản lượng lớn.
Đối tượng quan trọng nhất hiện nay là cá Chẽm (Lates calcarifer) được nuôi ở
Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippine…sản lượng 2.000 – 3.000 tấn/năm ở
mỗi nước. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng cá sống sang Singapo, Hồng
Kông. Cá Mú (Epinephelus spp) cũng được nuôi, nhưng sản lượng cịn rất ít.
Malaysia có nghề ni cá Hồng xuất khẩu, chủ yếu là loài Lutjanus
argentimaculatus đạt sản lượng khá khoảng 2.000 tấn/năm (1996). Giá cá sống

13


6 – 6,5 USD/kg. Singapo đang liên doanh với một tập đồn ni cá Vược của
Hy Lạp để đẩy mạnh, phát triển nuôi cá vược. Philippine liên doanh với Nhật thí
nghiệm ni cá Ngừ vây vàng bằng lồng đặt ở ngồi khơi.
2. Ở VIỆT NAM.
Ở Nước ta, nghề ni cá biển cũng có từ lâu đời theo hình thức lấy giống tự
nhiên vào đầm nước lợ và ni theo hình thức dân gian cổ truyền, khoa học
cơng nghệ khơng có gì là đặc sắc và rõ nét. Gần đây một số đề tài nghiên cứu
trên đối tượng cá biển đã được đề cập đến: Nghiên cứu kỹ thuật vớt và sản xuất
giống, ương nuôi, vận chuyển giống cá Mú, cá Cam, cá Vược từ năm 1991 –
1995.
Trong những năm gần đây đã có một số cơ quan nghiên cứu sản xuất giống
nhân tạo một số lồi cá biển có giá trị kinh tế:
- Năm 2001 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I đã nghiên cứu cho sinh
sản nhân tạo thành cơng lồi cá Giị (Rachycentron canadum).
- Năm 2002 – 2004, Viện Nghiên cứu Hải sản - Hải Phòng đã sản xuất thành
công giống cá Mú mỡ (Epinephelus tauvina), cá Mú đen (Epinephelus
malabaricus)
- Năm 2000 - 2004, Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản - Trường Đại học Thuỷ sản đã
nghiên cứu sinh sản nhân tạo, ương giống và nuôi thương phẩm thành cơng hai
lồi cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) và cá Chẽm mõm nhọn
(Psammoperca waigiensis Cuvier & Valenciennes, 1882).
Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.260km, có nhiều vũng, vịnh, eo biển, đầm
phá, tiềm năng rất lớn và rất thuận lợi cho phát triển nghề nuôi cá biển. Nghề
nuôi cá biển ở Việt Nam đang bắt đầu phát triển mạnh ở Quảng Ninh, Hải
Phòng các tỉnh miền Trung và Nam Bộ. Gần đây, ni cá Mú, cá Chẽm, cá Giị,
cá Hồng…lan rộng ra nhiều địa phương ven biển và thu được kết quả tốt. Tuy
nhiên so với tiềm năng thì nghề ni cá biển xuất khẩu của nước ta cịn quá

khiêm tốn. Cả nước chỉ có vài cơ sở sản xuất giống cá biển với qui mô nhỏ của
các Viện Nghiên cứu NTTS I, II, III, Trường Đại học Nha Trang và một cơ sở
của Đài Loan. Giống cá biển sản xuất nhân tạo hàng năm với số lượng ít không
đủ đáp ứng cho nhu cầu nuôi thương phẩm. Lồng ni cịn thơ sơ đơn giản, qui
mơ nhỏ, năng suất, sản lượng cịn thấp. Vì vậy, các khâu quyết định như chọn
đối tượng nuôi chiến lược, công nghệ sản xuất con giống nhân tạo, công nghệ
sản xuất thức ăn tổng hợp cho mọi giai đoạn nuôi, công nghệ sản xuất lồng nuôi
14


cùng các máy móc, trang thiết bị, tìm sản phẩm chế biến chiến lược, tìm thị
trường xuất khẩu ổn định và phát triển…thực tế còn rất nhiều việc phải làm.

Chương II:
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI CÁ BIỂN NUÔI Ở VIỆT
NAM
I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ CHẼM (Lates calcarifer Bloch, 1790)
Cá Chẽm (Lates calcarifer) hay còn gọi là các Vược là lồi cá có giá trị
kinh tế ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Châu Á – Thái Bình Dương. Cá
Chẽm được sản xuất giống và nuôi thương phẩm tại Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Australia, Trung Quốc, Việt Nam
trong các ao nước lợ, nước ngọt cũng như nuôi lồng ở vùng ven biển. Do giá trị
thương phẩm khá cao nên cá trở thành đối tượng nuôi hấp dẫn cho các cơ sở
nuôi thủy sản quy mô nhỏ và vừa.
Năm 2000, Thái Lan là nước có sản lượng cá Chẽm ni lớn nhất thế giới.
Sản lượng đạt 7.670 tấn. Trong đó ni ao là 1.414 tấn và nuôi lồng là 6.256
tấn, đạt giá trị 17.356.000 USD. ở Australia, cá Chẽm chủ yếu nuôi trong các ao
nước ngọt và lồng đặt trong các hồ nước ngọt ven sông, năm 2000 đạt sản lượng
15.000 tấn, giá trị đạt khoảng 4.950.000 USD.
Ở Việt Nam, cá Chẽm chủ yếu được nuôi trong các ao đất ở các tỉnh miền

Tây Nam bộ, nguồn giống chủ yếu thu từ tự nhiên, hình thức ni chủ yếu là
quảng canh. Hiện nay ở nước ta đã nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo thành
công, song chưa phổ biến đại trà, hiện nay cá đã được đưa vào nuôi lồng ở
15


Quảng Ninh, nuôi thương phẩm ở các ao đất ở Tây Nam bộ, Trung bộ nhưng số
lượng khơng nhiều. Nhìn chung, do hạn chế về nguồn giống và thị trường nên
nuôi cá Chẽm ở Việt Nam chưa phát triển.
1. Hệ thống phân loại và hình thái
1.1 Phân loại: Theo Greenwood (1976), cá Chẽm Lates gồm 8 lồi trong
đó lồi Lates calcarifer phân bố ở các vùng biển thuộc Tây Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương, cịn 7 lồi khác phân bố ở Châu Phi. Nguyễn Nhật Thi (1991),
khi nghiên cứu về hình thái phân loại và đặc điểm nhận dạng đã xác định ở Việt
Nam chỉ có một lồi cá Chẽm duy nhất và được xếp vào hệ thống phân loại như
sau:
Ngành động vật có xương sống:
Vertebrata
Lớp cá xương:
Osteichthyes
Bộ cá vược:
Perciformes
Họ cá Sơn biển:
Centropomidae
Giống cá Chẽm:
Lates
Loài cá Chẽm:
Lates calcarifer
Tên Việt Nam: cá Chẽm, cá Vược.
Tên Tiếng Anh: Giant Perch, White Seabass, Baramundi

1.2 Hình thái và đặc điểm nhận dạng: Cá Chẽm có thân dài hẹp, cuống
đi khuyết sâu. Đầu nhọn, nhìn bên lõm phía lưng, và lồi phía trước vây lưng.
Miệng rộng hơi so le, hàm trên chồm tới phía sau mắt, răng dạng lơng nhung,
khơng có sự hiện diện của răng nanh. Mép dưới của xương trước nắp mang có
gai cứng, nắp mang có một gai nhỏ và một vảy bên có răng cưa trước đầu đường
bên. Vây lưng có 7 – 9 gai cứng và 10 – 11 tia mềm; tia vây ngực ngắn và trịn
có các rãnh răng cưa cứng và ngắn phía trên gốc, vây lưng và vây hậu mơn có
rãnh bao phủ, vây hậu mơn có 3 gai và 7 – 9 tia mềm, vây đi trịn vảy có dạng
lược rộng.
Màu sắc thay đổi theo giai đoanh phát triển: Giai đoạn cá giống thường có
màu nâu ơ liu ở phía trên với các màu bạc ở phía bên và bụng khi cá sống trong
mơi trường nước biển, và màu vàng nâu trong môi trường nước ngọt. Giai đoạn
trưởng thành cá có màu xanh lục hay vàng nhạt ở phần trên và màu bạc ở phần
bụng.
16


Hình 1: Hình dạng bên ngồi cá Chẽm (Lates calcarifer)
2. Phân bố
2.1 Phân bố theo địa lý: Cá Chẽm phân bố rộng ở vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới thuộc Tây Thái Bình Dương và ấn Độ Dương, giữa kinh tuyến 50 o
Đông đến 160o Tây; vĩ tuyến 26o Bắc đến 25o Nam. Cá Chẽm cịn tìm thấy phía
Bắc Châu Á, phía Nam kéo dài đến Qeenland (Australia), phía Tây đến Đông
Châu Phi (PAO, 1974)
2.2 Phân bố theo vùng sinh thái: Cá Chẽm là lồi rộng muối, có thể sống
được trong mơi trường nước ngọt, lợ, mặn và có tính di cư xi dịng. Cá thành
thục sinh dục thường tìm thấy ở vùng ven biển, cửa đầm, đến mùa sinh sản cá
Chẽm thường đi cư ra vùng biển có độ mặn cao và ổn định 30 – 32 ppt để đẻ
trứng, bãi đẻ có độ sâu từ 10 – 15 m. Trứng trơi nổi. Ấu trùng mới nở có chiều
dài 1,21 – 1,65 mm, trung bình 1,49 mm, thường phân bố ở vùng ven bờ biển,

nhờ sóng gió đưa dần vào gần các cửa sông vùng nước lợ, cá bột cỡ trên 1cm có
thể gặp trong các thủy vực nước lợ. Trong điều kiện tự nhiên cá Chẽm lớn lên ở
vùng cửa sông nước ngọt, nước lợ và khi thành thục lại di cư ra vùng biển có độ
mặn cao, ổn định (S ≥ 30 ppt) để đẻ trứng.
17


Hinh 2: Phân bố địa lý của cá Chẽm
3. Khả nảng thích ứng với mơi trường
3.1 Độ mặn: Độ mặn ảnh hưởng đến khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu
của cá nói riêng và thủy sản nói chung. Khi độ mặn giảm cá sử dụng oxy hòa tan
hơn cho q trình hơ hấp, biểu hiện thơng qua sự tăng q trình trao đổi chất,
q trình điều hịa áp suất thẩm thấu, nếu khơng thủy sinh vật có thể chết khi độ
muối giảm. Tuy nhiên cá Chẽm là loài rộng muối cho nên nó có thể sống và sinh
trưởng bình thường trong thủy vực có độ muối dao động từ 0 – 32 ppt, thậm chí
là 35 ppt.
3.2 Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp cho cá Chẽm sinh trưởng và phát triển
khoảng 26 – 32 oC, khoảng thích hợp nhất là 28 – 31o. Nếu nhiệt độ giảm dưới
20 oC, cá bắt mồi kém, chậm phát triển, tỷ lệ sống thấp, nhiệt độ tiếp tục giảm
đến 15 oC cá bắt đầu chết.
3.3 pH: Độ pH có liên quan đến khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu của
thủy sinh vật và hàm lượng khí độc trong mơi trường nước như: H 2S, NH3,….,
do vậy, pH có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống thủy sinh vật nói chung và cá nói
riêng. Độ pH thích hợp cho cá Chẽm sinh trưởng và phát triển là 7 – 9, tốt nhất
là từ 7,5 – 8,5; pH từ 5 – 7 và từ 9 – 11 kéo dài cá sinh trưởng chậm hoặc khơng
có khả nắng sinh sản; pH nhỏ hơn 4 hoặc lớn hơn 11 cá sẻ chết.
3.4 Oxy hòa tan: Oxy là nhân tố cần thiết cho sinh vật nói chung và cá nói
riêng để thực hiện q trình trao đổi chất, phục vụ cho hoạt động sống bình
thường của cơ thể, nếu thiếu Oxy sinh vật sẽ chết. Hàm lượng Oxy thích hợp
cho cá Chẽm sinh trưởng và phát triển là trên 3 mgO 2/l. Ở phạm vi từ 1 – 3

18


mgO2/l sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá, ở hàm lượng dưới 1 mgO 2/l cá có
thể bị chết.
4. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá Chẽm là loài cá dữ ăn thịt, thức ăn thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển
của cá:
* Giai đoạn mới nở từ 1 – 3 ngày tuổi, dinh dưỡng bằng nỗn hồng.
* Giai đoạn (cá bột) 3 – 15 ngày tuổi, kích thước dưới 1cm, thức ăn chủ yếu
là Rotifer, động vật phù du khác, ấu trùng giáp xác, ấu trùng động vật thân
mềm…
* Giai đoạn 1 – 15 cm, ở ngoài tự nhiên thức ăn chủ yếu của cá Chẽm là ấu
trùng nhuyễn thể, ấu trùng giáp xác, tơm, cá nhỏ… Khi phân tích dạ dày mẫu cá
thu từ tự nhiên cỡ 1 – 10 cm, chủ yếu là động vật, cá, tôm nhỏ, có một ít tảo
kh cá bắt mồi ngẫu nhiên, chiếm khoảng 20% (Kungvakij, 1971).
* Giai đoạn sắp trưởng thành và trưởng thành cá ăn mồi động vật hoàn toàn.
Khi phân tích dạ dày mẫu cá thu từ tự nhiên, kích thước trên 20 cm thấy rằng:
trong dạ dày chứa 100% là mồi động vật, trong đó 70% là giáp xác (tơm, cua
nhỏ) và 30% là cá nhỏ. Những lồi cá tìm thấy trong ruột cá Chẽm là cá Liệt
(Leiognatus sp), cá Đối (Mugil sp)…
* Trong điều kiện sản xuất giống nhân tạo, cho ăn chủ yếu là Rotifer
(Branchionus plicatilis) ở giai đoạn từ 3 đến 12 ngày tuổi.
- Sau 12 ngày tuổi đến cỡ 2,5 cm, thức ăn chủ yếu là Nauplius Artemia,
Copepoda, …
- Từ 2,5 – 5 cm, thức ăn chủ yếu cho cá là Artemia trưởng thành, các loại
giáp xác nhỏ và tập cho cá ăn thức ăn tổng hợp, cá tạp băm nhuyễn.
- Từ 5 – 15 cm, thức ăn chủ yếu là cá nhỏ, tôm và cá tạp băm nhỏ.
* Trong nuôi thương phẩm và nuôi vỗ thành thục cá Chẽm bố mẹ chủ yếu
là cho ăn cá Mối, cá Nục, cá Đối, cá Liệt, cá Trích, tơm, mực, thức ăn chế biến,

thức ăn tổng hợp.
5. Đặc điểm sinh trưởng
Tốc độ sinh trưởng của cá Chẽm có dạng đường cong sigma (δ). Cá tăng
trưởng chậm ở giai đoạn đầu, khi đạt 30 – 30 g, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và
chậm lại khi đạt khối lượng khoảng 4 kg/con. Ở ngoài tự nhiên cá tuổi 1 + đạt
chiều dài 30 cm, tuổi 3+ đạt chiều dài 58 cm, tuổi 4+ đạt chiều dài 69 cm, tuổi 6 –
9+ đạt chiều dài từ 85 – 100 cm. Thậm chí có con sống trên 30 năm có chiều dài
hơn 150 cm, nặng khoảng 55 kg. Khi khai thác người ta thường bắt được cá có
19


chiều dài từ 50 – 70 cm, khối lượng từ 2 – 5 kg/con. Trong điều kiện môi trường
nuôi, cá mới nở có chiều dài trung bình 1,49 cm, sau 20 ngày uơng cá đạt cỡ 1-2
cm, sau 30 ngày cỡ 2-3 cm, sau 40 – 50 ngày đạt cỡ cá giống 4-6 cm. Từ cỡ này
trở lên có thể đưa ra ao hoặc lồng nuôi thơng phẩm. Sau 8 tháng ni cá có thể
đạt 600g - 1kg/con. Sau 1 năm đạt cỡ 800 –1,5 kg/con. Sau 2 – 3 năm có thể đạt
3 – 5 kg/con.
6. Vịng đời của cá Chẽm
Việc nghiên cứu vịng đời của cá Chẽm có ý nghĩa hết sức to lớn cho quá
trình nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo.
Cá Chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2 – 3 năm) trong các thủy
vực nước lợ cửa sông, vũng vịnh, đầm nối liền với biển. Cá có tốc độ tăng
trưởng nhanh thường đạt cỡ 3 – 5 kg sau 2 – 3 năm. Cá trưởng thành tuổi 3 + – 4+
di cư từ vùng nước lợ cửa sơng ra biển nơi có độ mặn cao, ổn định từ 30 – 32
ppt để phát triển tuyến sinh dục và sinh sản sau đó. Cá thường đẻ trứng theo chu
kỳ trăng (thường lúc khởi đầu tuần trăng hay trăng tròn) đẻ vào buổi tối (18 – 22
giờ) và cá thường đẻ vào lúc thủy triều lên. Điều này giúp trứng và ấu trùng trôi
dạt vào vùng gần bờ, nơi mà ấu trùng sẽ phát triển thành con giống, sinh truởng
và phát triển đến giai đoạn trưởng thành. Lại di cư ra vùng biển có độ mặn cao
thành thục và đẻ trứng. Hiện tại, chưa xác định được là sau khi đẻ trứng cá bố

mẹ có di cư ngược trở lại khu vực sinh trưởng không hay ở lại vùng biển xung
quanh bãi đẻ.
Smith (1965) cho rằng, nếu cá sống cả đời trong nước ngọt, có thể đạt khối
lượng 19,3 kg, nhưng tuyến sinh dục không phát triển. Trong môi trường nước
lợ, cá Chẽm đạt chiều dài 1,7 m đã được tìm thấy ở vùng Indonesia – Australia
(Weber & Beaufort, 1936).

20


Hình 3: sơ đồ di cư của cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch)
7. Đặc điểm sinh sản của cá Chẽm
7.1 Sự phân biệt đực cái và chuyển đổi giới tính
* Phân biệt đực và cái: Cá Chẽm là lồi rất khó phân biệt giới tính ngoại trừ
vào mùa sinh sản. Sau đây là một vài đặc điểm để phân biệt giới tính đực và cái:
- Mõm của cá Chẽm đực hơi cong, của cá cái thì thẳng
- Cơ thể cá đực thon hơn cá cái. Đo vòng bụng, nếu cùng chiều dài thì cá
cái có vịng bụng lớn hơn.
- Khối lượng cá cái lớn hơn cá đực khi cùng tuổi
- Những vảy gần lổ huyệt của cá đực dày hơn cá cái vào mùa sinh sản
- Vào mùa sinh sản bụng cá cái hơi phồng to hơn cá đực
* Sự chuyển đổi giới tính: Cá Chẽm là lồi cá có sự chuyển đổi giới tính từ
con đực thành con cái. Trong giai đoạn đầu của đời sống hầu hết là cá đực,
thường chúng trải qua ít nhất một lần tham gia sinh sản, sau đó chuyển thành cá
cái. Vì vậy phần lớn những cá có kích thước lớn trong đàn cá tham gia sinh sản
là cá cái. Ngoài tự nhiên, sự chuyển đổi giới tính thường được phát hiện ở giai
đoạn khi cá đạt cỡ tuổi 6+ - 7+ và kích thước khoảng 90 cm, tuy nhiên trong điều
kiện nuôi nhân tạo kích thước này có thể nhỏ hơn. Vào giai đoạn đầu của đời
sống khối lượng từ 1,5 – 3,5 kg phần lớn là cá Chẽm đực, nhưng khi đạt đến 5 –
7 kg phần lớn trở thành cá cái. Mặc dù vậy, trong quần thể đàn cá vẫn có một số

ít phát triển trực tiếp thành cá đực hoặc cá cái, mà không trải qua giai đoạn
chuyển đổi giới tính.
7.2 Tuổi và kích thước thành thục sinh dục
21


Tuổi thành thục sinh dục lần đầu của cá Chẽm khoảng 3 + – 4+, khối lượng 3
– 6 kg/con. Tuy nhiên trong điều kiện ni nhốt, tuổi và kích cỡ thành thục có
thể nhỏ hơn. Tuổi 2+ - 3+, khối lượng tương ứng là 2 – 4 kg/con. Cá cái thành
thục tốt có đường kính trứng từ 0,4 – 0,5 mm, trứng thường có màu vàng rơm và
có giọt dầu giúp trứng trôi nổi trong nước.
7.3 Mùa vụ sinh sản và sức sinh sản
* Mùa vụ sinh sản của cá Chẽm: Cá Chẽm đẻ quanh năm (Kungvankij),
nhưng thời gian chính vụ là từ tháng 4 đến tháng 8. Ngồi tự nhiên, cá có chiều
dài 1 cm có thể thu được nhiều vào tháng 5 đến tháng 8 (Bhatia và Kungvankij,
1971).
Cá đực và cái thành thục, trước khi đẻ 1 tuần cá ngừng ăn. Khi cá đực và cá
cái chín muồi sinh dục sẽ bơi lội thành từng cặp, thường xuyên ở tầng mặt khi
sắp đẻ trứng. Cá đẻ làm nhiều đợt kéo dài khoảng 1 tuần, thời gian đẻ trứng vào
lúc chiều tối (18 – 22 giờ)
* Sức sinh sản: Cá Chẽm có sức sinh sản tương đối lớn và có liên quan đến
trọng lượng và kích thước của cá. Trọng lượng của cá từ 5,5 – 11 kg cho khoảng
2,1 – 7,1 triệu trứng (Wongsomnuk và Maneewongsa, 1976), Anon (1975) cho
rằng cá có trọng lượng 12 kg cho 7,5 triệu trứng; cá có trọng lượng 19,5 kg cho
8,5 triệu trứng và cá 22 kg cho 17 triệu trứng .
7.4 Phát triển phôi
Thời gian phát triển phôi phụ thuộc vào các điều kiện môi trường, đặc biệt
là nhiệt độ nước. Trong khoảng nhiệt độ thích hợp, nhiệt độ càng cao thời gian
phát triển của phôi càng ngắn.


22


Hình 4: Phát triển phơi của cá Chẽm (Kungvankij, 1981)
Ở điều kiện nhiệt độ 28 – 30 oC, độ mặn 30 – 32 ppt: Trứng sau khi thụ tinh
30 -35 phút, lần phân cắt đầu tiên xảy ra. Sự phân chia tiếp tục sau mỗi 15 – 25
phút và trứng phát triển đến giai đoạn nhiều tế bào trong vòng 3 giờ. Sự phát
triển phôi của trứng trải qua các giai đoạn: phôi nang, phôi vị, phôi thần kinh và
phôi mầm. Tim phôi bắt đầu hoạt động sau 15 giờ và sau 17 – 18 giờ, trứng nở
thành ấu trùng (cá bột)
Bảng
Giai phát triển phôi
Thụ tinh
2 Tế bào
4 Tế bào
8 Tế bào
16 Tế bào
32 Tế bào
64 Tế bào
128 Tế bào
Phôi nang
Phôi vị
Phôi thần kinh

Thời gian sau khi đẻ
Giờ
0
0
0
1

1
1
2
3
5
7
9

Phút
05
35
55
10
30
50
20
00
03
00
10
23


Phôi mầm
Tim hoạt động
Trứng nở

11
15
18


50
30
00

7.5 Cá bột (Ấu trùng)
Chiều dài của cá bột (ấu trùng) mới nở dao động từ 1,21 – 1,65 mm. trung
bình 1,49 mm. Nỗn hồng có đường kính trung bình 0,86 mm, có một giọt dầu
nằm ở phía trước nỗn hồng làm cho cá mới nở nổi theo chiều thẳng đứng hay
nghiêng khoảng 45o so với mặt phẳng nằm ngang. Lúc đầu hình thành sắc tố
khơng đồng loạt: mắt, ống tiêu hóa, huyệt và vây đi trong suốt. 3 ngày sau khi
nở, nỗn hồng hầu như được sử dụng hết và giọt dầu cịn khơng đáng kể. Ở giai
đoạn này miệng mở ra và hàm bắt đầu cử động, cá bột bắt đầu ăn thức ăn bên
ngồi.
Có ít nhất hai giai đoạn hình thành sắc tố ở giai đoạn nhỏ của cá Chẽm. Giai
đoạn 10 – 12 ngày sau khi trứng nở, sắc tố có màu xám sậm hay đen; giai đoạn
tiếp theo 25 – 30 ngày tuổi lúc ấu trùng đạt cỡ cá hương (2 – 3cm), cá chuyển
sang màu xám bạc, cá khỏe thì bơi lội chủ động và cơ thể có màu vàng nhạt hơn,
cịn cá yếu thì cơ thể có màu đen hay sậm.
II. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ CHẼM MÕM NHỌN (Psammoperca
waigiensis Cuvier & Valenciennes, 1828)
Cá Chẽm Mõm nhọn (cá Vược Cát) là lồi cá có kích thước thương phẩm
khơng lớn lắm, thường có khối lượng 300-500 g/con, nhưng có giá trị cao. Giá
bán cá sống từ 120.000 – 130.000 đồng/kg. Thị trường xuất khẩu rộng như:
Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kơng, nhưng lượng khai thác ngồi tự
nhiên khơng lớn. Những nghiên cứu về lồi cá này trên thế giới và Việt Nam
trước đây chưa nhiều. tuy nhiên hiện nay đối tượng này đã nghiên cứu sinh sản
nhân tạo thành công ở Việt Nam, đang tiến hành nghiên cứu ni thương phẩm.
Việc khép kín vịng đời lồi cá này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc phát
triển nghề ni lồng trên biển.

1. Phân loại và hình thái
a. Hệ thống phân loại
Ngành động vật có xương sống:
Lớp cá xương:
Bộ cá Vược:

Vertebrata
Osteichthyes
Perciformes
24


Họ cá sơn biển:
Giống:
Loài:

Centropomidae
Psammoperca
P. waigiensis

Tên Việt Nam: Cá Vược (Nam Bộ), cá Thầy Bói (Khánh Hịa), cá Chẽm Mõm
nhọn
Tên tiếng Anh: Sandbass (Britain) Glass eye Perch (Australia).
b. Hình thái nhận dạng
Thân hình thoi dẹp bên, đầu thót nhọn, chiều dài thân bằng 2,6 – 3,3 chiều
cao. Đầu to vừa, mõm nhọn, mắt to có màu đỏ, hơi lồi, chiều dài đầu bằng 3,5 –
3,8 chiều dài mõm, bằng 3,5 – 5,6 đường kính mắt, trên hai hàm, xương khẩu
cái, trên lưỡi đều có răng nhỏ dạng lơng nhung. Mỗi bên có hai lỗ tai cách xa
nhau, lỗ trước nhỏ hình ống ở gần mép hàm trên, lỗ sau hình tam giác ở sát viền
mắt trước. Rìa dưới của xương nắp mang trước trơn nhẵn, rìa sau có gai răng

cưa, phía dưới góc có một gai lớn dẹp, trên nắp mang có phủ vảy.
Vây lưng có hai cái, vây lưng thứ nhất có 7 gai cứng khỏe, gai thứ 3 dài
nhất, vây lưng thứ hai có một gai cứng và 12-13 tia mềm. Gốc vây hậu môn
ngắn, khởi điểm ở ngang dưới gốc tia mềm thứ 3 của vây lưng có 3 gai cứng và
8 tia mềm, gai thứ hai to và khỏe.
Màu sắc thân có màu nâu sáng, ở phía lưng có màu nâu sẫm, phía trên và
phía bụng có màu xám bạc. Khi ở dưới nước cá có màu sáng, nhưng khi đưa lên
khỏi mặt nước cá có màu nâu sẫm.

Hình dạng bên ngồi của cá Chẽm Mõm nhọn (P. waigiensis)
2. Phân bố
a. Phân bố theo địa lý
25


×