Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

KINH NGHIỆM tổ CHỨC và HOẠT ĐỘNG của các tổ CHỨC môi GIỚI CGCN về KHCN ở một số nước TRUNG QUỐC, hàn QUỐC, THÁI LAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.52 KB, 43 trang )

KINH NGHIỆM TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC MÔI GIỚI CGCN VỀ KHCN Ở MỘT SỐ NƯỚC:
TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC, THÁI LAN.
Mục lục
Mục lục............................................................................................................................................1
I. Tổng quan chuyển giao công nghệ và tư vấn môi giới chuyển giao công nghệ ở các nước trên
thế giới.............................................................................................................................................1
II. Kinh nghiệm ở Trung Quốc......................................................................................................11
III. Kinh nghiệm Thái Lan.............................................................................................................24
IV. Kinh nghiệm Hàn Quốc...........................................................................................................32
Kết Luận:.......................................................................................................................................40
Tài liệu tham khảo:........................................................................................................................43

I. Tổng quan chuyển giao công nghệ và tư vấn môi giới chuyển giao công
nghệ ở các nước trên thế giới
1.1.Tiếp cận các khái niệm:
Công nghệ (Technology), chuyển giao công nghệ (Transfer Technology –
TT) có rất nhiều định nghĩa về vấn đề này. Một cách hiểu thông thường của công
nghệ là phát triển và ứng dụng của dụng cụ, máy móc, nguyên vật liệu và quy trình
để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của con người. Với tư cách là hoạt động của
con người, công nghệ diễn ra trước khi có khoa học. Lịch sử phát triển của xã hội
loài người đã chứng minh mối quan hệ biện chứng giữa công nghệ và phát triển
bằng việc tăng cường áp dụng công nghệ, xã hội loài người đã từng bước chuyển
dịch vị thế của mình từ thế giới tự nhiên sang thế giới nhân đạo…công nghệ cũng
chính là yếu tố quyết định sự thịnh vượng hay suy vong của một quốc gia. Trong
xã hội hiện đại, vai trò của công nghệ ngày càng tăng lên. Những tiến bộ như vũ
bão của KH-CN trong hai thập kỷ qua, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ
1


thông tin,công nghệ sinh học,công nghệ Nano, tự động hoá đã làm đảo lộn tư duy


và chiến lược của nhiều nước. Không ai còn có thể hoài nghi về vai trò của công
nghệ trong phát triển kinh tế toàn cầu và của mỗi quốc gia.
Công nghệ đã và đang trở thành hàng hoá được chuyển giao trên thị trường
và được bảo hộ bằng pháp luật.
Trong chuyên đề này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu các hoạt động chuyển giao
công nghệ và nội dung tương đối quan trọng của chuyển giao công nghệ là hoạt
động tư vấn môi giới công nghệ.
Chuyển giao công nghệ là gì?
Theo một định nghĩa của đại học Yale tại Hoa kì:
Chuyển giao công nghệ dùng để chỉ việc cấp phép chính thức của công nghệ
cho bên thứ 3 dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia trong tổ chức tư vấn môi giới
trung gian về chuyển giao công nghệ.
Tại Việt Nam, theo Luật chuyển giao công nghệ (2006) chúng ta có các định
nghĩa sau:
1. Bí quyết kỹ thuật là thông tin được tích luỹ, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản
xuất, kinh doanh của chủ sở hữu công nghệ có ý nghĩa quyết định chất lượng, khả năng
cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ.

2. Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
3. Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình
thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
4. Công nghệ mới là công nghệ lần đầu tiên được tạo ra tại Việt Nam.
5. Công nghệ tiên tiến là công nghệ hàng đầu, có trình độ công nghệ cao hơn trình độ
công nghệ cùng loại hiện có.
6. Cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp công nghệ là nơi có điều kiện
thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ, hỗ trợ cần thiết để ươm tạo công nghệ,
ươm tạo doanh nghiệp công nghệ.
7. Chợ công nghệ, hội chợ công nghệ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao dịch công

nghệ là nơi trưng bày, giới thiệu, mua bán công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ và cung
cấp các dịch vụ khác về chuyển giao công nghệ.
8. Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần
2


hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ.
9. Chuyển giao công nghệ tại Việt Nam là việc chuyển giao công nghệ giữa các tổ chức,
cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam.
10. Chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân hoạt
động ở nước ngoài chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ Việt
Nam.
11. Chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân hoạt
động trong lãnh thổ Việt Nam chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước
ngoài.
12. Dịch vụ chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ quá trình tìm kiếm, giao kết và
thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
13. Đánh giá công nghệ là hoạt động xác định trình độ, giá trị, hiệu quả kinh tế và tác
động kinh tế - xã hội, môi trường của công nghệ.
14. Định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công nghệ.
15. Giám định công nghệ là hoạt động kiểm tra, xác định các chỉ tiêu của công nghệ đã
được chuyển giao so với các chỉ tiêu của công nghệ được quy định trong hợp đồng chuyển giao
công nghệ.
16. Hoạt động chuyển giao công nghệ bao gồm chuyển giao công nghệ và dịch vụ
chuyển giao công nghệ.
17. Môi giới chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ bên có công nghệ, bên cần công
nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
18. Tư vấn chuyển giao công nghệ là hoạt động hỗ trợ các bên trong việc lựa chọn công
nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ.
19. Ươm tạo công nghệ là hoạt động hỗ trợ nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ có triển

vọng ứng dụng thực tiễn và thương mại hoá từ ý tưởng công nghệ hoặc kết quả nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ.
20. Ươm tạo doanh nghiệp công nghệ là hoạt động hỗ trợ tổ chức, cá nhân hoàn thiện
công nghệ, huy động vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, kinh doanh, tiếp thị, thực hiện thủ tục pháp lý
và các dịch vụ cần thiết khác để thành lập doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới được tạo ra.
21. Xúc tiến chuyển giao công nghệ là hoạt động thúc đẩy, tạo và tìm kiếm cơ hội chuyển
giao công nghệ; cung ứng dịch vụ quảng cáo, trưng bày, giới thiệu công nghệ; tổ chức chợ, hội
chợ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao dịch công nghệ.

Lịch sử hoạt động chuyển giao công nghệ?
3


Các hoạt động chuyển giao công nghệ được hình thành sớm nhất tại Mỹ, khái
niệm về chuyển giao công nghệ lần đầu tiên được nêu ra từ năm 1945, một báo cáo
có ảnh hưởng chuẩn bị cho Tổng thống Franklin D. Roosevelt, Vannevar Bush
nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiên cứu cơ bản đẩy mạnh nền kinh tế. Trước
năm 1940,công nghệ chưa thực sự được đánh giá đúng về tầm quan trọng. Tuy
nhiên, giá trị của công nghệ tiên tiến trong việc xây dựng một nền quốc phòng
mạnh được công nhận trong Thế chiến II. Các nhu cầu bức thiết của quân đội Mỹ
dẫn đến việc tăng ngân sách của chính phủ tài trợ nghiên cứu.Các sơ sở chính phủ
không thể chứa tất cả các dự án R & D cần thiết để hoàn thành các nghiên cứu
quân sự Hoa Kỳ. Chính phủ đã bắt đầu hợp đồng với các công ty hội đủ điều kiện,
trường đại học, và các tổ chức, nhưng không có kế hoạch tổng thể để xử lý sở hữu
trí tuệ ngày càng phát triển về số lượng.
Mỗi cơ quan tài trợ đưa ra các chính sách sở hữu trí tuệ của của mình. Trong
thời gian này, đã có hơn 25 chính sách khác nhau về sở hữu trí tuệ. Nói chung, các
viện nghiên cứu đã không thể có các chứng nhận phát minh của họ phát triển theo
tài trợ liên bang và đã không thể cấp giấy phép công nghệ của riêng họ.Ngoài ra,
chính phủ đã thông qua mộ chính sách chống độc quyền các sáng chế và .kết quả là

có rất ít công nghệ đã được thương mại hóa.
Năm 1963, Cố vấn khoa học của tổng thống John F. Kennedy 's, Jerome B.
Wiesner, nhận thấy cần thiết có một chính sách thống nhất hơn về sở hữu trí tuệ.
Trong mười năm tới, Sở Y tế, Giáo dục, và Phúc lợi và sau đó là Quỹ khoa học
quốc gia đã thống nhất thoả thuận bằng sáng chế cùng với một vài trường đại học.
Những hiệp định này là nền tảng cho chuyển giao công nghệ hiện đại.
Lần đầu tiên, các trường đại học được phép sở hữu sáng chế, họ được đưa ra
theo chính phủ tài trợ nghiên cứu. Điều này sở hữu và khả năng cấp giấy phép độc
quyền được nhạc trong sự sẵn lòng của ngành công nghiệp tư nhân để cấp phép và
phát triển công nghệ đại học. Các điều khoản và quy định của thỏa thuận đã dẫn
đến qua các năm 1980 của Luật 96-517, bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá Luật
Sửa đổi Luật (Bayh-Dole Act-1980).Đạo luật này đã đây mạnh các hoạt động
chuyển giao công nghệ tại Mỹ, đẩy mạnh thương mại hóa công nghệ từ các nghiên
cứu đuợc tài trợ bởi chính phủ.
Ngày nay, chuyển giao công nghê đã phát triển trên toàn thế giới. trong thời
kì bùng nổ thông tin và toàn cầu hóa. Lịch sử phát triển công nghệ, toàn cầu hóa vế
công nghệ , trong quá khứ và cùng hướng phát triển được tổng kết và dự đoán
theo các làn sóng đổi mới đối với từng thời kì công nghệ. Từ đầu thập niên 90 đến
đầu thế kỉ 21 hiện nay là làn sóng phát triển về công nghệ thông tin và , mạng viễn
4


thông nối tiếp là công nghệ sinh học. cac xu hướng này càng phát triển tiếp cận
những công nghệ tiên tiến đáp ứng nhu cầu càng tăng lên cùng xã hội loài người.
Các hoạt động chuyển giao công nghệ sẽ được đẩy mạnh xuyên quốc gia, biên giới
công nghệ ngày càng thu hẹp. Việc hợp tác nghiên cứu sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn
trong tương lai phát triển nay
Một hoạt động chuyển giao công nghệ thông thường diễn ra như thế nào?
Quá trình chuyển giao công nghệ sẽ tóm tắt theo các bước , có thể các bước
khác nhau theo trình tự và tiến hành song song đồng thời

Nghiên cứu: Thực nghiệm và thí nghiệm dẫn đến các phát minh
sáng chế. Một sáng chế được tạo ra quá trình hữ u ích, máy móc, vật liệu mới
hoặc cái tiến nhưng cái cũ. Thông thường các sáng chế do đóng góp củ nhiều
nhà nghiên cứu
1.

Trước công bố sáng chế: Một văn bản trước hợp đồng cùng với cơ
quan đại diện sở hữu trí tuệ (Tổ chức trung gian) được đua ra về sáng chế
nay,hướng dẫn những yếu tố sẽ công bố, đánh giá… và quy trình bảo vệ sáng chế
được thực hiện tại bước tiếp theo
2.

3.

Công bố sáng chế:

Các thông tin về sáng chế được đầy đủ cho Tổ chức trung gian chuyển
giao công nghệ. Các tài liệu này sẽ được bảo mật tuyệt đối theo thỏa thuận, và
tỉnh đầy đủ là cần thiết để đánh giá về khả năng thương mại hóa và các yếu tố
hiệu quả kinh tế khác. Việc chuyển thông tin sáng chế tới một tổ chức trung
gian uy tín sẽ cần thiết trước khi các thông tin nay được công bố ra cộng
đồng.
4.

Đánh giá

Giai đoạn này người chủ sáng chế và tổ chức trung gian xem lại công bố sáng
chế và tiến hành tìm kiếm sáng chế liên quan nếu có, phân tích thị trường và các
yếu tố cạnh tranh để xác địn tiềm năng thương mại hóa của sáng chế. Việc phân
tích sẽ dẫn đến việc mở rụng phát minh sáng chế hay là hoàn thiện hơn. Tổ chức

trung gian sẽ hướng dẫn người chủ công nghệ định hướng tới các công ty mở rông
hay các công ty thành lập mới.
5.

Bảo vệ

Trong quá trình phát triển chuyển giao công nghệ cho các đối tác. Bảo vệ
sáng chế, hình thức đã phổ biến trong luật pháp, băt đầu bằng việc nộp đơn cho
cho cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia hay các cơ quan sở hữu quốc tế, nước ngoài.
Tại Mỹ chí phí này vào khoảng vài nghìn USD.
5


Tổ chức trung gian sẽ giúp đỡ chủ sở hữu về các tư vấn hướng dẫn về bảo vệ
quyền tác giả, bảo vệ thương hiệu,…
6.

Maketing

Các chuyên gia nhiều kinh nghiệp của tổ chức trung gian sẽ cùng với người
có công nghệ định hướng và xac định các công ty có đủ nguồn lực cho hướng
chuyển giao công nghệ tới đó và cùng với mạng lưới doanh nghiệp để đưa công
nghệ vào thị trường công nghệ. Việc này có thể hương đến một công ty hiện tại
muốn mở rộng hoặc thay đôi công nghệ hoặc một doanh nghiệp mới được hình
thành
a . Khởi sự kinh doanh: Nếu việc tạo ra một khởi đầu kinh doanh là
một sự lựa chọn đúng đắn và tối ưu nhất thì tổ chức trung gian có thể tư vấn giúp
đỡ trong việc tìm kiếm các tài trợ cho khởi sự doanh nghiệp và các nguồn lực khác.
7.


b .Hướng tới các doanh nghiệp mở rộng:
Nếu một doanh nghiệp thích hợp và quan tâm đến công nghệ và sáng chế này
thì tổ chức trung gian đại diện sẽ đưa ra một giấy phép, hợp đồng tiềm năng. Trong
giấy cấp phép công nghệ này thể có các xác định về lợi ích chung, kế hoạch
thương mại hóa…
8.

Cập phép Li xang (licensing)

Một thỏa thuận cấp phép là một hợp đồng giữa một tổ chức trung gian đại
diện công nghệ cho một bên thứ 3, trong đó quyền lợi về công nghệ được xác định,
về tài chính, các lợi khác và có thể không từ bỏ quyền sở hữu.
Có thê có một lựa chọn cho việc bên thứ 3 đánh giá về công nghệ trong một
thời gian giới hạn trước khi cấp phép.
9.

Thương mại hóa

Công ty được cấp phép tiếp tục ứng dụng tiếp bộ của công nghệ, đưa ra các
đầu tư hợp lý nhằm tạo ra các sản phẩm dịch vụ. Trong bước này có thể phát sinh
thêm các thỏa thuận về bán hàng và thị trường; hỗ trợ; đào tạo và các hoạt động
khác
10.

Doanh thu

Thiết lập các mối liên hệ của phần doanh thu của tổ chức trung gian phân phối
cho nhà phát minh chủ công nghệ hoặc cùng các tổ chức khác tham gia.
Bổ sung doanh thu vào các quỹ phát triển nghiên cứu khoa học.


6


Trên đây ta đã nghiên cứu một quá trình tương đối chuẩn về chuyển giao công
nghệ tại Mỹ. Tổ chức trung gian chuyêng giao công nghệ là văn phòng hợp tác
nghiên cứu (Office of Cooperative Research)
1.2. Vai trò của tổ chức trung gian trong chuyển giao công nghệ.
Tham gia vào hoạt động chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp thường gặp
nhiều khó khăn. Đó chính là lý do cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài của các tổ chức tư
vấn, môi giới chuyển giao công nghệ.
Điều dễ nhận thấy nhất là khó khăn của doanh nghiệp trước sự phức tạp trong
chuyển giao công nghệ. Xung quanh vấn đề công nghệ, các học giả đã từng đưa ra
nhiều tranh luận. Chẳng hạn, các bàn thảo dai dẳng về những điều cơ bản như định
nghĩa về công nghệ và chuyển giao công nghệ (hàm chứa đằng sau là cách tiếp cận
khác nhau), đánh giá đóng góp của công nghệ vào tăng trưởng kinh tế, ... Các
doanh nghiệp có thể không quan tâm tới những gì mang tính học thuật, hoặc tác
động ở tầm vĩ mô, nhưng còn có cả những phức tạp khác liên quan trực tiếp đến
hoạt động chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp.
Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau mà doanh nghiệp
phải lựa chọn: Mua thiết bị, hợp đồng chìa khoá trao tay, liên doanh, mua lixăng,...
Các phương thức này có liên quan tới lợi ích của các bên và đặc điểm công nghệ.
Thông thường, người bán thích được tham gia cổ phần để có thể giám sát được
nhiều hơn đối với người mua công nghệ, nhất là đối với những công nghệ quan
trọng, hoặc đang ở giai đoạn đầu của vòng đời sản phẩm. Trái lại, nếu công nghệ
thuộc loại không quan trọng, hoặc ở vào giai đoạn cuối của vòng thì người bán
thích phương thức bán lixăng. Về phía người mua, quyết định lựa chọn phương
thức chuyển giao nào phụ thuộc chủ yếu bởi năng lực công nghệ và các nguồn lực
hiện có. Nếu công nghệ định mua đòi hỏi nguồn lực quá cao, người mua thích
phương thức liên doanh; nếu người mua có năng lực công nghệ cao, họ không
thích việc tham gia cổ phần, trừ khi có những lý do như để tiếp cận thị trường. Lựa

chọn đúng phương thức chuyển giao công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng đối với
doanh nghiệp.
Có những giai đoạn khác nhau của quá trình chuyển giao công nghệ mà doanh
nghiệp phải trải qua. Trong giai đoạn tìm kiếm cơ hội, doanh nghiệp cần nhận biết
được các nhu cầu và lập luận chứng cho việc giao dịch. Giai đoạn lựa chọn đối tác
bao gồm việc tìm đối tác, đánh giá và chọn đối tác. Giai đoạn tiếp theo là hoàn
thiện phương thức giao dịch với nội dung nhận dạng phương thức chuyển giao
công nghệ khả thi và chọn phương thức giao dịch. Tiếp đến là giai đoạn đàm phán,
7


doanh nghiệp tiến hành đàm phán các điều khoản của hợp đồng, đồng thời hoàn tất
các khía cạnh về pháp lý, nguồn lực và hậu cần.
Một trong các hoạt động quan trọng trong chuyển giao công nghệ là đánh giá
công nghệ ở mức doanh nghiệp, nhằm lựa chọn một trong số nhiều công nghệ khác
nhau để thoả mãn tối ưu những thông số do doanh nghiệp xác định trước. Đánh giá
này thường diễn ra với 4 bước: Đánh giá sơ bộ, đánh giá khả năng chuyển giao,
đánh giá thị trường, đánh giá thương mại. Ở đây có nhiều yếu tố phải xem xét đến.
Chẳng hạn, trong đánh giá thị trường, tức là nghiên cứu sản phẩm được tạo ra từ
công nghệ đáp ứng thị trường tiềm năng như thế nào, những yếu tố có liên quan là
thị trường (nội địa, khu vực, toàn cầu; hiện nay, mới, có tính chiến lược) mà công
nghệ hoặc sản phẩm tạo ra có thể đáp ứng; đánh giá thị phần (giá trị và khối lượng)
của sản phẩm tạo ra do công nghệ trong vòng đời công nghệ; chi phí lưu thông và
tiếp thị; độ nhậy của công nghệ/sản phẩm đối với biến động/thay đổi của thị
trường/công nghệ; các chiến lược cạnh tranh; các đối tác tiềm năng/ có tính chiến
lược để đảm bảo thành công trên thị trường...
Trước những phức tạp trên, cùng với các nỗ lực xử lý của doanh nghiệp, sự
trợ giúp từ bên ngoài của tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ là rất cần
thiết và hữu ích.
Chuyển giao công nghệ không phải chỉ có nhiều thông tin phải xử lý và thể

hiện sự phức tạp, mà còn liên quan tới một số vấn đề khá xa lạ đối với doanh
nghiệp, loại hình tổ chức vốn quen với hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản
phẩm và dịch vụ thông thường. Đó là cảnh báo công nghệ Cảnh báo công nghệ
(Veille Technologique) là một nội dung của đánh giá công nghệ nhằm thấy trước
mặt lợi, mặt hại để từ đó ngăn ngừa, đối phó với những hậu quản tiêu cực có thể có
do một công nghệ cụ thể, hay một thế hệ công nghệ (dòng công nghệ) hoặc một
công nghệ mới gây ra cho sản xuất, đời sống và xã hội., đánh giá công nghệ, môi
trường pháp lý liên quan tới chuyển giao công nghệ, chính sách phát triển công
nghệ và chuyển giao công nghệ của nước xuất và nhập công nghệ... Chuyển giao
công nghệ đòi hỏi phải có hiểu biết sâu sắc, hệ thống về công nghệ và môi trường
pháp lý để có những quyết sách chính xác, kịp thời. Lấy ví dụ, thông thường, cơ
quan có thẩm quyền của mỗi quốc gia (hệ thống hành chính hoặc hệ thống toà án)
đều được phép tự do hành động với một phạm vi rất rộng trong việc xem xét tính
hợp pháp của các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Nếu hợp đồng có các điều
khoản thương mại không lành mạnh thì sẽ bị coi là vô hiệu. Hậu quả tất yếu là
không thể tiến hành việc thanh toán ngoại hối, không có sự bồi thường về mặt
8


pháp lý, một rủi ro mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải biết để phòng xa khi
tham gia các hợp đồng chuyển giao công nghệ với các đối tác nước ngoài.
Không thể phủ nhận rằng, hiện nay đã có những doanh nghiệp chú trọng phát
triển hoạt động NC&PT, tăng cường thu lượm thông tin công nghệ. Tuy nhiên,
thực tế cũng cho thấy những nỗ lực đồng thời hướng vào các lĩnh vực khác nhau
đang đặt các doanh nghiệp trước mâu thuẫn. Nổi bật là mâu thuẫn giữa chú trọng
kế hoạch hoá quá trình sản xuất ngắn hạn, bám sát vào thực tại và đi vào giải quyết
những sự cố kỹ thuật cụ thể, với phải tiếp cận được với kiến thức khoa học của
những tổ chức KH&CN hàng đầu, phải có khả năng tiến hành những nghiên cứu
giầu trí tưởng tượng (thoát ly khỏi thực tế hiện tại) và phải tạo ra một môi trường
thuận lợi cho sự đổi mới, sáng tạo... Như vậy, thay vì phải tự mình đơn độc, sự hỗ

trợ của các tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ sẽ giúp nâng cao tính
chuyên nghiệp hơn và vị thế của doanh nghiệp trong đàm phán mua bán công
nghệ.
Cũng như trao đổi hàng hoá nói chung, chuyển giao công nghệ được diễn ra
-trên cơ sở đồng thuận lợi ích giữa các bên tham gia. Đồng thời, lại có đặc thù ở
đây là tồn tại sự khác biệt nhất định, khiến việc thống nhất lợi ích trở nên khó
khăn: Trong chuyển giao công nghệ có nhiều yếu tố cần tính toán lợi ích và chỉ có
ít yếu tố liên quan đến chi phí thuần tuý về tri thức công nghệ, còn hầu hết các yếu
tố khác là về các dịch vụ có liên quan như cung cấp các chi tiết, phụ kiện, thiết bị,
đặc quyền kinh doanh, tên nhãn hàng, các dịch vụ chuyên môn...; Trong chuyển
giao công nghệ, các bên thường có động cơ và chiến lược riêng của mình. Do công
nghệ là vũ khí cạnh tranh tiềm tàng quan trọng, nên nhiều khi nguồn nguyên liệu
và thị trường tiêu thụ sản phẩm liên quan tới công nghệ chuyển giao cũng là nội
dung được chú ý trong đàm phán; Khoảng cách sẽ càng rõ nét khi chuyển giao
công nghệ diễn ra giữa giới khoa học và giới kinh doanh, bởi các nhà khoa học
thường đánh giá quá cao sản phẩm nghiên cứu và họ còn có xu hướng muốn phổ
biến kết quả khoa học do mình tạo ra.

9


Bảng 1: Các tổ chức tư vấn môi giới chuyển giao công nghệ có uy tín trên thê giới
Những khó khăn về thống nhất lợi ích giữa các bên mua bán công nghệ có thể khắc phục phần
nào với sự hỗ trợ của tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ. Đóng vai trò trung gian,
các tổ chức tư vấn, môi giới công nghệ có những ưu thế để đưa ra các ý kiến công bằng, tỉnh táo
của người thứ ba.

Khác với mua bán hàng hoá thông thường, chuyển giao công nghệ đòi hỏi
những quan hệ sâu sắc, lâu dài giữa các bên chuyển giao và tiếp nhận.
Độ tin cậy của hàng hoá công nghệ không cao do người ta không thể sờ mó

và không dễ nhận biết trực tiếp các thuộc tính KH&CN. Trong khi người bán biết
rõ hàng hoá của mình, thì người mua thường có rất ít thông tin về chất lượng thực
của hàng hoá được mang trao đổi. Giá trị sử dụng của công nghệ chỉ thực sự bộc lộ
trong quá trình sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ. Trước một đối
tượng khá bí ẩn, quan hệ tin tưởng lẫn nhau có ý nghĩa quan trọng giúp chuyển
giao diễn ra trôi chảy.
Chuyển giao công nghệ bao hàm cả việc chuyển giao, hấp thụ kiến thức mới
của phía tiếp nhận. Sau hành vi mua bán còn có cả những hoạt động thiếp theo như
đào tạo, sửa chữa,... thể hiện mối quan hệ gắn bó lâu dài của những người tham
gia. Trường hợp người tiếp nhận tiếp tục cải tiến, phát triển công nghệ được
chuyển giao và cần sự hợp tác từ phía chuyển giao, quan hệ giữa các bên càng
phải bền chặt.
Chuyển giao công nghệ chứa đựng nhiều rủi ro. Người bán khó biết được
người mua có giữ cam kết trong hợp đồng sau khi đã làm chủ được tri thức hay
không. Người có hàng hoá KH&CN dễ bị tổn thương về mặt sở hữu và lợi ích. Tri
thức KH&CN có những điểm khác với hàng hoá truyền thống. Việc một người sử
10


dụng một khối lượng tri thức nhất định không ngăn ngừa được người khác sử dụng
cũng những khối lượng tri thức đó. Đồng thời, khi tri thức đã bộc lộ ra ngoài xã
hội, thì người tạo ra nó rất khó ngăn không cho người khác dùng. Tính chất "không
loại trừ" và "không thể bị loại trừ" theo cách gọi của các nhà kinh tế, thường làm
tách rời giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu thực tế.
Chính vì vậy, trong chuyển giao công nghệ, người ta nhấn mạnh thuật ngữ
''Đối tác" với ý nghĩa là mua bán công nghệ cần quan hệ mật thiết hơn nhiều so với
"mua đứt - bán đoạn", một sự hợp tác trên cơ sở bền vững. Việc hình thành quan
hệ hợp tác bền vững rất cần trợ giúp từ tổ chức tư vấn, môi giới chuyển giao công
nghệ giống như những "bà mối". Bà mối là người có điều kiện đi sâu tìm hiểu các
bên, là người làm chứng và bảo lãnh uy tín của các bên tham gia chuyển giao công

nghệ.

II. Kinh nghiệm ở Trung Quốc
2.1. Hoạt động chuyển giao công nghệ và thúc đẩy thương mại hóa công nghê
ở Trung quốc
a. Phát triển công nghệ và các hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào
Trung Quốc

Bốn công nghệ nổi tiếng ở Trung Quốc là 4 phát minh lớn ở thời đại cổ, đó là
thuốc nổ, la bàn, công nghệ chế tạo giấy và công nghệ in. Bốn công nghệ này là
bằng chứng thể hiện năng lực sáng tạo công nghệ của người Trung Quốc đã có từ
lâu. Hơn một thế kỷ trước, từ các sự kiện như phá hủy Vườn Viên Minh, cuộc tiến
công Hổ Môn Trại, người Trung Quốc đã bắt đầu ý thức được sự chậm tiến của
nước mình, một bộ phận quan chức nhà Thanh đã tiến hành vận động hiện đại hóa
để bảo vệ quyền lực chính quyền chuyên chế phong kiến. Người ta gọi phong trào
này là “Phong trào Dương Vụ”. Tư tưởng chủ đạo của phong trào này là “Sự di
trưởng kỷ dĩ chế di” của “Ngụy Nguyên” (Học hỏi những công nghệ tiên tiến của
11


đối phương để chế áp đối phương), những quan lại phái Dương Vụ đã có tư tưởng
nỗ lực tiếp thu công nghệ mới.So với Minh Trị Duy Tân của Nhật Bản, phong trào
Dương Vụ của Trung Quốc bị thất bại, nên đã rơi vào nội chiến, bất ổn định trong
vòng 60 năm.
Con đường du nhập công nghệ của Trung Quốc
Nhiệm vụ chủ yếu sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời là xây dựng một hệ
thống công nghiệp. Năm 1952, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
để phát triển kinh tế và nhập khẩu thiết bị, công nghệ của Liên Xô cũ với quy mô
lớn, đó cũng là nhiệm vụ trung tâm của kế hoạch này. Trung Quốc đã ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, xây dựng công nghệ công nghiệp bước đầu. Kết quả là đã

dẫn đến sự “bùng nổ” về nhập khẩu công nghệ lần thứ nhất trong thập kỷ 50.
Từ năm 1950 đến 1959, chỉ có 150 quy trình công nghệ viện trợ từ Liên Xô
cũ (thường nói là 156 quy trình) nhưng trên thực tế chỉ có 150 quy trình được tiến
hành), bao gồm từ 400-500 hạng mục công nghệ, chi phí khoảng 2,7 tỷ USD. Tất
cả những khoản mục công nghệ đó đều rất quan trọng. Những công nghệ trọng
điểm được đưa vào là động lực, cơ khí và đồ dùng cho quân sự. Viện trợ công
nghệ của nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa là đường dây nhập khẩu công nghệ
quan trọng nhất của Trung Quốc vào thập kỷ 50. Thời đó các nước Tây Âu thực
hiện chính sách cấm xuất nhập khẩu đối với Trung Quốc cho nên chỉ có thể nhập
khẩu công nghệ từ Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Những công nghệ được đưa vào là những công cụ quan trọng phục vụ sản
xuất, không chỉ trực tiếp tăng cường sức mạnh công nghiệp của Trung Quốc mà
còn là nền tảng để phát triển công nghệ. Trên cơ sở nhập khẩu những công nghệ
này, ở một trình độ nhất định Trung Quốc đã thành công trong việc nâng cao năng
lực công nghệ, đó là cơ sở quan trọng chủ đạo để tạo ra nền tảng công nghiệp hóa
sau này.
Nguồn du nhập

Loại thiết bị

Liên Xô cũ

Thiết bị sơ cấp
Quy trình đơn lẻ
Thiết bị sơ cấp
Máy móc đơn lẻ

Các nước Đông Âu

Số lượng duSố lượng đưaHợp đồng hủyTự triển khai

nhập
vào sử dụng bỏ
304
149
89
66
64
25
35
108
82

(Đơn vị: Số hợp đồng)
Bảng 2. Nhập khẩu thiết bị công nghệ của Trung Quốc những năm 50

12


Nguồn: “Đánh giá 40 năm đưa kỹ thuật mới vào Trung Quốc” - “Thế giới
quản lý”, số 6/1991.
Vào những năm 60, quan hệ Liên Xô cũ và Trung Quốc trở nên xấu đi, Liên
Xô cũ ngừng cung cấp thiết bị công nghệ cho Trung Quốc. Vì thế chiến lược của
Trung Quốc buộc phải thay đổi, từ chỗ học hỏi Liên Xô sang tự lực phát triển.
Trung Quốc tổ chức lại và chuyên môn hóa năng lực KH&CN trong nước, tự mình
giải quyết các vấn đề khó khăn. Vì vậy, bước đầu Trung Quốc đã đạt thành quả to
lớn trong lĩnh vực mũi nhọn quốc phòng và công nghiệp, như đã thực hiện được
“Nhất tinh, nhì đạn” nghĩa là bom nguyên tử, thủy lôi và vệ tinh vũ trụ.
Từ năm 1963, Trung Quốc đã nhập khẩu thiết bị công nghệ từ Nhật Bản và
các nước Tây Âu. Những công nghệ trọng điểm được đưa vào là công nghệ luyện
kim, hóa dầu, công nghiệp hóa học, dệt, cơ khí. Có 84 hạng mục công nghệ được

đưa vào trong giai đoạn này, với kim ngạch 300 triệu USD. Quy mô không lớn như
lần trước nhưng những hạng mục được nhập khẩu là những thiết bị, công nghệ tiên
tiến, đóng vai trò quan trọng đối với việc nâng cao năng lực sản xuất và tích lũy
công nghệ của Trung Quốc vào thời điểm đó. Giai đoạn này, Trung Quốc xúc tiến
tích lũy công nghệ mô phỏng, thành công trong sản xuất một phần thiết bị, công
nghệ mũi nhọn. Do ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1966, Trung
Quốc đã ngừng nhập khẩu công nghệ thời kỳ này. Cuộc Cách mạng Văn hóa đã tác
động mạnh đến việc nhập khẩu công nghệ, trong danh mục được nhập trước đây,
nhiều hạng mục phá sản. Từ 1966 đến 1972, Trung Quốc bị cô lập hoàn toàn khỏi
dòng chảy phát triển công nghệ của thế giới, việc nhập khẩu công nghệ mới cũng
rơi vào tình trạng ngừng trệ. Sau năm 1972, Trung Quốc được thừa nhận tham gia
vào tổ chức của Liên Hiệp Quốc, quan hệ Trung Quốc với Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu
được cải thiện. Chính phủ Trung Quốc đầu tư 4,3 tỷ USD để nhập khẩu thiết bị,
công nghệ mới.
Bước vào thập kỷ 90, tại Trung Quốc, đầu tư ngoại tệ trực tiếp tăng nhanh,
nên có nhiều thuận lợi trong việc nhập khẩu công nghệ quan trọng. Cho đến nay,
hình thái du nhập công nghệ của Trung Quốc đã chuyển sang một hình thức mới,
những công ty lớn buôn bán công nghệ trên thế giới như AT&T, MOTOROLA,
Matsushita… đều đã thành lập những căn cứ và các cơ sở R&D tại Trung Quốc và
các công ty này có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghệ của nước này.
Nhờ những chính sách hợp lý về nhập khẩu công nghệ, năng lực làm chủ
công nghệ nhập và truyền thống sáng tạo, tự cường của người Trung Quốc nên
ngày nay Trung Quốc đã xuất khẩu công nghệ và địa bàn xuất khẩu mới chỉ tập
13


trung vào các nước đang phát triển. Kim ngạch xuất khẩu công nghệ của Trung
Quốc tăng rất nhanh: Năm 1989 là 880 triệu USD, năm 1990 là 990 triệu USD,
năm 1991 là 1.280 triệu USD, năm 1993 là 2,170 tỷ USD, năm 1995 là 1,510 tỷ
USD. Có thể khẳng định rằng việc du nhập công nghệ từ nước ngoài đã tạo ra sự

phát triển nghiên cứu và nâng cao trình độ công nghệ sản xuất của Trung Quốc.
b. Kinh nghiệm trong việc thúc đẩy thương mại hóa công nghệ tại Trung Quốc
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu Kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề
thương mại hóa hoạt động khoa học và công nghệ
Thực tế những gì diễn ra ở Trung Quốc đã chỉ ra rằng không thể coi nhẹ và bỏ
qua khía cạnh phương pháp luận tiến hành thương mại hóa hoạt động khoa học và
công nghệ (KH&CN). Đó là những vấn đề liên quan đến nhận thức về định hướng
và phương thức chung tiến hành thương mại hóa hoạt động KH&CN.
Tính tất yếu của thương mại hóa hoạt động KH&CN:
Trong giai đoạn 1978 - 1985, mặc dù cải cách thể chế đã diễn ra mạnh mẽ
trong lĩnh vực kinh tế, nhưng chính sách KH&CN Trung Quốc, về căn bản, vẫn
tiếp tục đi theo đường lỗi cũ. Những nỗ lực của chính sách này tập trung vào việc
khối phục, cải thiện các cơ sở nghiên cứu - triển khai (R%D) có từ trước "Cách
mạng văn hóa" và soạn thảo chi tiết một hệ thống làm kế hoạch cho hoạt động
KH&CN. Cụ thể là:
• Phục hồi và mở rộng các viện độc lập nghiên cứu – phát triển (R&D).
• Cải cách quản lý các viện R&D theo hướng cử cán bộ chuyên môn làm
giám đốc thay cho cán bộ chính trị, thành lập ủy ban học vấn cấp viện,
thiết lập trở lại nguyên tắc trọng nhân tài vốn bị coi nhẹ từ hồi Cách
mạng văn hóa.
• Làm kế hoạch để phân bổ lại nguồn lực R&D cho các ngành công
nghiệp.
• Thực hiện chế độ quản lý chặt chẽ các dự án nằm trong kế hoạch.
Các sáng kiến trên nằm trong một ý đồ chung là cải thiện tình hình bằng cách
tiến hành những thay đổi trong khuôn khổ của cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hóa tập
trung. Tuy nhiên, kết quả trên thực tế lại không như mong muốn:
Sức mạnh hành chính không đủ khả năng giải quyết các nhu cầu khác nhau về
KH&CN (các nhà sản xuất).
14



• Không tạo được sự phối hợp cần thiết giữa những người tham gia vào
các kế hoạch hoạt động phát triển KH&CN.
• Hạn chế sự phổ biến những công nghệ đã được tạo ra.
Phân tích các thất bại của chủ chương đẩy mạnh kế hoạch hóa hoạt động
KH&CN, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đề ra Nghị quyết về cải cách hệ thống
quản lý KH&CN (năm 1985) với tinh thần chính là thương mại hóa hoạt động
KH&CN và tạo ra thị trường công nghệ.
Tính chất phức tạp của thương mại hóa hoạt động KH&CN.
Là quá trình tất yếu khách quan, nhưng đồng thời, thương mại hóa cũng là
một quá trình phức tạp, lâu dài. Thực tế đã xuất hiện rất nhiều vấn đề mà trước đó
không thể lường trước. Các vấn đề này thực sự là những vật cản và thách thức đối
với mọi sự mong muốn đạt được thương mại hóa một cách nhanh chóng và dễ
dàng. Có thể kể ra các thí dụ gây trở ngại đối với chính sách thương mại hóa của
Trung Quốc:
• Sự không chắc chắn trong giao dịch mua bán công nghệ của những
người bán công nghệ trong nước do sự cạnh tranh gay gắt của các nhà
cung cấp công nghệ nước ngoài.
• Sự thiếu kinh nghiệm của người mua, vốn là những người đã quen nhận
công nghệ một cách thụ động.
• Năng lực của các đơn vị R&D còn bất cập với nhiều đòi hỏi của phía
sản xuất.
• Thiếu định chế và các thể chế trung gian là cầu nối giữa người mua và
người bán do đó giữa người cần công nghệ và người cung công nghệ
khó có cơ hội gặp nhau và khó đạt được một thỏa thuận chuyển giao
công nghệ.
Tính chất phức tạp của thương mại hóa đòi hỏi phải có phương pháp tiến hành
thích hợp. Đó là:
Thứ nhất: Kiên trì chủ trương cải cách hệ thống KH&CN theo hướng thương
mại hóa. Thành tựu hiện nay Trung Quốc có được chính là nhờ quyết tâm vượt qua

khó khăn để đi lên. Đương nhiên, kiên trì và quyết tâm không phải chỉ dừng lại ở
cấp Chính phủ mà phải chuyển hóa thành tinh thần của đơn vị, cá nhân hoạt động
trong hệ thống KH&CN. Kinh nghiệm cho thấy, lúc đầu áp dụng chính sách mới
đã gây nên không ít hỗn loạn và khó khăn cho các đơn vị R&D, nhưng việc áp
15


dụng thành công những sản phẩm có giá trị thương mại đã thúc đẩy họ tích cực
tham gia vào quá trình thương mại hóa; và nếu như ban đầu việc "bị ép buộc làm
kinh doanh" có hạ bớt danh tiếng chuyên môn của các nhà khoa học, thì sau đó, địa
vị của họ lại được củng cố, nâng cao nhờ sự đánh giá nghiêm túc, vô tư của thị
trường về các sản phẩm làm ra.
Thứ hai: Chủ động tiến hành thương mại hóa theo các giai đoạn khác nhau.
Ứng với mỗi giai đoạn cần xác định rõ mục tiêu, phương thức tiến hành cụ thể. Kể
từ 1985 đến nay, Trung Quốc đã có đến 3 văn kiện quan trọng đánh dấu những
điểm mốc lớn trên con đường cải cách hệ thống quản lý KH&CN nói chung và
thương mại hóa hoạt động KH&CN nói riêng: Quyết định của TƯ Đảng cộng sản
Trung Quốc về cải cách hệ thống quản lý KH&CN (1985) quyết định của TƯ
Đảng cộng sản Trung Quốc về thúc đẩy phát triển khoa học (1995); quyết định của
TƯ Đảng, Quốc vụ viện về tăng cường đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ
cao, thực hiện việc tạo ra các ngành nghề công nghiệp.
Thứ ba: Hết sức linh hoạt, nắm bắt và điều chỉnh theo thực tiễn. Ở đây có thể
nêu lên một ví dụ điển hình về Xí nghiệp công nghệ mới (NTE)
Trước chủ trương cắt giảm ngân sách và tình trạng không chắc chắn của thị
trường công nghệ, nhân viên nghiên cứu và trường đại học đã phản ứng bằng cách
tự sáng tạo riêng cho mình những "sản phẩm phụ" (Spin - offs) hay NTE. Hoạt
động tự phát này đã mang lại những kết quả bất ngờ trong quá trình cải tổ hệ thống
KH&CN. Các NTE dần dần hợp thức hóa vai trò thương mại mới cho các viện
nghiên cứu và trường đại học, giúp tạo ra một nền văn hóa kinh doanh công nghệ
đầy sinh động vốn thiếu vắng trong khu vực các doanh nghiệp Nhà nước truyền

thống. Nhận thấy tác dụng tích cực của NTE, đồng thời nhằm giúp cho việc hình
thành và khả năng đứng vững của NTE. Nhà nước Trung Quốc đã xúc tiến chương
trình Bó đuốc vào năm 1988 và phê chuẩn thành lập một loạt các Khu công nghệ
cao nhằm tạo môi trường phát triển công nghiệp công nghệ cao.
Tính hai mặt của thương mại hóa hoạt động KH&CN.
Thương mại hóa mang lại những lợi ích to lớn, nhưng mặt khác, nó cũng đòi
hỏi phải trả một số giá nhất định. Tổng kết 10 năm cải cách chính sách KH&CN ở
Trung Quốc, Đoàn chuyên gia quốc tế IDRC đã nêu ra rất xác đáng "cái được" và
"cái phải trả" của thương mại hóa đối với các cơ quan nghiên cứu.
Lợi ích thu được bao gồm:
16


•Cung cấp cơ chế cho phép các nhà công nghệ giỏi tập trung vào nghiên cứu
và cho phép những người khác có công việc làm ăn trong các Xí nghiệp phụ (Spin
- offs).
•Làm tăng tính chủ động của các nhà nghiên cứu, cho phép việc thu hút được
các nhà khoa học giỏi.
•Đòi hỏi các cơ quan tìm ra những con đường mới liên kết công việc của họ
với nhu cầu xã hội.
•Cung cấp cơ chế đánh giá khách quan đối với việc tập trung nguồn lực cho
những nhóm tốt nhất.
•Thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn nền kinh tế nhằm
mang lại lợi ích cho xã hội.
•Nhấn mạnh đến việc cổ vũ những nhà khoa học trẻ có tài năng.
•Cung cấp nhiều cơ hội hơn để các nhà khoa học hồi hương trở về.
Cái giá phải trả bao gồm:
•Làm cho các nhà khoa học không có trình độ về thương mại cũng cố gắng
trở thành nhà doanh nghiệp và nhà quản lý Xí nghiệp, tất nhiên, sẽ có nhiều sai sót
trong kinh doanh.

•Khuyến khích việc chuyển những nhà khoa học học trẻ tuổi rời khỏi nghiên
cứu cơ bản vì lợi ích trong nghiên cứu ứng dụng cao hơn.
•Buộc các cơ quan phải ưu tiên phân phối lợi ích cho những người có thể
"bán các dịch vụ và công nghệ", và do đó, sẽ tạo ra cạnh tranh giữa các phòng ban,
làm ảnh hưởng tới thời gian nghiên cứu và gây ra khó khăn trong việc thúc đẩy
công trình nghiên cứu liên phòng ban và liên ngành.
Nhận thức về tính hai mặt của thương mại hóa cho phép tránh được những
nhìn nhận bi quan hoặc thái độ cầu toàn trong quá trình thương mại hóa. Đó cũng
là tiêu chuẩn để đánh giá tình hình (tốt hay xấu) và hướng đi (đúng hay sai) của cải
cách thể chế KH&CN.
Những vấn đề đặt ra trong quá trình thương mại hóa hoạt động KH&CN và
biện pháp giải quyết.
Thành công của quá trình thương mại hóa phụ thuộc rất nhiều vào việc xác
định những vấn đề phải đối đầu và tìm ra giải pháp khắc phục chúng. Đây cũng
chính là những bài học tình huống có thể rút ra từ kinh nghiệm của Trung Quốc.
17


Thúc ép và khuyến khích các cơ quan R&D tham gia vào thương mại hóa
hoạt động KH&CN.
Biến các cơ quan R&D vốn quen hoạt động trong môi trường kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp (làm theo lệnh và ăn theo lương) thành những chủ thể
tham gia vào thương mại hóa là một việc hết sức khó khăn. Đối phó lại vấn đề
phức tạp này, Trung Quốc đã sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ cho nhau.
Biện pháp ép buộc thể hiện sự kiên quyết của Chính phủ yêu cầu các cơ quan
R&D phải thay đổi phương thức hoạt động. Rất tự nhiên, điều được tính đến là cắt
bỏ sự tài trợ từ phía Chính phủ. Một cuộc khảo sát chung đã được thực hiện vò
năm 1986 để trên cơ sở đó tiến hành phân loại các viện R&D nhằm phục vụ việc
cắt giảm tài trợ. Kết quả là, đến năm 1991, hơn 2000 viện làm công nghệ công
nghiệp bị cắt hoàn toàn hoặc một phần "phí vận hành", tổng số cắt giảm gần bằng

1 tỷ Nhân dân tệ một năm, hay bằng 1/10 toàn bộ ngân sách Chính phủ dành cho
KH&CN trong năm 1985
Cùng với việc hủy bỏ sự cấp phát của Chính phủ nhằm gây áp lực bắt các viện
R&D phải quay về với những nhu cầu thực tại của cuộc sống, các biện pháp tạo
điều kiện cho các viện R&D hướng vào thị trường cũng được áp dụng.
•Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động mua bán công nghệ bằng cách cho
phép ký kết hợp đồng công nghệ (Luật hợp đòng công nghệ được ban hành vào
năm 1987); Thành lập các cơ quan hỗ trợ mua bán công nghệ (sau một vài năm thử
nghiệm, cuối cùng các cơ quan này được xác định là: "Các cơ quan hoạt động
không có lãi, chịu trách nhiệm về đăng ký các hợp đồng công nghệ"); cho phép
thực hiện một loạt các giao dịch có liên quan đến công nghệ (phát triển công nghệ
theo hợp đồng, chuyển giao công nghệ, tư vấn công nghệ, dịch vụ công nghệ).
•Tăng quyền độc lập cho các viện R&D để có thể liên hệ với thị trường công
nghệ mới được tạo ra. Cụ thể, giám đốc các viện R&D đã được chuyển giao các
quyền trong những lĩnh vực: quyết định các hoạt động nghiên cứu khoa học và
triển khai công nghệ theo hợp đồng, đăng ký liên doanh với các xí nghiệp và đơn
vị thiết kế cũng như với các viện của hệ đại học, quyết định những việc về nhân sự
và tổ chức nội bộ trong viện, quyết định về thu nhập từ các hợp đồng, chủ động
liên kết hợp tác quốc tế và giữ lại phần ngoại tệ đơn vị có được phù hợp với các
quy định của Nhà nước.
•Mềm hóa trong công tác cán bộ: cho phép cán bộ KH&CN làm thêm công
việc thứ hai, với điều kiện họ thực hiện tốt nhiệm vụ chính được giao; áp dụng chế
18


độ "nghỉ không lương nhưng biên chế vẫn được giữ"; cho phép thu nhận những
cán bộ KH&CN đã nghỉ hưu.
•Khuyến khích và ưu đãi đối với các NTE. Đương nhiên, Chính phủ cũng nêu
rõ những tiêu chuẩn để chỉ đạo việc cấp giấy phép cho NTE là:
+ Công nghệ làm nền tảng cho các hoạt động của Xí nghiệp phải thuộc các

lĩnh vực đặc biệt của công nghệ "mới và cao" do ủy ban KH&CN Nhà nước xác
định.
+ Xí nghiệp phải có đủ vốn và nguồn lực vật chất, tiềm năng thị trường và
khả năng quản lý, tổ chức tốt.
+ Người quản lý chính phải là một chuyên gia KH&CN.
Sử dụng các ưu đãi tài chính: ra đời nhiều loại hình tín dụng khuyến khích
thương mại hóa các kết quả nghiên cứu - phát triển như các khoản vay đặc biệt để
đầu tư vào các Xí nghiệp công nghệ mới, các khoản vay cho "triển khai KH&CN",
tín dụng KH&CN ưu tiên giúp đỡ các nhiệm vụ KH&CN nông nghiệp tạo ra sản
phẩm lớn - chất lượng nâng cao rõ - địa bàn áp dụng rộng - có khả năng thu hồi và
các công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp đã được Nhà nước xác định; miễn thuế
cho sản phẩm thực nghiệm trung gian đối với đơn vị nghiên cứu khoa học, ...
Tuy không phải mọi việc đều suôn sẻ và không ít trường hợp cơ quan
KH&CN chịu sự thất bại khi lao vào thị trường (điển hình như: Viện khoa học và
công nghệ mỏ than của Tổng công ty mỏ than Nhà nước; Viện nghiên cứu tự động
hóa của Bộ công nghiệp luyện kim, Viện công trình và thiết kế hóa chất....); nhưng
rõ ràng, những biện pháp nêu trên đã mang lại kết quả tích cực:
• Hoạt động thương mại của các cơ quan R&D tăng nhanh. Năm 1993, các cơ
quan R&D đã có 4,6 vạn bản hợp đồng kỹ thuật với Xí nghiệp công nghiệp,.
kim ngạch đã giao kèo ký kết là 4,4 ty Nhân dân tệ, tăng 690 triệu Nhân dân
tệ so với năm trước, tăng 1,71 tỷ Nhân dân tệ so với năm 1991. Năm 1993,
thu nhập từ chuyển nhượng công nghệ của cơ quan R&D lên tới 813 triệu
Nhân dân tệ, tăng 221 triệu Nhân dân tệ so với năm trước. Đến năm 1998,
số lượng hợp đồng kỹ thuật ở các cơ quan R&D là 28,17 vạn bản, tăng
12,48% về số lượng và 24,03% về giá trị so với năm 1997
Sau 10 năm cải cách (đến 1996) riêng 123 viện của Viện hàn lâm khoa học đã
lập ra 900 NTE
- V.v....
19



Bên cạnh đó, thực tế cũng tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết như:
•Vẫn còn quá nhiều viện nghiên cứu của Chính phủ, trong số đó có nhiều
viện thừa biên chế và tồn tại quá nhiều cơ quan R&D phụ thuộc vào tài trợ của
Chính phủ
•Sự trùng lặp lớn và thiếu phối hợp của các cơ quan R&D gây tiêu cực đến
thị trường hoạt động KH&CN
•Ở các NTE, khoảng 1 hay nhiều nhất là 2 trên 10 là thành công, 2 hoặc 3 có
thể tồn tại trong thời gian dài, và số còn lại là thất bại. Tuy nhiên, chính sách hiện
hành ở Trung Quốc không cho phép các Xí nghiệp thất bại này rời khỏi kinh doanh
vì sợ tạo ra những vấn đề liên quan đến phúc lợi xã hội của cán bộ công nhân viên
Đó là những thách thức cần tiếp tục vượt qua và Trung Quốc đã sẵn sàng cho
sự vượt qua này bằng cách chủ trương: thúc đẩy cơ quan nghiên cứu loại hình ứng
dụng và đơn vị thiết kế, ra sức thúc đẩy phát triển Xí nghiệp loại hình KH&CN,...
(xem nghị quyết của TƯ Đảng, Quốc vụ viện về tăng cường đổi mới công nghệ,
phát triển công nghệ cao thực hiện việc tạo ra các ngành nghề công nghiệp 28/8/1999).
Trước tình hình thiếu năng động của cơ quan R&D thuộc Nhà nước, sự trống
vắng của hoạt động thương mại hóa trên nhiều địa bàn và lĩnh vực, sự tự phát ra
đời của các cơ quan R&D phi Nhà nước, Trung Quốc đã chủ động khuyến khích
phát triển Xí nghiệp loại hình khoa học kỹ thuật dân doanh. Chính sách này được
thể hiện trong "Quyết định về một loạt vấn đề đối với phát triển mạnh mẽ Xí
nghiệp loại hình khoa học kỹ thuật dân doanh" do ủy ban KHKT Nhà nước và
ủy ban cải cách thể chế Nhà nước ban bố:
•Phát triển Xí nghiệp loại hình KHKT dân doanh phải tiếp tục kiên trì
phương châm lấy chế độ công hữu làm chủ thể, cùng tồn tại nhiều thành phần kinh
tế.
•Đẩy nhanh các bước đi, tăng cường cường độ, tích cực phát triển Xí nghiệp
loại hình KHKT dân doanh, từng bước tổ chức và động viên nhiều hơn nữa số cán
bộ KHKT đi vào xã hội.
•Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, phát triển có trọng điểm Xí nghiệp loại

hình KHKT dân doanh trong số Xí nghiệp có lượng nhu cầu thị trường lớn, trong
lĩnh vực mà Nhà nước ưu tiên phát triển.

20


•Tăng cường hơn nữa năng lực nghiên cứu và triển khai, năng lực chuyển hóa
thành quả KHKT và năng lực phát triển sản nghiệp của loại hình KHKT dân
doanh.
•Thúc đẩy sự hợp tác và liên kết rộng rãi giữa Xí nghiệp loại hình KHKT dân
doanh với Xí nghiệp quốc doanh.
•Xác định rõ mối quan hệ quyền sở hữu tài sản chuyển đổi cơ chế kinh
doanh, quy phạm chế độ tổ chức của Xí nghiệp loại hình KHKT dân doanh.
•Thúc đẩy Xí nghiệp loại hình KH&KT dân doanh khai thác thị trường quốc
tế, tham gia cạnh tranh quốc tế.
Những nỗ lực của Trung Quốc đã mang lại kết quả khá khả quan. Tính đến
cuối năm 1993, cả nước có khoảng 55.000 Xí nghiệp loại hình KHKT dân doanh,
số cán bộ công nhân cố định là 950.000 người, trong đó cán bộ KHKT là 550.000
người, chiếm 58% tổng số cán bộ công nhân cố định
Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia thương mại hóa hoạt động KH&CN.
Chuyển sang kinh tế thị trường, nhu cầu thị trường và sức ép cạnh tranh
đương nhiên buộc các doanh nghiệp Trung Quốc phải chú ý đến KHKT. Bên cạnh
đó, họ cũng được tạo điều kiện để tăng cường khả năng tiếp thu tiến bộ KH&CN
như giúp đỡ và ưu đãi về tài chính, hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ nội sinh....
Mặc dù vậy, vẫn đang tồn tại những cản trở đối với việc tham gia thương mại hóa
hoạt động KH&CN của các doanh nghiệp:
•Là những người từ lâu đã quen nhận công nghệ mới một cách thụ động, các
doanh nghiệp mua công nghệ đều thiếu kinh nghiệm đánh giá bí quyết công nghệ.
Điều này là dễ hiểu bởi bản thân chuyển giao công nghệ là một quá trình tăng
cường công nghệ, và các doanh nghiệp không có cơ hội để học được cách tiếp thu

công nghệ vào thời điểm họ vừa bước vào thị trường công nghệ.
•Nhiều doanh nghiệp không muốn chi trả cho công nghệ mà trước đây họ
được nhận không mất tiền, hoặc chi trả cho các công nghệ đó với giá rất thấp.
•Còn có khác biệt lớn giữa doanh nghiệp nông nghiệp và doanh nghiệp công
nghiệp. Nhìn chung doanh nghiệp nông nghiệp còn chưa tích cực tham gia mạnh
mẽ vào thương mại hóa hoạt động KH&CN.
•Các doanh nghiệp công nghiệp lớn và vừa của Trung Quốc lấy phương thức
tự mình tiến hành triển khai hoạt động sáng tạo kỹ thuật làm phương thức chủ yếu.
21


Nhằm tháo gỡ những vấn đề trên, trước mắt Trung Quốc đang chú trọng đến
các giải pháp như:
•Thúc đẩy doanh nghiệp trở thành chủ thể đổi mới công nghệ, nâng cao toàn
diện năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
•Tăng cường hợp tác liên kết giữa Xí nghiệp và trường đại học và viện
nghiên cứu: xây dựng cơ chế hợp tác song phương, đa phương thông qua hình thức
như kiêm nhiệm tương hỗ, bồi dưỡng huấn luyện... kinh phí phát triển công nghệ
của Xí nghiệp phải được sử dụng thường xuyên trong hợp tác giữa sản xuất trường đại học - cơ quan R&D.
2.2. Phát triển các tổ chức môi giới trung gian chuyển giao công nghệ:
Nhằm gắn kết giữa hai đầu cơ quan KH&CN và doanh nghiệp như là hai cực
"cung" và "cầu" của hàng hóa sản phẩm khoa học công nghệ và cũng nhằm hạn
chế tình trạng mua bán tự phát, tản mạn trên thị trường công nghệ, Trung Quốc đã
phát triển mạnh mẽ các tổ chức và hình thức giao dịch công nghệ.
Các hình thức khác nhau của các tổ chức trung gian chuyển giao công nghệ
được hình thành trong 10 năm gần đây:
􀂆 Sở hữu nhà nước
􀂆Thuộc các trường đại học
􀂆Dưới sự hỗ trợ của chính phủ
􀂆 Theo các định hướng thị trường

Tính đến năm 1992, Trung Quốc đã thành lập 28.000 cơ quan giao dịch công
nghệ với 686.000 cán bộ, trong đó có 253.000 cán bộ KH&CN. Các tổ chức này từ
chỗ bột phát đã phát triển theo hướng có tổ chức, tổng hợp, chuyên nghiệp.... góp
phần đưa trình độ giao dịch công nghệ lên tầng nấc mới.
Trên thực tế, các tổ chức môi giới trung gian đã thể hiện khá tốt vai trò của
mình qua các hoạt động như: tổ chức mua bán công nghệ; công bố những công
nghệ khó, cần có sự hợp tác của nhiều đơn vị; giới thiệu các dịch vụ về đăng ký,
giám định, tài chính, thông tin... có liên qua đến hợp đồng công nghệ. Kết quả cảu
các chính sách thúc đẩy tổ chức trung gian chuyển giao công nghệ của chính phủ
đã tác động trực tiếp tới hoạt động chuyển giao công nghệ của trung quôc. Theo
biểu đồ phát triển chuyển giao công nghệ giai đoạn 1990 – 2005, chúng ta thây
mức tăng trưởng của hoạt động chuyển giao công nghệ trung quốc tương đối đều
khoản 20-30% mỗi năm.

22


Đơn vị: triệu USD

Hình 1: Biểu đồ chuyển giao công nghệ tại Trung quốc các năm 1990 -2005

Để thúc đẩy phát triển các tổ chức môi giới trung gian, Nghị quyết của TƯ
Đảng, Quốc vụ Viện về tăng cường đổi mới công nghệ phát triển công nghệ cao,
thực hiện việc tạo ra các ngành nghề công nghiệp (ban hàng 20/8/1999) đã đề cập
đến một loạt biện pháp: nhanh chóng ban hành và hoàn thiện pháp quy, quy phạm
hành vi, hành nghiệp, tăng cường quản lý về tổ chức dịch vụ trung gian KH&CN;
bồi dưỡng, hướng dẫn các loại cơ quan trung gian để tăng cường cung cấp dịch vụ
tốt về chuyển nhượng thành quả KH&CN; tích cực phát triển cơ quan giao dịch
thông tin và tư vấn; khuyến khích một số cơ quan nghiên cứu khoa học công nghệ
có tính chất tự chuyển sang cơ quan dịch vụ trung gian KH&CN mang tính Xí

nghiệp; đổi mới phương thức dịch vụ của cơ quan, dịch vụ trung gian phục vụ
nông nghiệp, nông thôn (XI).
Tăng cường các thiết chế làm cơ sở cho thương mại hóa hoạt động KH&CN.
Các thiết chế làm cơ sở cho thương mại hóa hoạt động KH&CN đã được chú
ý đến rất sớm ở Trung Quốc, đồng thời chúng được liên tục bổ sung. Luật Hợp
đồng công nghệ được ban hành vào năm 1987 là cơ sở để giải quyết các tranh chấp
trong thực hiện hợp đồng có liên quan đến KH&CN. Năm 1990, ủy ban KH&CN,
Nhà nước Trung Quốc đã ban hành các văn bản pháp quy như: Quy định về quản
lý hợp đồng công nghệ, Quy định về thẩm định hợp đồng công nghệ, Biện pháp
quản lý hội dịch vụ công nghệ, Quy định về quản lý các cơ quan và trọng tài hợp
đồng công nghệ... Năm 1993, Trung Quốc đã thông qua Luật Tiến bộ KH&CN.
Tiếp đó, hàng loạt các văn bản khác đã ra đời như: Luật Sáng chế, Luật bản quyền
tác giả, Luật Hợp đồng kỹ thuật, Luật xúc tiến chuyển hóa thành quả KH&CN....
23


cùng với các văn bản pháp quy, hệ thống cơ quan có trách nhiệm theo dõi, thực thi
các văn bản đó cũng phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn, số lượng các cơ quan phụ
trách quản lý thị trường công nghệ đã tăng từ 9.649 năm 1987 lên 21.132 năm
1991; số lượng cán bộ khoa học và kỹ sư do cơ quan này thuê làm chính thức đã
lên tới 124.000 người vào năm 1991
Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn có một số hiện tượng nổi cộm như: không
chịu trách nhiệm trong việc vi phạm hợp đồng công nghệ; khó khăn trong việc
định các giá trị của tri thức kỹ thuật; tình trạng không rõ ràng trong việc trao quyền
sở hữu đối với các phát minh, sáng chế; những thủ tục khó khăn gây cản trở cho
những người chủ sở hữu tri thức muốn chuyển các kết quả nghiên cứu đến áp dụng
tại các cơ sở sản xuất. Các vấn đề này đã được chú trọng xem xét nhằm tìm kiếm
biện pháp khắc phục. Trước mắt, Trung Quốc đang tập trung vào một số biện pháp
sau:
•Yêu cầu cơ quan quản lý thị trường công nghệ các cấp phải nhanh chóng

ban hành điều lệ quản lý thị trường công nghệ dưới sự chỉ đạo của Hội đồng nhân
dân và chính quyền sở tại.
•Tăng cường tuyên truyền về Luật hợp đồng công nghệ, nâng cao nhận thức
xã hội trong giao dịch công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ.
•Triển khai công tác trọng tài hợp đồng công nghệ có chất lượng
Xu hướng phát triển của các tổ chức trung gian chuyển giao công nghệ tại
Trung quốc:
•Kết nối: hình thành mạng lưới quốc gia và theo các khu vực khác nhau
•Chuyên môn hóa theo các ngành công nghệ
•Mở rộng phối hợp giữa các trung tâm thuộc các ngành công nghệ khác nhau
•Quốc tế hóa

III. Kinh nghiệm Thái Lan
3.1. Lịch sử phát triển công nghệ và một số ngành công nghệ có thế mạnh của
Thái Lan
Ở Thái Lan, ngành chế tạo đã ổn định trên 3 thập kỷ nay. Tuy vậy, công nghệ
chế tạo lại nằm trong tay các công ty nước ngoài, có thể nêu ra các lý do: Thứ nhất,
sự phát triển của ngành chế tạo phụ thuộc vào đầu tư của nước ngoài hơn là đầu tư
trong nước. Thứ hai, ngành chế tạo phát triển trong thời kỳ hướng ra xuất khẩu hơn
24


là thời kỳ thay thế nhập khẩu. Thứ ba, Chính phủ Thái Lan hỗ trợ cho các doanh
nghiệp tư nhân trong R&D và chuyển giao công nghệ nhưng không phát huy được
vai trò tích cực để phát triển công nghệ của Thái Lan. Trong ngành chế tạo ở Thái
Lan, có 2 nhóm ngành có đặc trưng cho ngành chế tạo: Thứ nhất, là ngành điện tử,
dựa vào sự đầu tư của nước ngoài nên phát triển khá cao, xuất khẩu được nhiều
mặt hàng điện, điện tử. Thứ hai, là ngành công nghiệp máy công cụ, đầu tư của
nước ngoài thấp hơn nên xuất khẩu ít, kém phát triển hơn, ngành chỉ giới hạn trong
phạm vi một số sản phẩm nhất định.

Ngành sản xuất điện tử:
Thời kỳ thay thế hàng nhập khẩu (1960-1970):
Từ nửa đầu của thời kỳ này, 50% đầu tư vào ngành sản xuất điện tử là từ
Nhật Bản. Nhờ chính sách thay thế hàng nhập khẩu và quy chế khuyến khích đầu
tư của Chính phủ Thái Lan nên 10 công ty được thành lập trong thời kỳ này, trong
đó có 5 công ty liên doanh với Nhật Bản chi phối phần lớn sản phẩm điện-điện tử.
Năm công ty đó là Công ty Điện máy SANYO-Yunibasaru (Công ty Điện tử
Sanyo), National Thailand (Công ty Điện tử Matsushita), Công ty Điện tử
Kanyong (Mitsubishi), Công ty Điện tử Toshiba Thai Ltd (Toshiba) và Công ty
Điện tử Hitachi Consuma Product (Công ty Hitachi). Điều đó chứng tỏ đầu tư của
Nhật Bản chiếm một vị trí rất quan trọng nên ngành công nghiệp đó của Thái Lan
trong thời kỳ này phát triển rất mạnh. Thứ nhất, là do thị trường Thái Lan rộng lớn
đang được bảo hộ. Thứ hai, là Chính phủ khuyến khích tuyên truyền, quảng cáo rất
mạnh. Thứ ba, thực tế trong thời kỳ này Tivi đen trắng và đài bán dẫn là những sản
phẩm mới đang bán chạy ở thị trường Thái Lan.
Thời kỳ chuyển tiếp (1971-1980):
Thời kỳ này Chính phủ Thái Lan khuyến khích xuất khẩu nhằm chuyển
hướng nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu sang sản xuất hướng về xuất
khẩu. Thời kỳ này có 3 công ty của Mỹ đầu tư vào lĩnh vực IC để xuất khẩu sản
phẩm. Năm 1974, nhiều công ty đa quốc gia của Mỹ đã được thành lập ở Thái Lan
như Công ty Noshonal, Semicontactor, Shikunetiks, Deta General. Nhờ có các
công ty này sản xuất xuất khẩu IC với kim ngạch lớn nên việc sản xuất các mặt
hàng lắp ráp tiêu dùng trong nước được chuyển sang sản xuất hàng điện tử xuất
khẩu. Đây là bước nhảy vọt quan trọng trong ngành chế tạo ở Thái Lan lần thứ hai,
dựa chủ yếu vào các công ty Mỹ.
Thời kỳ khuyến khích xuất khẩu (1981-1985):
25



×