Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quan điểm của phật giáo về bình đẳng qua 2 bản kinh ambattha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.54 KB, 16 trang )

QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO VỀ
BÌNH ĐẲNG QUA 2 BẢN KINH
AMBATTHA & SONADANDA
Bài thu hoạch giữa học kỳ 5 năm thứ 3
MÔN TRƯỜNG BỘ KINH

Sinh viên Nguyễn Quý Hoàng
Mã số sinh viên DTTX 1087

GV hướng dẫn SC. TS Thích nữ Phụng Liên

1


Dàn bài

Chương 1 Dẫn nhập
1. Ý nghĩa & lý do chọn đề tài
2. Giới hạn đề tài và phương pháp nghiên cứu

Chương 2 Kinh Ambattha & Sonadanda
1. Cơ sở phân chia giai cấp của Bà La Môn – kinh Veda
2. Trường bộ kinh
3. Nội dung kinh Ambattha & Sonadanda
Chương 3 Quan điểm của PG về BÌNH ĐẲNG thông qua 2 kinhAmbattha & Sonadanda
1. Quan niệm Xã hội về bình đẳng
2. Quan điểm của Phật giáo về bình đẳng
3. Hướng giải quyết của Phật giáo về vấn đề bình đẳng hay sự vận dụng
kinh điển vào thực tế đời sống
Chương 4 Kết luận -Nhận xét & Đánh giá


Tài liệu tham khảo
Chương 1 Dẫn nhập
1. Ý nghĩa và lý do chọn đề tài
Đức Phật được sinh ra trong một xã hội Ấn Độ cổ đại tồn tại bốn giai cấp rõ rệt, trong
đó, giai cấp Bà-la-môn tự cho mình là giai cấp cao quý nhất được sinh ra từ miệng
Phạm Thiên (Brahma), các giai cấp còn lại thì giai cấp Sát-đế-lỵ được sinh ra từ hai tay
2


Phạm Thiên, giai cấp Phệ-xá được sinh ra từ bắp chân Phạm Thiên, giai cấp Thủ-đà-la
được sinh ra từ lòng bàn chân của Phạm Thiên. Như vậy, các giai cấp được phân tầng
từ cao xuống thấp tùy theo trí tưởng tượng của giai cấp Bà la Môn liên quan đến vị trí
từ Phạm Thiên mà các giai cấp được sinh ra.
Sự phân biệt đẳng cấp này được bảo vệ bởi tầng lớp cai trị và tăng lữ thống trị (cũng
gọi là Brahmin) tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội thời đó trên nhiều mặt và đức Phật
đã không đồng tình và có những quan điểm riêng của mình.
Tất cả các vấn đề giai cấp, huyết thống dòng dõi và những căn cứ để tạo nên một con
người cao quí mà các vấn đề này dẫn tới sự bình đẳng của con người trong xã hội được
đức Phật đề cập và phân tích cụ thể trong 2 bộ kinh Ambattha & Sonadanda (Trường
bộ), đây là những vấn đề thiết thực quan trọng liên quan đến hạnh phúc của con người,
và đó cũng là lí do người viết chọn 2 bài kinh này làm đề tài nghiên cứu
2. Tư liệu, giới hạn đề tài và phương pháp làm bài thu hoạch
Trong khuôn khổ của một bài thu hoạch ngắn nên người viết chỉ sử dụng phương pháp
chính là phân tích, tổng hợp, nhận xét và đánh giá dựa trên tài liệu gốc là 2 bản kinh
Trường bộ II, III kinh Ambattha & Sonadanda, kinh được dịch bởi hòa thượng Thích
Minh Châu và được Viện nghiên cứu Phật học ấn hành, ngoài ra người viết cũng tham
khảo thêm giáo trình Trường Bộ kinh của Thượng tọa Thích Thiện Tâm, tóm tắt kinh
Trường bộ của hòa thượng Thích Minh Châu
Tuy nhiên quan điểm xã hội và tôn giáo nói chung cũng như Phật giáo nói riêng về bình
đẳng được nhiều học giả quan tâm, và các bài viết đó là những tài liệu thứ cấp mà

người viết dùng để tham khảo. Nhũng tài liệu này đăng rải rác trên các trang Phật học
trên Internet

Chương II Kinh Ambattha & Sonadanda (Trường bộ kinh)
3


1. Trường bộ kinh
Trường bộ kinh (zh. 長部經, sa. dīrghāgama, pi. dīgha-nikāya) là bộ đầu tiên của năm
Bộ kinh trong Kinh tạng (pi. sutta-pitaka) văn hệ Pali. Trường bộ kinh văn hệ Pali của
Thượng toạ bộ bao gồm 34 bài kinh.

Những Ðặc Ðiểm của kinh Trường bộ
1. Tư tưởng của bộ kinh mang đậm hương vị của thời Nguyên thủy Phật giáo.
2. Thể loại văn tường thuật, ký sự, dùng điệp từ và trùng cú và các bản kinh đã phản
ánh tư tưởng, học thuật, sinh hoạt, tập quán, tôn giáo... của xã hội đương thời.
3. Diễn đạt tư tưởng Phật học một cách thiết thực gần gũi với tâm lý con người, những
ví dụ dễ hiểu và lý luận giản đơn nhưng chặt chẽ.
4. Kinh chứa đựng rất nhiều những lời dạy phản ánh quan điểm của Phật về các vấn đề
tu tập, phương cách sống, lối ứng xử, về các vấn đề lý luận, xã hội......
2. Nội dung kinh Ambattha & Sonadanda
A. Kinh Ambattha (DighaNikaya – Ambattha Sutta số 03)

Xuất xứ
Đức Thế Tôn giảng pháp thoại này cho thanh niên Ambattha cùng với một số thanh niên
đi theo ở ngay tại hương thất của Ngài, trú ngụ trong một làng Bà La Môn ở Kosala trong
rừng làng Icchanankala. 1
Duyên khởi
1 TT. Thích Thiện Tâm- giáo trình Trường Bộ Kinh


4


Bà La Môn Pokkharasadi giàu có và nhiểu danh tiếng bảo đệ tử Ambattha đến gặp Phật
để xác minh xem Phật có đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân không.
Thanh niên Ambattha tỏ thái độ ngạo mạn và thô tháo trước Đức Phật khi nói về dòng
dõi danh tiếng của mình và là đệ tử của Bà La Môn Pokkharasadi, nổi tiếng về giàu có và
nhiều uy danh xuất thân từ giai cấp tối cao trong XH Ấn Độ lúc bấy giờ. Đức Phật cho
rằng với thái độ như vậy là vô giáo dục dù tự nó là có giáo dục, quá phẫn nộ, Ambattha
dùng những lời nhục mạ, phỉ báng và công kích Đức Phật.
Ambattha - Tự hào về giai cấp và dòng dõi và cho rằng địa vị và giá trị cao thấp của con
người dựa trên 2 yếu tố này.2
Tóm tắt nội dung kinh
- Ambattha đã buộc tội và phỉ báng dòng họ Thích Ca căn cứ vào giai cấp .
- Nhưng đức Phật đã chỉ rõ nguồn gốc về dòng họ Ambattha, và lui về quá khứ thì dòng
họ Thích Ca là thầy của Ambattha.
- Đức Phật cho rằng địa vị và giá trị cao thấp của con người phải dựa vào Giới đức và Trí
đức, không thể dựa vào giai cấp và dòng dõi.
B. Kinh Sonadanda (DighaNikaya-Sonadanda Sutta số 04)

Xuất xứ
Đức Thế Tôn đã thuyết giảng Pháp thoại này khi cùng với Bà La Môn Sonadanda tại
thành Campa trên bờ hồ Gaggara thuộc nước Magadha do đức vua Bimbisara đang trị vị.
Duyên khởi
Thế nào để xứng danh xưng Bà La Môn?
Bà La Môn Sonadanda bị cuốn hút bởi những tiếng đồn về Giới đức và Trí đức của Đức
Phật, muốn đến chiêm bái, yết kiến, đảnh lễ và lắng nghe Phật thuyết giảng.
2 SC. TS Thích nữ Phụng Liên- Dàn bài tổng quát bài giảng Trường Bộ kinh, tài liệu lưu hành nội bộ

5



Tóm tắt nội dung kinh
Đức Thế tôn hỏi Bà La Môn Sonadanda về 3 quyển Veda, liên quan về sự thành tựu một
vị Bà La Môn cần phải hội đủ bao nhiêu đức tánh?
Sonadanda trả lời cần phải có đủ 5 đức tánh như sau:
-

Huyết thống 7 đời thuần tịnh

-

Đầy đủ giới hạnh

-

Thông thuộc các chú thuật, ngữ pháp và thấu suốt văn nghĩa Vệ Đà

-

Cử chỉ trang nhã, khả ái được lòng mọi người

-

Học rộng, sáng suốt và là người cầm muỗng đệ nhất tại lễ tế thần

Và đức Phật đã hỏi Sonadanda nhiều lần có thể bỏ những đức tánh gì mà vẫn được gọi là
Bà La Môn, đến lần trả lời lần thứ tư thì Sonadanda xác định chỉ cần hai đức tánh là đầy
đủ giới hạnh và đa văn quảng kiến.
Đức Phật xác nhận và nêu lên quan điểm của ngài về giới hạnh và trí tuệ theo đúng như

trong kinh quả báo Sa Môn, và Bà La Môn Sonadanda khởi lòng tịnh tín, quy y Tam Bảo
và trọn đời giữ giới hành thiện3

Chương III Quan điểm của PG về BÌNH ĐẲNG thông qua 2 kinh- Ambattha &
Sonadanda
1. Quan niệm xã hội về bình đẳng

3 SC. TS Thích nữ Phụng Liên- Dàn bài tổng quát bài giảng Trường Bộ kinh, tài liệu lưu hành nội bộ

6


“Bắt nguồn từ thuật ngữ gốc Pháp là “Egalitaire”, (Egal có nghĩa là ngang bằng hoặc
bằng nhau) “Egalitarianism” là chủ nghĩa bình đẳng đã trở thành nghĩa “học thuyết
bình đẳng giữa loài người” và nội dung chủ yếu liên hệ đến xã hội” 4
Sự thực thì hai khái niệm công bằng xã hội và bình đẳng xã hội tuy gần nhau nhưng dẫu
sao, chúng vẫn là hai khái niệm khác nhau. Khi nói tới bình đẳng xã hội, người ta muốn
nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội nào đấy,
chẳng hạn về kinh tế chính trị, văn hóa..... Còn khi nói tới sự ngang bằng nhau giữa
người với người về mọi phương diện, tức là ta đã nói tới một sự bình đẳng xã hội hoàn
toàn. Trong khi đó, công bằng xã hội cũng là một dạng (và chỉ là một dạng mà thôi) của
bình đẳng xã hội, nhưng đó là sự bình đẳng, tức là sự ngang bằng nhau, giữa người với
người không phải về mọi phương diện, cũng không phải về một phương diện bất kỳ, mà
chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa công hiến và
hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiên ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. “Khái
niệm "công bằng xã hội" với nội hàm kinh tế như vậy có khuynh hướng coi công bằng
tương đương (đồng nghĩa) với sự bình đẳng “cào bằng". 5
Như vậy, muốn có công bằng thì trước hết phải có sự bình đẳng trong xã hội, hai khái
niệm này đôi lúc giống nhau và khó có thể phân biệt được, như trong lĩnh vực chính trị,
người ta không sử dụng từ công bằng pháp lí hay chính trị mà thay vào đó là từ bình

đẳng, như vậy dưới khía cạnh pháp lí thì công bằng cũng là bình đẳng.
Nhưng sự bình đẳng cũng mang tính tương đối
Trong xã hội, số người có tài năng và cơ hội thì luôn là thiểu số. Chính vì có ưu thế, tài
năng, cơ hội nên họ nhận được nhiều quyền lợi của xã hội và giàu lên nhanh chóng
cách biệt rất nhiều với những người thuộc tầng lớp nghèo khổ phía dưới.
Làm giàu chính đáng là một trong những quyền cơ bản của con người nhưng nếu tài sản
chỉ tập trung vào thiểu số con người trong xã hội thì sẽ thấy nảy sinh nhiều vấn đề liên
quan đến sự phân chia của xã hội.
4 Giáo sư tiến sĩ L. P. N. Perer Quan niệm Đạo Phật về chủ nghĩa bình đẳng Thích nữ Hằng Liên dịch
5 GS TS Lê Hữu Tầng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay

7


Không ai thích sự bất công, bất bình đẳng của xã hội nhưng sẽ thật là sai lầm nếu muốn
tạo ra một xã hội bình quân, ai cũng giống nhau, cùng sở hữu một số tài sản như nhau
dù tài năng, sự cống hiến khác nhau. Và công bằng không có nghĩa là chia đều tài sản
cho mọi người không căn cứ vào kết quả đóng góp.
2. Quan điểm của Phật giáo về bình đẳng giai cấp qua kinh Ambattha & Sonadanda
Trước khi đề cập tới quan điểm Phật giáo về bình đẳng thì cũng cần nói qua về cơ sở để
phân chia giai cấp trong xã hội Ấn Độ thời đức Phật.
Giai cấp Bà La Môn đã dựa vào kinh Veda - một trong những bộ kinh cổ và đồ sộ nhất
của nhân loại để hình thành lên 4 tầng lớp giai cấp trong xã hội thời đó. Bộ kinh này được
coi là cơ sở của mọi quan điểm của giai cấp Bà la Môn, với người Ấn Độ cổ đại, không
có gì trong cuộc sống lại không được diễn tả trong kinh Veda.
Tuy nhiên, không phải những gì trong kinh Veda đều mang lại giá trị tốt đẹp cho con
người. Sự phân biệt đẳng cấp đến mức khắc nghiệt vô lý được cụ thể hóa trong Veda đã
ảnh hưởng nặng nề đến tình đoàn kết dân tộc cũng như sự phát triển xã hội Ấn Độ. Đến
tận ngày nay, xã hội Ấn Độ vẫn chưa thoát khỏi những định kiến về sự phân biệt đẳng
cấp đó.

Đức Phật đã hoàn toàn chống lại sự phân chia giai cấp trong xã hội thời đó, qua bản kinh
Ambattha, đức Phật “thay vì phân chia giai cấp, đức Phật đã đóng góp tư tưởng của Ngài
vào sự giảng giải về việc sắp xếp vai trò và địa vị của một người dựa vào phẩm chất đạo
đức bên trong”6, đó là yếu tố giới đức và trí đức. Giai cấp và dòng dõi không nói lên điều
gì về địa vị và giá trị của con người.

6 TS. Nandasena Ratnapala- Sự phân tầng xã hội ( />
8


Như vậy, theo Phật giáo, trạng thái phát triển bên trong sẽ cung cấp một phương pháp tốt
hơn để phân loại con người ra thành nhiều tầng lớp khác nhau, hay nói cách khác do
nghiệp lực mà con người đã tự phân chia mình thành những tầng lớp riêng biệt trong xã
hội.
Trong một bài pháp thoại một thanh niên Bà-la-môn tên Ambattha (D. I. 87-96), Đức
Phật tiếp tục vạch trần tính huyển hoặc về cái gọi là sự thuần tịnh của giai cấp. Thanh
niên Bà-la-môn tự hào về giai cấp Bà-la-môn của mình đến nỗi không thèm giữ phép lịch
sự tối thiểu trong khi nói chuyện với đức Phật. Y làm điều này vì cho rằng đức Phật
không phải là một người Bà-la-môn mà chỉ là một người Sát-đế-lỵ, thấp kém hơn giai cấp
của y.
Đức Phật hỏi thanh niên Bà-la-môn "Này Ambattha, dòng họ của ngươi là gì?"
Khi thanh niên Bà-la-môn trả lời, đức Phật nói tiếp: "Này Ambattha, nếu theo phụ mẫu
hệ của bạn về quá khứ, thì rõ ràng dòng họ Thích-ca là thầy của bạn, và bạn là con cái
của một dòng dõi một nữ tỳ thuộc họ Thích-ca. Tổ tiên của dòng họ Thích-ca là vua
Okkàka. (D. I. 114-115).
Đức Phật đưa ra bằng chứng lịch sử để giáo dục Ambattha, một người tự hào quá đáng về
tổ tiên Bà-la-môn của y. Bằng chứng lịch sử này chẳng những được Ambattha biết tường
tận, mà những người khác khi chứng kiến cuộc đàm thoại giữa đức Phật và thanh niên
Bà-la-môn cũng hiểu rõ. Sự im lặng của anh ta đủ chứng tỏ rằng sự kiện lịch sử này là
đúng và được biết rõ bởi nhiều người và kết quả là niềm kiêu hãnh của Ambattha đã bị

chặt đứt cùng với những luận điệu cho rằng giai cấp Bà-la-môn là tối thượng trong xã hội
Ấn Độ thời bấy giờ.
Đức Phật không dừng lại ở mặt quan điểm mà con đưa việc bình đẳng vào hiện thực
trong đời sống qua việc chấp nhận đủ mọi thành phần giai cấp trong tăng đoàn của ngàinhư chấp nhận Upàli, một người thợ cạo, người làm việc thuộc về một trong những nghề
9


bị khinh miệt của giai cấp thấp, và Upàli không những được thâu nhận vào Tăng đoàn mà
còn được thừa nhận như một Tôn giả chuyên trì giới luật, như Sunìta, - một người đổ
phân rơi thân từ giai cấp Candàla cũng được chấp nhận.
Và như thế “Tất cả những sự phân biệt về giai cấp, đẳng cấp hay nghề nghiệp đều tan
biến khi một người gia nhập vào cộng đồng Tăng-Ni Phật giáo”7.
Giới đức và trí đức không thể căn cứ ở việc tho sanh mà chính ở nơi tu tập trau giồi phẩm
hạnh cao thượng mà thành tựu và chứng đạt, điều này cũng được đức Phật nêu rất rõ
trong kinh Sa Môn Quả ( D I Samanaphala sutta).
Nếu như kinh Ambattha chỉ đề cập chung về 2 yếu tố Giới đức và trí đức thì kinh
Sonadanda đức Phật đã đề cập sâu hơn về quan điểm đức hạnh (giới đức) và trí tuệ ( trí
đức) theo đúng như kinh Sa Môn quả, kinh có đoạn giải thích sự tương quan giữa đức
hạnh và trí tuệ như sau : “ Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh. Chỗ nào có giới
hạnh chỗ ấy có trí tuệ, chỗ nào có trí tuệ chỗ ấy có giới hạnh. Người giới hạnh nhất định
có trí tuệ, người trí tuệ nhất định có giới hạnh” 8
Theo Thanh tịnh đạo luận, muốn có trí tuệ, con người phải thực hành 7 pháp thanh tịnh
để chứng đắc 16 tầng Minh Sát Tuệ.

3. Hướng giải quyết của Phật giáo về vấn đề bình đẳng trong xã hội hiện nay hay sự
vận dụng kinh điển vào thực tế đời sống
Qua 2 phần trên, dựa vào 2 bản kinh Ambattha & Sonadanda, quan điểm đạo Phật về
bình đẳng giai cấp đã được nêu một cách rõ ràng, nhưng hướng giải quyết của Phật giáo
ra sao khi vận dụng nó vào hoàn cảnh xã hội hiện nay?


7 GS TS L.P.N. Perer - Quan niệm của đạo Phật về chủ nghĩa bình đẳng
8 Thích Minh Châu- dàn ý kinh Trung bộ & Tóm tắt kinh Trường bộ trang 369

10


Trong xã hội hiện nay, không phải xã hội nào cũng tồn tại việc phân biệt giai cấp như Ấn
Độ, phân biệt chủng tộc ở 1 vài quốc gia châu Âu và Mỹ, và như vậy quan điểm bình
đẳng của Phật giáo sẽ cần được vận dụng một cách linh hoạt và mở rộng hơn.
Phật giáo đánh giá lý tưởng bình đẳng như một học thuyết xã hội, không phải riêng cho
đạo Phật mà là một bước chân tích cực góp phần chuyển đổi, nâng cấp, đem đến cho xã
hội loài người những hình thái bình đẳng cao hơn - đó là bình đẳng về trí thức, đạo đức
và tâm linh.
Trước hết, trên bất kỳ lĩnh vực nào, bình đẳng trong xã hội thế tục được xem như là bình
đẳng về cơ hội. Ai cũng có các cơ hội như nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Bình đẳng về pháp luật, ai cũng bình đẳng trước pháp luật, vi phạm sẽ bị xử lý như
nhau.
+ Bình đẳng về kinh tế giữa mọi người trong xã hội. Ai công hiến làm việc nhiều thì sẽ
được hưởng nhiều dựa trên kết quả làm ra.
+ Bình đẳng về giới tính, nam nữ đều được bình đẳng như nhau trước mọi vấn đề của xã
hội.
+ Bình đẳng về giáo dục, mọi người đề có những cơ hội đào tạo như nhau.
+ Bình đẳng về mặt tâm linh, thì mọi người cũng đều có những cơ hội giác ngộ như nhau
khi tu tập giống nhau, không phân biệt giai cấp, giới tính hay địa vị xã hội. Bình đẳng
được thể hiện trên 2 yếu tố: vật chất (hình tướng) và tinh thần (tâm thức)
Phật giáo xuất phát từ sự bình đẳng để xây dựng lẽ công bằng và khác với nhiều tư tưởng
tôn giáo và triết học, Phật giáo xây dựng hệ thống giáo lý của mình trên cái nền bình
đẳng giữa người và người và giữa người với Phật, ai cũng có Phật tính và ai cũng có thể
thành Phật, như vậy, trong tăng đoàn của đức Phật, đều tồn tại 2 yếu tố:
- Bình đẳng & Công bằng về mặt vật chất

+ Mọi người không phân biệt giai cấp đều được gia nhập tăng đoàn
+ Lẽ công bằng của Phật giáo là từng cá nhân làm đến đâu, trách nhiệm đến đâu thì
hưởng đến đó, sau đấy mới là việc phân phối lại thành quả của mình theo tinh thần
11


tùy hỷ công đức, tăng đoàn thuở ban đầu được tổ chức theo lý tưởng công bằng xã hội
với phép Lục hòa (trong đó có lợi hòa đồng quân).
+ Được theo đuổi và học pháp môn tu giải thoát như nhau
-

Bình đẳng & Công bằng về mặt tâm thức
+ Bình đẳng trước nghiệp lực dựa trên hành động do ý tạo tác, điều này mang đậm
tính công bằng.
+ Bình đẳng trước quả vị giải thoát

Ngoài ra, trong hệ thống đạo đức Phật giáo, lẽ công bằng và bình đẳng bao giờ cũng có
quan hệ hai chiều sòng phẳng giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội, thậm chí
một người cũng phải chịu sự chi phối sòng phẳng của luật Nhân quả.

Chương 4 Nhận xét & Đánh giá và Kết luận
1. Nhận xét đánh giá
- Quan điểm bình đẳng của đạo Phật trong 2 bản kinh Ambattha & Sonadanda phù hợp
với những luận điểm hiện đại về sinh học, nhân chủng học, xã hội học.
Luận điểm sinh học cho rằng con người hiện đại hình thành nên một loài riêng biệt,
độc lập với các loài động thực vật khác.
+ Con người có cùng một chủng loại và huyết thống, tuy nhóm máu có khác nhau
nhưng cùng chung một thành phần cấu tạo (huyết thanh, hồng cầu, bạch cầu và tiểu
cầu).
+ Khi sanh thân làm người thì cũng có cùng một màu máu đỏ, nước mắt cùng mặn và

cơ cấu về thân thể là không khác biệt.
Luận điểm nhân chủng học cho rằng sự khác biệt giữa con người về mặt xã hội là do
thông qua việc phân công lao động trong xã hội, việc phân công xã hội sẽ dẫn đến việc
hình thành quan hệ xã hội và chính quyền
+ Sự phân biệt giữa con người chỉ xuất hiện từ nhu cầu xã hội dẫn đến sự phân biệt
đẳng cấp hay nghề nghiệp mà thôi. Và như vậy, mọi người tuy giống nhau nhưng
không phải là không có sự khác nhau.
Luận điểm xã hội học cho rằng nếu thật sự có giai cấp thì ở bất cứ xã hội nào cũng
phải tồn tại giai cấp, nhưng trên thực tế thì có những xã hội còn mang tính giai cấp như
Ấn Độ, nhưng có những xã hội không còn tồn tại sự phân biệt giai cấp như ở nước Việt
Nam ta chẳng hạn…có nghĩa là sự phân chia giai cấp là không tuyệt đối hay phổ quát.
12


- Quan điểm bình đẳng của đạo Phật lại góp phần tác động đến sự phát triển mọi mặt của
con người, nó mang tính nhân bản đậm nét
+ Vì con người bình đẳng về cơ hội trên mọi mặt, nên con người sẽ phát triển mọi mặt
về trí thức, đạo đức, tâm linh nếu biết tận dụng và nắm bắt cơ hội.
+ Từ quan điểm này cũng có thể nói rằng học thuyết bình đẳng của Phật giáo mang đậm
nét nhân bản. Tất cả vì con người và phục vụ cho con người. Con người quyết định số
phận của mình cũng như quyết định đến tương lai của xã hội mà con người sống trong
đó.
+ Trong giáo lý của mình, Phật luôn khuyến khích đệ tử thực hành hạnh bố thí. Đây là
quan điểm nhân bản trong bình đẳng của Phật giáo. Vì nghiệp lực của cá nhân không
giống nhau, cho nên trí tuệ, tư duy khả năng làm ăn và kinh doanh cũng khác biệt, đặc
biệt cơ hội của mọi người khác nhau. Tất yếu nó sẽ hình thành nên sự giàu nghèo,
chênh lệch giữa con người với con người trong xã hội. nếu đem tất cả tài sản quốc gia
chia đều cho dân chúng, thì không hợp lý và không bình đẳng. Ngoài một hệ thống kinh
tế hợp lý, phương pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề giàu nghèo là khuyến khích mọi
người phát tâm làm bố thí. Đây được coi như một quan điểm mang đâm tính nhân bản

của Phật giáo trong việc thực hiện bình đẳng dựa vào sự bố thí tự nguyện của cá nhân
trong xã hội.

-Dân chủ như là cơ sở để thực thi bình đẳng theo quan điểm Phật giáo

Đức Phật đã thực hiện tinh thần dân chủ trong tăng đoàn của mình. Nó được thể hiện qua
các vấn đề hội họp, bố tát hay tự tứ, trong đó mỗi thành viên đều có quyền có ý kiến và
quyết định về các vấn đề được nêu. Khi có một vấn đề phát sinh, nó được đưa ra để thảo
luận trong một phương cách tương tự như trong hệ thống quốc hội ngày nay. “Tiến trình
tự quản trị nầy có lẽ sẽ làm nhiều người ngạc nhiên vì nó đã được áp dụng trong các
cộng đồng tăng sĩ Phật Giáo tại Ấn Độ trong 2.500 năm trước đây, và phương cách điều
hành có rất nhiều điểm tương đồng với các thủ tục thảo luận trong quốc hội”. 9
Và như vậy Phật giáo cho rằng dân chủ là tiền đề để thực thi công bằng và bình đẳng
trong xã hội.

2. Hướng nghiên cứu tiếp tục
9 Thích nữ Hương Nhũ- giáo trình Triết học Chính trị Xã hôi Phật giáo

13


Chủ đề bình đẳng của Phật giáo là một chủ đề rất rộng, bài viết chỉ dừng lại trên 2 bản
kinh Ambattha & Sonadanda để khảo sát, hướng nghiên cứu trong tương lai có thể là
chủ nghĩa bình đẳng của đạo Phật qua Kinh tạng Pali.
3. Kết luận
Có thể thấy qua 2 bộ kinh Ambattha & Sonadanda, đức Phật đã đưa ra các quan điểm
bình đẳng giai cấp của mình qua các quan điểm như sau:
-

Quan điểm Giới và Trí đức để xứng danh Bà La Môn


-

Quan điểm về giai cấp & quan điểm về huyết thống thuần tịnh

Bình đẳng xã hội là một khái niệm rộng gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính
trị, pháp luật, giới tính,…..tuy nhiên bình đẳng về giai cấp là nền tảng, các mặt bình đẳng
khác không thể tồn tại nếu vẫn còn có sự phân chia và đối xử phân biệt về giai cấp trong
xã hội. Và có thể thấy rằng chủ nghĩa bình đẳng của Phật giáo có thể đươc vận dụng
trong mọi mặt của xã hội hiện nay như một học thuyết mang đậm tính nhân bản.

14


Tài liệu tham khảo
1. TT Chơn Quang – Sự đóng góp của PG về công bằng XH
( />2. Thích Tâm Đức- Quan điểm PG về kinh tế và công bằng XH
( />3. Đại đức Sugata Priya, PG đóng góp về công bằng XH và dân chủ
4. Lê Cung, Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, NXB Tp.HCM, 1995
5. Giáo sư tiến sĩ L. P. N. Perer, do SC TS. Thích nữ Hằng Liên dịch-Quan điểm của
đạo Phật về chủ nghĩa bình đẳng
6. GS TS Lê Hữu Tầng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện
công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay ( />7. Tiến sỹ Jinabbodhi Bhikkhu, Thích Minh Lý dịch, Quan điểm của Phật giáo về
công bằng xã hội
8. Hòa thượng Thích Thiện Nhân, Sự đóng góp của PG về công bằng XH
9. HT.K. Sri Dhammanada, Thích Tâm Quang dịch- Vì sao tin Phật- NXBTH
TP.HCM 2006
10. HT. Thích Minh Châu- Dàn ý kinh Trung Bộ & Tóm tắt kinh Trường bộ- NXBTH
TP.HCM 2011
11. TT. Thích Thiện Tâm- Giáo trình Trường bộ kinh, Tài liệu lưu hành nội bộ tái bản

1994
12. Thích nữ Hương Nhũ- Giáo trình triết lý xã hội chính trị Phật giáo, tài liệu lưu
hành nội bộ HVPGVN- TPHCM 2011
13. TS. Thích Nữ Phụng Liên- Dàn bài bài giảng Trường Bộ kinh- Tài liệu lưu hành
nội bộ HVPGVN 2011

15


16



×