LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo đói không phải là một vấn đề mới nổi lên trong xã hội trong những năm
gần đây. Nghèo và làm thế nào để thoát khỏi tình trạng nghèo luôn là câu hỏi thường
trực đối với các nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia. Xuất phát từ một đất nước có nền kinh
tế thuần nông, việt nam có tỷ lệ nghèo đói tương ứng cao. Từ ngày 1/1/2006, việt nam
bắt đầu áp dụng chuẩn nghèo mới ( cao gấp hai lần chuẩn nghèo cũ ) khiến cho tỷ lệ hộ
nghèo tăng từ 7% lên 22%. Kết quả là nước ta có đến 4 triệu hộ nghèo. Với dự kiến đến
năm 2010, Việt Nam sẽ ra khỏi nhóm các nước kém phát triển và giảm hơn 30% số
người nghèo theo tiêu chí mới, nước ta đã có rất nhiều các chính sách, chương trình và
dự án…nhằm đạt được mục tiêu này. Một điển hình trong số đó là chương trình xóa đói
giảm nghèo 135. Đây là một chương trình thuộc nhóm các chương trình XĐGN do Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện. Chương trình được xây dựng nhằm mục
đích: giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% trong năm 2005,
cung cấp nước sạch, tăng tỷ lệ theo học trong độ tuổi đi học lên trên 70%, hỗ trợ sản
xuất cho người nghèo, kiểm soát các bệnh xã hội và nguy hiểm, làm đường tới các trung
tâm cụm xã và phát triển thị trường nông thôn. Thế nhưng, để có được chương trình
XĐGN thành công cần phải có sự kết hợp giữa các nhà lãnh đạo và cộng đồng. Bởi chỉ
khi “ dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra “ thì công trình mới thực sự đi vào đời
sống của nhân dân và phát huy hiệu quả.
Với những lý do đó, dưới sự hướng dẫn của giáo viên ThS. Phí Thị Hồng Linh,
nhóm em – KH3 – đã nghiên cứu đề tài “ Đánh giá thực trạng tham gia của cộng đồng
vào chương trình 135 theo 4 tiêu chí công khai minh bạch, công bằng, hiệu quả, bền
vững”. Do thời gian và trình độ có hạn, bài viết của nhóm em chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những sai sót. Rất mong sự góp ý của cô giáo và các bạn để bài viết của nhóm em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Các khái niệm chung
Dân cư là một bộ phận những người dân cùng cư trú trong một khu vực địa lý
hoặc khu vực hành chính và có mối quan hệ dân – chính.
Cộng đồng là tập hợp những dân cư cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định,
hợp tác vì những lợi ích chung và cùng chia sẻ những giá trị văn hóa chung.
Sự tham gia của cộng đồng là sự chia sẻ của cộng đồng đối với các hoạt động cụ
thể trong việc xác định các mục tiêu, xác định nội dung cụ thể, triển khai tổ chức thực
hiên, giám sát đánh giá và vận hành, bảo dưỡng.
2. Các hình thức tham gia
Có nhiều tiêu chí để phân loại các hình thức tham gia:
- Theo hình thức tham gia:
+ Tham gia trực tiếp với tư cách cá nhân hoặc thông qua các đại diện cộng đồng
như chính quyền các cấp, đại biểu được pháp luật thừa nhận hoặc các tổ chức được xã
hội công nhận.
+ Tham gia gián tiếp thông qua các nhóm tư vấn cộng đồng, thường là tư vấn theo
chủ đề.
- Theo tính chất tham gia:
+ Tham gia bị động.
+ Cung cấp thông tin.
+ Chia sẻ ý kiến.
+ Tham gia vị lợi.
+ Tham gia vị chức.
3. Tác dụng của sự tham gia.
Người dân tham gia với vai trò là chủ thể của quá trình xác định mục tiêu và đưa
ra các quyết định có liên quan đến chính sách. Điều này sẽ giúp cho các quyết định đáp
ứng đúng nhu cầu của cộng đồng.
Các tác dụng cụ thể:
2
- Người dân đóng góp nguồn lực để tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động
phát triển. Đây là một nguồn lực rất đáng quý trong tình trạng ngân sách còn hạn chế
của nhà nước ta hiện nay.
- Việc kiểm tra giám sát của người dân cũng đảm bảo thực hiện nghiêm túc và chất
lượng các hoạt động phát triển, do khi đó quyền lợi của họ đã được gắn chặt với mục
tiêu của chính sách.
- Giảm bớt mâu thuẫn trong cộng đồng và tăng mối liên kết cộng đồng – chính
quyền.
- Giúp quảng đại quần chúng có đầy đủ hơn các thông tin về quan điểm, chính
sách mới của nhà nước.
3
ĐÁNH GIÁ SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG
I. Đánh giá chung về chương trình 135
Nghị định 29/1998/NĐ-CP đã quy định rất chi tiết các việc được thông báo đến
người dân, những việc người dân được tham gia ý kiến, những việc được trực tiếp kiểm
tra, giám sát và được trực tiếp quyết định. Đây là công cụ quan trọng để giải quyết và
cải thiện tình trạng vi phạm nguyên tắc dân chủ ở cơ sở. Người dân đã được tham gia
nhiều hơn trong việc phân bổ nguồn lực, ra quyết định tổ chức thực hiện. Điều này được
thể hiện rõ ở các nguyên tắc trong tổ chức thực hiện Chương trình 135 như công khai
cho dân biết nguồn vốn của Chương trình, để người dân được tham gia lựa chọn và
quyết định công trình đầu tư, công khai cho dân biết định mức được hưởng khi đóng
góp công lao động xây dựng công trình…. Quán triệt nguyên tắc này, nhiều địa phương
đã thực hiện tốt việc công khai, dân chủ, tạo điều kiện cho người dân tham gia ngay từ
khâu lập kế hoạch, quy hoạch.
II. Đánh giá dựa trên các tiêu chí cụ thể
1. Tính công khai, minh bạch
1.1. Khái niệm công khai, minh bạch:
Minh bạch là một khái niệm khá trừu tượng. Để đo lường tính minh bạch là
một công việc hết sức khó khăn. Nhiều người vẫn thường hiểu minh bạch đồng
nghĩa với công khai. Thực ra, khái niệm minh bạch là khái niệm rộng hơn, nó
bao gồm cả cơ hội, tính bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính tin cậy, nhất
quán của thông tin, tính dự đoán trước được và sự cởi mở của cơ quan cung cấp
thông tin.
Khái niệm “công khai”, “minh bạch” được Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ
biên, Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2004 giải nghĩa như sau:
- Công khai (t): tính từ hay tính ngữ và tổ hợp tương đương không giữ kín, mà để
cho mọi người đều có thể biết. Phiên toà công khai, công khai trên báo chí.
- Minh bạch (t): Rõ ràng, rành mạch. Tài chính minh bạch, Diễn đàn thiếu minh
bạch.
Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Giáo sư Nguyễn Lân do Nhà xuất bản Văn học
xuất bản năm 2003 giải thích khái niệm “công khai” và “minh bạch” như sau:
4
- Công khai (Công: việc chung, khai, mở): cho mọi người biết, không giữ bí mật,
không giấu giếm, ví dụ: Từ năm 1950, Mỹ đã công khai can thiệp vào nước ta - Hồ Chí
Minh.
- Minh bạch: (Minh: sáng, bạch: trắng) rõ ràng, ví dụ: Trở về minh bạch nói tường
- Truyện Kiều.
- Khoản 2, Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng đã nêu rõ khái niệm công khai,
đó là “việc cơ quan, tổ chức, đơn vị công bố, cung cấp thông tin chính thức về văn bản,
hoạt động hoặc về nội dung nhất định”.
Có thể giải thích khái niệm “công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan
nhà nước” là việc làm cho hoạt động của các cơ quan nhà nước phải bảo đảm tính rõ
ràng, công khai và khách quan phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật.
Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước vừa là một đòi hỏi
khách quan của quá trình thực thi quyền lực nhà nước, vừa là cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước. Hoạt động của nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực. Nội dung,
phạm vi, giới hạn của hoạt động đó được pháp luật quy định. Công khai, minh bạch hoạt
động của các cơ quan nhà nước trước hết phải bảo đảm cho các hoạt động của nhà nước
nằm trong khuôn khổ pháp luật, được đánh giá bởi tiêu chí, thước đo của pháp luật.
1.2 Nội dung đánh giá
1.2.1 Thông tin đến người dân
a. % dân cư biết đến chương trình
Số liệu điều ra của Kiểm toán Nhà nước tại 10 tỉnh, qua phát phiếu và phỏng vấn
2083 người dân cho thấy:
- 91% người dân được biết có Chương trình 135 đầu tư cho xã.
- 86% người dân được hỏi ý kiến khi dự án được đầu tư.
- 94% người dân cho rằng công trình, dự án của Chương trình 135 được đầu tư là
hợp lý.
- 95% người dân đánh giá công trình 135 đầu tư sử dụng đúng mục đích.
- 70% người dân được tham gia học tập về Chương trình.
- 97% người dân cho rằng nên kéo dài thời gian thực hiện Chương trình 135.
b. Các kênh thông tin đến người dân
5
Những mặt được:
- Đổi mới công tác truyền thông trong chương trình 135
Ngày 11/5/2007, tại Uỷ ban Dân tộc, Vụ Chính sách Dân tộc chủ trì đã chủ trì
cuộc họp với Tạp chí Dân tộc nhằm đổi mới công tác truyền thông trong Chương trình
135 năm 2007. Tiến sĩ Trần Văn Thuật, Vụ trưởng Vụ Chính sách Dân tộc chủ trì cuộc
họp đã nêu ra nội dung thảo luận tập trung vào các nội dung và đề ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả và tác dụng của Bản tin Chương trình 135 năm 2007. Đồng chí
Nguyễn Văn Thảo, Biên tập viên cao cấp, Tổng biên tập Tạp chí Dân tộc đã trình bày
báo cáo đánh giá kết quả xuất bản Bản tin Chương trình 135 năm 2006 và kế hoạch triển
khai công tác truyền thông 2007, nêu rõ trong quá trình thực hiện, Tạp chí Dân tộc và
Ban thư ký Chương trình 135 (nay là Vụ Chính sách Dân tộc) đã phối hợp chặt chẽ
trong chuẩn bị tin, bài, ảnh; Tạp chí chủ động đặt bài với cộng tác viên, tổ chức biên tập,
xuất bản, phát hành Bản tin Chương trình 135 đúng định kỳ, đảm bảo chất lượng, số
lượng và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Bản tin 135 đã là cầu nối giữa Ban chỉ đạo
Trung ương với Ban chỉ đạo các tỉnh, huyện và cán bộ địa phương, và đặc biệt là người
dân… Với những cố gắng trong biên tập, xuất bản, cùng với những đóng góp của Vụ
Chính sách Dân tộc, Bản tin Chương trình 135 đã có những đóng góp, tạo nên “thương
hiệu” của chương trình, thực sự là Bản tin hướng dẫn thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và
trao đổi kinh nghiệm, của Chương trình 135.
Các đại biểu đều tán thành với nội dung báo cáo và nêu lên những ý kiến đánh giá
về những việc làm tốt và những việc cần khắc phục trong thời gian tới.
Giới truyền thông với Kết quả họp báo Kiểm toán Chương trình 135 giai đoạn II
năm 2007
Được ghi nhận như một sự đổi mới mạnh mẽ của Ủy ban Dân tộc - Cơ quan
thường trực Chương trình 135 của Chính phủ, nhằm tăng cường sự công khai minh bạch
trong quản lý triển khai thực hiện một chương trình , buổi Họp báo công bố kết quả
Kiểm toán Chương trình 135 giai đoạn II ngày 30 tháng 10 năm 2008 tại KS Hanoi
Horizon đã thu hút sự chú ý đặc biệt của giới truyền thông.
Đài Truyền hình Việt Nam đã đưa tin cả trong Bản tin Thời sự VTV1 buổi 23h
ngày 30/10/2008 và Bản Tin Chào Buổi sáng ngày 31/10/2008 để nhấn mạnh ý nghĩa
của Chương trình 135 như là một chương trình xóa đói giảm nghèo đang rất được lòng
6
dân.
Báo Nhân dân số ra ngày 31 tháng 10 khẳng định “Chương trình 135 giai đoạn II đã góp
phần làm thay đổi cơ bản bộ mặt của nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, đời
sống đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm nhanh, giáo
dục, đào tạo, sức khỏe của người dân được chăm lo, kết cấu hạ tầng được cải thiện rõ
rệt”. Dẫn lời Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Lê Minh Khái, Báo Nhân dân bổ sung “quá
trình triển khai thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2 bước đầu có những yếu tố thuận
lợi trong công tác quản lý, chỉ đạo, phát huy tính dân chủ cơ sở, các công trình được
đầu tư đều có sự tham gia giám sát của người dân, được người dân đánh giá phù
hợp và phát huy hiệu quả. Năm 2007, dự án cơ sở hạ tầng đã thanh toán cho 3.594
công trình với tổng giá trị 1.396 tỷ đồng, đạt 115% dự toán và gần 84,9% kinh phí được
sử dụng”.
(Trích: />Báo Hà Nội Mới thì tập trung vào sự công khai, dân chủ và kết quả của quá trình
triển khai thực hiện Chương trình 135 ở địa phương, Phóng viên Hoàng Hùng ghi nhận
từ Buổi họp báo công bố Báo cáo Kiểm toán của Chương trình 135 giai đoạn II năm
2007, “Chương trình 135 giai đoạn II trong năm 2006 và 2007 đã được thực hiện dân
chủ, công khai và được các địa phương quan tâm, chỉ đạo thông qua tổ chức họp dân,
lấy ý kiến xây dựng kế hoạch. Từ đó tiến hành đăng ký các hộ nghèo được hỗ trợ cây
con giống, vật tư, máy móc thiết bị... Cho đến nay, Chương trình 135 đã và đang xây
dựng được 11.765 công trình, dự án, trong đó công trình giao thông là 42%, thủy lợi
22,8%, trường học là 18%...” (Trích: />Trong khi báo Xây dựng điện tử có bài phân tích với tiêu đề “Chương trình 135 giai
đoạn II - sử dụng đúng mục đích và hiệu quả ” trong đó cũng có những phân tích cụ thể
về hiệu quả của Chương trình 135 giai đoạn II. (Trích:
/>Báo Thanh Tra lại có những phân tích chuyên môn ghi nhận sự cố gắng của các địa
phương trong việc thực hiện các kiến nghị của Báo cáo Kiểm toán năm 2006 “Kết quả
kiểm toán cho thấy, Chương trình 135 giai đoạn II đã đạt được những kết quả nhất định.
Những tồn tại, yếu kém qua kết quả kiểm toán Chương trình năm 2006 phần lớn đã
được các địa phương khắc phục”
7
(Trích: />Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam đăng bài nêu rõ “Kết quả kiểm toán cho thấy,
Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010) đã đạt được những kết quả nhất định. Những
tồn tại, yếu kém qua kết quả kiểm toán Chương trình năm 2007 phần lớn đã được các
địa phương khắc phục. Việc phân bổ vốn cơ bản đúng định mức, đối tượng, nội dung
chương trình. Công tác giải ngân kịp thời, trên 80,2 % kinh phí được sử dụng, đạt
119,31% dự toán giao. Việc sử dụng vốn, kinh phí nhìn chung đúng mục đích và có
hiệu quả hơn”
Trích: />topic=5&subtopic=10&leader_topic=84&id=BT29100862266)
Bên cạnh những kết quả đạt được, các báo, đài cũng đưa tin về một số tồn tại cần
được khắc phục trong triển khai thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II. Tuy nhiên,
việc kiến nghị xử lý xuất toán số tiền trên: 675 triệu đồng trên tổng số vốn đầu tư đã giải
ngân khoảng 1.396 tỷ đồng chiếm chưa đến 0,05% nguồn vốn cho thấy, “Chương trình
135 giai đoạn II là một trong những Chương trình có kết quả kiểm toán tốt nhất trong số
những Chương trình mục tiêu quốc gia được Kiểm toán Nhà nước tiến hành kiểm toán
trong năm 2007” (Theo ông Lê Minh Khái, Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước phát biểu tại
buổi Họp báo). Nói thêm về những tồn tài được nêu trong Báo cáo Kiểm toán, Báo Dân
tộc cũng dẫn lời ông Hà Hùng cho biết “đến thời điểm hiện tại, các tồn tại như đã nêu
trong Báo cáo Kiểm toán đã được các Bộ, ngành trung ương và Chính phủ xem xét giải
quyết triệt để”. Nhìn chung, việc tổ chức họp báo công bố kết quản Kiểm toán thực hiện
Chương trình 135 giai đoạn II đã tạo ra một sự thay đổi rất lớn trong nỗ lực tăng cường
sự công khai, dân chủ về hoạt động của một Chương trình xóa đói giảm nghèo của
Chính phủ. Buổi họp báo đã được các phương tiện truyền thông, các nhà tài trợ quốc tế
và các bên liên quan đánh giá rất cao về cách làm minh bạch của Ủy ban Dân tộc với tư
cách là cơ quan Thường trực của Chương trình 135 giai đoạn II.
8
Hậu Giang
Để nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình 135, Ban Dân tộc tỉnh Hậu Giang
đang mở đợt tập huấn kiến thức cho cán bộ cơ sở, ấp và cộng đồng. Trả lời phỏng vấn
của phóng viên, Trưởng ban Dân tộc tỉnh Hậu Giang Nguyễn Xuân Tươi, cho biết:
- Mục đích mở lớp lần này nhằm phổ biến rộng rãi các chính sách để phát triển
kinh tế - xã hội cho vùng dân tộc, đồng thời hướng dẫn đào tạo kiến thức khoa học kỹ
thuật, nâng cao nhận thức đối với người dân, vận dụng vào phát triển kinh tế hộ, nhóm
hộ gia đình. Đối với cán bộ xã, ấp sẽ được phổ biến một cách cụ thể rộng rãi các cơ chế
quản lý thực hiện Chương trình 135, kiến thức về quản lý dự án đầu tư, báo cáo tổng
hợp và giám sát đánh giá. Các kiến thức về tổ chức họp dân, tổng hợp ý kiến, lập kế
hoạch có sự tham gia của người dân, về giám sát đầu tư, về kinh tế hộ, về thị trường tiêu
thụ sản phẩm.
Ban chỉ đạo chương trình mở đợt tập huấn này là dịp để các học viên học hỏi kinh
nghiệm thảo luận, trao đổi những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai thực
hiện chương trình để từ đó cùng rút ra những phương pháp tốt nhất trong sử dụng nguồn
vốn hỗ trợ, tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ giúp đỡ
học sinh nghèo ở địa phương đạt kết quả tốt, đúng với mục tiêu của chương trình. Bên
cạnh đó, giúp cho học viên và cộng đồng biết phát huy vai trò của mình trong quá trình
tham gia thực hiện Chương trình 135, xây dựng đề án hỗ trợ kế hoạch vốn cho năm
2009 của từng địa phương.
Hạn chế:
Một buổi thuyết giảng chương trình 135 (giai
đoạn II) tại huyện Vị Thủy.
9
- Còn nhiều chương trình, dự án, trong đó có cả các chương trình mục tiêu quốc
gia, các chính sách dân tộc tính minh bạch, công khai còn nhiều hạn chế rõ nhất là rất ít
người dân nắm được một cách tường tận trên địa bàn xã có các chương trình đang được
triển khai, diễn ra trong bao lâu, do ai thực hiện và lợi ích của người dân được hưởng từ
chương trình là những gì. Đối với cán bộ cơ sở (cấp xã) thì tình hình cũng không khá
hơn là bao. Đang có một lỗ hổng lớn trong việc thông tin về các chương trình, dự án đối
với cấp cơ sở đã ảnh hưởng không ít đến hình thức và mức độ tham gia của địa phương
và cộng đồng. Đồng thời, thông tin không đầy đủ cũng hạn chế và gây trở ngại cho công
tác giám sát, đánh giá. Ví như trong Chương trình vay vốn tín dụng của Ngân hàng
người nghèo trước đây, ngay đến cán bộ xã của nhiều xã vùng cao cũng không nắm
được mức cho vay tối đa của Ngân hàng đối với người dân là bao nhiêu, thời hạn cho
vay là bao lâu và hỗ trợ của tỉnh, của ngân hàng đối với người vay vốn là gì.
Đaklăk
- Khó khăn trong thực hiện chương trình 135 của tỉnh Đăk Lăk đến nay vẫn chưa
đạt hiệu quả như mong muốn lại bắt nguồn từ khâu tuyên truyền. Việc tuyên truyền nội
dung, ý nghĩa, mục đích của chương trình đến người dân còn yếu. Cách thức tuyên
truyền chưa hợp lý. Thậm chí, một số cán bộ ở thôn, buôn còn chưa nắm rõ nội dung
thực hiện chương trình. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn rất nhiều hạn chế,
nặng về hình thức. Với phương châm dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra nhưng
quá trình thực hiện thì người dân chưa được trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến và giám
sát quá trình thi công các công trình. Hơn nữa, trình độ, năng lực của một số cán bộ
trong ban giám sát của các xã, phường, thị trấn còn yếu, không thường xuyên kiểm tra
các công trình, buông lỏng giám sát các chủ thầu trong quá trình thi công. Một lý do dẫn
đến việc lơ là giám sát một phần do không có quy định kinh phí bồi dưỡng cho những
cán bộ này.
1.2.2 Mức độ tham gia của người dân
a. Trong khâu lập kế hoạch
Mặt được:
- Sự tham gia của cộng đồng trong công tác lựa chọn và thực hiện CT đã
được cải thiện, phát huy được tính công bằng, dân chủ. Các cuộc họp thôn/bản đề xuất
10
lựa chọn CT được trưởng thôn/bản thông báo rộng rãi cho các hộ dân trước 2 đến 3
ngày để người dân có điều kiện chuẩn bị và tham gia dự họp đông đủ. Đây là lần đầu
tiên người dân được làm chủ đầu tư toàn diện từ khâu lựa chọn, lập kế hoạch, thực hiện
tới duy tu bảo dưỡng, do đó thu hút được rất nhiều người dân tham gia. Kiểm tra ngẫu
nhiên hồ sơ tại xã cho thấy các biên bản họp thôn/bản đề xuất CT được ghi chép đầy đủ
theo mẫu. Số người tham dự so với số hộ trong thôn bản chiếm từ 60% đến 100% (ở dự
án GNMB). VD. Bản Pồ Chồ (Bát Xát, Lào Cai); thôn Rì (Lục Ngạn, Bắc Giang). Ở các
xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít người, phụ nữ ít tham gia vào các hoạt động
xã hội hơn nam giới, số phụ nữ tại các cuộc họp thôn bản chiếm tỷ lệ 30-80% tùy thuộc
vào từng thời điểm mà tỷ lệ này có thể thay đổi, ví dụ: vào thời vụ thu hoạch, nam
thường đi họp nhiều hơn nữ và ngược lại lúc nhàn rỗi thì phụ nữ đi họp đông hơn nam.
Sự tham gia tích cực của cộng đồng đã thể hiện được tính dân chủ trong thực hiện đó là:
(i) người dân được tiếp cận với các thông tin về dự án (ii) được họp, đề xuất và thảo
luận về các CT ưu tiên đầu tư cho thôn/bản; (iii) được cử người thay mình giám sát các
nhóm thợ thực hiện các CT; (iv) được đề xuất các nhóm thợ tham gia thực hiện các CT;
(v) trực tiếp tham gia thực hiện các CT góp phần thu nhập; (vi) đưa ra quy chế vận hành,
bảo trì và quản lý các CT (hương ước).
Hạn chế
- Tuy nhiên, do trình độ văn hoá có hạn nên việc ghi chép biên bản họp thôn chưa
mạch lạc, một số biên bản họp thôn ghi thiếu các thông tin như: tổng số hộ, số người
tham dự, ngày tháng họp nhầm lẫn giữa ngày âm lịch và ngày dương lịch. thiếu thông
về Qui mô CT, số người hưởng lợi, thiếu thứ tự ưu tiên cho CT. Sự tham gia phát biểu ý
kiến của phụ nữ và nhóm người dễ bị tổn thương trong thôn tuỳ thuộc vào tính chất
cuộc họp, nhưng nhìn chung vẫn rụ rè do tập quán và hiểu biết hạn chế.
- Trong quá trình phát triển xã hội, thôn bản, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng
xa, vùng núi cao vẫn cồn nhiều khó khăn về đời sống và văn hoá (hộ nghèo chiếm 60-
80%). Do địa hình khó khăn, phức tạp (có xã như Mo Rây-Kon Tum rộng gần bằng tỉnh
Thái Bình, đi từ thôn này sang thôn khác phải mất cả ngày đường đi bộ) nên việc đầu tư
cho các thôn bản không phải dễ dàng vì kinh phí có hạn. Bên cạnh đó, trình độ dân trí
của nhiều dân thôn bản vẫn còn rất thấp, Chẳng hạn có xã/thôn trình độ văn hoá của bí
thư, chủ tịch chỉ mới lớp 3 lớp 4 (xã Đắc Kôi-Kon Rẫy, Kon Tum), thôn Sử Pán 1 xã Sử
11
Pán có hộ dân nhưng trong số 70 phụ nữ của các chỉ có 2 người biết đánh vần và viết
được ít chữ. Số lao động nhiều mà thiếu tay nghề, phong tục tập quán lạc hậu (đám ma,
cưới hỏi,…) vẫn nặng nề. Một số thanh niên trẻ được đo tạo nhưng khi học xong họ ở
lại làm việc ở các thị trấn hoặc thành phố làm ăn mà hầu hết không về thôn bản. Đó là
những trở ngại lớn cho phát triển nông thôn. Mặt khác, một số các công trình được đầu
tư nhưng chất lượng của các công trình chưa đảm bảo chất lượng, hiệu quả thấp (VD.
Trường xây xong không có học sinh học ở Cát Tiên-Lâm Đồng, hệ thống nươc tự chảy
ở Đắc Kôi –Kon Tum, mương nước vừa làm xong đã hỏng ở Sa Pa-Lao Cai,…).
c. Trong tổ chức thực hiện
Mặt được:
- Sự tham gia đóng góp của người dân đã tăng lên đáng kể
Đóng góp của người dân địa phương vào các công trình thường dưới dạng vật liệu
xây dựng hoặc ngày công lao động, ngày công giám sát, tình nguyện đóng góp phần đất
đai khi có công trình cần sử dụng mà không đòi hỏi bồi thường, cá biệt cũng có nơi
đóng góp tiền để thực hiện dự án.
Hạn chế:
- Sự thiếu minh bạch còn thể hiện qua việc thực hiện cơ chế đấu thầu và thực hiện
thầu. Công tác đấu thầu và thực hiện thầu còn mang tính hình thức, việc tổ chức đấu
thầu hạn chế, thực chất là chỉ định thầu, cộng đồng hầu như đứng ngoài cuộc. Chính vì
vậy, nhiều hạng mục người dân hoàn toàn có thể đảm đương được lại được giao cho các
nhà thầu thực hiện và trong quá trình thực hiện họ lại khoán lại cho người dân.
Bình Định
Việc thực hiện các phương châm, mục tiêu của Chính phủ quy định trong các dự
án chương trình như: "dân chủ công khai"; "dân biết dân làm dân kiểm tra"; "xã có công
trình dân có việc làm" cũng còn nhiều khiếm khuyết. Đối với việc việc nghiệm thu bàn
giao và quản lý sử dụng và bảo dưỡng các công trình, các Ban quản lý dự án chưa
hướng dẫn cách thức sử dụng, quy trình vận hành, quản lý, bảo trì để địa phương và
nông dân quản lý sử dụng. Vì thế, một số công trình đầu mối về thủy lợi, hệ thống cửa
của các công trình dân dụng, hệ thống máy bơm nước sạch không được nông dân bảo
12