Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.68 KB, 29 trang )

Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
Phần 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1 Khái niệm
Cho thuê là một giao dịch hợp đồng giữa hai chủ thể - bên chủ sở hữu tài sản và
bên sử dụng tài sản. Trong đó, bên chủ sở hữu tài sản - bên cho thuê chuyển giao tài sản
cho bên đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định và bên sử dụng phải thanh toán tiền
thuê cho bên chủ sở hữu tài sản.
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn, thông qua việc cho thuê
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho
thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương
tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu
đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc
tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số
tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương
đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Theo quy định của Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế, bất cứ một giao dịch cho thuê
nào thỏa mãn ít nhất một trong bốn tiêu chuẩn sau đây đều được gọi là cho thuê tài chính:
o

Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi chấm dứt thời hạn hợp đồng.

o

Hợp đồng có quy định quyền chọn mua.

o



Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động của tài sản.

o

Hiện giá của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài sản

thuê
1.2 Bản chất của cho thuê tài chính
3.1.

Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng:

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 1


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân
hàng hay định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó bên cho vay chuyển tiếp tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi
cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Trong giao dịch cho thuê tài chính, bên cho thuê chuyển giao tài sản thực (nhà ở,
văn phòng làm việc, máy móc thiết bị…) cho bên thuê sử dụng trong một thời gian nhất
định. Trong quá trình sử dụng tài sản, bên thuê phải thanh toán tiền thuê định kỳ cho đến
khi hết hạn hợp đồng. Khoản tiền thuê bao gồm hai phần: phần vốn gốc và lãi. Do đó, có
thể thấy đây là bản chất của một giao dịch tín dụng.
Bên cạnh đó, đối với hợp đồng cho thuê thanh toán một phần sau khi chấm dứt hợp

đồng thuê, tiền lãi được thanh toán đầy đủ trong quá trình sử dụng vốn, nhưng vốn gốc
chưa hoàn trả đầy đủ. Trường hợp này có ba các giải quyết và được quy định trong hợp
đồng.
o Người thuê đồng ý mua tài sản: phần vốn gốc đã được hoàn trả dưới dạng tiền thanh
toán mua tài sản.
o Người mua muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng thanh
toán tiền thuê trong thời gian hợp đồng cho thuê được gia hạn.
o Người đi thuê không muốn thuê tiếp tài sản: phần vốn gốc được hoàn trả dưới dạng
hiện vật, tức là tài sản thuê mua.
Trong bất kỳ một trường hợp nào đi nữa thì nguyên tắc hoàn trả của tín dụng luôn
luôn được bảo đảm; tiền thuê và giá trị tài sản thường lớn hơn giá trị tài sản ban đầu , đây
chính là sự trao đổi tài sản không ngang giá - bản chất của một quan hệ tín dụng. Đó gọi là
tiền lãi mà người cho vay được hưởng ngoài giá trị ban đầu của tín dụng.
Như vậy trong cho thuê tài chính luôn luôn đảm bảo ba nguyên tắc, của một hợp
đồng tín dụng đó là tính kỳ hạn, tính hoàn trả và tính lãi suất.
3.2.

Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn:

Trong giao dịch cho thuê tài chính, nhà cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu tài sản
và vì thế họ là người quản lý tài sản cho thuê. Để hợp thức hóa hành vi này, các nhà cho
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 2


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
thuê phải tiến hành các thủ tục đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, đăng ký tài
sản giao dịch đảm bảo…điều này sẽ phát sinh nhiều loại chi phí. Nếu tài trợ bằng những
tài sản có giá trị thấp và thời gian ngắn sẽ khó thực hiện được vì chi phí quản lý sẽ rất cao

và người đi thuê sẽ khó chấp nhận. Ngược lại, nếu tài trợ trung và dài hạn với tài sản có
giá trị cao, tuổi thọ cao thì tỷ trọng chi phí quản lý tính trên giá trị tài sản sẽ thấp hơn.
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn vì nó vừa đảm bảo ba
nguyên tắc của một hoạt động tín dụng đó là tính kỳ hạn, tính hoàn trả và tính lãi suất, mặt
khác thời hạn thuê dài (thời hạn trên 60% thời gian hữu dụng của sản phẩm thuê tài chính).
Như vậy, tài trợ trung và dài hạn dưới hình thức cho thuê tài chính là một yêu cầu
khách quan xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế.
1.3 Lợi ích của cho thuê tài chính
1.3.1. Đối với nền kinh tế:
Bản chất của hoạt động cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng trung và dài
hạn, thị trường cho thuê tài chính cũng là một thị trường vốn, thị trường này diễn ra các
hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính trung và dài hạn theo
những phương thức giao dịch nhất định. Như vậy, cho thuê tài chính hay thị trường cho
thuê tài chính đã góp một phần giải quyết bài toán về vốn cho nền kinh tế.
Cho thuê tài chính gắn chặt với việc trang bị, đổi mới máy móc, công nghệ và mở
rộng sản xuất đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất của các ngành công nghiệp vừa và nhỏ.
Phát triển tốt thị trường cho thuê tài chính sẽ giúp các doanh nghiệp đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất của doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế.
Đặc biệt, thông qua hình thức cho thuê tài chính có thể thu hút một lượng vốn lớn từ
dân cư thông qua hình thức huy động vốn trung và dài hạn hoặc liên doanh với nước ngoài
để tạo ra kênh dẫn vốn từ bên ngoài vào cho nền kinh tế.
1.3.2. Đối với bên cho thuê:
Đối với bên cho thuê, việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ cho thuê tài chính
không phải là loại hình thay thế các phương thức tài trợ cổ điển như cho vay trung và dài
hạn bằng tiền, mà nó là hình thức tài trợ bổ sung nhằm tạo điều kiện cho các định chế tài
chính đa dạng hóa danh mục sản phẩm, mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực cạnh
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 3



Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
tranh. Đứng trên góc độ người cho thuê phương thức tài trợ này có một số lợi ích so với
loại tài trợ khác như sau:
o Bên cho thuê với tư cách là sở hữu chủ về mặt pháp lý và nắm quyền sử dụng, vì
vậy họ được quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các điều khoản của hợp đồng thuê.
Trong trường hợp bên đi thuê không thanh toán tiền thuê đúng hạn thì bên cho thuê được
thu hồi tài sản, đồng thời buộc bên đi thuê phải bồi thường các thiệt hại.
o Trong trường hợp bên đi thuê bị phá sản thì tài sản cho thuê tài chính không bị phát
mãi, bên cho thuê thu hồi lại được.
o Đối tượng tài trợ được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn liền với mục đích kinh
doanh của bên đi thuê, vì vậy mục đích sử dụng vốn được đảm bảo, từ đó tạo tiền đề để
hoàn trả tiền thuê đúng hạn (do đó ít rủi ro).
1.3.3. Đối với bên đi thuê:
Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương
mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng
chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những
không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn
đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên.
Tài sản thuê tài chính nằm trên Bảng cân đối kế toán do đó làm cho Bảng cân đối
đẹp hơn trong mắt nhà đầu tư.
Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong
việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng loại phù hợp với
yêu cầu của doanh nghiệp mình. Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã lỡ đầu tư mua tài sản mà
thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty cho thuê tài chính và sau đó công ty
sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động
sản xuất kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản.
Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp có ba quyền lựa chọn, một là trả lại tài sản
thuê (do máy móc lạc hậu không còn phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh), thứ hai
là tiếp tục thuê tài sản, thứ ba là được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa

thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại.
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 4


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Thủ tục đi thuê đơn giản, linh hoạt nhanh gọn hơn đi vay vì bớt được thời gian làm
thủ tục thế chấp, bảo lãnh.
Giúp cho bên đi thuê tránh được rủi ro về tính lạc hậu và lỗi thời của tài sản, đặc
biệt đối với những thiết bị có tốc độ phát triển nhanh, như ngành công nghiệp máy tính
chẳng hạn. Ngoài ra bên đi thuê còn nhận được sự tư vấn miễn phí từ bên cho thuê.
Hoạt động cho thuê tài chính sẽ tạo khả năng dự trữ các nguồn tín dụng cho tương
lai của doanh nghiệp cũng như giúp doanh nghiệp vượt qua được những giai đoạn khó
khăn về tài chính trước mắt. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có
vốn lưu động để kinh doanh.
1.3.4. Lợi ích đối với cả bên đi thuê và bên cho thuê:
Lợi ích từ tấm chắn thuế: Đây là một ưu điểm vô cùng quan trọng. Tài sản cho thuê
tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao
tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê,
chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp
phải nộp. Như vậy cả hai bên đều có lợi.
1.4 Các loại hình cho thuê tài chính
1.4.1. Cho thuê tài chính 2 bên
Theo phương thức này, trước khi thực hiện nghiệp vụ cho thuê, tài sản cho thuê đã
thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê bằng cách mua tài sản hoặc tự xây dựng. Hình thức
này thường do các công ty bất động sản và các công ty sản xuất máy móc thiết bị thực
2A
hiện.Quy trình cho thuê tài chính 2 bên như
sau:


Bên cho thuê

1

Bên đi thuê

2B

1.4.2 Cho thuê tài chính 3 bên

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 5


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Theo phương thức này, bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu của
bên đi thuê và đã được hai bên thỏa thuận theo hợp đồng thuê.
* Ưu điểm:
+ Bên cho thuê không phải mua tài sản trước và như vậy sẽ làm cho vòng quay của
vốn nhanh hơn vì không phải dự trữ tồn kho.
+ Tài sản được chuyển giao trực tiếp giữa bên cung cấp và bên đi thuê và giữa họ chịu
trách nhiệm trực tiếp về tình trạng hoạt động của tài sản, cũng như thực hiện việc bảo hành
và bảo dưỡng tài sản. Như vậy bên cho thuê trút bỏ gánh nặng về tình trạng hoạt động của
tài sản và hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận hàng của bên đi thuê do
những sai sót về mặt kĩ thuật.
Quy trình CTTC 3 bên
Người cho thuê
(Lessor)

2C

2A 1B

Người cung cấp
(Supplier)

1A
1C

2D

3

Người đi thuê
(Leasse)

2B

1A: Hợp đồng thuê tài chính

2B: Chuyển giao tài sản

1B: Hợp đồng mua tài sản

2C: Trả tiền mua tài sản

1C: Hợp đồng bảo trì bảo hành sửa chữa

2D: Giao quyền sử dụng


2A: Giao quyền sở hữu tài sản

3 : Định kỳ trả tiền thuê

1.4.3. Tái cho thuê
- Nội dung: trong hoạt động kinh doanh có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để
khai thác tài sản cố định hiện có, vì thế họ sẽ bán một phần tài sản của mình cho Ngân
hàng hoặc công ty tài chính sau đó thuê lại tài sản để sử dụng và như vậy doanh nghiệp sẽ
có thêm nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu vốn lưu động.
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 6


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
- Trường hợp áp dụng: Với những doanh nghiệp không có đủ nguồn vốn lưu động để
khai thác tài sản cố định hiện có hoặc doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.
Quy trình tái cho thuê
2A
2B
1A

Người cho thuê
(Công ty TC)

Người đi thuê

1B
2C

3

1A: Ký hợp đồng mua

2A: Lập thủ tục giao quyền sở hữu tài sản

1B: Ký hợp đồng thuê

2B: Lập thủ tục giao quyền sử dụng tài sản

3 : Thanh toán tiền thuê

2C: Trả tiền mua tài sản

1.4.4. Cho thuê giáp lưng
- Nội dung: Doanh nghiệp A muốn thuê tài sản nhưng không đủ tín nhiệm với bên cho
thuê. Doanh nghiệp A phải thông qua bên cho thuê thứ 2 để thuê được tài sản của bên cho
thuê thứ 1 (với sự đồng ý của bên cho thuê)
- Trường hợp áp dụng:
+ Với những doanh nghiệp không có uy tín hoặc ko đủ tín nhiệm với các tổ chức
cho thuê.
+ Bên đi thuê thứ nhất đã thuê tài sản sử dụng tài sản đó nhưng sau đó không có
nhu cầu sử dụng thì có thể cho bên khác thuê lại với sự đồng ý của bên cho thuê.
Quy trình cho thuê giáp lưng
Người cho thuê
(Lessor)
3B

1A


Người đi thuê1
(Leasse 1)

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

2
3A
1B

Người đi thuê 2
(Leasse 2)

Trang 7


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
1A: Ký hợp đồng thuê
1B: Ký hợp đồng thuê

3A: Trả tiền thuê
3B: Trả tiền thuê

2 : Chuyển giao tài sản
1.4.5. Cho thuê hợp tác
Không phải là hình thức đồng tài trợ vì: Bên cho thuê không là trái chủ trong quan hệ
cho thuê, còn bên cho vay không là trái chủ trong quan hệ cho vay hay nói cách khác vốn
tài trợ trong phương thức này bao gồm 2 phần: một phần là vốn của bản thân bên cho thuê
và một phần là vốn vay được cung cấp từ các bên cho vay. Đồng thời, bên cho thuê phải
thanh toán tiền lãi vay cho bên đi vay.
Quy trình cho thuê hợp tác

Người cho vay
(Lender)

3B
1C

Người cho thuê
(Lessor)

2A

2B

1A

1B

Người cung
cấp
(Supplier)

2C
1D

3A

Người đi thuê
(Leasse)

1A: Ký hợp đồng thuê


2A: Lập thủ tục chuyển quyền sở hữu

1B: Ký hợp đồng mua

2B: Thanh toán tiền mua

1C: Ký hợp đồng tín dụng

2C: Chuyển quyền sử dụng

1D: Ký hợp đồng bảo hành

3A: Thanh toán tiền thuê
3B: Thanh toán tiền vay

1.5 Phương thức tính tiền thuê và nguyên giá tài sản thuê tài chính:
Với n: số năm thuê tài chính
r: lãi suất thỏa thuận
NG: nguyên giá tài sản cho thuê tài chính
C: số tiền thuê tài chính trả hàng năm
1 − (1 + r ) − n 
NG
=
C
Nếu trả cuối kỳ:


r



GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 8


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
1 − (1 + r ) − n 
1 − (1 + r ) − n +1 
C
(1+r)
=
C
+



r
r





Nếu trả đầu kỳ: NG = C 

Ví dụ: Giả sử một doanh nghiệp muốn thuê một thiết bị nên thỏa thuận với một ngân
hàng thương mại và một khế ước cho thuê được soạn thảo với các thông tin như sau: thiết
bị có trị giá là 500 tiệu đồng, thời hạn sử dụng là 8 năm. Tiền thuê phải trả hàng năm là
bao nhiêu, nếu ngân hàng yêu cầu phải đảm bảo mức sinh lời 14%/năm trên số tiền doanh

nghiệp còn thiếu.
* Trường hợp tiền thuê trả vào cuối kỳ:
1 − (1 + 14%) −8 
 ⇒ A = 107,785 triệu
14%



500 triệu = A x 

Số tiền 107.785 triệu doanh nghiệp phải trả hàng năm bao gồm một phần nợ gốc và phần
lãi phát sinh trong năm đó. Điều đó được thể hiện qua bảng trả nợ sau:
Đvt: triệu đồng
Năm

Tổng số

Trả nợ
Tiền lãi

Nợ gốc

0

Dư nợ
500

1

107,785


70,000

37,785

462,215

2

107,785

64,710

43,075

419,140

3

107,785

58,680

49,105

370,035

4

107,785


51,805

55,980

341,055

5

107,785

43,986

63,817

250,237

6

107,785

35,033

72,752

177,485

7

107,785


24,848

82,937

94,548

8

107,785

13,237

94,548

0

* Trường hợp tiền thuê trả vào đầu kỳ:
1 − (1 + 14%) −7 
 ⇒ A = 94,548 triệu
14%



500 triệu = A + A 

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 9



Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

Bảng trả nợ như sau:
Đvt: triệu đồng
Năm

Tổng số

Trả nợ
Tiền lãi

0

0

Nợ gốc
94,548

Dư nợ
405,452

1

94,548

56,763

37,785


367,667

2

94,548

51,473

43,075

324,592

3

94,548

45,443

49,105

275,486

4

94,548

38,568

55,980


219,506

5

94,548

30,731

63,817

155,689

6

94,548

21,796

72,752

82,937

7

94,548

11,611

82,937


0

1.6 Phân biệt cho thuê tài chính và cho thuê vận hành
Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản, theo đó bên thuê sử dụng tài sản
cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho bên cho
thuê khi kết thúc thời hạn cho thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê
và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê.
Cho thuê vận hành được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những
doanh nghiệp có thời gian hoạt động ngắn rất ưa chuộng. Ở nước ngoài dịch vụ cho thuê
vận hành phát triển song hành với dịch vụ cho thuê tài chính. Tuy nhiên ở nước ta dịch vụ
cho thuê vận hành vẫn chưa được phổ biến nhiều do bị vướng ở một quy định của nhà
nước về cho thuê vận hành. Với quy định hiện nay, hợp đồng cho thuê vận hành của các
công ty cho thuê tài chính chịu sự quản lý của NHNN Việt Nam

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 10


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành:
Cho thuê tài chính
Thời gian cho thuê tương đối dài

Cho thuê vận hành
Thời gian cho thuê ngắn so với thời

(trên 60%) so với thời gian hữu dụng

gian hữu dụng của tài sản.


của tài sản cho thuê.
Bên thuê gánh chịu phần lớn rủi ro

Bên cho thuê gánh chịu phần lớn rủi

liên quan đến tài sản (bên thuê phải

ro liên quan đến tài sản (bên cho thuê

có trách nhiệm bảo dưỡng, chịu rủi

phải có trách nhiệm bảo dưỡng, chịu

ro, thiệt hại về tài sản đi thuê).
Bên cho thuê cam kết bán lại tài sản

rủi ro, thiệt hại về tài sản đi thuê).
Không có cam kết bán lại tài sản.

cho bên thuê khi kết thúc thời hạn
hợp đồng.
Trong thời gian thuê, người đi thuê

Trong thời gian thuê, người đi thuê có

không được phép huỷ ngang hợp

thể huỷ ngang hợp đồng


đồng
Chi phí cho thuê thấp hơn so với cho

Chi phí cho thuê cao.

thuê vận hành
Hiện giá của các khoản chi trả tiền

Hiện giá của các khoản chi trả tiền

thuê gần bằng với giá trị của tài sản

thuê thông thường nhỏ hơn nhiều so

thuê
Bên thuê chịu trách nhiệm mua bảo

với giá trị của tài sản thuê
Bên cho thuê chịu trách nhiệm mua

hiểm

bảo hiểm.

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 11


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

Phần 2:
THỰC TRẠNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1.

Thực trạng:

2.1.1

Chủ thể tham gia trên thị trường:

Tính đến thời điểm hiện nay thì chỉ có 13 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động
chính thức trên thị trường thuê mua ở Việt Nam. Vốn của các công ty cho thuê tài chính rất
nhỏ, trong khi huy động vốn lại rất hạn chế. Với số vốn điều lệ cấp từ ngân hàng mẹ (150500 tỷ đồng), chỉ đủ để các công ty cho thuê tài chính hoạt động trong vài năm.
Các chủ thể có nhu cầu thuê tài chính trên thị trường cho thuê tài chính là các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh,... và cá nhân hoạt động trong nhiều lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên, thực tế thì khách hàng đi thuê chủ yếu là các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải và xây dựng.
2.1.2

Hàng hoá trên thị trường:

Thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Hiện nay, tài sản CTTC chủ yếu tập
trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị đáp ứng được tỷ lệ 37% so với nhu cầu
của nền kinh tế. Tiếp đến là máy móc thiết bị và dây chuyền công nghệ cũng chỉ đáp ứng
được 34% so với nhu cầu của nền kinh tế. Máy móc, thiết bị của một ngành khác được tài
trợ bằng phương thức thuê tài chính như thiết bị ngành in, máy móc công trình sử dụng
cho hoạt động xây dựng cơ bản cũng chiếm một tỷ trọng thấp so với nhu cầu của nền kinh
tế.
Đánh giá thực trạng hàng hoá CTTC tại Việt Nam: Chiến lược khách hàng tập trung
vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ưu tiên cho các doanh nghiệp làm hàng xuất

khẩu, thị trường đầu ra ổn định, có khả năng quản lý và tiềm năng phát triển tốt. Việc đầu
tư dưới hình thức CTTC ngày càng được mở rộng ở tất cả các lĩnh vực như giao thông vận
tải, xây dựng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, bệnh viện, nông nghiệp,…Tài sản
cho thuê chủ yếu tập trung vào phương tiện vận tải, máy móc thiết bị… có chất lượng và
mức độ công nghệ có trình độ trung bình, dây chuyền công nghệ cao và máy móc thiết bị
hiện đại tiên tiến còn chiếm một tỷ trọng thấp trong hoạt động cho thuê của các công ty
CTTC. Các công ty CTTC chưa áp dụng tài sản cho thuê là bất động sản.
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 12


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

2.1.3

Phương thức cho thuê tài chính:

Tuy có nhiều phương thức giao dịch cho thuê tài chính nhưng trên thị trường cho
thuê tài chính Việt Nam hiện nay phổ biến có 3 phương thức:
o Phương thức giao dịch CTTC 3 bên.
o Phương thức giao dịch CTTC 2 bên.
o Phương thức giao dịch mua và cho thuê lại (bán và tái thuê).
2.1.4

Giá cả cho thuê tài chính:

Giá cả CTTC hiện nay thường cao hơn so với các loại hình tín dụng khác, chưa hấp
dẫn được các khách hàng thuê. Lãi suất CTTC cao hơn so với lãi suất cho vay trung dài
hạn từ 20% đến 25% và cao hơn 10% nếu tài sản được mua sắm trực tiếp từ nhà sản xuất.

2.2.
2.2.1

CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ HẠN CHẾ TỒN TẠI
Các kết quả đạt được:

CTTC thực sự là một kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng được đánh giá là
khá hữu hiệu tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, nhất là đối với
các DN vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh CTTC phát triển khá nhanh và tăng
trưởng vượt bậc qua các năm.
Có một điều rất đáng khuyến khích là trong hoạt động kinh doanh của mình các
công ty CTTC thường không có sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế khác nhau,
đối tượng CTTC chủ yếu là các DN ngoài quốc doanh; các DN đi thuê còn được hưởng lợi
ích từ các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến; được hưởng các dịch vụ tư vấn miễn phí
và những thông tin cần thiết khác từ những nhà cung cấp dịch vụ.
Theo đánh giá chung hoạt động CTTC trong thời gian qua đã dần mở rộng quy mô
đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số cho thuê ngày một tăng
cao, chất lượng hoạt động CTTC tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn ở mức cho phép, lợi nhuận
năm sau tăng hơn năm trước...
Đa dạng hóa các loại hình cho thuê tài chính, trong đó điển hình là Công ty Cho
thuê tài chính Ngân hàng Á Châu (ACB Leasing) sau khi được Ngân hàng Nhà nước Việt

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 13


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Nam chấp thuận cho phép cung ứng dịch vụ ngoại hối theo Giấy phép số 5623/NHNNTTGSNH, từ ngày 28/07/2010, đã chính thức triển khai cho thuê tài chính, bảo lãnh và các
dịch vụ ủy thác, tư vấn bằng ngoại tệ - bên cạnh việc cho thuê tài chính bằng VND như

hiện nay. ACB Leasing có khả năng cung cấp nhanh chóng và hiệu quả sản phẩm cho thuê
tài chính bằng ngoại tệ với sự hỗ trợ về nguồn vốn và công nghệ từ ACB. 7 tháng đầu năm
2010, ACB Leasing đã đạt trên 70% kế hoạch lợi nhuận trước thuế. Đa số tài sản ACB
Leasing tài trợ là dây chuyền sản xuất, máy móc công nghệ tiên tiến tạo ra sản phẩm chủ
lực của doanh nghiệp, ngoài ra còn có phương tiện vận tải, thiết bị cầu cảng, thiết bị cơ
giới phục vụ công trình... Ngoài ra, ACB Leasing đang tiếp tục tập trung vào các ngành
như dầu khí, cao su, nhựa, viễn thông, chế biến lương thực, thủy sản… nhất là các doanh
nghiệp uy tín trong ngành. Những kết quả đã đạt được là tiền đề để ACB Leasing đổi mới
và mở rộng loại tiền tài trợ, tăng cường tiện ích cho khách hàng. Điều này cũng xuất phát
từ nhu cầu hiện đại hóa trang thiết bị, cải tiến kỹ thuật, công nghệ mới an toàn hơn và thân
thiện với môi trường của doanh nghiệp, đặc biệt khi chu kỳ công nghệ mới bắt đầu với giá
cả các máy móc thiết bị tương đối rẻ và phù hợp với doanh nghiệp.Với việc triển khai dịch
vụ cho thuê tài chính bằng ngoại tệ, doanh nghiệp đã có thêm một lựa chọn nguồn tài trợ
vốn để đầu tư máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và có thể cân đối tìm ra giải pháp
tối ưu giữa doanh thu đầu ra phù hợp với nguồn trả nợ. Đối với các doanh nghiệp có nguồn
thu ngoại tệ, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì việc lựa chọn vốn vay bằng
ngoại tệ sẽ giúp tránh rủi ro tỷ giá và giảm chi phí
2.2.2

Những hạn chế tồn tại:

Hiểu biết của các doanh nghiệp đối với CTTC:
Ở Việt Nam, hệ thống các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ, công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính…) có vai trò đặc biệt to lớn đối với sự phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, mặc dù đã có mặt khá lâu nhưng tốc độ phát triển của dịch vụ cho thuê tài chính còn
chậm và chưa nhận được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp. Theo thống kê, hiện
nay, số lượng các công ty cho thuê tài chính của nước ta còn khá khiêm tốn ( có 13 công
ty), được thành lập dưới các hình thức khác nhau. Trong số đó, có doanh nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước, như các công ty cho thuê tài chính (thuộc các Ngân hàng Ngoại thương,
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương


Trang 14


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư phát triển, ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn…) có doanh nghiệp dưới hình thức công ty cho thuê tài chính 100% vốn
nước ngoài (công ty cho thuê tài chính Kexim – 100% vốn Hàn Quốc, Công ty cho thuê tài
chính ANZ – 100% vốn của ngân hàng ANZ và V-TRACT), lại có doanh nghiệp thuộc
hình thức đa sở hữu như Công ty cho thuê tài chính liên doanh (công ty cho thuê tài chính
VLIC) và mới đây có thêm Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(Sacombankleasing), Ngân hàng ACB (ACB leasing) tham gia thị trường này. Lượng vốn
cấp theo hình thức cho thuê tài chính chiếm tỷ lệ khá nhỏ so với hình thức cấp vốn của
ngân hàng. Trong khi đó, với lợi thế của mình, đáng lẽ loại hình dịch vụ cho thuê tài chính
phải được phát triển nhanh chóng ở Việt Nam, nơi mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang
cần thu hút một lượng vốn lớn cho đầu tư cũng như cho tái đầu tư mở rộng.
Trên thực tế, trước hết nhu cầu về vốn đối với doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn,
tuy nhiên số doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn
hạn chế, hoạt động quảng bá, giới thiệu về dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu. Theo
một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 100 doanh nghiệp thuộc các thành phần
khác nhau thì có tới 70% số doanh nghiệp được hỏi biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử
dụng dịch vụ cho thuê tài chính, gần 20% hoàn toàn không hề biết về dịch vụ này, thậm
chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh
nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ
được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại…. Trên thị trường Việt Nam,
hiện nay rất nhiều doanh nghiệp cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết
bị...nhưng thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này lại tìm đến
ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để được vay vốn khó
hơn rất nhiều. Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay đổi của các DN ở Việt
Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh doanh CTTC chưa được tuyên

truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở Việt Nam.
Giá cả CTTC:
Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm….) hiện nay còn
cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp… thì cho đến hết thời hạn
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 15


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài
sản thuê cao hơn so với họ vay từ các nguồn khác chẳng hạn như ngân hàng. Như vậy, nếu
tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê
tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm… của bên cho
thuê phải bỏ ra.
Hành lang pháp lý đối với CTTC:
Hiện nay, hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta
đã tương đối đầy đủ, tuy nhiên vẫn được chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, nhiều quy định
cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ… trong
các văn bản còn không ít vấn đề phải bàn, ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỷ đồng
đối với các công ty trong nước và 5 triệu USD đối với các công ty nước ngoài trong giai
đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi
quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở
hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình
cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa… đã gây nhiều cản trở đối với hoạt động cho thuê
tài chính
Việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo đó pháp luật Việt
Nam quy định số vốn đầu tư cho các DN đi vay không được vượt quá 30% vốn điều lệ của
công ty. Trên thực tế những quy định này đang gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của
các công ty CTTC. Bởi vì với quy định như trên phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các

DN có quy mô vừa và nhỏ. Việc huy động được nguồn vốn cũng như khả năng tích luỹ của
các công ty CTTC là rất khó khăn trong khi đó việc phát hành giấy tờ có giá để huy động
vốn gần như không thực hiện được vì phải có sự đồng ý của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN).
Vướng mắc trong các quy định của pháp luật liên quan đến đăng ký hợp đồng cho
thuê tài chính nhằm bảo vệ quyền hợp pháp của bên cho thuê tài chính:
o

Giữa các quy định của pháp luật vẫn chưa có sự thống nhất, đồng bộ: Theo

quy định tại khoản 7 Điều 26 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP thì bên thuê “không được
dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác”. Tuy
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 16


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm thì “trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản thuê có thời hạn từ
một năm trở lên của DN, cá nhân có đăng ký kinh doanh gồm máy móc, thiết bị hoặc động
sản khác không thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu và hợp đồng thuê được đăng ký tại
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm có thẩm quyền trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày giao kết hợp đồng thuê thì bên cho thuê có thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử
lý tài sản bảo đảm; nếu không đăng ký hoặc đăng ký sau thời hạn trên và sau thời điểm
giao dịch bảo đảm đã đăng ký thì bên nhận bảo đảm được coi là bên nhận bảo đảm ngay
tình và có thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử lý tài sản bảo đảm”. Ngoài ra, theo
quy định tại khoản 3 Điều 13 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP thì “tổ chức, cá nhân nhận
bảo đảm bằng tài sản mua trả chậm, trả dần, tài sản thuê sau thời điểm đăng ký hợp đồng
mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê không được coi là bên nhận bảo đảm ngay tình”.

Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “Quyền sở hữu đối với động sản không
phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Điều 167) và “việc chuyển
quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể to thời điểm động sản được chuyển giao trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác” (Điều 168). Các quy định của Bộ luật Dân sự cho
thấy, xét về nguyên lý thì việc chiếm hữu động sản là căn cứ chứng minh quyền sở hữu đối
với động sản của người đang chiếm hữu (khác với bất động sản được xác định thông qua
cơ chế đăng ký). Do đó, trong trường hợp người thứ ba xác lập giao dịch liên quan đến tài
sản cho thuê tài chính một cách ngay tình thì cần phải được pháp luật bảo vệ. Quy định tại
khoản 2 Điều 13 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
chủ sở hữu tài sản cho thuê tài chính với người thứ ba ngay tình, đồng thời có cơ chế để
thúc đẩy các bên khai thác tích cực giá trị kinh tế của tài sản cho thuê tài chính. Tuy nhiên,
điều dễ nhận thấy là quy định về vấn đề nêu trên trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và
Nghị định số 16/2001/NĐ-CP chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
o

Chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể (bao gồm cả Nhà nước) khi giải

quyết những lợi ích liên quan đến tài sản thuê: Nghị định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định
về xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thuê trong trường hợp tài sản bảo
đảm là tài sản thuê (khoản 2 Điều 13 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP). Tuy nhiên, trong
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 17


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
nhiều trường hợp quyền, lợi ích của chủ sở hữu tài sản cho thuê tài chính vẫn chưa được
bảo vệ thỏa đáng, chưa rõ ràng, ví dụ như: tài sản cho thuê tài chính bị áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời hoặc bị tịch thu do bên thuê tài chính vi phạm pháp luật hành
chính, pháp luật hình sự hoặc khái niệm “bên thứ ba” có bao gồm cơ quan công quyền

không, vì nếu xác định “bên thứ ba” bao gồm cả cơ quan công quyền thì thứ tự thanh toán
giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân phải được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về mặt
lợi ích. Về vấn đề này, pháp luật một số nước trên thế giới đã quy định bên thứ ba được
hiểu bao gồm cả cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật cũng liệt kê cụ thể những lợi ích
liên quan đến cơ quan nhà nước được ưu tiên thanh toán so với các chủ thể khác. Việc
pháp luật quy định rõ ràng, chính xác và công bằng quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ
thể (bao gồm cả Nhà nước) có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo tính an toàn pháp lý cho
các giao dịch cho thuê tài chính.
o

Chưa có cơ chế thuận lợi để bên cho thuê thực thi tốt nhất quyền năng trên

thực tế: Trong trường hợp bên thuê không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đã cam kết trong hợp đồng thuê tài chính thì bên cho thuê phải có quyền thu hồi tài sản
trong thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất, nhưng vẫn phải bảo đảm nguyên tắc khách
quan, trung thực, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên
quan. Ngoài ra, cần nghiên cứu để có sự thay đổi về quan điểm lập pháp khi điều chỉnh
hành vi của các bên ký kết hợp đồng cho thuê, đó là: áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối
với những tranh chấp liên quan đến việc xử lý tài sản cho thuê tài chính; tăng cường cơ
chế, biện pháp để bên cho thuê nhanh chóng tiếp cận và thu hồi tài sản hoặc chỉ cần xuất
trình 02 chứng cứ là: (i) hợp đồng cho thuê tài chính hợp pháp và (ii) bên thuê vi phạm
nghiêm trọng cam kết, thì bên cho thuê có quyền thu hồi tài sản thuê. Việc áp dụng quy
trình tố tụng giản lược giúp thời gian thu hồi tài sản trên thực tế được rút ngắn hơn rất
nhiều so với việc áp dụng các biện pháp xét xử khác
Ví dụ: Các dạng thức vi phạm hợp đồng trong hoạt động CTTC thiên biến vạn hóa
khó lường. Điển hình là việc BIDV Leasing ký hợp đồng cho Công ty TNHH Việt Linh
thuê máy xúc đào thủy lực Komatsu. Khi thực hiện hợp đồng, công ty này đã tự ý chuyển
giao tài sản cho bên thứ 3 mà không được sự cho phép của BIDV Leasing và trong quá
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương


Trang 18


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
trình thuê, Công ty TNHH Việt Linh không trả được nợ, buộc BIDV Leasing phải báo
công an để truy tìm tài sản. Mất rất nhiều thời gian và công sức, BIDV Leasing mới xác
minh được tài sản cho thuê nằm ở tận Cửa khẩu Thanh Thủy (Nghệ An), nhưng đến nay, 2
doanh nghiệp này vẫn dây dưa trốn nợ, gây nhiều thiệt hại cho bên cho thuê.
Ngoài việc không thu hồi được tài sản như trên, các công ty tài chính còn phải đối
mặt với rủi ro khác, như bị chính bên thuê khởi kiện. Đó là trường hợp Công ty Cho thuê
tài chính Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam và BIDV Leasing cho Công ty cổ
phần Công nghiệp tàu thủy Bình Định thuê tàu BinhDinh Star chạy tuyến quốc tế. Do
không trả được nợ, bên cho thuê buộc phải thu hồi tài sản. Quá trình thu hồi diễn ra rất khó
khăn, do phải mất thời gian chờ tàu trả khách ở Indonesia. Sau khi thu hồi xong, bên thuê
lại khởi kiện, vì cho rằng, bên cho thuê đã thanh lý tài sản không theo quy định của pháp
luật. Hiện vụ việc vẫn đang trong vòng tranh tụng.
o

Hậu quả pháp lý giữa trường hợp có đăng ký và trường hợp không đăng ký

trong quá trình thu hồi tài sản thuê chưa rõ ràng, triệt để: Nghị định số 16/2001/NĐ-CP
và các văn bản hướng dẫn có quy định về việc đăng ký hợp đồng cho thuê tài chính, nhưng
chưa phân định cụ thể hậu quả pháp lý giữa trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính có
đăng ký với trường hợp hợp đồng cho thuê tài chính không đăng ký. Hợp đồng cho thuê tài
chính khi đã đăng ký theo quy định của pháp luật thì được Nhà nước bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của chủ sở hữu tài sản cho thuê tài chính. Quy định nêu trên vừa bảo đảm tính
khách quan trong việc giải quyết quyền lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể, vừa giúp các
giao dịch cho thuê tài chính được ký kết, thực hiện minh bạch, công khai, từ đó có tác
động tích cực đến thị trường vốn. Vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm
hợp đồng. Trên thực tế quyền này gần như không thể thực hiện được vì bên thuê thường

không chịu giao tài sản, nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi hành pháp luật. Việc
bán tài sản cho bên thứ ba lại phải được sự đồng ý của Bộ Thương mại và như vậy nảy
sinh vấn đề truy thu thuế nhập khẩu? Liệu có nghịch lý không khi mà chủ sở hữu lại không
có quyền định đoạt đối với tài sản của mình?
Điều này làm số lượng hợp đồng cho thuê tài chính được đăng ký tại các trung tâm
đăng ký ngày càng giảm mạnh. Thống kê số lượng hợp đồng cho thuê tài chính đăng ký:
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 19


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam

Trung tâm Đăng ký Trung tâm Đăng ký Trung tâm Đăng ký
tại TP. Hà Nội
Năm 2009
741
Năm 2010
648
Từ
01/01/2011 168

tại TP. HCM
1389
1263
78

tại TP. Đà Nẵng
145
127

53

đến 01/6/2011
Nguồn:
Hoạt động CTTC của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh mún chưa có định
hướng chiến lược phát triển trong tương lai, trong đó vấn đề nhu cầu thị trường chưa được
tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn. Không những thế hoạt
động thuê mua ở Việt Nam cho đến nay còn khá đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn
và phần lớn các công ty CTTC đều chưa thành lập được hệ thống các chi nhánh.
Kỹ năng quản trị điều hành công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp:
Các công ty CTTC chưa thiết lập được một mối quan hệ sâu rộng đến các cơ sở
cung ứng máy móc, thiết bị... Và đội ngũ cán bộ của công ty còn thiếu những chuyên gia
giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến, điều này sẽ làm công ty mất đi
tính chủ động khi tham gia thị trường. Năng lực cạnh tranh, quản lý kinh doanh của bên đi
thuê chưa thích ứng với môi trường kinh tế nhiều biến động làm cho việc sử dụng tài sản
thuê không có hiệu quả, vi phạm hợp đồng thuê tài chính. Mặt khác, quản lý Nhà nước về
hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập,
sơ hở dẫn đến lừa đảo gây thiệt hại về tài chính cho công ty CTTC. Ngoài ra, việc thẩm
định hồ sơ khách hàng cũng gặp khó khăn, do đa phần khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và
vừa, các báo cáo tài chính không được kiểm toán.
Thời gian gần đây, mặc dù số dư nợ có tăng, nhưng số nợ quá hạn, nợ xấu ở một số
đơn vị còn quá cao, đây là dấu hiệu báo động cho hoạt động CTTC. Năm 2011 cũng không
khả quan hơn, mặc dù số dư nợ của hoạt động CTTC có tăng nhưng các doanh nghiệp rơi
vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng và khả năng thu hồi nợ thấp. Tính đến hết quý I/ 2011,
số dự nợ chỉ đạt 19.082 tỉ đồng, kém hơn so với thời điểm 31/12/2010.

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 20



Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Ví dụ: Những sai phạm tại Công ty Cho thuê tài chính II (ALC II) với số lỗ
được kiểm toán hơn 3.000 tỉ đồng đang gióng lên hồi chuông báo động về hoạt động
của các công ty cho thuê tài chính hiện nay.
Cho thuê tài chính sai nguyên tắc: Trong hoạt động huy động vốn, ALC II đã vi
phạm các quy định huy động tiền gửi ngắn hạn. Trong hai năm 2008-2009, công ty này
huy động sáu hợp đồng tiền gửi dưới 12 tháng với số tiền trên 510 tỉ đồng nhằm đáp ứng
khả năng thanh toán cho các khoản cam kết đầu tư, cho thuê của công ty. Bên cạnh đó,
công ty trả lãi cho khách hàng không đúng thỏa thuận theo hợp đồng, gây thiệt hại trên 1,1
tỉ đồng. Công ty huy động 26 hợp đồng trị giá hơn 1.300 tỉ đồng với mức lãi suất trên
17,5%/năm, vượt trần lãi suất quy định của Ngân hàng NN&PTNT.
Đối với hoạt động cho thuê tài chính, HĐQT công ty đã ban hành văn bản hướng
dẫn có nội dung không đầy đủ, trái quy định nhà nước, thực hiện thẩm định hồ sơ trước khi
cho thuê còn nhiều vi phạm. Nhiều khách hàng thuê không trả được nợ gốc và lãi hoặc có
nợ xấu ở các tổ chức tín dụng khác nhưng công ty vẫn mua và cho thuê thêm tài sản...
Trong đó, điển hình là nhóm năm công ty của ông Lê Xuân Ninh thuê tài chính 10 con tàu
với tổng số tiền 326 tỉ đồng. Ngoài ra, ALC II không thực hiện quy định kiểm tra chất
lượng tài sản cho thuê theo quy định, thực hiện mua, cho chuyển đối tác cho thuê một số
tàu biển sử dụng trong thời gian ngắn đã phải đưa vào sửa chữa, nâng cấp với số tiền trên
100 tỉ đồng...
Mua tài sản cho thuê có dấu hiệu không bình thường: Theo KTNN, một trong
những sai phạm dẫn đến thua lỗ nhiều nhất của là đầu tư vào tài sản cho thuê. Công ty đầu
tư tài sản cho thuê không có dự toán, thiết kế; đầu tư vào tài sản cho thuê nhưng không có
cơ sở xác định giá của tài sản hoặc có dấu hiệu không bình thường trong việc xác định giá
tài sản. Ngoài ra, Công ty CTTCII giải ngân không căn cứ tiến độ hợp đồng và chứng từ
chứng minh tiến độ thực hiện. Cụ thể, hợp đồng đầu tư mua dây chuyền nghiền đá của
Công ty TNHH Thịnh Tường - Đồng Nai có giá trị 7,1 tỉ đồng đã được giải ngân, nhưng
đến thời điểm kiểm toán vẫn chưa có tài sản cho thuê.


GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 21


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Tình trạng cố tình để cho khách hàng sử dụng tiền của công ty không đúng mục
đích, không đúng thỏa thuận trong hợp đồng gây thiệt hại lớn về kinh tế, dẫn đến thua lỗ
kéo dài tại công ty.
ALC II sử dụng vốn hết sức cẩu thả: DN không mua máy móc thiết bị mà dùng vốn
vay của ALC II để mua bất động sản. Hệ quả, ALC II phải năn nỉ DN bán đất để thu hồi
vốn ...Số liệu của ALC II cũng cho thấy thời điểm ngày 30-6-2010, dư nợ cho thuê tài
chính là 7.900 tỉ đồng; số tiền đầu tư dở dang vào các loại tài sản lên tới 3.990 tỉ đồng,
trong đó chủ yếu là đầu tư cho 5 tàu biển. Cũng tại thời điểm này, tổng số nợ của ALC II
lên tới 10.342 tỉ đồng, trong đó, nợ của Agribank 4.238 tỉ đồng, nợ các tổ chức khác 6.104
tỉ đồng (riêng BHXH Việt Nam 810 tỉ đồng).
Đứng trước thực trạng này, NHNN vừa ban hành dự thảo Nghị định hướng dẫn các
hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính nhằm giảm thiểu rủi ro cũng
như khắc phục lỗ hổng trong lĩnh vực hoạt động này. Tuy nhiên, dự thảo vừa công bố đã
làm không ít doanh nghiệp thất vọng vì thiếu tính thực tế và không hợp lý.

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 22


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
Phần 3:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CHO THUÊ TÀI CHÍNH
3.1 Tiềm năng phát triển dịch vụ cho thuê tài chính

Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới với đỉnh
cao là việc gia nhập WTO. Điều đó cho phép khẳng định, thị trường Việt Nam là một bộ
phận của thị trường quốc tế, trong đó có thị trường tài chính. Việc đón bắt cơ hội, vượt qua
thách thức là một yêu cầu lớn đối với nền kinh tế, trong đó đòi hỏi chúng ta phải hoàn
thiện các loại thị trường. Hơn nữa, chỉ trong một thời gian ngắn sau khi gia nhập WTO,
việc thị trường tài chính, ngân hàng của Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt
từ các dịch vụ tài chính, ngân hàng, trong đó có dịch vụ cho thuê tài chính từ nước ngoài là
một xu thế tất yếu.
Dựa vào những nội dung trên thì thấy, kết quả hoạt động của dịch vụ cho thuê tài
chính có mối liên hệ mật thiết với sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, điều này
đã được chứng minh và khẳng định ở Cam kết tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát
triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp.
Ngoài ra, tiềm năng để loại hình dịch vụ cho thuê tài chính phát triển còn thể hiện ở
việc gia tăng số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong thời gian vừa qua - tức
là “môi trường kinh doanh” cho dịch vụ này ngày càng mở rộng hơn nữa. Theo các kết quả
khảo sát mới đây, số lượng doanh nghiệp trong những năm qua đã tăng lên nhanh chóng,
theo thống kê nước ta có trên 500.000 doanh nghiệp ….. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là
động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng cho nền kinh tế và là nơi giải quyết công ăn việc
làm nhiều nhất lại đang phải gặp những khó khăn về vốn đầu tư, đổi mới máy móc, thiết bị
công nghệ. Các doanh nghiệp này dễ bị các ngân hàng từ chối cho vay vì một số lý do: đa
số doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đều yếu ở 6 khâu cơ bản để
gia nhập và tham gia thị trường như đã tổng kết ở 6 chữ M trong tiếng Anh là: vốn
(money), nguyên vật liệu (materials), nhân lực (man Power), quản lý (management) và tiếp
cận thị trường (marketing). Do đó, từ các yếu tố trên cho thấy một thị trường dịch vụ cho
thuê tài chính đầy hứa hẹn, tiềm năng phát triển cho các nhà kinh doanh trong và ngoài
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 23



Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
nước ở thị trường Việt Nam., vì đây sẽ là thị trường rộng lớn cho các công ty cho thuê tài
chính khai thác triệt để nhưng phải khai thác có chọn lọc nhằm đảm bảo an toàn vốn cho
Công ty, bên cạnh đó để xâm nhập vào các doanh nghiệp lớn thì Công ty cần quan tâm hơn
nữa tới công tác tiếp thị, quảng cáo sản phẩm dịch vụ của mình.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, các cam kết về việc mở
rộng thị trường tài chính, trong đó có dịch vụ cho thuê tài chính là một cơ hội để chúng ta
phát triển thị trường tài chính, học hỏi kinh nghiệm, tri thức về quản trị, quản lý và phát
triển dịch vụ.
3.2 Giải pháp phát triển dịch vụ cho thuê tài chính
Để hoàn thiện và phát triển loại hình dịch vụ đầy tiềm năng phát triển này trong thời
gian tới, Việt Nam cần một số giải pháp cụ thể như sau:
3.2.1 Đối với Nhà nước
Một là, hoàn thiện môi trường pháp lý, hệ thống pháp luật đồng bộ
Thực tế hoạt động cho thuê tài chính trong những năm gần đây cho thấy còn nhiều
bất cập về môi trường pháp lý cần phải tiếp tục giải quyết. Hoạt động cho thuê tài chính
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như ngân hàng, xuất nhập khẩu, dân sự, thương
mại, tài chính... các luật này chưa đưa ra được đầy đủ và đồng bộ các quy định về hoạt
động cho thuê tài chinh. Trong đó có luật hợp đồng và luật liên quan đến quyền sở hữu,
luật thuế, luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
cho thuê tài chính.
Quá trình xây dựng luật dùng để điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính phải được
thực hiện trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kinh nghiệm của các nước có ngành công
nghiệp cho thuê tài chính phát triển, đồng thời dựa trên cơ sở những bài học kinh nghiệm
rút ra từ thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian qua. Việc nhanh chóng hoàn thiện cơ sở
pháp lý về cho thuê tài chính sẽ giúp cho hoạt động cho thuê tài chính diễn ra thuận lợi và
hiệu quả, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Trong khi chưa xây dựng được luật riêng về hoạt động cho thuê tài chính thì Nhà
nước cần phải từng bước sửa đổi, bổ sung các quy định pháp lý hiện hành. Như: quy định

thêm đối tượng tham gia hoạt động cho thuê tài chính, quy định thêm tài sản dùng để cho
GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 24


Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính ở Việt Nam
thuê, các phương thức cho thuê, quy định thêm về đối tượng bảo hiểm tài sản dùng để cho
thuê tài chính...
Với hệ thống pháp luật về cho thuê tài chính đồng bộ sẽ góp phần giúp cho chủ sở
hữu, các công ty cho thuê tài chính và các doanh nghiệp thuê tài chính tuân thủ pháp luật,
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền và lợi ích được pháp luật ghi nhận, bảo vệ.
Tham khảo và vận dụng có chọn lọc các ưu thế và chuẩn mực của quốc tế về cho thuê tài
chính.
Hai là Nhà nước cần có chính sách cụ thể về thuế đối với các phương thức cho
thuê tài chính khác nhau
Nhà nước cần có những chính sách về thuế có thể khuyến khích, thu hút các nhà
đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào thị trường này, tăng cung cho thị trường thuê tài
chính, thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động cho thuê tài chính, tăng khả
năng cạnh tranh giữa các công ty cho thuê tài chính với các tổ chức tài chính, tín dụng
khác. Nên có chính sách khuyến khích thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh
nghiệp cho thuê tài chính t rong những năm đầu. Việc miễn thuê thu nhập này sẽ tạo ra sức
thu hút đầu tư trong lĩnh vực này. Mặt khác, cần nới rộng những ưu đãi về thuế chuyển
tiền, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài dành riêng cho hoạt động cho thuê tài chính. Điều
này sẽ khuyến khích các công ty cho thuê tài chính nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Ba là xây dựng các chính sách hỗ trợ khác cho hoạt động thuê mua
Cùng với việc bổ sung và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thuê mua, Nhà
nước cần thiết lập một số chính sách hỗ trợ khách để tạo điều khiện cho hoạt động ngày
càng phát triển và hoàn thiện:
Cần có những chính sách ưu đãi như hỗ trợ vốn với lãi suất thấp, vay trả chậm nước

ngoài thông qua thuê tài chính để giảm thấp chi phí mà người thuê tài chính trong nước
phải trả nhằm tăng thêm tính hấp dẫn của hoạt động cho thuê tài chính.
Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ. Khi kết
thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết thúc
trước hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc

GVHD: PGS. TS Trầm Thị Xuân Hương

Trang 25


×