UBND TỈNH AN GIANG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TẬP NHÓM
Môn: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
CHỦ ĐỀ:
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG BẢO MẬT VÀ AN TOÀN MẠNG
TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006 - 2009
GVHD: ThS. Nguyễn Hữu Tâm Nhóm thực hiện
1.Huỳnh Phước Lộc MSSV: DKD083013
2.Lê Đức Hoàng Minh MSSV: DKD083016
3.Tiết Thị Mỹ Trinh MSSV: DKD083044
4.Bạch Phước Ngời MSSV: DKD083021
1
2010
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Với nhu cầu trao đổi thông tin, bắt buộc các cơ quan, tổ chức phải hoà
mình
vào
mạng
toàn cầu Internet. An toàn và bảo mật thông tin là một trong
những vấn đề quan
trọng
hàng đầu, khi thực hiện kết nối mạng nội bộ của các cơ
quan, doanh nghiệp, tổ chức với
Internet.
Ngày nay, các biện pháp an toàn thông
tin cho máy tính cá nhân cũng như các mạng nội bộ
đã
được nghiên cứu và triển
khai. Tuy nhiên, vẫn thường xuyên có các mạng bị tấn công, có các
tổ
chức bị
đánh cắp thông tin,…gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm
trọng.
Những vụ tấn công này nhằm vào tất cả các máy tính có mặt trên Internet,
các máy
tính
của các công ty lớn như AT&T, IBM, các trường đại học và các cơ
quan nhà nước, các tổ
chức
quân sự, ngân hàng …một số vụ tấn công với quy
mô khổng lồ (có tới 100.000 máy tính bị
tấn
công). Hơn nữa những con số này
chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Chính vì vậy, nhóm chúng em đã chọn đề tài:
“Tìm hiểu thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam” để có những cái
nhìn toàn diện và sâu sắc hơn với vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam.
- Đề ra các biện pháp nhằm nâng cao bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi về không gian: quốc gia Việt Nam.
b. Phạm vi về thời gian: số liệu được sử dụng trong đề tài từ 2005 đến 2010
2
c. Phạm vi về nội dung: bảo mật và an toàn mạng (lĩnh vực công nghệ thông
tin) đối với cá nhân và doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập số liệu: số liệu sử dụng trong đề tài là số liệu thu
thập trên Internet.
b. Phương pháp phân tích:
- Mục tiêu 1: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn để thu thập thông tin
trên Internet.
- Mục tiêu 2: Sử dụng phương pháp mô tả, so sánh, thống kê để trình bày,
phân tích vấn đề an toàn, bảo mật mạng tại Việt Nam.
- Mục tiêu 3: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn, tìm kiếm các giải
pháp có sẵn trên Internet đã được áp dụng hiệu quả.
PHẦN NỘI DUNG
I.Một số định nghĩa, khái niệm liên quan đến đề tài.
1.Bảo mật thông tin là gì ?
Bảo mật là bảo vệ an toàn những thông tin của bạn trước những "tay"
chuyên rình mò thông tin của người khác. Với hệ thống thông tin của doanh
nghiệp, thông tin chính là tiền của bạn. Với website của doanh nghiệp của bạn,
việc có thể thay đổi thông tin trên đó sẽ ảnh hưởng xấu đến thương hiệu của bạn.
Nếu bạn ứng dụng thương mại điện tử, thiệt hại sẽ rất lớn nếu website của bạn bị
hack, khách hàng sẽ không bao giờ tin tưởng để cung cấp những thông tin cá nhân
trên website của bạn nữa.
Tại sao phải bảo mật thông tin?
Bảo vệ chống lại những tấn công mạng từ bên trong và bên ngoài . Các tấn
công có thể xuất phát từ cả hai phía, từ bên trong và từ bên ngoài tường lửa của
doanh nghiệp của bạn. Một hệ thống an ninh hiệu quả sẽ giám sát tất cả các hoạt
động mạng, cảnh báo về những hành động vi phạm và thực hiện những phản ứng
thích hợp.
Đảm bảo tính riêng tư của tất cả các liên lạc, ở bất cứ đâu và vào bất cứ
lúc nào .Nhân viên có thể truy cập vào mạng từ nhà hoặc trên đường đi với sự đảm
bảo rằng hoạt động truyền thông của họ vẫn được riêng tư và được bảo vệ.
Kiểm soát truy cập thông tin bằng cách xác định chính xác người dùng và
hệ thống của họ .Các doanh nghiệp có thể đặt ra các quy tắc của riêng họ về truy
cập dữ liệu. Phê duyệt hoặc từ chối có thể được cấp trên cơ sở danh tính người
dùng, chức năng công việc hoặc các tiêu chí kinh doanh cụ thể khác.
Giúp bạn trở nên tin cậy hơn .Bởi vì các công nghệ an ninh cho phép hệ
thống của bạn ngăn chặn những dạng tấn công đã biết và thích ứng với những
3
dạng tấn công mới, nhân viên, khách hàng và các doanh nghiệp có thể an tâm rằng
dữ liệu của họ được an toàn.
2. An ninh mạng là gì ?
Có những lúc, ví dụ như khi bạn rời văn phòng về nhà khi kết thúc ngày
làm việc, bạn sẽ bật hệ thống cảnh báo an ninh và đóng cửa để bảo vệ văn phòng
và thiết bị. Dường như bạn cũng sẽ có một ngăn chứa an toàn hoặc khóa tủ lưu trữ
các tài liệu kinh doanh mật.
Mạng máy tính của bạn cũng đỏi hỏi cùng một mức độ bảo vệ như vậy.
Các công nghệ An ninh Mạng bảo vệ mạng của bạn trước việc đánh cắp và
sử dụng sai mục đích thông tin kinh doanh bí mật và chống lại tấn công bằng mã
độc từ vi rút và sâu máy tính trên mạng Internet. Nếu không có An ninh Mạng
được triển khai, công ty của bạn sẽ gặp rủi ro trước xâm nhập trái phép, sự ngừng
trệ hoạt động của mạng, sự gián đoạn dịch vụ, sự không tuân thủ quy định và thậm
chí là các hành động phạm pháp nữa.
3.Các loại tấn công mạng chủ yếu
Virus (máy tính)
Trong khoa học máy tính, virus máy tính (thường được người sử dụng gọi
tắt là virus) là những chương trình hay đoạn mã được thiết kế để tự nhân bản và
sao chép chính nó vào các đối tượng lây nhiễm khác (file, ổ đĩa, máy tính,...).
Trước đây, virus thường được viết bởi một số người am hiểu về lập trình
muốn chứng tỏ khả năng của mình nên thường virus có các hành động như: cho
một chương trình không hoạt động đúng, xóa dữ liệu, làm hỏng ổ cứng,... hoặc gây
ra những trò đùa khó chịu.
Những virus mới được viết trong thời gian gần đây không còn thực hiện các
trò đùa hay sự phá hoại đối máy tính của nạn nhân bị lây nhiễm nữa, mà đa phần
hướng đến việc lấy cắp các thông tin cá nhân nhạy cảm (các mã số thẻ tín dụng)
mở cửa sau cho tin tặc đột nhập chiếm quyền điều khiển hoặc các hành động khác
nhằm có lợi cho người phát tán virus.
Chiếm trên 90% số virus đã được phát hiện là nhắm vào hệ thống sử dụng
hệ điều hành họ Windows chỉ đơn giản bởi hệ điều hành này được sử dụng nhiều
nhất trên thến giới. Do tính thông dụng của Windows nên các tin tặc thường tập
trung hướng vào chúng nhiều hơn là các hệ điều hành khác. Cũng có quan điểm
cho rằng Windows có tính bảo mật không tốt bằng các hệ điều hành khác (như
Linux) nên có nhiều virus hơn, tuy nhiên nếu các hệ điều hành khác cũng thông
dụng như Windows hoặc thị phần các hệ điều hành ngang bằng nhau thì cũng
lượng virus xuất hiện có lẽ cũng tương đương nhau.
Sâu máy tính (worm)
Sâu máy tính (worm): là các chương trình cũng có khả năng tự nhân bản tự
tìm cách lan truyền qua hệ thống mạng (thường là qua hệ thống thư điện tử). Điểm
4
cần lưu ý ở đây, ngoài tác hại thẳng lên máy bị nhiễm, nhiệm vụ chính của worm
là phá các mạng (network) thông tin, làm giảm khả năng hoạt động hay ngay cả
hủy hoại các mạng này. Nhiều nhà phân tích cho rằng worm khác với virus, họ
nhấn mạnh vào đặc tính phá hoại mạng nhưng ở đây worm được là một loại virus
đặc biệt.
Dẫn chứng : Storm Worm bắt đầu nổi lên và phát tán rộng rãi trên mạng động theo
con người email chứa tệp tin động kèm chính hại.Nếu người dùng lỡ tay mở tệp tin
đính kèm chính nhắp chuột vào đường liên kết đó thì Storm Worm sẽ ngay lập tức
đột nhập vào PC của họ. Chức năng chính của con sâu máy tính này là "bắt cóc"
PC người dùng để phục vụ cho các mục đích đen tối khác của bọn tin tặc. Xuất
hiện lần này là một biến thể hoàn toàn mới của Storm Worm. Lần này bên cạnh tệp
tin đính kèm độc hại, Storm Worm còn ẩn mình trong các liên hết hoặc trang web
độc hại, Dmitri Alperovitch - chuyên gia nghiên cứu của Secure Computing - cho
biết. Đối tượng tấn công chủ yếu lần này của Storm Worm là blogger và
các động đàn. Con sâu máy tính này sẽ tự động chèn vào các bài viết trên blog
hoặc bài viết trên diễn đàn một đường liên kết đến một trang web độc hại.Secure
Computing xếp Storm Worm vào mức độ nguy hiểm cao. Hình thức phát tán kiểu
này thực sự nguy hiểm bởi người dùng nghĩ rằng các đường liên kết trên blog hoặc
các bảng thông báo diễn đàn đều là những đường liên kết an toàn. Người dùng sẽ
không mấy để ý và sẵn sàng nhắp chuột nếu họ quan tâm.
Phần mềm ác tính (malware):
Phần mềm ác tính còn có tên là ác liệu hoặc phần mềm độc hại, hay được
dùng nguyên gốc Anh ngữ là malware. Chữ gốc Anh ngữ malware là sự ghép của
hai chữ malicious và software..
Phần mềm ác tính là một loại phần mềm hệ thống do các tay tin tặc hay các
kẻ nghịch ngợm tạo ra nhằm gây hại cho các máy tính. Tùy theo cách thức mà tin
tặc dùng, sự nguy hại của các lọai phần mềm ác tính có khác nhau từ chỗ chỉ hiển
thị các cửa sổ hù dọa cho đến việc tấn công chiếm máy và lây lan sang các máy
khác như là virus trong cơ thể của các sinh vật.
Trojan Horse
đây là loại chương trình cũng có tác hại tương tự như virus chỉ khác là nó
không tự nhân bản ra. Như thế, cách lan truyền duy nhất là thông qua các thư dây
chuyền. Để trừ loại này người chủ máy chỉ việc tìm ra tập tin Trojan horse rồi xóa
nó đi là xong. Tuy nhiên, không có nghĩa là không thể có hai con Trojan horse trên
cùng một hệ thống. Chính những kẻ tạo ra các phần mềm này sẽ sử dụng kỹ năng
lập trình của mình để sao lưu thật nhiều con trước khi phát tán lên mạng. Đây cũng
là loại virus cực kỳ nguy hiểm. Nó có thể hủy ổ cứng, hủy dữ liệu.
Trojan horse, tiếng Anh của Ngựa Troia, là một loại phần mềm ác tính.
Không giống như virus, nó không có chức năng tự sao chép nhưng lại có chức
năng hủy hoại tương tự virus. Một trong những thứ giăng bẫy của Ngựa Troia là
nó tự nhận là giúp cho máy của thân chủ chống lại các virus nhưng thay vì làm vậy
nó quay ra đem virus vào máy.
Trojan horse là loại virus có khả năng thâm nhập trực tiếp vào hệ điều hành
mà không để lại "di chứng". Thường một số chương trình diệt virus có kèm trình
diệt spyware nhưng diệt khá kém đối với các đợt "dịch". Phần mềm gián điệp là
5
phần mềm chuyên thu thập các thông tin từ các máy chủ (thông thường vì mục
đích thương mại) qua mạng Internet mà không có nhận thức cuả chủ máy . Trojan
horse là chương trình máy tính thường ẩn mình dưới dạng một chương trình hữu
ích và có những chức năng mong muốn, hay ít nhất chúng trông như có các tính
năng này. Một cách bí mật, nó lại tiến hành các thao tác khác không mong muốn.
Những chức năng mong muốn chỉ là phần bề mặt giả tạo nhằm che dấu cho các
thao tác này. Trong thực tế, nhiều Trojan horse chứa đựng các phần mềm gián điệp
nhằm cho phép máy tính thân chủ bị điều khiển từ xa qua hệ thống mạng.
Spyware
Một cách điển hình, Spyware được cài đặt một cách bí mật như là một bộ
phận kèm theo cuả các chương trình freeware (phần mềm miễn phí) và shareware
(phần mềm tương nhượng) mà người ta có thể tải về từ Internet. Một khi đã cài
đặt, spyware điều phối các hoạt động cuả máy chủ trên Internet và lặng lẽ chuyển
các dữ liệu thông tin đến một máy khác (cuả những tay hacker dĩ nhiên!) Spyware
cũng thu thập tin tức về điạ chỉ e-mail và ngay cả mật khẩu cũng như là số thẻ tín
dụng!!
Spyware "được" cài đặt một cách vô tội vạ khi mà người chủ máy muốn cài
đặt phần mềm khác. Khác nhau căn bản với virus máy tính là Trojan Horse về mặt
kỹ thuật chỉ là một phần mềm thông thường và không có ý nghĩa tự lan truyền. Các
chương trình này chỉ lừa người dùng để tiến hành các thao tác khác mà thân chủ sẽ
không tự nguyện cho phép tiến hành. Ngày nay, các Trojan horse đã được thêm
vào đó các chức năng tự phân tán. Điều này đẩy khái niện Trojan horse đến gần
với khái niệm virus và chúng trở thành khó phân biệt sự khác nhau.
Thư rác (điện tử)
Thư rác, thư linh tinh, hay còn dược dùng dưới tên gốc Anh ngữ là spam
hay spam mail, là các thư điện tử vô bổ thường chứa các loại quảng cáo được gửi
một cách vô tội vạ và nơi nhận là một danh sách rất dài gửi từ các cá nhân hay các
nhóm người và chất lượng của loại thư này thường thấp. Đôi khi, nó dẫn dụ người
nhẹ dạ, tìm cách đọc số thẻ tín dụng và các tin tức cá nhân của họ.
Hacker
Là người có thể viết hay chỉnh sửa phần mềm, phần cứng máy tính bao gồm
lập trình, quản trị và bảo mật. Những người này hiểu rõ hoạt động của hệ thống
máy tính, mạng máy tính và dùng kiến thức bản thân để làm thay đổi, chỉnh sửa nó
với nhiều mục đích tốt xấu khác nhau.
Keylogger:
Là phần mềm ghi lại chuỗi phím gõ của người dùng. Nó có thể hữu ích cho
việc tìm nguồn gốc lỗi sai trong các hệ thống máy tính và đôi khi được dùng để đo
năng suất làm việc của nhân viên văn phòng. Các phần mềm kiểu này rất hữu dụng
cho ngành luật pháp và tình báo - ví dụ, cung cấp một phương tiện để lấy mật khẩu
hoặc các khóa mật mã và nhờ đó qua mắt được các thiết bị an ninh. Tuy nhiên, các
phần mềm keylogger được phổ biến rộng rãi trên Internet và bất cứ ai cũng có thể
sử dụng cho mục đích lấy trộm mật khẩu và chìa khóa mã hóa.
Phishing:
6
Là một hoạt động phạm tội dùng các kỹ thuật lừa đảo. Kẻ lừa đảo cố gắng
lừa lấy các thông tin nhạy cảm, chẳng hạn như mật khẩu và thông tin về thẻ tín
dụng, bằng cách giả là một người hoặc một doanh nghiệp đáng tin cậy trong một
giao dịch điện tử. Phishing thường được thực hiện bằng cách sử dụng thư điện tử
hoặc tin nhắn, đôi khi còn sử dụng cả điện thoại.
Rootkit:
Là một bộ công cụ phần mềm dành cho việc che dấu các tiến trình đang
chạy, các file hoặc dữ liệu hệ thống. Rootkit có nguồn gốc từ các ứng dụng tương
đối hiền, nhưng những năm gần đây, rootkit đã bị sử dụng ngày càng nhiều bởi các
phần mềm ác tính, giúp kẻ xâm nhập hệ thống giữ được đường truy nhập một hệ
thống trong khi tránh bị phát hiện. Người ta đã biết đến các rootkit dành cho nhiều
hệ điều hành khác nhau chẳng hạn Linux, Solaris và một số phiên bản của
Microsoft Windows. Các rootkit thường sửa đổi một số phần của hệ điều hành
hoặc tự cài đặt chúng thành các driver hay các môdule trong nhân hệ điều hành
(kernel module).
Phần mềm tống tiền (Ransomware):
Là loại phần mềm sử dụng một hệ thống mật mã để mã hóa dữ liệu thuộc
về một cá nhân và đòi tiền chuộc thì mới khôi phục lại.
Cửa hậu (Backdoor):
Trong một hệ thống máy tính, cửa hậu là một phương pháp vượt qua thủ tục
chứng thực người dùng thông thường hoặc để giữ đường truy nhập từ xa tới một
máy tính, trong khi cố gắng không bị phát hiện bởi việc giám sát thông thường.
Cửa hậu có thể có hình thức một chương trình được cài đặt (ví dụ Back Orifice
hoặc cửa hậu rookit Sony/BMG rootkit được cài đặt khi một đĩa bất kỳ trong số
hàng triệu đĩa CD nhạc của Sony được chơi trên một máy tính chạy Windows),
hoặc có thể là một sửa đổi đối với một chương trình hợp pháp - đó là khi nó đi
kèm với Trojan.
II. Thực trạng bảo mật và an toàn mạng tại Việt Nam giai đoạn 2006 – 2009
Năm 2006 , là năm bùng phát virus và hacker “nội”!. Rất nhiều sự kiện chấn động
xuất phát từ trong nước đã xảy ra, từ đại dịch virus “nội” đến sự bùng phát của
hacker“nội”.
Theo thống kê của Trung tâm an ninh mạng BKIS, tổng cộng đã có 41 loại virus
“nội” (cả các virus biến thể) được phát tán trên mạng, trong đó 37 loại lây lan qua Yahoo!
Messenger và bốn loại còn lại qua cổng giao tiếp USB.
Hầu hết virus phát tán thông qua Yahoo! Messenger đều sử dụng chung một cách
thức là lây lan qua sơ hở của những người sử dụng. Sau khi một máy tính đã bị nhiễm loại
virus này, virus sẽ tự động dò tìm địa chỉ có trong danh sách liên lạc qua Yahoo!
Messenger của nạn nhân rồi gửi những đường liên kết mời chào rất hấp dẫn tới các địa
chỉ đó. Người nhận được sẽ bị đánh lừa là từ bạn chat của mình gửi và dễ dàng kích hoạt
vào đường liên kết đó. Kết quả là máy tính của họ cũng bị nhiễm virus, cứ như thế virus
nhanh chóng lây lan qua hàng trăm ngàn máy tính chỉ trong thời gian ngắn.
Hàng loạt website của các công ty, tổ chức trong nước (Công ty Việt Cơ, Công ty Nhân
Hòa, VMS MobiFone, Hòa Bình, Bộ Giáo dục - đào tạo, Liên đoàn Bóng đá VN) cũng đã
7
bị các hacker “nội” tấn công. Các hình thức tấn công chủ yếu là tấn công từ chối dịch vụ
(DDoS), thông qua lỗ hổng bảo mật, cài phần mềm gián điệp...
Động cơ tấn công: có trường hợp tấn công với mục đích phá hoại nhưng cũng có
trường hợp chỉ là để chứng tỏ khả năng của mình hoặc với mục đích cảnh báo. Nhưng dù
với mục đích nào đi nữa thì họ cũng đã vi phạm pháp luật vì xâm nhập trái phép tài sản
của cá nhân, tổ chức khác.
Năm 2007, là năm mà số các website trong nước bị các hacker nội và nước ngoài
tấn công nhiều đến chóng mặt, 342 website trong đó có trang bị hack tới 2 lần.
Theo bản tổng kết an ninh mạng 2007 do trung tâm an ninh mạng Bkis đưa ra ngày 15/1,
có tới hơn 33 triệu lượt máy tính bị nhiễm virus.
Khác với các năm trước, virus máy tính chủ yếu được phát tán qua email thì năm 2007
virus chủ yếu được lan truyền qua USB, có tới 95,72% USB tại Việt Nam từng bị nhiễm
virus.
Vấn đề nữa là “malware lây theo bầy đàn” trở thành hiểm họa mới từ Internet. Đã có tới
10,6 triệu lượt máy tính nhiễm các spyware, trojan, adware và 786.000 máy tính nhiễm
Rookit. Các virus phá hoại cũng bùng phát trên diện rộng.
Cũng về tình hình an ninh các website thì trung tâm an ninh mạng đã phát hiện lỗ hổng
của 140 trang web các cơ quan và doanh nghiệp trong đó nghiêm trọng là một số website
có tên miền .gov.vn đã bị hacker nước ngoài kiểm soát và gắn mã độc phát tán virus.
Website của các công ty chứng khoán cũng không được an toàn khi 40% các website đều
mắc lỗi trên tổng số 60 website đang họat động.
Việc người dùng bị ăn cắp mật khẩu và thông tin cá nhân và lừa đảo trực tuyến cũng tăng
lên nhanh chóng.
Cũng theo trung tâm an ninh mạng Bkis dự báo đến năm 2008, trojan, spyware,
Adware vẫn tiếp tục hoành hành trong đó USB, lỗ hổng IE vẫn là nguồn lây lan virus chủ
yếu. Đặc biệt là các mạng xã hội ảo xuất hiện ồ ạt trong thời gian vừa qua sẽ là đối tượng
chính để các hacker nhắm tới nhằm thực hiện các hình thức như lừa đảo trực tuyến, ăn
cắp thông tin các nhân, phát tán các đoạn mã độc hại,… Qua các mạng xã hội ảo này tình
trạng nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín người khác sẽ xuất hiện ngày càng nhiều.
Các haker họat động tinh vi hơn, tài chính - tiền tệ và các website chứng khoán sẽ
là đích ngắm chính của họ. Tất cả đều tập trung tấn công vào lĩnh vực tài chính.
2008, Ngày 13-1, Trung tâm An ninh Mạng Bkis (Đại học Bách Khoa Hà Nội) đã
công bố bản báo cáo về toàn cảnh an ninh mạng ở Việt Nam trong năm 2008. Đã có
33.137 dòng virus máy tính mới xuất hiện tại Việt Nam trong năm 2008, trong đó 33.101
dòng có xuất xứ từ nước ngoài và 36 dòng có xuất xứ từ Việt Nam. Các virus này đã lây
nhiễm trên 59.450.000 lượt máy tính. Virus lây nhiều nhất trong năm là
W32.SecretW.Worm đã lây nhiễm trên 420.000 máy tính.
Ở Việt Nam, tội phạm tin học sau 2 năm im ắng có dấu hiệu quay trở lại. Cụ thể là
các vụ cướp tên miền của Công ty P.A Vietnam, vụ hack website Techcombank hay vụ
tấn công DDoS… Tuy nhiên, sau khi một số vụ việc bị đưa ra ánh sáng và bị cơ quan
chức năng xử lý thì làn sóng này đã được ngăn chặn kịp thời.
Việt Nam đã ghi dấu ấn an ninh mạng với cộng đồng quốc tế khi nhiều trang tin
công nghệ hàng đầu thế giới như CNET, PCWorld, ComputerWorld, InfomationWeek…
nhiều lần đăng tải kết quả nghiên cứu, cảnh báo về an ninh mạng của các chuyên gia Việt
Nam. Những cảnh báo này liên quan đến các thương hiệu toàn cầu như Google,
8