Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

Thực trạng và giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh – Thanh Hoá.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.89 KB, 74 trang )

Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU, TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang
2
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần
đây, nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước
ta đã có những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006
nước ta đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất
thế giới WTO. Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng
trưởng nhanh, đại bộ phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ
rệt. Song, một bộ phận không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng
sâu, vùng xa... đang chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều
kiện tối thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, đi lại... Chính vì vậy, sự phân hoá
giàu nghèo ở nước ta ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan
tâm hàng đầu của những nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà đối
với nước ta khi nền kinh tế đang có sự chuyển mình thì vấn đề phân hoá giàu
nghèo càng được chú trọng hàng đầu. Để có thể hoàn thành mục tiêu quốc gia
là Xoá đói giảm nghèo thì thì trước tiên phải rút ngắn sự phân hoá giàu nghèo.
Đây không chỉ là nhiệm vụ của bộ máy lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ của toàn
thể nhân dân. Phải phát huy truyền thống tinh hoa văn hoá người Việt trong
nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo.
Như Thanh - Thanh Hoá là một huyện miền núi thuộc tỉnh Thanh Hoá,
huyện cũng có một nét chung đối với tất cả các địa phương khác đó là tình
trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại. Đời sống một bộ phận nhân dân vẫn đang rất
khó khăn yếu kém. Điều này cũng là một tất yếu đối với một huyện miền núi
mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Huyện mới được thành lập từ
năm 1997 từ việc chia tách từ huyện Như Xuân. Do đó, công tác xoá đói giảm


nghèo đặc biệt quan tâm nhất là từ năm 1997 đến nay.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản
hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham
gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo
có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn
lên thoát khỏi nghèo đói.Như Thanh - Thanh Hoá là một trong những huyện
sớm triển khai thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Từ những năm
1999 Hội đồng nhân dân huyện đã có Nghị quyết số 2159/NĐ/HĐND ngày
21/10/1999 về một số biện pháp, chính sách thực hiện chương trình xoá đói
giảm nghèo, Uỷ ban nhân dân huyện đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xoá
đói giảm nghèo từ các huyện đến các xã, dành nhiều ngân sách đầu tư cơ sở
hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay Xoá đói giảm nghèo , xây dựng các mô
hình xoá đói giảm nghèo...
Với lí do trên và qua tìm hiểu thực tế về các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh -
Thanh Hoá. Kết hợp với việc nghiên cứu các số liệu về thu nhập, việc làm,
đời sống vật chất, tinh thần của hộ nghèo nói riêng và của nhân dân trong
huyện nói chung. Với tư cách là một sinh viên thực tập tại huyện em nhận
thấy vấn đề nghèo đói của huyện là rất phổ biến, cần phải có những bước đi
thật chính xác mới có thể khắc phục được. Chính vì vậy em đã chọn đề tài
chuyên đề thực tập là: Thực trạng và giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện
Như Thanh – Thanh Hoá.
Do phạm vi nghiên cứu và thời gian tìm hiểu có hạn nên chuyên đề
thực tập không thể tránh được những thiếu sót hạn chế. Em rất mong sự đóng
góp ý kiến của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp và các chú các anh
công tác tại phòng Nội vụ- Lao động Thương binh và Xã hội để chuyên đề
của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn thực tập
tốt nghiệp: PGS.TS. Trần Xuân Cầu , các chú, các anh đang công tác tại
phòng Nội vụ- LĐTB&XH huyện Như Thanh - Thanh Hoá- đã hướng dẫn em

trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
4
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
Phần 1: Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo.
1. Khái niệm.
1.1. Khái niệm nghèo, đói:
1.1.1. Theo quan niệm của Quốc tế.
- Theo Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(ESCAP): Nghèo đói là trạng thái môt bộ phận dân cư không được hưởng và
thão mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục
tập quán của địa phương.
Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt
đối và nghèo tương đối.
Nghèo tương đối là sự thõa mãn chưa đầy đủ nhu cầu cuộc sống của
con người như: cơm ăn chưa ngon, quần áo chưa mặc đẹp, nhà ở chưa k hang
trang... hay nói cách khác là có sự so sánh về thoã mãn các nhu cầu cuộc sống
giữa người này với người khác, vùng này với vùng khác.
Hộ nghèo tương đối không phải là đối tượng chủ yếu của chương
trình. Để giải quyết nghèo tương đối có chương trình, giải pháp khác tác động
đến như: Chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm, phát triển kinh tế
trang trại, cho vay của ngân hàng chính sách, ngân hàng Nông nghiệp.
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa
dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như
là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những
người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội
đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ
thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo
tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ

thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất
(tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan
trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã
hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một
thách thức xã hội nghiêm trọng.
Nghèo tuyệt đối là sự không thoã mãn những nhu cầu tối thiểu của con
người để duy trì cuộc sống như: Cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc, nhà
cửa không bảo đảm chống được mưa nắng, thiên tai bão lũ...không so sánh
với ai khác nhưng bản thân họ không đủ lượng calo cần thiết để duy trì cuộc
sống.
Hộ nghèo tuyệt đối là đối tượng chủ yếu của chương trình, mục tiêu xoá
đói giảm nghèo phải tác động. Để xem xét mức độ nghèo đói chúng ta cần
thước đo gọi là chuẩn nghèo.
- Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát
triển, Ngân hàng thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Định nghĩa
khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối...là sống ở
ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những
người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng
bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ
may mắn của giới trí thức chúng ta."
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê
khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được
dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình.
Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh Châu Âu những
người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng
tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên
thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện
6
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của

trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó
vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của
thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương
đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người
không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập
khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn
vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa
nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo
cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối.
Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh
giới nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính
toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể
tham gia vào cuộc sống xã hội.
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác
định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một
con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định
một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do.
Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị.
1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam (Theo Chương trình Quốc gia
Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 và phương hướng từ năm 2006-2010
của Thủ tướng Chính phủ năm 2000).
- Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thõa mãn một
phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức
sống tối thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện.
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
- Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Chính Phủ Việt Nam
nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói
nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã
hội nhạy cảm nhất. Không thể lãng quên nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội

theo kịp tiến trình phát triển mà Chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những
khiếm khuyết của thể chế kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xoá đói
giảm nghèo.
1.1.3. Một số khái niệm liên quan.
- Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ
dưới ngưỡng đói nghèo.
Theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ
trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2001-
2005 được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng
vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/ tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định
nêu trên được xác nhận là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo thay đổii theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào
tình hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có
thể nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó:
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả
nước.
+ Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước.
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói
nghèo theo chuẩn nâng lên.
8
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
- Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày
22/05/2002 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về việc ban
hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005. Quy định xã nghèo là xã có:
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên.
+ Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm đường

giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể là:
• Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch.
• Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
• Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả
năm.
• Số phòng học( Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ đáp ứng
được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bợ bằng
tranh tre, nứa, lá.
• Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm.
• Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ.
- Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một qúa trình
thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu
nhập đã ở trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử
dụng khái niệm hộ thoát(hoặc vượt) đói và họ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo
đương nhiên không còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói
có thể đồng thời thoát hẳn nghèo(ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường
hợp thoát đói(rất nghèo) nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo.
- Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiếu số
giữa tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói
nghèo khác với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát
nghèo là số hộ ở đầu kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong
khi đó, số hộ nghèo giảm đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về
mặt số lượng hộ nghèo, chưa phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực
hiện chương trình.
- Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt
nghèo nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của
khái niệm này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp
xoá đói giảm nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do
gặp thiên tai bất khả kháng.
- Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu

kì không thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo. Như
vậy, hộ mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hôn như sau: Hộ
nghèo chuyển tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình khá vì
một lý do nào đó lại trở thành hộ nghèo hoặc hộ tía nghèo.
1.1.4. Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói
giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói:
Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói:
- Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức
chi tiêu về lương thực,thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt
lượng tiêu dùng từ 2.100-2.300 Kcal/người/ngày.
- Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng. Trong đó đặc
biệt quan tâm đến thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu nhập
thấp(20 % số hộ).
- Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương đã
được cụ thể hoá bằng mục tiêu chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và
chương trình của từng địa phương để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo.
Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy:
10
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
+ Xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế xã
hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó có
một phần yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.
+ Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan trong đó có một phần
yếu tố chủ quan.
* Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010:
Giai đoạn 2001-2005
Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000
đ/người/tháng, hay 960.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân 100.000đồng/người/tháng,

hay 1.200.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồng/người/tháng, hay
1.800.000đồng/người/năm được coi là nghèo.
Giai đoạn 2006-2010:
Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là:
Khu vực Nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng,
được coi là nghèo.
Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000đồng/người/tháng,
được coi là nghèo.
1.1.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo.
- T ăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc
gia. Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khác phục tình trạng nghèo đói, lạc
hậu, để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư.
- Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Bất cứ quốc gia nào
cũng phải lấy nền quan tọng nhất của nó là phát triển tăng trưởng kinnh tế để
xoá đói giảm nghèo, chỉ có tăng trưởng kinh tế mới cho phép các quốc gia
tích luỹ để đầu tư cho xoá đói giảm nghèo vì xoá đói giảm nghèo cần rất
nhiều nguồn lực và trong nhiều năm. Mặt khác tăng trưởng kinh tế phải vì
người nghèo, vùng nghèo thì mới lam fcho khoảng cách giầu nghèo một cách
hợp lý với tiến trình phát triển của xã hội. Nếu tăng trưởng kinh tế không vì
người nghèo thì chính nó lại làm cho kh oảng cách giầu nghèo tăng thêm và
điều này không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong
phân bố ngân sáchchúng ta không được thiên lệch về một hướng nào. Nếu
tăng trưởng kinh tế quá nhanh thì nguồn ngân sách cho xoá đói giảm nghèo sẽ
ít và người nghèo không theo kịp tiến trình phát triển kinh tế và ngược lại nếu
chú trọng và công tác xoá đói giảm nghèo mà không quan tâm đến tăng
trưởng kinh tế thì càng làm cho người nghèo càng nghèo thêm.
Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng và
tăng trưởng bền vững vào tăng trưởng kinh tế trên diện rộng được coi là một
bộ phận quan trọngcủa chiến lược và là nhiệm vụ chung của xã hội và chính

người nghèo.
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và địa phương về công tác xoá đói
giảm nghèo.
Xoá đói giảm nghèo được coi là sự nghiệp của toàn dân, là một chính
sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ chính sách kinh tế xã hội.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững,
gắn xoá đòi giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã
hội. Xác đinh rõ các vùng trọng điểm, các hoạt đọng ưu tiên để tập trung
nguồn lực đầu tư có hiệu quả.
Gắn xoá đói giảm nghèo cà giải quyết việc làm với thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở. Tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo, xã
nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản.
Phát huy nội lực chủ yếu , đồng thời tăng cường sự hợp tác quốc tế.
12
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
Xoá đói giảm nghèo được Đảng và Nhà nước coi là chương trình mục
tiêu Quốc gia. Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính bức xúc của mỗi địa
phương, của mỗi quốc gia và mang tính toàn cầu, là trở ngại lớn đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung cũng như của huyện Như
Thanh - Thanh Hoá nói riêng. Thấy rõ tầm quan trọng của công tác Xoá đói
giảm nghèo nên ngay từ khi cách mạng mới thành công( Năm 1945) Đảng ta
đã coi nhiệm vụ chống nạn đói là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách, trải qua gần
60 năm xây dựng và phát triển, cho đến nay Xoá đói giảm nghèo đã trở thành
mục tiêu Quốc gia cuả Đảng, Nhà nước và địa phương hưởng ứng, quan tâm
hàng đầu. Xoá đói giảm nghèo là lĩnh vực mới với thời gian thực hiện chưa
dài, nhưng lại là vấn đề xã hội mang tính cấp thiết và đã có nhiều chính sách,
giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề đói nghèo, thông qua việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo.
Đói nghèo do nguyên rất nhiều nguyên nhân gây ra, vì vạy cũng có rất

nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ
bản có ảnh hưởng đến đói nghèo của huyện như sau:
2.1.Yếu tố khách quan.
• Yếu tố tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp thuần
tuý của huyện. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp luôn bị rơi
vào tình cảnh mất mùa, có năm mất trắng ở một số xã đối với diện tích lúa
nước (năm 2005). Đây không chỉ là do thiên nhiên ngày càng biến đổi phức
tạp khó lường mà nó còn do một phần bàn tay con người gây ra. Việc thiếu ý
thức trong bảo vệ rừng là một nguyên nhân điển hình gây ra nhiều lũ quét và
lốc xoáy. Do tàn pha rừng và môi trường thiên nhiên nên tự nhiên không còn
tuân theo quy luật vốn có của nó nữa. Chính việc này gây ra hiệu quả sản xuất
nông nghiệp tụt giảm đáng kể. Không ai khác gánh chịu hậu quả này đó chính
là người nông dân. Khi rơi vào cảnh mất mùa thì người nghèo lại càng nghèo
hơn. Bên cạnh đó, ngoài sản xuất nông nghiệp họ rất khó chuyển đổi canh tác.
Một phần là vì địa hình phức tạp, và một phần là do khí hậu hạn chế khả năng
canh tác của họ. Chính vì vậy nghèo đói vẫn còn tồn tại và một phần là điều
kiện tự nhiên gây nên.
• Yếu tố kinh tế- xã hội.
Nền kinh tế non trẻ do việc huyện mới được thành lập không lâu, sự ổn
định cần thiết của nó cũng chỉ mới là bước đầu. Để có thể tạo cơ hội cho
người dân có nhiều việc làm hơn, có thu nhập cao hơn là từ nông nghiệp
thuần tuý vẫn phải có thời gian. Chính vì vậy khó có thể tránh khỏi sự chênh
lệch về kinh tế cũng như là thu nhập của ngưòi dân so với các địa phương
khác. Thực tế cho thấy, khi kinh tế chưa thực sự ổn đinh, tác động của nó đến
đời sống người dân là rất lơn. Nó không chỉ gây ra tình trạng thiếu việc, thiếu
cơ sở vật chất… mà còn kìm hãm chính sự phát triển của con người. Như vậy,
người dân rơi vào cảnh nghèo đói là một điều khó thể tránh khỏi. Hiện tượng
này không chỉ xảy ra với huyện Như Thanh - Thanh Hoá mà còn xảy ra trên
phạm vi tỉnh, cả nước và trên toàn thế giới. Dẫu sao đây cũng chỉ là tác động

của nền kinh tế-xã hội đối với tình hình đói nghèo. Tương lai thì cũng chính
nền kinh tế sẽ đặt bút xoá cho tình hình đói nghèo.
• Yếu tố chính trị.
Thực tế công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện càn rất nhiều sự ủng hộ
từ nhân dân trong huyện và của các địa phương khác. Tức là có sự thống nhất
về mọi mặt giữa trong và ngoài. Tuy nhiên, huyện lại có thành phần dân cư đa
dạng, việc thống nhất được quan điểm của họ không thể trong thời gian ngắn.
Nhất là nền chính trị của huyện đang non trẻ, bộ máy lãnh đạo chưa thể trơn
14
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
tru. Cũng chính thực tế đó mà công tác Xoá đói giảm nghèo tại huyện vãn còn
rất nhiều khó khăn, làm cho đói nghèo vẫn còn tồn tại
2.2. Yếu tố chủ quan
• Do cơ chế, chính sách các cấp.
Việc hoạch định ra những chính sách trên cơ sở chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh để áp dụng vào giải quyết thực tế đói nghèo của
huyện là không đơn giản. Đối với bất cứ một chính sách nào cũng có 2 mặt
của nó. Vì vậy, trong qua trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo,
bản thân những chính sách của huyện có tác động ngược lại. Tức là gây ra
tình trạng nghèo đói hơn, gây ra hoang mang cho người dân. Tuy nhiên đây
cũng là thực tế hiếm hoi và thời gian tác động tiêu cực là không dài. Nhiều
năm qua huyện luôn nỗ lực trong chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo
và đã đạt được rất nhiều thành tích điển hình. Nhìn nhận từ thực tế cho ta thấy
thực trạng đói nghèo ngày một giảm và đi tới kiểm soát được.
• Do bản thân người nghèo.
Đã có những dự án lớn, có những chương trình lớn nhằm đẩy lùi nạn
nghèo đói, tuy nhiên không phải chỉ có vậy là sẽ hết nghèo, hết đói. Bản thân
người nghèo đều có thể quyết định cuộc sống của họ. Tuy nhiên, trong thực tế
do có tâm lý chủ quan, trông chờ vào cấp trên từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại. Họ
thiếu quyết tâm thoát nghèo nên đói nghèo vẫn tồn tại trong cuộc sống của họ.

Đói nghèo chỉ có thể xoá được khi có sự nỗ lực từ chính bản thân người
nghèo.
Trên đây chỉ là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến vấn đề nghèo đói.
Thực tế cho thấy nạn nghèo đói không thể giải quyết trong thời gian ngắn,
chính vì vạy mà những yếu tố ảnh hưởng đến nó cũng sẽ thay đổi theo thực
trạng nghèo đói của từng nơi.
3. Ảnh hưởng của đói nghèo đến đời sống xã hội.
Vấn đề nghèo đói không chỉ gây ra những hậu quả cho bản thân người
nghèo mà còn gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển chung của toàn
xã hội. Ta có thể thấy được tác động của nghéo đói đến bản thân người nghèo
và ảnh hưởng đến toàn xã hội thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã
hôi.
Nghèo đói dẫn đến
Bệnh tật Gia tăng dân số
Môi trường sống Suy dinh dưỡng
Tệ nạn xã hội Thất học
Nghèo đói
Cản trở sự tăng trưởng kinh tế Kìm hãm sự phát triển con
người
Bất bình đẳng xã hội Phá huỷ môi trường
( Nguồn:Tài liệu tập huấn Cán bộ Xoá đói giảm nghèo cấp huyện và xã-
2006)
Như vậy, muốn kinh tế phát triển được thì phải giải quyết được vấn đề
nghèo đói.
Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản
hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham
gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo
có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn
lên thoát khỏi nghèo đói.

16
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
4. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của các nước trên thế giới và của các địa
phương trong nước.
4.1. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới.
- Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của nước Mỹ.
Vào những năm 2000-2001 ở Mỹ có gần 20% dân số hay 44 triệu
người nghèo. Nạn đói nghèo diễn ra hết sức phức tạp đã làm cho đời sống
kinh tế- xã hội Mỹ thay đổi đáng kể. Thống kê qua từng năm con số những
người có thu nhập dưới rang giới nghèo liên tiếp tăng(mỗi năm tăng đến
0,5%). Đây là dấu hiệu không tốt đối với nền kinh tế khổng lồ của Mỹ lúc
này. Tuy nhiên cho đến năm 2005, ở Mỹ hiện tượng đói nghèo vẫn hoành
hành nhưng đã được khống chế và dần đi vào ổn định. Theo số liệu từ bản báo
cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những người
có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tục giảm mạnh qua các năm. Hiện
nay chỉ có 10,7% dân số hay 37 triệu người nghèo và đã giảm đáng kể so với
những năm trước đó (giảm 2% so với năm 2004). Một gia đình 4 người được
coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đo la Mỹ trong một năm. Đối
với những người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la. Như
vậy thu nhập và chi tiêu của người dân đa số cao hơn rất nhiều so với mức
chuẩn nghèo của quốc gia. Nhìn chung, bằng những giải pháp hiệu quả trong
việc cơ cấu lại công tác tạo việc làm và chú trọng chủ yếu vào nguồn nhân lực
thì Mỹ đã giảm đáng kể tình trạng nghèo đói tồn tại trong xã hội. Bước đầu đã
cải thiện và đi tới xoá bỏ hẳn tình trạng đói nghèo của đất nước.
Ngoài những bài học kinh nghiệm thu được từ công tác Xoá đói giảm
nghèo của Mỹ chúng ta cũng cần nghiên cứu các bài học kinh nghiệm đắt giá
của các nước khác trên thế giới như Đức, Áo… Những nước này không chỉ có
dân cư đông đúc mà thành phần dân cư cũng rất phức tạp do chịu nhiều đợt
sóng di cư khổng lồ trong những thập niên vừa qua. Tuy nhiên, việc Xoá đói
giảm nghèo tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, những bài học đó chỉ

là cơ sở để nghiên cứu, việc áp dụng được hay không còn phả xem xét rất
nhiều ở từng khía cạnh và thời kỳ cụ thể của nước ta.
4.2. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số địa phương trong nước.
- Kinh nghiệm góp phần xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Đồng Nai : Đưa
"những cái thiếu" về nông thôn, đến tận tay người nghèo.
Đồng Nai được xem là một trong những địa phương thành công nhất trong
việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Bài học kinh nghiệm của
tỉnh thì nhiều, nhưng dưới góc nhìn của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo
Chính phủ, thì các chính sách "đem cái chữ đến cho người nghèo", "gắn chế
biến nông sản với vùng nguyên liệu" và "đưa ngân hàng về cơ sở" của Đồng
Nai là những nét nổi bật.
+)Dạy chữ, dạy nghề cho người nghèo
Trước khi triển khai thực hiện giải pháp nâng cao dân trí cho người nghèo,
tỉnh đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng trường lớp ở nông thôn, các
vùng khó khăn và tiến đến kiên cố hóa. Có cái nền vững chắc như vậy cùng
với phong trào xã hội hóa giáo dục của tỉnh diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến
ý thức của người dân, đặc biệt là nông dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. Nhờ vậy, đến nay hầu hết các em tuổi từ 18 trở xuống
đều có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở.
Tỉnh cũng chủ trương bên cạnh với công tác dạy chữ cần quan tâm đến
dạy nghề để giúp người dân có việc làm, thu nhập ổn định, thoát nghèo bền
vững. Sở Lao động, thương binh và xã hội cùng ngành giáo dục - đào tạo đã
tổ chức được nhiều trường, khóa, lớp đào tạo nghề ngay tại các doanh nghiệp,
tại các xã vùng sâu, vùng xa để người dân nghèo, trình độ văn hóa chưa cao
được học những ngành nghề phù hợp. Hiện nay, ngoài các trung tâm học tập
cộng đồng có dạy nghề thì ở tất cả các huyện, thị xã trong tỉnh đều có nhiều
18
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
trường, lớp dạy nghề trên các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Tỉnh
cũng tiến hành nhiều chương trình tài trợ, hỗ trợ dạy nghề và giới thiệu việc

làm cho con em đồng bào dân tộc, gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ. Ước
tính, bình quân mỗi năm có trên 1.000 học viên của tỉnh được đào tạo nghề
miễn phí và giới thiệu việc làm có thu nhập ổn định.
+) Đưa ngân hàng, nhà máy về với nông thôn
Chương trình cung ứng vốn cho người nghèo của Đồng Nai đã triển
khai thực hiện từ năm 1994. Đặc biệt, năm 2003, ngân hàng chính sách xã hội
ra đời thì mạng lưới của nó không chỉ dừng lại ở tỉnh, huyện mà còn mở nhiều
điểm giao dịch tại các xã để tiếp cận dân. Một cách tiếp cận và mở rộng cho
vay khác của ngân hàng chính sách hội là liên kết với các tổ chức đoàn thể,
như: Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến
binh để mở ra những kênh chuyển tải vốn đến người vay nhanh chóng, kịp
thời. Với cách làm này, Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh đã giải đáp được
một phần bài toán "ngân hàng thừa tiền, nông dân thiếu vốn".
Những bài học kinh nghiệm trên đây về công tác xóa đói giảm nghèo ở
Đồng Nai chưa phải là tất cả nhưng cũng rất quan trọng đóng góp vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo trong tỉnh đạt kết quả tốt đẹp.
- Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của huyện Nông Cống- Thanh hoá.
Từ khi thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về Xoá đói giảm
nghèo, mỗi năm huyện đã giải quyết cho trên 15.000 lượt hộ nghèo được vay
vốn sản xuất với tổng số tiền trên 60 tỷ đồng, quan tâm tổ chức thực hiện có
hiệu quả các dự án vốn vay giải quyết việc làm, vốn tương trợ, hỗ trợ lẫn nhau
của các tổ chức hội. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa, đến nay hầu hết các hộ đã
trả được nợ vay, số hộ nợ quá hạn không nhiều.
Những hộ nghèo thiếu đất sản xuất được tập trung giải quyết để hộ
nghèo có đất và tư liệu sản xuất.Tập huấn kiến thức sản xuất các loại cây
trồng, con nuôi cho hơn 20.000 lượt người nghèo bằng nhiều hình thức như đi
tham quan các mô hình tiên tiến, hội nghị hội thảo đầu bừo, chuyển giao khoa
học kỹ thuật. Đã có hơn 10.000 hộ nghèo sử dụng giống mới, kỹ thuật canh
tác mới trong chăn nuôi trồng trọt. Thực hiện chính sách trợ giá một số loại
giống mới cho hộ nghèo như: Lúa vụ mùa là 5.000đ/kg, lúa vụ chiêm là

3.000đ/kg, Ngô vụ đông là 3.000đ/kg... Trợ giá, trợ cước cho các sản phẩm
thếit yếu như : muối, dầu hoả, phân bón, giấy vở học sinh, than đá trong 5
năm là 3 tỷ đồng.
Đã cấp 30.000 thẻ KCB cho người nghèo theo Quyết định 139 của
Chính phủ. Hàng năm có trên 15.000 lượt người nghèo được KCB miễn giảm
phí tại cơ sơ y tế cấp huyện và gần 1000 lượt người được KCB miễn giảm phí
ở các tuyến y tế cấp trên. Số trẻ em được đúng độ tuổi là 8.479 em = 95,4%.
Trong thời gian qua huyện đã tiếp nhận hỗ trợ cho 535 hôộổn định dân cư
thuộc diện di dân từ các huyện và tỉnh khác.Huyện đã tổ chức được 12 lớp tập
huấn nâng cao năng lực Xoá đói giảm nghèo cho trưởng thôn với 450 học
viên, hàng năm tập huấn cho cán bộ làm công tác Xoá đói giảm nghèo của 34
xã, thị trấn.
Thực hiện cuộc vận động toàn dân hỗ trợ giúp đỡ hộ nghèo về nhà ở,
trong 2 năm 2004-2005 đã hỗ trợ xây dựng được 1290 ngôi nhà cho hộ nghèo.
Kết quả sau thời gian thực hiện mục tiêu giảm nghèo đã giảm được 18.08%
hộ = 2.775 hộ thoát nghèo, nhưng cũng có 156 hộ thoát nghèo. Đến cuối năm
2005 còn 15% hộ nghèo = 2.630 hộ đạt 100% kế hoạch
Có được kết quả trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ
Đảng- HĐND-UBND-MTTQ và các đoàn thể, sự nổ lực cố gắng của các ban
chỉ đạo, tập thể, các nhân, các phòng, ban ngành, cơ quan đơn vị đã góp phần
không nhỏ giảm tỷ lệ hộ nghèo theo đúng chỉ tiêu hàng năm đã đặt ra như: Xã
Minh thọ, thị trấn Chuối, Xã Vạn Hoà, Xã Thăng long...Trong đó, những đơn
20
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
vị tiêu biểu xuất sắc là Hội nông dân, Phòng nông nghiệp, Phong Nội vụ-
LĐTB&XH và mốt số cơ quan đoàn thể khác.
5. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá.
Nhìn nhận thực tế những tổn thất mà nghèo đói gây ra đối với Việt nam
nói chung và địa phương nói riêng, chúng ta có thể khẳng định tầm quan
trọng của công tác Xoá đói giảm nghèo.Một quy luật tất yếu đó là khi vấn đề

nghèo đói được giải quyết thì đời sống của nhân dân nói riêng và nền kinh tế
nói chung đều tăng lên. Nếu như không còn nghèo đói thì xã hội sẽ bền vững
phát triển.
Tỉnh Thanh hoá nói chung và huyện Như Thanh - Thanh Hoá nói riêng
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nạn đói nghèo làm cho đời sống nhân dân
gặp rất nhiều khó khăn.Thực tế cho thấy khi người dân không có đủ điều kiện
tối thiểu cho cuộc sống thì đời sống hàng ngày của họ vô cùng khó khăn. Họ
chỉ có một mục đích duy nhất là duy trì cuộc sống ngoài ra không có mục
đích nào khác. Như vậy, họ không quan tâm đến đời sống kinh tế xã hội xung
quanh thay đổi như thế nào. Điều đó gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát của
nền kinh tế địa phương nói riêng và của huyện và tỉnh nói chung.
Nghèo đói không chỉ là vấn đề cấp bách cần giải quyết của địa phương
nói riêng mà nó còn là mục tiêu hàng đầu của đất nước ta. Trong suốt những
thập kỷ qua, tình trạng nghèo đói kèo dài làm cho cuộc sống nhân dân gặp vô
vàn khó khăn. Nó gây ra những tệ nạn xã hội, những thách thức đối với toàn
thể xã hội, nó tác động xấu đến nhận thức của con người. Nhìn chung nó kìm
hãm sự phát triển của con người về mọi mặt. Từ đó nó làm cho nền kinh tế xã
hội càng trở nên trì truệ hơn. Chính vì vậy, Xoá đói giảm nghèo rất cần thiết
và đòi hỏi phải duy trì trong suốt thời gian dài, không thể ngày một ngày hai.
Xoá đói giảm nghèo là chương trình Quốc gia và được triển khai đến
tất cả các địa phương trong nước. Mục đích lớn nhất của chương trình đó là
giải quyết mọi vấn đề để đưa cuộc sống nhân dân lên bằng hoặc cao hơn mức
sống trugn bình. Hiện nay chương trình đã thực hiện ở tất cả các xã, thị trấn
trong huyện. Tuy nhiên, bước đầu của chương trình mới chỉ thu được kết quả
là không còn xoá đói mà chỉ còn nhiệm vụ là giảm nghèo. Đây cũng có thể
coi là thành công bước đầu của chương trình. Song không vì vậy mà sự cần
thiết của nhiệm vụ giảm nghèo lại giảm đi. Nếu nghèo không giảm thì những
hộ thuộc diện hộ nghèo rất có thể trở thành hộ đói, như vậy thì sự nỗ lực của
cán bộ và nhân dân xem như đổ xuống sông xuống biển. Chính vì vậy, phải
luôn thấy được sự cần thiết của công tác Xoá đói giảm nghèo. Nó không chỉ

mang lại cho người nghèo một cuộc sống tốt đẹp hơn, bên cạnh đó nó có tác
động tích cực đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận rằng công tác Xoá đói giảm
nghèo rất quan trọng và thực sự cần thiết. Sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế cũng như toàn bộ đời sống của nhân dân trong huyện phụ thuộc vào hiệu
quả của chương trình quốc gia Xoá đói giảm nghèo. Nhìn chung, trong những
năm vừa qua đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều này
càng làm cho vai trò của Xoá đói giảm nghèo trong huyện quan trọng hơn về
mọi mặt.
22
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
Phần 2: Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - tỉnh Thanh
hoá giai đoạn 2001-2005.
I. Đặc điểm của huyện Như Thanh - Thanh Hoá.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Như Thanh - Thanh Hoá là huyện miền núi, nằm ở phía tây nam của
tỉnh Thanh Hoá. Được thành lập theo Nghị Định 72/CP, ngày 18/11/1996 của
Chính Phủ. Huyện mới chính thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính từ
tháng 01 năm 1997. Toàn huyện có 16 xã và 1 thị trấn. Trong đó có 5 xã thuộc
chương trình 135. Tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện là 58.733,42 ha,
trong đó đất nông nghiệp là 42.116,30 ha, đất phi nông nghiệp là 6.847,56 ha,
còn lại là đất chưa sử dụng 9.769,56 ha. Dân số của huyện theo số liệu thống
kê vào ngày 01/2006 là 85.227 người, trong đó có 40.669 người trong độ tuổi
lao động. Với 4 dân tộc anh em là Kinh, Thái, Mường, Thổ. Như Thanh -
Thanh Hoá còn có một số di tích lịch sử và khu du lịch sinh thái nổi tiếng
như: Lò cao kháng chiến, chùa thờ bà Triệu Thị Trinh, vườn Quốc gia Bến
En.
Với điều kiên như vậy thì đời sống của nhân dân trong huyện chủ yếu
dựa vào sản xuất Nông- Lâm nghiệp. Bên cạnh đó Huyện cũng đang tích cực
tận dụng thế mạnh tự nhiên của mình để phát triển thêm nhiều ngành kinh tế

khác tiềm năng như du lich, khu công nghiệp chế biến lương thực thực
phẩm...
2. Đặc điểm kinh tế.
Gần 10 năm thành lập và phát triển, nền kinh tế của huyện tăng trưởng
khá và tương đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 11,5%
vượt 1,5%(Kế hoạch năm là 10%), thu nhập bình quân đầu người đạt 2,37
triệu đồng/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng, các chương
trình dự án thực hiện đã có những hiệu quả nhất định. Kết cấu hạ tầng phục
vụ cho phát triển kinh tế được tăng cường, một số mục đã vượt kế hoạch.
Diện tích gieo trồng năm 1997 là 9.435 ha, năm 2004 là 12.423 ha, giá trị sản
xuất tính theo đầu người đến năm 2004 là 339 kg/người/năm. Cơ cấu kinh tế
nông- lâm, tiểu thủ công nghiệp, thương mại- dịch vụ đã có bước chuyển dịch
cơ bản. Năm 1997 tỷ lệ tương ứng là 81,6%; 7,5%; 10,9%, đến năm 2004 là
74,2%; 11,4%, 14,4%. Trong đó sản xuất nông lâm chú trọng đưa giống lúa
mới vào sản xuất chính, chuyển dịch và mở rộng vùng nguyên liệu mía :
2.978 ha phục vụ cho nhà máy mía đường Nông Cống. Gần 1.000 ha Dứa
phục vụ cho nhà máy xuất khẩu nước dứa cô được xây dựng tại Như Thanh -
Thanh Hoá. Trong chăn nuôi tiếp tục phát triển đầu tư con, cũng như số lượng
xuất chuồng, lai tạo giống có chất lượng tốt, bước đầu đã đưa mô hình chăn
nuôi lợn hướng nạc xuất khẩu ở một số xã với tổng đàn lợn là 134 con. Nét
nổi bật trong sản xuất nông - lâm nghiệp là trang trại rừng, toàn huyện có 144
trang trại cấp tỉnh và gần 300 trang trại nhỏ khác. Hàng hoá xuất khẩu năm
1997 là 220.000 USD đến năm 2004 là 753.000 USD, chủ yếu là quặng Crôm
và lạc vỏ. Kết cấu hạ tằn được đầu tư, trong 8 năm qua đã đầu tư được hơn
100 tỷ đồng, xây dựng 70 công trình phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nước
và phát triển dân sinh kinh tế. Nâng cấp 25 km quốc lộ 45, tu sửa và cait tạo
81 đường liên xã, kiên cố hoá được 63,7 km kênh mương nội đồng, 100%
công sở được xây dựng, kiên cố được 16 trạm hạ thế, 30km đường dây cao
thế. Đến nay đã có 16/17 xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, 17/17 xã, thị trấn
có điện thoại.

3. Đặc điểm văn hoá, xã hội.
Kinh tế phát triển là nhân tố phát triển văn hoá, giáo dục. Thực hiện
Nghị Quyết Trung ương khóa XII và khoá XIII và các Nghị Quyết văn hoá,
giáo dục các cấp. Năm 1997 huyện đã công nhận và hoàn thành phổ cập tiểu
24
Chuyên đề thực tập tôt nghiệp
học chồn mù chữ. Đến nay, toàn huyện có 84 trường tiểu học, 912 lớp và
28.756 học sinh. Số trường lớp cơ bản đã được kiên cố hoá, số trường tranh
tre nứa còn 3%, không có tìng trạng học ca 3. Có 9 xã hoàn thành phổ cập cơ
bản và 3 trường đạt chuẩn quốc gia. Toàn huyện có 174 thôn bản, trong đó có
169 làng bản khai trương, xây dựng làng văn hoá. Đã có 25 làng được công
nhận làng văn hoá cấp huyện, 3 làng được công nhận cấp tỉnh.
Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng, cơ bản đã đẩy lùi
được bệnh sốt rét, tỷ lê giường bệnh trên 1 vạn dân là 20, 10 trên 6 trạm xá
cấp xã đã có bác sỹ, chất lượng khám, chữa bệnh được đảm bảo, làm tốt công
tác y tế dự phòng , vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện tốt chương trình mở
rộng, 85% gia đình gia đình được sử dụng nước sạch, số trẻ em suy dinh
dưỡng còn 27%.
Với kết quả trên, huyện nhà 4 năm liền được Chính phủ tặng cờ thi đua
đơn vị dẫn đầu các huyện miền núi(1998-2001) và được tặng thưởng Huân
chương Lao động hạng nhì. Kế thừa và phát huy thành tựu kinh tế xã hội luôn
giữ mức tăng trên 10%. Vì vậy đời sống của nhân dân trong huyện luôn được
nâng cao, an ninh chính trị ngày càng được giữ vững.
II. Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá.
1. Quy mô đói nghèo giai đoạn 2002-2006.
1.1. Giai đoạn 1997-2004.
Đây là giai đoạn khó khăn nhất của chương trình xóa đói giảm nghèo.
Lý do quan trọng nhất là việc huyện vùă được hình thành, bản chất của đời
sống kinh tế xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp là chính. Ta có thể thấy quy
mô đói nghèo thông qua bảng tổng hợp hộ nghèo đói từ năm 1997 đến năm

2002.

×