Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

NGHIÊN cứu văn hóa CHĂM PHỤC vụ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.98 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Thống

NGHIÊN CỨU VĂN HĨA CHĂM PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Thống

NGHIÊN CỨU VĂN HĨA CHĂM PHỤC VỤ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH AN GIANG
Chun ngành: Địa lí học
Mã số: 60 31 05 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học
TS. Trịnh Duy nh

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


LỜI CAM ĐOAN


Là một nhà sư phạm, một người đang làm công tác nghiên cứu khoa học, tôi
xin cam đoan rằng đây là một công trình nghiên cứu của cá nhân. Công trình này tác
giả đã tìm hiểu và thực hiện trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu lý thuyết, kiến thức
kinh điển và nghiên cứu qua quá trình khảo sát thực địa dưới sự hướng dẫn của Tiến
sĩ Trịnh Duy Oánh.
Các bảng số liệu thống kê và các kết quả nghiên cứu khác đảm bảo tính trung
thực xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm, chưa được công bố dưới bất kì hình thức
nào trước khi trình và bảo vệ.

Tác giả

Nguyễn Ngọc Thoáng

1


LỜI CẢM ƠN
Tri thức như chiếc thang vô tận, sự khám phá tri thức là suốt đời và dĩ nhiên để
khám phá ra một điều gì đó ít nhiều cũng cần phải có tài liệu nghiên cứu, phải có sự
giúp đỡ của mọi người xung quanh, của Ban ngành đoàn thể và nhất là phải có người
hướng dẫn và dạy dỗ tận tình.
Tác giả xin được gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến giảng viên hướng dẫn khoa
học TS. Trịnh Duy Oánh, Trường Đại học Sài Gòn – Người đã không ngại vất vả để
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện công trình nghiên cứu của bản thân.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau đại học, Khoa
Địa lí trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh cùng toàn thể quý thầy cô
trong Khoa Địa lí đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin gởi lời cảm ơn đến Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Sở Văn hóa
Thể thao và Du lịch, Cục thống kê, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang,…

đã cung cấp cho tôi những tài liệu, tư liệu vô cùng hữu ích nhằm giúp tôi hoàn thành
đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 6
2. Mục tiêu nghiên cứu ....................................................................................................... 7
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 7
4. Giới hạn nghiên cứu ....................................................................................................... 8
5. Lịch sử nghiên cứu .......................................................................................................... 8
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .................................................................... 10
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................................... 12

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH
VĂN HÓA .................................................................................................................. 14
1.1. Khái quát về văn hóa ................................................................................................. 14
1.1.1. Khái niệm về văn hóa ........................................................................................... 14
1.1.2. Các đặc trưng và bản chất của văn hóa ................................................................ 17
1.1.3. Chức năng cơ bản của văn hóa ............................................................................. 18
1.1.4. Phân biệt văn hóa và văn minh ............................................................................. 21
1.1.5. Các loại hình văn hóa ........................................................................................... 22
1.2. Khái niệm du lịch và du lịch văn hóa ....................................................................... 23

1.2.1. Khái niệm du lịch ................................................................................................. 23
1.2.2. Khái niệm du lịch văn hóa .................................................................................... 27
1.2.3. Vai trò của du lịch văn hóa ................................................................................... 29
1.2.4. Các nguyên tắc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa ...................................... 31
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch văn hóa ở một số nước trên thế giới và
Việt Nam ............................................................................................................................ 33
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch văn hóa ở một số nước trên thế giới ..... 33
1.3.2. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch văn hóa ở Việt Nam .............................. 35

CHƯƠNG 2: KHAI THÁC VĂN HÓA CHĂM PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TỈNH AN GIANG........................................................................................... 38
2.1. Giới thiệu chung ......................................................................................................... 38
2.1.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu ............................................................................... 38

3


2.1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển dân tộc Chăm................................... 55
2.1.3. Những nét đặc sắc trong văn hóa Chăm ............................................................... 57
2.2. Khai thác văn hóa Chăm phục vụ phát triển du lịch tỉnh An Giang .................... 76
2.2.1. Các yếu tố được khai thác .................................................................................... 76
2.2.2. Hiện trạng hoạt động du lịch gắn với văn hóa người Chăm tỉnh An Giang ......... 84
2.2.3. Đánh giá hoạt động du lịch gắn với văn hóa người Chăm tỉnh An Giang ........... 94

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN
VỚI VĂN HÓA CHĂM TỈNH AN GIANG ............................................................ 98
3.1. Định hướng phát triển du lịch văn hóa Chăm tỉnh An Giang ............................... 98
3.1.1. Cơ sở đưa ra định hướng ...................................................................................... 98
3.1.2. Định hướng phát triển ........................................................................................ 101
3.2. Những giải pháp phát triển cơ bản ........................................................................ 104

3.2.1. Giữ gìn và tôn tạo những giá trị văn hóa của dân tộc Chăm .............................. 104
3.2.2. Nâng cao nhận thức và đời sống cộng đồng địa phương ................................... 105
3.2.3. Đào tạo phát triển nguồn nhân lực ..................................................................... 106
3.2.4. Thu hút đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng – kĩ thuật phục vụ du lịch ................... 107
3.2.5. Tiếp thị, quảng bá du lịch ................................................................................... 108
3.2.6. Nghiên cứu, xây dựng chương trình du lịch....................................................... 109
3.2.7. Phát triển du lịch gắn với phát triển cộng đồng ................................................. 110
3.2.8. Giải pháp về bảo vệ môi trường ......................................................................... 111

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 116
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 118

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐBSCL:

Đồng bằng sông Cửu Long

HTX:

Hợp tác xã

Ql:

Quốc lộ

SCN:


Sau Công nguyên

Tp:

Thành phố

Tx:

Thị xã

UBND:

Ủy ban nhân dân

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
An Giang là một trong 13 tỉnh của Đồng bằng sông Cửu Long, nằm ở phía Tây
Nam của Tổ quốc, tiếp giáp với vương quốc Campuchia, An Giang còn là nơi có con
sông Mê Kông đổ vào đồng bằng Nam Bộ. Do nằm ở vị trí địa lí đặc biệt, thế địa
hình đa dạng vừa có đồng bằng với diện tích rộng lớn vừa có thế núi cùng với hệ
thống sông ngòi, kênh rạch khá chằng chịt. Không những thế, An Giang còn là nơi
định cư của bốn dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm. Bốn dân tộc trên đều định cư khá
lâu đời trên mảnh đất An Giang từ đó tạo nên sự gắn kết, yêu thương, đùm bọc và hết
lòng giúp đỡ nhau. Chính những yếu tố đó đã tạo cho nơi đây nét văn hóa đặc trưng
cho riêng mình và đóng góp một vai trò không nhỏ đối với sự phát triển du lịch nói
chung và phát triển kinh tế tỉnh An Giang nói riêng.

Trong bốn dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm đang sinh sống ở An Giang thì
dân tộc Chăm chiếm tỉ lệ khoảng 12% so với tổng số dân tộc thiểu số và chiếm
0,65% tổng số dân toàn tỉnh (nguồn Dù số
lượng dân cư chiếm tỉ lệ rất ít nhưng những yếu tố văn hóa của người Chăm rất đa
dạng, có giá trị lớn trong phục vụ phát triển du lịch. Hiện nay đồng bào người Chăm
sinh sống tập trung tại 9 làng của các huyện: An Phú, Phú Tân, Châu Phú, Châu
Thành và thị xã Tân Châu. Trong đó, chỉ có làng Chăm Châu Phong (nơi có người
Chăm đến định cư đầu tiên trên đất An Giang), thuộc thị xã Tân Châu được sở Văn
hóa – Thể thao – Du lịch An Giang chú trọng triển khai dự án du lịch cộng đồng và
thành lập Trung tâm Thông tin Du lịch Châu Phong đặt tại địa phương.
Với những yếu tố văn hóa đặc thù riêng về tín ngưỡng, luật lệ, phong tục tập
quán,… Các làng Chăm tỉnh An Giang đã trở thành điểm đến để tham quan, nghiên
cứu của nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, việc khai thác văn hóa trong cộng đồng dân tộc Chăm nhằm phục
vụ phát triển du lịch là một bài toán khó, còn nhiều khó khăn và bất cập. Vì thực tế
những nét độc đáo trong văn hóa người Chăm nơi đây chưa được nhiều người biết
đến, hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, nguồn nhân lực phục vụ du lịch còn thiếu và

6


yếu, cơ sở hạ tầng giao thông phát triển chưa đồng bộ,… Do đó, việc nghiên cứu đề
xuất định hướng và giải pháp nhằm phát triển du lịch gắn với văn hóa người Chăm
tỉnh An Giang trên cơ sở tìm hiểu về các yếu tố văn hóa và đánh giá hiện trạng hoạt
động du lịch là vấn đề hết sức cần thiết. Qua đó, những nét văn hóa độc đáo của
người Chăm tỉnh An Giang cũng được giữ gìn và phát huy tối đa, tạo ra những điểm
nhấn mới, nổi bật ở hiện tại và trong tương lai, góp phần tô thêm vẻ đẹp về sự đa
dạng của bức tranh văn hóa trong cộng đồng các dân tộc anh em ở tỉnh An Giang nói
riêng và cả nước nói chung.
Xuất phát từ những vấn đề trên, đó là lý do để tác giả chọn đề tài: “Nghiên

cứu văn hóa Chăm phục vụ phát triển du lịch tỉnh An Giang” làm đề tài nghiên cứu
khoa học.
Đây không chỉ là luận văn tốt nghiệp nhằm giúp tác giả hoàn thành nhiệm vụ
học tập mà việc nghiên cứu còn là niềm đam mê, sự khao khát được nghiên cứu, tìm
hiểu về đặc điểm văn hóa đặc thù của các dân tộc anh em dưới con mắt của những
người địa lí. Chính vì thế, tác giả mong rằng qua công trình nghiên cứu của bản thân
mình sẽ đem lại kết quả tốt hơn trong việc giữ gìn và phát huy những bản sắc độc đáo
trong văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm ở An Giang nói riêng và cả nước nói
chung, đồng thời biến nó thành nguồn tài nguyên, thành sản phẩm vô giá để khai thác
phục vụ trong việc phát triển du lịch.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên các yếu tố văn hóa vốn có của người Chăm, mục tiêu của đề tài là
nghiên cứu văn hóa Chăm ở An Giang, từ đó đưa ra những định hướng và đề xuất
những giải pháp nhằm khai thác, bảo tồn những nét văn hóa truyền thống Chăm phục
vụ phát triển du lịch, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân địa phương.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Làm rõ vấn đề về văn hóa, du lịch văn hóa và các loại hình du lịch văn hóa.
Nắm được lịch sử hình thành cộng đồng người Chăm ở An Giang và những nét
độc đáo trong văn hóa Chăm.
7


Thực trạng khai thác du lịch văn hóa Chăm tỉnh An Giang và đưa ra những
nhận định, đánh giá.
Đưa ra những định hướng và giải pháp để thúc đẩy phát triển du lịch gắn với
văn hóa người Chăm An Giang trong thời gian sắp tới.
4. Giới hạn nghiên cứu
Về không gian: Địa bàn tỉnh An Giang, nơi có người Chăm sinh sống.
Về thời gian: Tài liệu nghiên cứu về du lịch văn hóa Chăm từ năm 2007 đến

năm 2012 (các số liệu thu thập để phục vụ cho đề tài).
Về nội dung: Phân tích những nét độc đáo trong văn hóa Chăm nhằm phục vụ
cho phát triển du lịch An Giang. Đánh giá và đưa ra những đề xuất nhằm bảo tồn, duy
trì và phát huy tốt hơn các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc Chăm.
5. Lịch sử nghiên cứu
Dân tộc Chăm là một trong 54 dân tộc anh em của Việt Nam, theo dòng lịch sử
người Chăm đã đóng một vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, đặc biệt trong việc phát triển ngành du lịch nước nhà bởi những yếu tố
văn hóa rất đặc trưng của họ. Cho đến nay đã có nhiều tác phẩm, đề tài nghiên cứu về
người Chăm ở Việt Nam như:
Tác giả Nguyễn Văn Huy với tác phẩm: “Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại
Việt Nam”, xuất bản năm 2001, nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử cộng đồng người
Chăm tại Việt Nam.
Tác giả Ngô Văn Doanh với tác phẩm: “Lễ hội chuyển mùa của người
Chăm”, xuất bản năm 2006, nghiên cứu về cả một hệ thống lễ hội chuyển mùa rất
đặc trưng của người Chăm tại Việt Nam.
Inrasara với tác phẩm: “Văn hóa xã hội Chăm – nghiên cứu và đối thoại”,
xuất bản năm 2008, nghiên cứu về mặt văn hóa xã hội và ngôn ngữ văn chương của
người Chăm ở Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Văn Tỷ với tác phẩm: “Đời sống văn hóa – xã hội người
Chăm ở Việt Nam”, xuất bản năm 2010, tác phẩm đã phân tích khái quát về văn hóa
Chăm, vấn đề giáo dục, thực trạng sinh hoạt tôn giáo, nguồn gốc địa danh và những
8


suy tư, trăn trở về một dân tộc có bản sắc văn hóa độc đáo.
Ngoài ra còn một số tác phẩm khác như: “Văn hóa Chăm – Nghiên cứu và
phê phán” của Sakaya (2010), “Luật tục người Chăm và Raglai” của giáo sư Phan
Đặng Nhật chủ biên (2003), “Lễ hội người Chăm” của Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin Hà Nội (2003), “Nghề dệt cổ truyền người Chăm” của Nhà xuất bản Dân tộc Hà

Nội (2003),…
Các tác phẩm trên hầu hết chỉ tập trung nghiên cứu về người Chăm ở Việt Nam
hoặc cụ thể hơn là người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận được giới hạn trong
những khía cạnh về lịch sử, đời sống văn hóa, xã hội.
Một trong những công trình mang tính chất dân tộc học đầu tiên có đề cập đến
người Chăm ở An Giang là “Rapportsur lé chams et les Malais de L’arrondis Sement”
của Alubussiere viết năm 1880 đã nêu những nét hết sức khái quát về nếp sống của
người Chăm và người Mã Lai ở Châu Đốc dưới tác động của đạo Islam. Sau này
trong một chuyên khảo về cộng đồng Hồi giáo ở Đông Dương (thuộc Pháp) M. Ner
đã nêu ra một số nét cơ bản về kinh tế, xã hội, giáo dục, tôn giáo của làng Chăm
Châu Đốc, tác giả cũng giới thiệu về những ngoại kiều theo Hồi giáo ở Sài Gòn và
người Chăm Mã Lai theo Hồi giáo ở Campuchia. Có thể nói đó là những công trình
nghiên cứu về tôn giáo của người Chăm dựa trên “khảo sát thực địa” cho chúng ta
biết về tình trạng tôn giáo của người Chăm.
Trong những năm gần đây, một số tác giả trong nước như Bố Thuận, Nghiêm
Thẩm, Nguyễn Văn Luận,… rất quan tâm đến cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ
(chủ yếu ở Châu Đốc, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh), một số bài viết về nét
sinh hoạt văn hóa của người Chăm như phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đã
được đăng tải trên tạp chí Bách khoa, Tập san Sử - Địa, Văn hóa Nguyệt san được
xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975, đặc biệt Bách khoa số từ 135 đến số 147 (từ
tháng 8 năm 1962 đến tháng 2 năm 1963). Hầu hết các chuyên khảo liên quan đến
người Chăm ở Nam Bộ cụ thể ở An Giang do các tác giả ở Việt Nam viết được xuất
bản dưới dạng sách hãy còn hiếm hoi. Tuy nhiên cũng có một số tác phẩm trình bày
khá chi tiết về cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ như “Người Chăm Hồi giáo miền
Tây Nam phần Việt Nam” của Nguyễn Văn Luận giới thiệu về nếp sinh hoạt, tập
9


tục gia đình và đời sống tôn giáo của cộng đồng Chăm. Cùng nghiên cứu nhóm cư
dân địa phương người Chăm ở Nam Bộ phải kể đến tác phẩm “Người Chăm ở đồng

bằng sông Cửu Long” của Phan Văn Dốp và Nguyễn Việt Cường phần nào giới
thiệu sơ lược nét hoạt động buôn bán trao đổi, nghề dệt thủ công, đánh cá nước ngọt
và cách làm nông nghiệp của người Chăm ở An Giang. Bên cạnh đó, chúng ta phải kể
đến một công trình nghiên cứu rất có giá trị của Lâm Tâm “Một số tập tục người
Chăm ở An Giang”, do Chi hội Văn nghệ dân gian và Hội văn nghệ Châu Đốc xuất
bản năm 1993. Trong tác phẩm này, nguồn gốc, đặc điểm, tập tục sinh hoạt văn hóa
và tín ngưỡng của người Chăm ở An Giang đã được tác giả khái quát một cách khá
toàn diện.
Nhìn chung, rất ít các tài liệu nghiên cứu về vai trò của các yếu tố văn hóa
người Chăm cũng như giá trị của nó trong việc phát triển du lịch. Đặc biệt đối với
người Chăm ở An Giang thì các công trình nghiên cứu quá hạn hẹp, có chăng là các
đề tài nói về đời sống xã hội chỉ được viết một cách khái quát dưới dạng giáo trình,
luận văn, bài báo,…Thêm vào đó, các đề tài nghiên cứu này cũng chưa đi sâu vào vấn
đề khai thác văn hóa người Chăm trong phát triển du lịch.
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Quan điểm nghiên cứu
6.1.1. Quan điểm tổng hợp - hệ thống
Đây là quan điểm đặc trưng cho việc nghiên cứu khoa học bởi bản thân khoa
học và các đối tượng của khoa học địa lý đã mang tính tổng hợp, hệ thống.
Nghiên cứu văn hóa Chăm tỉnh An Giang trên cơ sở tổng hợp, hệ thống về văn
hóa của người Chăm. Từ những nét nổi bật về văn hóa Chăm để rút ra những nét tiêu
biểu, đặc thù về văn hóa Chăm ở An Giang. Đó là những cơ sở, căn cứ cho định
hướng phát triển du lịch trên nền tảng văn hóa Chăm tỉnh An Giang.
6.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Trong quá trình nghiên cứu văn hóa Chăm, dựa trên cơ sở tổng hợp về văn hóa
của người Chăm trên cả nước nói chung và ở An Giang nói riêng. Từ đó đi sâu
nghiên cứu ở các khu vực mang nét đặc trưng điển hình về văn hóa Chăm ở tỉnh An
Giang. Từ đó có thể khai thác những lợi thế tiêu biểu về văn hóa để phục vụ du lịch.
10



6.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Khi nghiên cứu các đối tượng địa lý nhất thiết phải đặt đối tượng nghiên cứu
trong tiến trình lịch sử. Tất cả các sự vật, hiện tượng đều trải qua quá trình phát triển,
vận động và biến đổi theo không gian và thời gian. Quan điểm này giúp ta thấy được
những nguyên nhân phát sinh, quá trình diễn biến của một nhân tố trong một giai
đoạn, một khoảng thời gian và không gian cụ thể. Từ đó đánh giá được quá trình phát
triển của người Chăm ở An Giang nói riêng và cả nước nói chung, cũng như đánh giá
được quá trình phát triển của hệ thống du lịch, du lịch văn hóa.
6.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững là quan điểm mà trong quá trình
nghiên cứu, vận dụng các đặc điểm văn hóa của cộng động dân tộc Chăm vào phục
vụ phát triển du lịch cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy
những truyền thống văn hóa quí giá của người Chăm. Đảm bảo sự phát triển hài hòa
giữa yếu tố con người với tự nhiên và môi trường sống xung quanh họ.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Các thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho
phù hợp với nội dung nghiên cứu. Qua quá trình tổng hợp tác giả sẻ có cái nhìn bao
quát hơn về phạm vi, hoạt động sản xuất của người Chăm và đưa ra những định
hướng và giải pháp phát triển.
6.2.2. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này nhằm tổng hợp đối chiếu tất cả các tài liệu, số liệu đã thu
nhập. Những con số thống kê không những chỉ thể hiện mặt lượng mà chúng còn có
mối liên hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng kinh tế - xã hội. Thông qua việc
phân tích các số liệu thống kê và những mối liên hệ giữa chúng, ta có thể thấy được
bản chất, đặc điểm của các hiện tượng và quy luật phát triển. Thông qua phương pháp
thống kê, ta có thể phản ánh những mặt khác nhau, tốc độ phát triển theo thời gian và
không gian của hoạt động sản xuất, dịch vụ du lịch.
6.2.3. Phương pháp so sánh

Phương pháp này dùng để so sánh các số liệu thống kê qua các năm. Mục đích
11


của phương pháp này là đánh giá sự phát triển trong hoạt động kinh tế với hoạt động
phát triển du lịch của người Chăm trong những năm qua.
6.2.4. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp quan trọng, không thể thiếu đối với một đề tài nghiên cứu
khoa học, nhất là đối với ngành địa lí. Phương pháp khảo sát thực địa có thể giúp tác
giả thu thập thêm các thông tin, diễn biến về những hoạt động văn hóa – xã hội của
người Chăm trong quá trình hòa nhập, sinh sống với các dân tộc anh em ở Việt Nam.
Qua đó giúp tác giả có cái nhìn xác thực hơn về truyền thống văn hóa của người
Chăm để đánh giá mức độ tin cậy của các thông tin, số liệu đã cập nhật.
6.2.5. Phương pháp bản đồ và phương pháp sử dụng công nghệ GIS
Phương pháp bản đồ, biểu đồ là phương pháp truyền thống của khoa học địa lý.
Từ kết quả thu được, thành lập bản đồ, biểu đồ cho ta thấy sự phân bố, hiện trạng, cơ
cấu ngành... Do đó bản đồ là nơi thể hiện rõ nhất kết quả tổng hợp của đề tài. Cùng
với bản đồ, các biểu đồ được dùng để phản ánh quy mô các hiện tượng kinh tế, văn
hóa, xã hội như quy mô các ngành, các lĩnh vực. Sử dụng công nghệ GIS để số hóa
và vẽ bản đồ một cách chính xác mang tính khoa học cao và đáp ứng yêu cầu của đề
tài.
6.2.6. Phương pháp khai thác phần mềm công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin là một trong những phương pháp khá quan trọng và không
thể thiếu trong quá trình nghiên cứu cũng như giúp cho việc trình bày được rõ ràng
sạch đẹp và lôi cuốn hơn. Tác giả đã sử dụng phần mềm Microsoft Office để thiết kế
và xử lý thông tin dưới hình thức các văn bản, biểu bảng. Ngoài ra, mạng internet và
những thông tin, tài liệu trên mạng được tác giả sử dụng trong việc thu thập, tìm kiếm
các thông tin liên quan đến đề tài, giúp đề tài có nội dung phong phú hơn và có những
thông tin được cập nhật trong thời gian gần nhất.
7. Cấu trúc luận văn

Đề tài: “Nghiên cứu văn hóa Chăm phục vụ phát triển du lịch tỉnh An
Giang”. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo. Phần Nội
dung chính của đề tài được cấu trúc thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về văn hóa và du lịch văn hóa
12


Chương 2: Khai thác văn hóa Chăm phục vụ phát triển du lịch tỉnh An Giang
Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát triển du lịch văn hóa Chăm tỉnh
An Giang

13


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VĂN HÓA VÀ
DU LỊCH VĂN HÓA
1.1. Khái quát về văn hóa
1.1.1. Khái niệm về văn hóa

Văn hóa là sản phẩm của con người sáng tạo ra, có từ thuở bình minh của xã
hội loài người. Mỗi định nghĩa phản ánh một khái niệm, một khía cạnh riêng của văn
hóa con người.
Ở phương Đông, từ “văn hóa” đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong
Chu Dịch, đã có từ Văn và từ Hóa: xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên
hạ.
Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người
Anh có từ Culture, người Đức có từ Kultura. Những từ này đều có gốc Latinh là chữ:
Cultus animi tức là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ Cultus là văn hóa với hai khía cạnh:
trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay
cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên và họ có những phẩm chất tốt đẹp.

Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa không đơn giản và thay
đổi theo thời gian. Thuật ngữ “văn hóa” với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử
dụng vào thế kỉ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp.
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học phương
Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh)
thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về sự vươn lên, sự
phát triển tạo thành văn minh, E. B. Taylor là đại diện của họ.
Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức
(trình độ văn hóa), chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông
Sơn),…Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả từ những sản phẩm tinh
vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động,…Chính cách hiểu rộng
này, văn hóa là đối tượng đích thực của văn hóa học.
Hiện nay, trên Thế giới ở các quốc gia có rất nhiều các tổ chức và chuyên gia
14


nghiên cứu về văn hóa đưa ra hệ thống các khái niệm về văn hóa và các vấn đề có
liên quan. Dưới đây, xin trích dẫn một số định nghĩa, khái niệm, quan niệm đã được
công bố trong những tài liệu như sách, giáo trình và công trình nghiên cứu về văn hóa
học.
Theo Taylor “văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về dân tộc người học nói
chung gồm có trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán và một số
năng lực, thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên
của xã hội.”
Theo định nghĩa này thì Taylor đã chưa phân tích rạch ròi giữa văn hóa, văn
minh nhưng trong định nghĩa của ông đã hàm chứa nhiều yếu tố mà các nhà nghiên
cứu đi sau nhắc đến như “tín ngưỡng”, “nghệ thuật”, “tập quán”, “năng lực” và “thói
quen” được con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội.
Hội nghị Quốc tế về văn hóa ở Mehico (1982) để bắt đầu thập kỉ văn hóa

UNESCO. Đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hóa như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần
và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín
ngưỡng”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,
ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thống và đức tin”.
Ở Việt Nam, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức (trình
độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa). Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát
triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn,…). Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm
tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống,
lao động.
Tuy nhiên, từ cách hiểu rộng thì văn hóa có rất nhiều khái niệm khác nhau:
15


“Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch
sử”. [Theo Đại từ điển tiếng Việt của trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam – Bộ
giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998]
Theo PGS. TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội” [16, tr.19 – 20]
Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hóa có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, văn hóa là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì
không do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hóa. Từ đó, văn hóa là

đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là tiêu chí căn
bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hóa xuất hiện do sự
thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với tự nhiên, nên văn hóa
cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi này là sự thích nghi có ý thức và chủ động nên nó không
phải là sự thích nghi máy móc mà thường là sự thích nghi có sáng tạo, phù hợp với
giá trị chân – thiện – mỹ.
Thứ ba, văn hóa bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần, chứ không
chỉ riêng tinh thần mà thôi.
Thứ tư, văn hóa không chỉ có nghĩa là văn học nghệ thuật như thông thường
người ta hay nói. Văn học nghệ thuật chỉ là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hóa
mà thôi.
Trên cơ sở phân tích các quan niệm trên có thể kết luận: Văn hóa là sản phẩm
của con người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người
và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo ra con người, duy trì sự bền
vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua
quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và
tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của
xã hội. Nó được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
16


1.1.2. Các đặc trưng và bản chất của văn hóa

Tính hệ thống: Đặc trưng này tạo mối quan hệ giữa các hiện tượng, các sự kiện
thuộc một nền văn hóa, phát triển các quy luật hình thành và phát triển của văn hóa.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động
của xã hội.
Tính giá trị: Là thước đo mức độ nhân bản của con người và xã hội. Các giá trị

văn hóa theo mục đích có thể chia thành giá trị văn hóa vật chất (phục vụ cho nhu cầu
vật chất) và giá trị văn hóa tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần); Theo ý nghĩa có
thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ; Theo thời gian có
thể phân biệt giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.
Tính nhân sinh: Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng
xã hội (do con người sáng tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên nhiên tạo ra). Văn hóa là
cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có
thể mang tính vật chất hoặc tinh thần.
Tính giai cấp: Giống như tất cả các lĩnh vực của đời sống văn hóa, một lĩnh
vực được xem xét khác nhau dưới các góc độ khác nhau. Nhìn chung, tất cả các hiện
tượng được nhìn nhận theo quan điểm văn hóa học đều phụ thuộc vào những yếu tố
chủ quan, đặc biệt là quyền lợi kinh tế, quan điểm và định kiến chính trị, bản chất tâm
lý. Đó là những lí do khiến người ta hay nhấn mạnh đến cái gọi là tính giai cấp của
văn hóa. Văn hóa với tư cách là một hiện tượng khách quan và những cách lí giải văn
hóa, bao giờ cũng mang tính chủ quan.
Tính lịch sử: Các hiện tượng văn hóa không chỉ được đánh giá tùy theo các yếu
tố chủ quan mà còn tùy thuộc vào các điều kiện và hoàn cảnh khách quan. Ở mỗi thời
điểm lịch sử, giá trị của một hiện tượng văn hóa cũng như ảnh hưởng của nó phụ
thuộc vào những điều kiện khách quan và tương quan các điều kiện khách quan ấy.
Nếu lần theo dòng lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng những giá trị đó cũng luôn luôn biến
đổi. Bao giờ cũng có những giá trị mới đang và sẽ sinh ra để thay thế những giá trị đã
và đang lỗi thời. Chính vì thế, chúng ta có thể nói rằng văn hóa có tính lịch sử.
Văn hóa là sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với
văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính
17


lịch sử tạo cho văn hóa có bề dày, một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên điều
chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng
truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định được

tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian được đúc kết
thành những khuôn mẫu của xã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục
tập quán, nghi lễ,…
1.1.3. Chức năng cơ bản của văn hóa

Trong giới nghiên cứu, trình bày chức năng văn hóa không phải đã thống nhất
hoàn toàn. Một số tác giả nhìn nhận chức năng của văn hóa như sau:
Theo PGS.TS Tạ Văn Thành thì văn hóa có những chức năng về giáo dục,
chức năng nhận thức, chức năng định hướng đánh giá, xác định chuẩn mực điều
chỉnh cách ứng xử của con người, chức năng giao tiếp, chức năng đảm bảo tính kế tục
lịch sử.
Theo PGS.TS Trần Ngọc Thêm thì văn hóa có 4 chức năng cơ bản là: Chức
năng tổ chức xã hội, chức năng điều chỉnh xã hội, chức năng giáo dục, chức năng
phát sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Theo giáo trình “Văn hóa xã hội chủ nghĩa” của Học viện chính trị Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị Quốc gia, in lần 2, Hà Nội, 1995), trình bày
chức năng của văn hóa gồm: Chức năng giáo dục, chức năng nhận thức, chức năng
thẩm mỹ, chức năng dự báo, chức năng giải trí.
Sở dĩ có sự khác nhau trong cách trình bày các chức năng của văn hóa là do
gốc tiếp cận của từng tác giả khác nhau hoặc đó là cách nói khác nhau về cùng một
chức năng của văn hóa. Dưới đây ta có thể xem xét một số chức năng cơ bản của văn
hóa.
1.1.3.1.Chức năng giáo dục
Là chức năng bao trùm nhất của văn hóa. Chức năng tập trung của văn hóa là
bồi dưỡng con người, hướng lí tưởng, đạo đức và hành vi của con người vào “điều
hay lẽ phải, điều khôn, lẽ thiện”, theo những khuôn mẫu, chuẩn mực mà xã hội quy
định.
Văn hóa bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua
18



nhiều thế hệ, mang tính lịch sử và tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu. Nó
được duy trì bằng truyền thống văn hóa, tức là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh
nghiệm trong cộng đồng qua không gian và thời gian. Nó là những giá trị tương đối
ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được
tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ,
phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận,… Văn hóa thực hiện chức năng giáo
dục (giáo dục truyền thống) không những bằng những giá trị ổn định mà còn những
giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo
nên một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó, văn hóa đóng vai trò
nhất định trong việc hình thành nên tính cách của con người, trồng người, dưỡng dục
nhân cách. Một đứa trẻ được sống với cha mẹ sẽ được giáo dục theo truyền thống văn
hóa trong gia đình mình được sinh ra, còn nếu bị rơi vào rừng, đứa trẻ ấy sẽ mang
hành vi, tính nết của loài thú. Không phải ngẫu nhiên mà trong các ngôn ngữ phương
Tây khác nhau, thuật ngữ “văn hóa” (culture, cultura) đều có chứa một nghĩa chung
là chăm sóc, giáo dục, vun trồng…
Chức năng giáo dục của văn hóa đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Nếu gen sinh
học di truyền lại cho các thế hệ sau hình thể con người thì văn hóa được coi là một
thứ gen xã hội, di truyền phẩm chất con người lại cho các thế hệ mai sau.
Do là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người,
văn hóa có tính nhân sinh đậm nét và trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng
thông qua ngôn ngữ. Nếu như ngôn ngữ là hình thức giao tiếp thì văn hóa là nội dung
của nó (như giao tiếp giữa cá nhân trong một dân tộc, giao tiếp giữa những người
thuộc các dân tộc khác nhau và sự giao tiếp giữa các nền văn hóa khác nhau).
Bằng chức năng giáo dục, văn hóa tạo cho lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi dân
tộc một sự phát triển liên tục; Văn hóa có chức năng điều chỉnh xã hội, định hướng
các chuẩn mực, các cách ứng xử của con người. Gần đây, UNESCO cũng như Đảng,
Nhà nước ta cho rằng văn hóa là động lực của phát triển, chính là đề cập đến chức
năng giáo dục.
1.1.3.2. Chức năng nhận thức

Chức năng giáo dục của văn hóa phải được thực hiện thông qua chức năng của
19


nhận thức. Chức năng này tồn tại trong mọi hoạt động của văn hóa. Nói cách khác,
chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của mọi hoạt động văn hóa, thiếu nó
không thể nói tới chức năng nào khác. Nhưng quá trình nhận thức này của con người
trong các hoạt động văn hóa lại được thông qua đặc trưng, đặc thù của văn hóa. Nâng
cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những tiềm năng ở con người.
1.1.3.3. Chức năng thẩm mĩ
Đây là một chức năng rất quan trọng của văn hóa, nhưng cũng là chức năng
hay bị bỏ quên, bị coi nhẹ, khi xem xét, điều hành, quản lí văn hóa. Cùng với nhu cầu
hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ, hướng tới cái đẹp. Con người nhào
nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp như Các-Mác từng khẳng định, cho nên văn
hóa nghệ thuật phải có chức năng này. Xét cho cùng, văn hóa là sự sáng tạo của con
người theo quy luật của cái đẹp, trong đó văn hóa nghệ thuật là biểu hiện tập trung
nhất sự sáng tạo ấy. Với tư cách là khách thể của văn hóa, con người tiếp nhận chức
năng này của văn hóa và sự thanh lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục
cái xấu trong mỗi người.
1.1.3.4. Chức năng giải trí
Là chức năng không thể không nói tới của văn hóa. Chức năng này cũng không
tách rời chức năng giáo dục và đi ra ngoài mục tiêu hoàn thiện con người. Bởi lẽ
trong cuộc sống, con người ngoài hoạt động lao động, còn có nhu cầu giải tỏa tinh
thần, tâm lí, sự mệt mỏi cơ bắp… Họ tìm đến các hoạt động văn hóa, câu lạc bộ, bảo
tàng, lễ hội… Nói khác đi là tìm sự giải trí. Trong một chừng mực nhất định, sự giải
trí ấy là bổ ích, cần thiết, góp phần giúp cho con người lao động sáng tạo có hiệu quả
hơn và giúp con người phát triển toàn diện. Chẳng hạn, sau một vòng quay mùa vụ
của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, đi hội, mở hội làng là nhu cầu của nông dân,
không chỉ đơn thuần là sự giải tỏa tâm linh mà còn là sự giải trí.
Với các chức năng trên, chứng tỏ văn hóa có một đời sống riêng, quy luật hoạt

động riêng nhưng lại không nằm ngoài kinh tế và chính trị.
Nhận biết các chức năng của văn hóa, chính là khẳng định rõ ràng hơn mục
tiêu cao cả của văn hóa là vì con người, vì sự hoàn thiện và phát triển của con người.
1.1.3.5. Chức năng dự báo
20


Bản chất của hoạt động văn hoá là hoạt động trí tuệ, hoạt động sáng tạo; vì vậy
trong quá trình hoạt động văn hoá, con người dần dần phát hiện ra những qui luật của
tự nhiên, qui luật của xã hội, qui luật của con người... Những khám phá đó mở rộng
tầm hiểu biết, khả năng phán đoán, suy luận và trí tưởng tượng của con người. Nhờ
các khả năng trên, con người có thể dự báo về thiên nhiên, xã hội, con người một
cách khoa học và xây dựng được các phương án thích ứng cho sự tồn tại của chính
mình.
Văn hoá là hoạt động sáng tạo theo qui luật của cái đẹp, nó tạo nên một thiên
nhiên thứ hai, một môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người. Với ý nghĩa đó, văn hoá
đồng thời thực hiện nhiều chức năng như là những tác nhân góp phần quan trọng vào
việc hình thành, phát triển và hoàn thiện con người văn hoá. Con người văn hoá
thường xuyên được các chức năng văn hoá chi phối, điều chỉnh một cách vừa tự giác
vừa không tự giác. Nói cách khác, khi nào con người thoát li khỏi các hoạt động văn
hoá tức là khi ấy con người đã tha hoá. Tìm hiểu các chức năng của văn hoá sẽ giúp
chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của văn hoá và vị trí, vai trò của văn hoá trong đời
sống xã hội; đặc biệt là tầm văn hoá trong các sáng tác nghệ thuật như: văn chương,
âm nhạc, hội họa, điêu khắc…
1.1.4. Phân biệt văn hóa và văn minh

Từ lâu, không ít người vẫn sử dụng văn minh (civilization) như một từ đồng
nghĩa với văn hóa. Song thật ra, đây là khái niệm rất khác nhau.
Theo học giả Đỗ Trọng Huề phân tích văn hóa theo bốn nghĩa, hai nghĩa hẹp
và hai nghĩa rộng. Nghĩa hẹp thứ nhất, văn hóa chỉ kiến thức hay học vấn. Khi khen

một người nào đó có văn hóa cao là khen người đó có kiến thức hay học vấn cao. Khi
chê một người thiếu văn hóa có nghĩa là người đó ít học hay kiến thức kém.
Theo nghĩa hẹp thứ hai, văn hóa dùng để chỉ văn chương và nghệ thuật, trong
đó có đủ các bộ môn ca, nhạc, vũ, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, kịch trường, điện
ảnh. Nghĩa này khi nói tới một công trình văn hóa, tác phẩm văn hóa, trung tâm văn
hóa, nhà văn hóa, đêm văn hóa, trình diễn văn hóa, triễn lãm văn hóa.
Nghĩa thứ ba là nghĩa rộng, văn hóa chỉ phần sinh hoạt của loài người trong
lĩnh vực tinh thần. Đó là những học thuyết, những triết lý đưa dẫn suy tư của con
21


người lên một bình diện cao hơn đời sống vật chất hàng ngày. Những Khổng Tử, lão
Tử, Socrates, Platon… là những người đã nâng cao trình độ văn hóa của nhân loại.
Thêm vào đó là những niềm tin tôn giáo, những tin tưởng về những gì xảy ra trong
thế giới vô hình, có khả năng chi phối ngay trong và sau cuộc đời hiện tại. Văn hóa
thăng hoa của tinh thần khác biệt với những tiến bộ về vật chất được gọi là văn minh.
Văn minh là những tiến bộ về kỹ thuật nhằm cải thiện đời sống vật chất của
con người. Văn hóa bao gồm đạo đức, luân lý, tôn giáo nâng con người lên trong lĩnh
vực tinh thần. Văn minh là một phần của văn hóa, đặc biệt văn minh là tình trạng tiến
bộ của con người trong phạm vi kỹ thuật và những cải tiến đời sống vật chất.
Ngoài ra, trong từ điển, từ “văn minh” có thể được định nghĩa theo nhiều cách,
song chúng thường có một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển”, trong khi văn hóa
luôn có bề dày của quá khứ (tính lịch sử). Văn minh cho biết trình độ phát triển của
văn hóa ở từng giai đoạn khác nhau. Nói đến văn minh, người ta còn nghĩ đến các
tiện nghi, hiện đại. Như vậy, văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị. Trong
khi văn hóa chứa cả giá trị vật chất lẫn tinh thần, còn văn minh chủ yếu thiên về các
giá trị vật chất mà thôi.
Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn
đến sự khác biệt về phạm vi. Văn hóa mang tính dân tộc còn văn minh mang tính
quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại.

1.1.5. Các loại hình văn hóa

Theo PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm, văn hóa thường được chia thành văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần. Bên cạnh đó, văn hóa có thể chia thành ba nhóm: Văn
hóa vật chất – văn hóa xã hội – văn hóa tinh thần; Văn hóa vật chất – văn hóa tinh
thần – văn hóa nghệ thuật; Sinh hoạt kinh tế – sinh hoạt xã hội – sinh hoạt trí thức.
Một số tác giả còn có sự phân chia như: Văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hóa tư
tưởng, văn hóa nghệ thuật;…[16, tr. 16]
Văn hóa vật chất: Là sản phẩm của con người tạo ra trong quá trình hoạt động
sản xuất vật chất như các công trình kiến trúc, trang phục, văn hóa ẩm thực… Văn
hóa vật chất là một tiêu chí đánh giá sự tiến bộ xã hội.
Văn hóa tinh thần: Xét về mặt tư tưởng và tư duy của con người ở các thời kì.
22


Văn hóa tinh thần là cách gọi tổng quát chỉ những sản phẩm tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình phát triển và hoạt động sản xuất như âm nhạc, nghệ thuật,
tín ngưỡng, lễ hội,…
1.2. Khái niệm du lịch và du lịch văn hóa
1.2.1. Khái niệm du lịch

Từ khi ngành du lịch ra đời đến nay thì thuật ngữ “du lịch” còn khá mới mẻ và
đang trong quá trình hoàn thiện.
Thuật ngữ du lịch ngày nay được sử dụng phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, có
nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của thuật ngữ này.
Năm 1881, định nghĩa về du lịch lần đầu tiên xuất hiện ở Anh: “Du lịch là sự
phối hợp nhịp nhàng giữa lí thuyết và thực hành của các cuộc hành trình với mục
đích giải trí”. Khái niệm này tương đối đơn giản và coi giải trí là động cơ chính của
hoạt động du lịch.
Năm 1925, hiệp hội Quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (Internation of Union

Official Travel Organization) được thành lập ở Hà Lan, đánh dấu bước ngoặc trong
việc thay đổi, phát triển các khái niệm du lịch.
Năm 1930, Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch chinh phục không
gian của những người đến địa điểm, mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”.
Hai học giả Hunziker và Krapf, những người đặt nền móng cho lí thuyết cung
– cầu du lịch, đưa ra định nghĩa: “Du lịch là tập hợp của các mối quan hệ và các hiện
tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa
phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên quan đến
hoạt động kiếm lời”. So với các quan niệm trên, quan niệm của Hunziker và Krapf đã
thể hiện tương đối đầy đủ và bao quát các hiện tượng du lịch. Tuy nhiên quan niệm
này chưa làm rõ được đặc trưng của các hiện tượng và các mối quan hệ du lịch (kinh
tế, chính trị, xã hội…).
Tháng 6/1991, tại Otawa (Canada), Hội nghị Quốc tế và thống kê du lịch cũng
đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi
trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít

23


×