Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu ngành bưu chính viễn thông ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.8 KB, 78 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
1
I/ Ngành bưu chính viễn thông ở Việt nam:
1. Sự phát triển của ngành Bưu chính viễn thông Việt Nam:
1.1.Quá trình ra đời và phát triển:
Ngành Bưu điện Việt Nam đã trải qua giai đoạn phát triển hơn 50 năm. Cho
tới năm 1985, mạng lưới viễn thông nước ta còn hết sức lạc hậu. Theo thống kê,
số máy điện thoại năm 1985 là 103,1 ngàn máy. Ngành Bưu điện còn là ngành
mang tính phục vụ thuần tuý và được Nhà nước bao cấp hoàn toàn với kinh phí
hết sức hạn hẹp để cố gắng nuôi sống các thiết bị trên mạng lưới.
Nhận thức được vai trò của mình trong kết cấu hạ tầng, cùng với chính sách
mở cửa của Đảng và Chính phủ, ngành Bưu điện đứng trước nhu cầu phải phát
triển, làm cầu nối Việt Nam với mạng lưới thông tin toàn cầu, làm kích thích tố
cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát triển các ngành kinh tế khác.
Nhận thức rõ xu hướng hiện đại hoá của viễn thông thế giới và tiềm năng của
một ngành kinh doanh dịch vụ có lãi, ngành Bưu điện đã mạnh dạn xin Nhà
nước cho thực hiện cơ chế tự hạch toán độc lập từ năm 1986 và xin được giữ lại
90% doanh thu ngoại tệ để tái đầu tư xây dựng một mạng lưới. Với cơ chế này,
ngành Bưu điện đã bước sang một bước ngoặt. Tổng cục Bưu điện vào thời điểm
đó vẫn vừa quản lý Nhà nước, vừa sản xuất kinh doanh. Song mọi bước đi, bên
cạnh nhiệm vụ đã hình thành rõ những mục đích, những tính toán của một
doanh nghiệp sao cho đầu tư hiệu quả nhất, doanh thu cao nhất và phát triển
nhanh nhất.
Tổng cục Bưu điện đã xây dựng chiến lược phát triển của ngành trên tinh thần
tự lực, với phương châm hiện đại hoá. Xác định rõ tầm quan trọng của việc thiết
lập hệ thống thông tin quốc tế, nhằm một mặt hòa Việt Nam vào mạng lưới
thông tin toàn thế giới, mặt khác tạo nguồn thu ngoại tệ để tái tạo đầu tư, Tổng
cục bưu điện đã tập trung xây dựng hệ thống thông tin vệ tinh quốc tế Intelsat.
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
2
Năm 1986, thông tin quốc tế đã đem lại nửa triệu USD, khẳng định hướng đi


đúng đắn của ngành Bưu điện. Những năm tiếp theo, doanh thu ngoại tệ mỗi
năm tăng hầu như gấp 2 lần, tạo vốn tái đầu tư và lòng tin, làm cơ sở cho việc
huy động vốn vay, vốn đầu tư từ nước ngoài để có những bước tiến nhảy vọt.
Để phù hợp với xu hướng chung của thế giới và tăng cường bộ máy quản lý
Nhà nước về bưu chính viễn thông, tạo môi trường và hành lang pháp lý cho
việc đẩy mạnh phát triển ngành hạ tầng cơ sở quan trọng này, tháng 10/1992,
Chính phủ quyết định thành lập Tổng cục bưu điện- Cơ quan trực thuộc Chính
phủ, quản lý ngành Bưu chính Viễn thông với chức năng và bộ máy tổ chức như
qui định tại nghị định 28CP ngày 24/5/1993.
Năm 1995 đánh dấu việc chấm dứt độc quyền Công ty trong lĩnh vực cung
cấp dịch vụ bưu chính viễn thông với việc Thủ tướng Chính phủ ra quyết định
249/TTg thành lập Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam theo mô hình
Tổng công ty 91, đồng thời cho phép thành lập hàng loạt các Công ty viễn
thông khác.
Trong năm 2002 vừa qua, Tổng cục bưu điện đã được nâng lên thành Bộ Bưu
chính - Viễn thông. Bộ Bưu chính Viễn thông có chức năng quản lý Nhà nước
đối với bưu chính viễn thông, Internet, điện tử tin học, tần số vô tuyến điện,
công nghệ thông tin thông qua việc xây dựng chính sách, chiến lược, qui hoạch
phát triển bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin, tuyên truyền, hướng
dẫn, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện, thống nhất quản lý cơ sở hạ tầng
thông tin quốc gia và các loại hình dịch vụ thuộc lĩnh vực này.
1.2. Những thành tựu đã đạt được của ngành bưu chính viễn thông Việt
Nam
Trong hơn 10 năm đổi mới, từ một nền tảng cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu,
qui mô nhỏ, đến nay ngành Bưu chính viễn thông đã đạt được những thành tựu
nổi bật. Với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 20%, viễn thông Việt
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
3
Nam được Hiệp hội viễn thông quốc tế xếp là nước có tốc độ phát triển nhanh
thứ hai trên thế giới và đứng thứ năm trong khu vực châu á- Thái Bình Dương

về mở rộng vùng phủ sóng điện thoại.
1.2.1. Mạng lưới viễn thông quốc tế:
Năm 1986, khi Telstra, hãng viễn thông nước ngoài đầu tiên, phá rào cấm
vận, bắt tay với Việt Nam thì cơ sở hạ tầng thông tin ở Việt Nam gần như vẫn
chỉ là số 0. Thế nhưng, cho đến nay mạng lưới viễn thông quốc tế đã được xây
dựng khá hoàn chỉnh và hiện đại.
Cho đến nay đã có 7 trạm vệ tinh mặt đất, trong đó 2 trạm thuộc tiêu chuẩn
Intersputnik và số còn lại thuộc tiêu chuẩn Intelsat, xây dựng 3 tổng đài cửa ngõ
quốc tế được trang bị các hệ thống chuyển mạch AXE 105 ở Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Bên cạnh thông tin vệ tinh, Việt Nam còn tham gia hệ thống cáp quang biển
ngầm TVH với dung lượng 565 Mbit/s và chiều dài 3375 km, tham gia vào hệ
cáp quang biển ngầm SE-WE-WE3 với dung lượng bước 1 là 10 Gbit/s
(1)
.
Mạng lưới thông tin nước ta đã thực sự hoà nhập vào mạng thông tin toàn cầu
với 5379 kênh thoại quốc tế, trong đó có 3297 kênh qua cáp quang biển và 2082
kênh qua vệ tinh. Số các đường liên lạc với Mĩ cũng đã tăng lên nhanh chóng
với hơn 600 kênh nối trực tiếp với mạng của AT&T, MCI và US Sprint.
(2)
1.2.2. Mạng lưới viễn thông trong nước:
Mạng lưới viễn thông trong nước cũng được hiện đại hoá một cách cơ bản.
Tháng 11/1993, ở 53/53 tỉnh, thành phố và ở 468/468 huyện trên toàn quốc đã
có các hệ thống chuyển mạch số. Từ 1/3/1996, mạng điện thoại công cộng của
(1)
Báo Đầu tư số ngày 16/9/2002
(2)
Báo Đầu tư số ngày 16/9/2002
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
4

Việt Nam đã tiến hành đổi số, theo đó Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bao
gồm 7 số, các tỉnh, thành phố còn lại là 6 số.
(1)
Ngày 28/8/1996, mạng điện thoại toàn quốc đạt tới con số 1 triệu thuê bao,
đưa Việt Nam đứng vào hàng thứ 60 nước trên thế giới có mạng điện thoại trên
1 triệu thuê bao. Và sau 5 năm, đến giữa năm 2002, mạng điện thoại công cộng
Việt Nam đạt hơn 5 triệu thuê bao với mật độ 6,26 máy/ 100 người.
(2)
Ngày 22/11/1996, mạch vòng cáp quang SDH dung lượng 2,5 Gbit/s được đưa
vào khai thác trên mạng đường trục Bắc-Nam. Đây là mạch vòng cáp quang dài
nhất và có dung lượng lớn nhất được đưa vào khai thác trong khu vực. Các hệ
thống viba số dung lượng 140 Mbit/s cũng được khai thác song song trên mạng
đường trục này.
Các dịch vụ viễn thông khác cũng đã được mở rộng và phát triển. Hiện có 3
mạng di dộng, trong đó 2 mạng phủ sóng quốc gia sử dụng công nghệ số GMS
và Mobiphone và Vinaphone, đã phủ sóng 61/61 tỉnh, thành phố; mạng Call-
link sử dụng công nghệ Analog phủ sóng khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Tính
đến hết năm 2002, số thuê bao thuộc mạng Vinaphone là 365.000, số thuê bao
thuộc mạng Mobiphone là 315.000. Hệ thống nhắn tin toàn quốc gồm 5 mạng
với số thuê bao đang hoạt động là 46.000 thuê bao/ 56.000 số lắp lại. Mạng
điện thoại thẻ Cardphone được triển khai từ năm 1997 đến nay đã lắp đặt được
6.076 trạm.
(3)
Dịch vụ thư điện tử đi nội địa và quốc tế trên mạng được chính thức giới thiệu
từ tháng 10/1996. Tháng 5/1997, Tổng cục Bưu điện đã chính thức ban hành qui
định về cấp phép và khai thác mạng Internet. Tính đến ngày 31/7/2002, tổng số
thuê bao Internet là 176.911 thuê bao.
(4)
(1)
Báo Đầu tư số ngày 24/11/1997

(2)
Báo Đầu tư số ngày 16/9/2002
(3)
Đánh giá kết quả hoạt động giai đoạn 1996-2000, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, 2002
(4)
Thời báo kinh tế, số ngày 25/9/2002
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
5
Có thể ví hạ tầng mạng lưới viễn thông nước ta xây dựng như nền móng của
một ngôi nhà cao tầng, còn những gì cộng đồng đang sử dụng như tầng 1 và
việc phát triển viễn thông trong tương lai như việc lên thêm tầng của ngôi nhà
đó.
1.2.3. Công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông:
Ngoài việc đầu tư phát triển mạng lưới phù hợp với chủ trương hiện đại hoá,
công nghiệp hoá, ngành Bưu chính viễn thông đã rất cố gắng và quyết tâm xây
dựng nền công nghiệp sản xuất thiết bị sử dụng công nghệ cao thông qua các dự
án chuyển giao công nghệ và liên doanh với nước ngoài.
Cho tới cuối những năm 1980, công nghiệp viễn thông nước ta hầu như chưa
có gì. Các cơ sở công nghiệp với những thiết bị dây chuyền lạc hậu, cũ kỹ,
không đồng bộ, chỉ có thể sản xuất một số vật tư cho bưu chính, các hộp đầu
cuối cáp,... Ngành Bưu chính viễn thông đã từng bước tìm hiểu thị trường công
nghiệp viễn thông thế giới, xây dựng các dự án chuyển giao công nghệ, liên
doanh lắp ráp, sản xuất thiết bị tại Việt Nam với các đối tác có công nghệ tiên
tiến, có tiềm năng kinh tế và thiện chí chuyển giao công nghệ cho Việt Nam.
Ngay từ năm 1997, dây chuyền lắp ráp thiết bị viba số băng hẹp 2x2 Mbit/s
với AWA đã được thiết lập, mở đầu một giai đoạn mới của ngành công nghiệp
viễn thông Việt Nam. Tới nay, mạng lưới công nghiệp viễn thông sử dụng công
nghệ hiện đại ở nước ta bước đầu được hình thành với các dây chuyền công
nghệ, nhà máy liên doanh sản xuất các thiết bị cơ bản nhất của mạng lưới:
Dây chuyền công nghệ lắp ráp thiết bị viba số 34 Mbit/s theo công nghệ ATI-

Mĩ tại Hà Nội.
Dây chuyền công nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh, lắp ráp hệ thống vô tuyến
đa tiếp xúc theo công nghệ của Philips - Hà Lan.
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
6
Các dây chuyền lắp ráp tổng đài cấp tỉnh dung lượng tới 20.000 số theo công
nghệ của Goldstar tại Hà Nội.
Các dây chuyền lắp ráp SKD, CKD, các thiết bị đầu cuối như máy điện thoại,
máy fax,.. tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Liên doanh với Goldstar - Hàn Quốc sản xuất cáp sợi quang với công suất
thiết kế 400.000 km đôi/năm.
Liên doanh với Alcatel- Pháp lắp ráp tổng đài 1000 E10 của Alcatel.
Liên doanh nghiên cứu phát triển và sản xuất tổng đài VKX (Tổng đài Việt
Nam- Hàn Quốc) với Goldstar.
Trong thời gian vừa qua, các dây chuyền sản xuất không chỉ cho phép tiết
kiệm ngoại tệ mà còn tạo công ăn việc làm. Điều quan trọng là cho phép ngành
phát triển mạng lưới một cách chủ động, không phụ thuộc vào chuyên gia nước
ngoài. Đồng thời qua đó đào tạo được đội ngũ cán bộ kỹ thuật khai thác, bảo
dưỡng mạng lưới và từng bước xây dựng nền công nghiệp điện tử- tin học- viễn
thông ở nước ta.
2. Đặc điểm kinh doanh phục vụ của ngành Bưu chính viễn thông Việt
Nam:
2.1.Đặc điểm kinh tế của sản phẩm bưu chính viễn thông:
2.1.1. Tính vô hình của sản phẩm:
Sản phẩm bưu chính viễn thông không phải là sản phẩm vật chất chế tạo mới,
không phải là hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa
tin tức từ người gưỉ đến người nhận. Các cơ sở bưu chính viễn thông làm nhiệm
vụ dịch chuyển tin tức từ vị trí người gửi đến vị trí người nhận. Sự dịch chuyển
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
7

tin tức này chính là kết quả của ngành Bưu chính viễn thông. Như vậy, sản
phẩm bưu chính viễn thông thể hiện dưới dạng dịch vụ.
Từ đó, có thể nhận thấy sản phẩm bưu chính viễn thông không tồn tại ngoài
quá trình sản xuất nên không thể đưa vào kho, không thể thay thế được. Vì vậy,
vấn đề chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu rất cao.
Để tạo ra sản phẩm, các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông không cần đến
những nguyên vật liệu chính phải bỏ tiền ra mua như các ngành khác mà chỉ
cần sử dụng các vật liệu phụ. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí sản xuất
kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông: chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ
trọng nhỏ, chi phí lao động sống (tiền lương) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi
phí sản xuất kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông.
2.1.2. Quá trình sản xuất bưu chính viễn thông mang tính dây chuyền:
Đặc điểm này thể hiện ở chỗ, để truyền đưa tin tức hoàn chỉnh từ người gửi
đến người nhận thường có từ hai hay nhiều cơ sở Bưu điện tham gia, mỗi cơ sở
chỉ thực hiện một giai đoạn nhất định, hoặc giai đoạn đi, hoặc giai đoạn
đến, hoặc giai đoạn quá giang của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh
đó.
2.1.3. Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm:
Trong hoạt động thông tin bưu chính viễn thông, quá trình sản xuất gắn liền
với quá trình tiêu thụ; trong nhiều trường hợp hai quá trình này có thể trùng với
nhau. Hay nói cách khác, hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức được
tiêu dùng ngay trong quá trình sản xuất.
Do đặc điểm này mà vấn đề chất lượng sản phẩm bưu chính viễn thông một
lần nữa lại được đặt ra, bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng. Khác
với sản phẩm của các ngành sản xuất khác, trong bưu chính viễn thông, dù
muốn hay không người tiêu dùng cũng phải tiêu dùng những sản phẩm mà
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
8
ngành tạo ra. Ngoài ra, các sản phẩm không đảm bảo chất lượng cũng không
thể thay thế bằng sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Trong nhiều trường hợp, sản

phẩm bưu chính viễn thông kém chất lượng có thể gây ra những hậu quả không
thể bù đắp được cả về vật chất và tinh thần.
2.1.4. Tải trọng bưu chính viễn thông không đồng đều theo không gian và
thời gian
Tải trọng Bưu chính viễn thông là lượng tin tức đến yêu cầu một cơ sở sản
xuất nào đó của bưu chính viễn thông phục vụ trong một khoảng thời gian nhất
định. Sự tồn tại và phát triển của bưu chính viễn thông phụ thuộc vào nhu cầu
truyền đưa tin tức. Ngành có nhiệm vụ thoả mãn tốt nhất nhu cầu về truyền đưa
tin tức, thu hút và mở rộng các nhu cầu này.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức có thể xuất hiện ở bất cứ nơi nào trên trái đất, ở
đâu có con người thì ở đó có nhu cầu về thông tin. Do vậy, cần phải bố trí các
phương tiện thông tin trên tất cả các miền của đất nước, bố trí mạng lưới hợp lý
thống nhất về kỹ thuật, nghiệp vụ để mạng lưới quốc gia có thể hoà nhập vào
mạng lưới quốc tế.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức xuất hiện không đồng đều theo thời gian.
Thường thì phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt xã hội. Vào những giờ ban ngày,
giờ làm việc của các cơ quan, doanh nghiệp, vào những kỳ báo cáo, các ngày lễ
tết,... thì nhu cầu lớn. Chính đặc điểm này có ảnh hưởng đến công tác tổ chức
sản xuất kinh doanh trong ngành Bưu chính viễn thông.
Cũng như các doanh nghiệp khác, việc nghiên cứu đặc điểm kinh tế của sản
phẩm bưu chính viễn thông có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc giải quyết
3 vấn đề cơ bản của một hệ thống kinh tế: sản xuất gì, sản xuất như thế nào, và
sản xuất cho ai. Từ đó hoàn thiện cơ chế quản lý và tổ chức quản lý sản xuất
kinh doanh ở các cấp khác nhau trong ngành, tổ chức công tác kế hoạch, áp
dụng nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hình thành giá, cước bưu chính viễn
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
9
thông,... Có như vậy mới đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh bưu chính
viễn thông đạt hiệu quả cao.
2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của ngành

Tổ chức sản xuất kinh doanh nói chung trước hết phụ thuộc vào công nghệ
tạo ra sản phẩm. Ngoài ra, tổ chức sản xuất kinh doanh bưu chính viễn thông
phải đảm bảo tốt các chức năng, nhiệm vụ mà xã hội đặt ra đối với doanh
nghiệp bưu chính viễn thông. Tổ chức sản xuất kinh doanh bưu chính viễn
thông có những đặc điểm sau:
Bưu chính viễn thông là ngành vừa kinh doanh vừa phục vụ. Phục vụ nghĩa là
làm cho người khác, người này làm vì lợi ích của người khác. Kinh doanh là
hoạt động kiếm lời, mục tiêu của kinh doanh là lợi nhuận. Như vậy, ngành phải
lấy phục vụ là mục tiêu, lấy kinh doanh là phương tiện để phục vụ tốt. Hai
nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau, không thể tách rời và xem
nhẹ nhiệm vụ nào.
Sản xuất bưu chính viễn thông diễn ra hàng này, và tiến hành ở hầu khắp các
vùng dân cư, các vùng lãnh thổ của đất nước.
Các bộ phận hợp thành hệ thống Bưu chính viễn thông cả nước có quan hệ
sản xuất với nhau theo kiểu liên hiệp, đó là sự kế tiếp nhau cùng tạo ra một đơn
vị sản phẩm.
Sản xuất kinh doanh ngành bưu chính viễn thông luôn phải dự trữ năng lực
sản xuất cho những nhu cầu cần thiết như: dự trữ để thay thế những bộ phận
thiết bị bị hỏng; dự trữ đón trước sự phát triển nhu cầu xã hội để ngành Bưu
chính viễn thông có thể đi trước một bước trong hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở.
Xu hướng cạnh tranh trong kinh doanh bưu chính viễn thông ngày càng lớn.
Đó là sự cạnh tranh giữa các chuyên ngành bưu chính viễn thông, cạnh tranh
khách hàng trên cùng thị trường tiêu dùng dịch vụ bưu chính viễn thông, cạnh
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
10
tranh giữa các doanh nghiệp bưu chính viễn thông trong nước, cạnh tranh quốc
tế, cạnh tranh trong việc lựa chọn đối tượng cộng tác để thực hiện tiếp các công
đoạn của một quá trình truyền dẫn tin,...
Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt
động của ngành . Đó không chỉ là hiệu quả trực tiếp của chính bản thân ngành

mà còn là hiệu quả kinh tế- xã hội mà ngành Bưu chính viễn thông mang đến
cho các ngành kinh tế khác và đời sống xã hội.
3. Vai trò của ngành Bưu chính viễn thông trong đời sống kinh tế- xã
hội
3.1. Vai trò của ngành Bưu chính viễn thông trong nền kinh tế quốc dân
Bưu chính viễn thông là một ngành kết cấu hạ tầng cơ sở, sản xuất kinh
doanh dịch vụ quan trọng không thể thiếu được của nền kinh tế quốc dân, là
công cụ đắc lực cho việc quản lý, điều hành Nhà nước, đảm bảo an ninh quốc
gia, góp phần nâng cao đời sống văn hoá xã hội của nhân dân.
Bưu chính viễn thông có vai trò tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất
nước. Thông tin bưu chính viễn thông còn là tiền đề cần thiết cho sự phát triển
văn hoá xã hội.
Ngành Bưu chính viễn thông thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc dân,
tạo ra những điều kiện cần thiết, chung nhất cho tất cả các lĩnh vực của sản xuất
xã hội. Vai trò của ngành Bưu chính viễn thông như là chất xúc tác làm tăng
năng suất lao động xã hội, tăng thu nhập quốc dân, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Mặt khác, ngành Bưu chính viễn thông phát triển sẽ tạo điều kiện thu hút các
đối tác nước ngoài vào đầu tư, liên doanh liên kết sản xuất ở nước ta.
Viễn thông một mặt chịu tác động mạnh mẽ của tiến trình tự do hoá, toàn cầu
hoá. Mặt khác nó cũng tác động trở lại tới các hoạt động tự do hoá, toàn cầu
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
11
hoá. Viễn thông phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế,
phát triển các hoạt động thương mại quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
giữa các quốc gia trên thế giới.
Viễn thông vừa là một ngành kỹ thuật thuộc cơ sở kết cấu hạ tầng, là phương
tiện giúp cho ngành kinh tế phát triển, đồng thời là một ngành kinh doanh đem
lại lợi nhuận cao. Sự đóng góp của ngành Bưu chính viễn thông không chỉ đơn
thuần ở phần doanh thu hay thu nhập vào tổng sản phẩm xã hội và thu nhập

quốc dân, mà chủ yếu là lợi ích mà ngành mang lại cho xã hội và cho các ngành
kinh tế khác. Theo báo cáo của Liên minh viễn thông quốc tế (ITU), hàng năm
các dịch vụ viễn thông đóng góp ít nhất 1,5% GDP của mỗi nước; trung bình
đầu tư 1 USD vào viễn thông sẽ mang lại 3 USD cho các lĩnh vực kinh tế khác.
Viễn thông là một ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và đã trở thành đối tượng
đàm phán thương mại rộng khắp trên toàn thế giới.
3.2. Vai trò của ngành Bưu chính viễn thông trong đời sống xã hội
Trong một chừng mực nhất định, ngành Bưu chính viễn thông phải phát triển
trước một bước làm tiền đề cho sự phát triển của các ngành kinh tế xã hội khác.
Ngược lại, sự phát triển của ngành Bưu chính viễn thông còn phụ thuộc và sự
phát triển của các ngành kinh tế xã hội khác. Vai trò của ngành Bưu chính viễn
thông trong đời sống xã hội thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
Ngành Bưu chính viễn thông tạo ra những điều kiện cần thiết cho tất cả các
hoạt động kinh tế xã hội, thỏa mãn nhu cầu truyền đưa tin tức của xã hội.
Bưu chính viễn thông là công cụ đắc lực cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước và các cấp chính quyền trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh,
quốc phòng, văn hoá, giáo dục, ngoại giao,... Bưu chính viễn thông đóng vai trò
quan trọng trong việc truyền đạt các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước,
phổ cập pháp luật đến nhân dân, phục vụ trực tiếp và rộng rãi đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh.
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
12
Đối với người dân, bưu chính viễn thông là cầu nối trong lĩnh vực trao đổi tin
tức và giao lưu tình cảm. Xã hội càng phát triển, nhu cầu về văn hoá, giao lưu
tình cảm của con người ngày càng tăng, bưu chính viễn thông trở thành một bộ
phận không thể tách rời trong đời sống sinh hoạt của con người. Nhờ có bưu
chính viễn thông, con người có thể thường xuyên liên lạc với người thân, bạn bè
của mình. Các dịch vụ bưu chính viễn thông có thể giúp cho con người bảo vệ
tính mạng, tài sản, sức khoẻ của mình. Ngoài ra, mạng lưới bưu chính viễn
thông phát triển rộng khắp, phổ cập đến mọi người dân sẽ giúp họ có thể dễ

dàng sử dụng để thông tin cho nhau, mọi người đỡ phải đi lại nhiều, do vậy có
thể tiết kiệm thời gian, chi phí, góp phần giảm mật độ giao thông. ở nhiều nước
mức độ phát triển của bưu chính viễn thông được coi là một trong những chỉ
tiêu phản ánh mức sống, trình độ phát triển của quốc gia.
Khi đời sống kinh tế xã hội được quốc tê hoá, thì vai trò của ngành Bưu chính
viễn thông càng trở nên quan trọng. Trình độ lạc hậu hay tiên tiến của mạng
lưới thông tin liên lạc có ảnh hưởng quyết định đến việc thiết lập các mối quan
hệ về kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các quốc gia. Kể cả những nước đã trải qua
nhiều thập kỷ phát triển, Bưu chính viễn thông vẫn được coi là một ngành hạ
tầng cần được ưu tiên phát triển.
Do xác định được vai trò của Bưu chính viễn thông trong đời sống kinh tế xã
hội nên ở nhiều nước, thông tin bưu chính viễn thông đã được coi là nguồn lực
của sự phát triển. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong lĩnh vực bưu chính
viễn thông sẽ kéo theo sự gia tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Hiện nay bưu chính
viễn thông Việt nam được coi là một trong những công cụ hữu hiệu để điều
hành vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ Việt nam.
4. Hệ thống các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông ở
Việt Nam
4.1. Các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông ở Việt Nam
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
13
Ngày 25/5/2002, Quốc hội đã chính thức ban hành Pháp lệnh Bưu chính viễn
thông nhằm 2 mục đích. Thứ nhất, nhằm chuyển đổi từ cơ chế độc quyền hiện
trong trong khai thác dịch vụ bưu chính viễn thông sang cạnh tranh, từ đó tạo
động lực phát triển cho ngành Bưu chính viễn thông nước nhà. Thứ hai là mở
rộng thị trường bưu chính viễn thông, cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia
khai thác dịch vụ bưu chính viễn thông. Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ tháng
10/2002.
Tuy nhiên trên thực tế, thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông vẫn là thị
trường thuần tuý độc quyền Nhà nước. Nhà nước vẫn kiểm soát chặt chẽ các chỉ

tiêu kinh tế cơ bản như: giá, cước, lợi nhuận,...
Hệ thống các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông ở Việt
Nam hiện nay, ngoài Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT)
chiếm tới 89% thị phần còn có hàng loạt các doanh nghiệp khác được thành lập
cùng thời gian với VNPT hoặc chỉ mới ra đời trong thời gian gần đây. Song thực
chất, các doanh nghiệp này với thị phần chưa tới 11% chỉ là những đơn vị phục
vụ cho sản xuất của Tổng công ty Bưu chính viễn thông. Nói cách khác, Tổng
công ty Bưu chính viễn thông là khách hàng gần như duy nhất của phần lớn các
đơn vị này. Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp thì hệ thống các doanh
nghiệp bưu chính viễn thông Việt nam có thể chia làm 3 nhóm chính:
+ Các doanh nghiệp quốc doanh như Công ty điện tử viễn thông quân đội
(Vietel), Công ty viễn thông điện lực (ETC),... được thành lập với mục đích ban
đầu là phục vụ mạng lưới chuyên dùng. Với ưu thế về tiềm lực về tài chính và
cơ sở hạ tầng, các doanh nghiệp này hiện đang mở rộng phạm vi và lĩnh vực
hoạt động; trong tương lai họ sẽ là đối thủ cạnh tranh đáng kể cùng chia sẻ thị
phần với Tổng công ty Bưu chính viễn thông.
+ Các Công ty liên doanh là các dự án liên doanh giữa Tổng công ty bưu
chính viễn thông với các đối tác nước ngoài, tập trung trong lĩnh vực sản xuất và
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
14
cung cấp thiết bị viễn thông. Bao gồm 8 Công ty: Vina-Daesung, ANSV, Vina-
GSC, VKX, Focal, Teleq, VFT và Vineco.
+ Nhóm các doanh nghiệp tư nhân và Công ty cổ phần vẫn còn hoạt động
tản mạn và chiếm tỷ trọng khiêm tốn. Thực chất, các Công ty này vẫn chưa
tham gia trực tiếp vào thị trường khai thác dịch vụ bưu chính viễn thông mà chỉ
đóng vai trò là người cung cấp và thực hiện các khâu trung gian, chuyển tiếp
trong toàn bộ quá trình sản xuất cung cấp bưu chính viễn thông.
Ngoài ra, còn có hàng loạt các đại lý, bưu cục trực thuộc Tổng công ty Bưu
chính viễn thông, cũng như các đại lý, văn phòng đại diện nước ngoài tạo thành
một mạng lưới bưu chính viễn thông rộng khắp cả nước.

4.2. Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam - Doanh nghiệp chủ
đạo trong ngành
Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) là doanh nghiệp Nhà
nước, thuộc Tổng cục bưu điện, được thành lập theo quyết định số 249/QD-TTg
ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng công ty được tổ chức theo mô
hình Tổng công ty 91, hoạt động theo hướng tập đoàn với mạng lưới, lao động
bố trí rộng khắp; có bề dày phát triển theo thời gian.
Tổng công ty hiện có 94 đơn vị thành viên, trong đó có 70 đơn vị hạch toán
phụ thuộc (gồm 61 đơn vị tỉnh, thành phố và 9 Công ty chuyên ngành), 15 đơn
vị hạch toán độc lập gồm các Công ty hoạt động trong các lĩnh vực công
nghiệp, tư vấn thiết kế, xây lắp, thương mại, và 9 đơn vị sự nghiệp hoạt động
trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu, y tế, chăm sóc sức khoẻ.
Tổng công ty đã tiến hành sắp xếp lại khối đào tạo như thành lập Học viện
Công nghệ Bưu chính viễn thông, thành lập Trường công nhân III; góp vốn vào
một số Công ty liên doanh, một số Công ty cổ phần như Cổ phần bảo hiểm, tiến
hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp có đủ điều kiện; thành lập mới Công ty
phát triển phần mềm (VASC), Công ty tài chính Bưu điện, Công ty dịch vụ tiết
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
15
kiệm Bưu điện; chuẩn bị thành lập Công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực
khách sạn, du lịch lữ hành.
Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam là nhà khai thác độc quyền
trong cả nước, đồng thời cũng có các cơ sở sản xuất công nghiệp. Nói cách
khác, ở Việt Nam, nhà khai thác cũng sản xuất thiết bị. Mô hình này giống mô
hình của hai Công ty AT&T của Mỹ và BCE của Canada, nhưng hai Công ty
này đều là Công ty tư nhân.
Ngày nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng chung
trên thế giới. Bưu chính viễn thông một mặt chịu tác động mạnh mẽ của quá
trình toàn cầu hoá, mặt khác nó có tác động thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá.
Hội nhập giữa Viễn thông- Tin học- Truyền thông sẽ dẫn đến nhiều đối thủ

cạnh tranh mới, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới trên thị trường bưu chính viễn
thông, cả trong và ngoài nước. Hiện tại, trên thị trường bưu chính viễn thông đã
có 7 doanh nghiệp trong nước được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cung
cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông, 12 doanh nghiệp trong nước được cấp
giấy phép hoạt động kinh doanh cung cấp dịch vụ Internet. Trong xu thế như
vậy, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam phải chấp nhận cạnh tranh,
vươn lên để thắng lợi trong cạnh tranh bằng sức mạnh của mình (Phụ lục 1).
II/ Sự cần thiết của vốn FDI đối với ngành bưu chính
viễn thông Việt nam
1. Các nguồn vốn cho phát triển Bưu chính viễn thông ở Việt Nam
Đầu tư viễn thông là cơ hội mang tính thời đại ở các nước phát triển, các nước
công nghiệp mới và cả ở các nước đang phát triển. Muốn phát triển nhanh,
mạnh, đưa ngành Bưu chính viễn thông Việt Nam ngang tầm với các nước trong
khu vực và trên thế giới, không có con đường nào khác là phải nâng cao năng
lực phục vụ của ngành dựa trên kỹ thuật hiện đại và từng bước làm chủ hoàn
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
16
toàn từ khâu sản xuất, khai thác, sẵn sàng đón nhận xu hướng khu vực hoá, toàn
cầu hoá trong lĩnh vực bưu chính viễn thông.
Khai thác tối đa mọi nguồn vốn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư
phát triển bưu chính viễn thông là yêu cầu cấp bách để thúc đẩy phát triển kinh
tế nước ta. Giai đoạn 1996-2000, vốn đầu tư cho lĩnh vực Giao thông - Bưu điện
chiếm gần 15% trong tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội. Các nguồn
vốn này được huy động từ mọi nguồn, trong và ngoài nước, bao gồm: nguồn
vốn ngân sách Nhà nước; nguồn vốn tín dụng thương mại, vốn viện trợ phát
triển chính thức (ODA); nguồn vốn tái đầu tư phát triển; nguồn vốn huy động
thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư cho ngành Bưu chính viễn thông giai đoạn 1995-
2000 như sau:
Nguồn vốn Số tiền (tỷ đồng) Tỷ trọng (%)

- Ngân sách Nhà nước 1.192 6,44
- Tín dụng thương mại 9.258 50,02
- Tái đầu tư phát triển 4.568 24,68
- ODA 490 2,65
- FDI 3.000 16,21
Tổng vốn đầu tư 18.508
Nguồn: Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam, 2002
Chính phủ thường quan tâm cấp ngân sách Nhà nước cho các ngành cơ sở hạ
tầng có tính chất chiến lược đối với quốc gia. Trong ngành Bưu chính viễn
thông, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chủ yếu là nguồn thuế lợi tức
mà doanh nghiệp được phép để lại theo luật thuế. Trong giai đoạn 1996-2000,
nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước là 1.193 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 6,44% tổng
vốn đầu tư toàn ngành (bảng 1). Nhưng theo kế hoạch phát triển của ngành Bưu
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
17
chính viễn thông, nguồn vốn này sẽ giảm dần tỷ trọng, còn khoảng 4% trong
tổng vốn đầu tư toàn ngành.
Nguồn vốn tín dụng thương mại đầu tư cho ngành Bưu chính viễn thông thực
chất bao gồm nguồn vốn huy động từ tín dụng thương mại quốc tế và nguồn
vốn huy động từ các tầng lớp dân cư xã hội. Tuy nhiên, ở nước ta, vốn tích luỹ
trong nhân dân còn thấp, môi trường pháp lý và kinh tế chưa đủ tính thuyết
phục, đặc biệt là tâm lý người dân đối với vấn đề dầu tư còn hết sức nặng nề. Do
đó, nguồn vốn huy động được thực sự chưa cao. Ngành Bưu chính viễn thông
huy động nguồn vốn này thông qua các hoạt động Tài chính, bảo hiểm, các dịch
vụ tiết kiệm Bưu điện. Mặc dù doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng các khoản
vốn vay này nhưng độ rủi ro sẽ rất cao trong trường hợp làm ăn kém hiệu qủa.
Nguồn vốn này đang có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn
ngành.
Tỷ trọng của nguồn vốn tái đầu tư phần nào phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 20%,

ngành Bưu chính viễn thông ở Việt Nam đang thật sự cất cánh, thậm chí còn
được coi là một ngành siêu lợi nhuận. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên khi
nguồn vốn huy động từ nội lực ngành chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng có vai
trò quyết định trong nguồn vốn đầu tư toàn ngành.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ hoàn lại và
không hoàn lại của Chính phủ, các tổ chức Liên hiệp quốc, các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân dân nước
nhận viện trợ. ODA vào lĩnh vực bưu chính viễn thông vào Việt Nam giai đoạn
1996-2000 chiếm khoảng 0,5% tổng ODA của cả nước. Bưu chính viễn thông là
một lĩnh vực ưu tiên giải ngân ODA vì nó thuộc các dự án đầu tư vào cơ sở hạ
tầng. Ưu điểm của nguồn vốn này là đây là khoản vay dài hạn với số thời gian
ân hạn và lãi suất thấp nên rất phù hợp với ngành Bưu chính viễn thông. Dự kiến
nguồn vốn này trong giai đoạn 2001-2005 là 5.700 tỷ đồng.
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
18
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là một trong những hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngoài đang được áp dụng trong lĩnh vực bưu chính viễn thông.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên để tiến
hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam, trong đó qui định trách nhiệm và phân chia
kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Như
vậy, các bên trong hợp đồng họat động dưới danh nghĩa pháp nhân của mình và
tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Tính đến hết năm2000,
cả nước có 130 BCC với tổng vốn đầu tư là 3,8 tỷ USD; trong đó, ngành Bưu
chính viễn thông chỉ có 6 dự án BCC nhưng tổng vốn đầu tư lên tới 1,8 tỷ USD.
Điều này cho thấy tầm quan trọng của nguồn vốn này đối với sự phát triển của
Bưu chính viễn thông Việt Nam.
Nguồn vốn trong nước có vai trò hết sức quan trọng, nếu không muốn nói là
có tính chất quyết định, Tuy nhiên, để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước không thể thiếu nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Các
nguồn vốn này phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và theo một tỷ lệ hợp lý,

tối ưu. Nguồn vốn ngân sách phải có đủ đến mức nhất định để có để đảm bảo sử
dụng ODA một cách có hiệu qủa. Đồng thời nguồn vốn tích luỹ của xã hội cũng
như của doanh nghiệp phải được huy động và sử dụng có hiệu quả đến một mức
nhất định để đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt
Nam.
Như vậy, lượng vốn đầu tư cho nhu cầu phát triển của ngành Bưu chính viễn
thông Việt Nam là rất lớn; trong đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn đóng một
vai trò quan trọng, chiếm 1/2 tổng số vốn đầu tư. Bưu chính viễn thông là một
ngành thuộc kết cấu hạ tầng nhưng cũng là một ngành kinh doanh có lãi, ít rủi
ro; do vậy dễ thu hút vốn đầu tư nước ngoài hơn các ngành thuộc kết cấu hạ
tầng khác. Tìm được nguồn vốn đã khó, nhưng sử dụng như thế nào để đạt hiệu
quả còn khó hơn nhiều. Điều quan trọng là ngành phải có các biện pháp thích
hợp để tăng cường thu hút vốn, đồng thời phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
19
dụng vốn đầu tư nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao nhất cho ngành cũng như cho
toàn xã hội.
2. Tầm quan trọng của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển của ngành
Bưu chính viễn thông Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư
nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần vốn đầu tư đủ lớn vào cá dự án nhằm
giành được quyền kiểm soát hoặc quyền tham gia kiểm soát doanh nghiệp do
dự án đó lập ra.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức đầu tư quốc tế
mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho toàn nền kinh tế nói chung và cho sự nghiệp
phát triển ngành Bưu chính viễn thông nói riêng. Tầm quan trọng của nguồn
vốn FDI được thể hiện qua vai trò và những tác động của nguồn vốn này đến
lĩnh vực bưu chính viễn thông cụ thể như sau:
Trước hết cần nhìn nhận rằng, trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn
chế, trình độ kỹ thuật của mạng lưới bưu chính viễn thông Việt Nam hoàn toàn

lạc hậu, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải quyết được cả hai vấn đề cơ bản về
vốn và công nghệ để tạo ra sự phát triển nhảy vọt của ngành Bưu chính viễn
thông trong thời gian vừa qua.
Sử dụng kỹ thuật hiện đại trong viễn thông là một yêu cầu cấp thiết của nước
ta cả về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế. Kỹ thuật càng hiện đại thì lượng thông tin
càng lớn, tốc độ truyền tải thông tin càng nhanh và doanh thu càng lớn. Với ý
nghĩa đó thì kỹ thuật và công nghệ hiện đại đồng nghĩa với hiệu quả, với chất
lượng và khả năng cạnh tranh, kỹ thuật hiện đại trong bưu chính viễn thông
được xem là một phương tiện tốt nhất để đạt đựoc hiệu quả cao nhất.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần nâng cao năng lực thông tin và chất
lượng thông tin, phục vụ kịp thời quá trình chuyển nền kinh tế từ bao cấp sang
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
20
kinh tế thị trường, góp phần thực hiện thành công chính sách mở cửa của Đảng
và Nhà nước.
Sử dụng nguồn vốn FDI cho phép chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong ngành
Bưu chính viễn thông, nâng cao tỷ trọng viễn thông quốc tế và công nghiệp, từ
đó tạo kịm ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm công nghiệp viễn thông của các
liên doanh. FDI tạo tiền đề và nhanh chóng phát triển công nghệ thông tin, giúp
cho ngành chủ động hơn, tiết kiệm được ngoại tệ và sớm tiếp cận được công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
FDI trong lĩnh vực viễn thông quốc tế sẽ tạo ra nguồn ngoại tệ lớn cho
ngành từ các dịch vụ điện thoại và phi điện thoại từ Việt Nam đi quốc tế và từ
quốc tế về Việt Nam; từ đó tạo ra khả năng cân đối ngoại tệ cho nhập khẩu thiết
bị để tái đầu tư cho mạng lưới viễn thông trong nước.
Sử dụng nguồn vốn FDI góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh cho chính bản thân ngành và tạo được đội ngũ cán bộ kỹ thuật
và quản lý có trình độ cao, mang tác phong công nghiệp, và trong tương lai sẽ
là nòng cốt cho sự hoà nhập của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên
thế giới.

FDI đã tạo tiền đề và đòn bẩy hình thành và phát triển công nghiệp viễn
thông Việt Nam, tạo sự phát triển vững chắc của ngành, góp phần vào thành
công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ những phân tích nêu trên thì rõ ràng không thể phủ định tầm quan trọng
và sự cần thiết của nguồn vốn FDI đối với sự phát triển của Bưu chính viễn
thông Việt Nam. Đặc biệt là khi so sánh với các nguồn vốn khác thì FDI có
những ưu điểm nổi trội. Đó là tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao của dự án,
không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho
nền kinh tế. Đồng thời, thông qua dự án FDI, doanh nghiệp nhận vốn có thể tiếp
nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,... Đây là
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
21
những ưu điểm mà các hình thức đầu tư khác không thể so sánh được. Nếu xét
riêng về hình thức BCC trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, thì như Tổng công
ty Bưu chính viễn thông viễn thông đã nhận định, hình thức này có các ưu điểm
nổi trội là:
- huy động được vốn lớn
- duy trì tính chủ động và độc lập của bên Việt Nam.
- đảm bảo được an ninh cho mạng lưới thông tin.
- pháp luật không hạn chế về khả năng phối hợp của các bên
trong quá trình thực hiện dự án.
- có thể thực hiện việc học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao công
nghệ hợp lý.
Bên cạnh đó, để có thể đạt được những chỉ tiêu kinh tế và xã hội như đặt ra,
đưa ngành viễn thông Việt Nam tiến kịp cùng sự phát triển của công nghệ thông
tin toàn cầu thì nhu cầu vốn đầu tư cho ngành trong giai đoạn 2001-2005 dự
kiến khoảng 28.720 tỷ đồng. Việc đầu tư cho những công nghệ hiện đại nhất
bao giờ cũng đắt nhất, mà vốn tự đầu tư trong nước còn quá nhỏ. Do vậy, hiện
tại cũng như trong tương lai, nguồn vốn FDI vẫn sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng vốn đầu tư toàn ngành.

Để có thể tận dụng tốt nhất những ưu việt của nguồn vốn FDI cho sự phát
triển của ngành Bưu chính Viễn thông, trước hết cần nhìn lại thực trạng quản lí
và sử dụng nguồn vốn này trong ngành kể từ khi ngành bắt đầu tiếp nhận vốn
đầu tư nước ngoài cho đến nay. Đánh giá các kết quả đạt được cũng như tìm
hiểu các hạn chế còn tồn tại là cơ sở để đề ra giải pháp tối ưu. Đó cũng là nội
dung được đề cập trong các chương tiếp theo.
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
22
I/ Quan điểm và cơ chế quản lí hoạt động đầu tư của
ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam
1. Quan điểm
1.1. Quan điểm định hướng họat động hợp tác đầu tư nước ngoài
Nhận thức được xu hướng quốc tế đời sống kinh tế ngày càng mở rộng - đó là
quá trình mà các nền kinh tế dân tộc tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và
phụ thuộc lẫn nhau, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương lợi dụng
những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị
trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lí để bổ sung và phát huy
có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước(Văn kiện Đại hội Đảng IX),
thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại; trong đó
FDI là hình thức quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Đồng thời chính
phủ đã thực hiện mở cửa nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở
trong nước và giữa trong nước với nước ngoài thông qua việc mở rộng quan hệ
kinh tế với các nước trên thế giới, trong đó có hợp tác đầu tư.
Những quan điểm, tư tưởng của Đảng đã được thể chế hoá trong Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khuyến khích các nhà đầu tư nươc ngoài vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc
lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng
có lợi. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối
với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào Việt Nam. (Điều 1, Chương I, Luật sửa đổi một số điều của Luật đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam ngày 9/6/2000 )
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông vừa được Quốc hội ban hành ngày 25/2/2002
cũng khẳng định rõ nguyên tắc hợp tác quốc tế về Bưu chính Viễn thông: Nhà
nước có chính sáchvà biện pháp đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
23
độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi bên,
pháp luật và thông lệ quốc tế nhằm phát triển Bưu chính Viễn thông, góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với
các nước, các tổ chức quốc tế. (Điều 70, Chương V)
Xét trên giác độ của doanh nghiệp, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn từ bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của ngành, Tổng công ti Bưu chính
Viễn thông Việt Nam đã khẳng định quan điểm định hướng hợp tác đầu tư nước
ngoài trong Báo cáo đánh giá hoạt động đầu tư nứơc ngoài giai đoạn 1996-
2000 :
Hợp tác Kinh tế quốc tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là một giải
pháp quan trọng của Tổng công ti Bưu chính Viễn thông Việt Nam nhằm tiếp
cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh tế toàn
diện của Tổng công ti trong giai đoạn hội nhập.
Hợp tác Kinh tế quốc tế là hoạt động liên quan đến tổ chức,cơ chế của Tổng
công ti. Vì vậy, phải hình thành đồng bộ bộ máy tổ chức quản lí kinh doanh và
cơ chế triển khai các dự án đầu tư nước ngoài trong Tổng công ti. Đây là nhân
tố quan trọng để có thể phát huy lợi ích của hợp tác kinh tế quốc tế, thực hiện
thắng lợi mục tiêu hội nhập và phát triển.
Hợp tác Kinh tế quốc tế là biện pháp để phát huy sức mạnh nội lực nên hợp
tác quốc tế phải đảm bảo hiệu quả kinh tế và mang lại lợi ích cho Quốc kế, dân
sinh.
1.2. Quan điểm về điều kiện tối thiểu cho một lĩnh vực có thể hợp tác đầu
tư với nước ngoài
Năm 1986 là năm khởi đầu cho sự mở cửa, hợp tác quốc tế của ngành Bưu

chính Viễn thông Việt Nam, đánh dấu bằng dự án khai thác dịch vụ viễn thông
giữa Tổng công ti Bưu chính Viễn thông Việt Nam với Công ti Telstra
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
24
(Australia). Tiếp đó là hàng loạt các dự án BCC với các tập đoàn khai thác viễn
thông hàng đầu thế giới như: France Telecom, NTT, Korea Telecom,
Comvik,...Cho đến nay Tổng công ti Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã có
quan hệ hợp tác với hơn 150 đối tác nước ngoài là các hãng hàng đầu về bưu
chính, viễn thông, tin học,...
Qua hơn 10 năm kinh nghiệm thu hút nguồn đầu tư FDI với các dự án thành
công và chưa thành công cuả ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam, nhóm
nghiên cứu thuộc Tổng công ti Bưu chính Viễn thông đã tổng kết một số điều
kiện để một dự án có thể hợp tác thu hút đầu tư nước ngoài là:
(1) Đó phải là một dự án hợp tác đầu tư phát triển dịch vụ Bưu chính Viễn
thông mới hay dịch vụ còn chưa phát triển đối với Bưu chính Viễn thông
Việt Nam nhưng có tiềm năng thị trường. Đây là kinh nghiệm rút ra được
qua việc triển khai các dự án Quốc tế, Di động, Niên giám, Trang vàng,
Điện thoại thẻ,...
(2) Dịch vụ hay hoạt động cần hợp tác để tiếp nhận công nghệ cao trong sản
xuất hay kinh doanh sản phẩm. Thực tiễn là các Liên doanh sản xuất sản
phẩm công nghiệp viễn thông.
Ngoài 3 đánh giá trên, nhóm nghiên cứu đưa thêm các điều kiện dưới đây để
đánh giá một dự án có nhu cầu và tiềm năng hợp tác:
(4)Dự án khai thác dịch vụ hoặc lĩnh vực kinh doanh bị cạnh tranh mạnh bởi
các nhà khai thác có tiềm lực mạnh. Đây là trường hợp thị trường bị đe
doạ bởi các nhà khai thác khác.
(5) Đáp ứng được mong muốn của Bưu chính Viễn thông Việt Nam là tạo ra
chất lượng dịch vụ cao và có biện pháp thị trường tốt; hoặc cần tạo ra
chất lượng đặc biệt và là điển hình để áp dụng và nhân rộng trong Tổng
công ti.

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Thuỷ A9-K37
25
Xét trên kinh nghiệm, tiềm lực đã tích luỹ được trong thời gian qua, nhóm
nghiên cứu cho rằng chỉ những dự án đáp ứng được ít nhất một trong các điều
kiện trên và cùng với điều kiện về hiệu quả tài chính thì Tổng công ti mới xem
xét hợp tác đầu tư.
2. Cơ chế quản lí hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Bưu chính
Viễn thông Việt Nam
Quản lí Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay là
quản lí theo luật. Thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, còn hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ theo luật vì các
doanh nghiệp không có bộ chủ quản. Các cơ quan quản lí nhà nước theo chức
năng, quyền hạn được phân định tham gia vào quản lí các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài nhưng được điều hoà, phối hợp ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Bưu chính Viễn thông là ngành thuộc danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện
và chịu sự quản lí trực tiếp của Nhà nước. Do đó, hiện nay theo Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, tất cả các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
Bưu chính Viễn thông đều được chấp thuận dưới hình thức Giấy phép đầu tư và
việc cấp Giấy phép đầu tư được thực hiện theo qui trình thẩm định cấp Giấy
phép đầu tư. Thẩm quyền quyết định các dự án đầu tư nước ngoài vào Bưu
chính Viễn thông thuộc Thủ tướng Chính phủ.
Cùng phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Bưu chính Viễn thông có chức
năng quản lí nhà nước về đầu tư và xây dựng chuyên ngành Bưu chính Viễn
thông, tham gia các dự án Hợp tác, Liên doanh với nước ngoài theo qui định
của chính phủ. Các nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của Bộ đối với các dự án FDI
là:
-Về văn bản pháp luật:

×