Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Hoạt động của công đoàn trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.67 KB, 102 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lợc phát triển kinh tế của đất nớc mà đại hội IX của Đảng
cộng sản Việt Nam đã đề ra là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
tiếp tục đổi mới, vì mục tiêu Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, đa nớc ta thành một nớc văn minh hiện đại.
Để đạt đợc mục tiêu đó Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết nhằm phát huy
nhiều nguồn lực để tăng trởng kinh tế. Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung
ơng lần thứ Ba, về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh
nghiệp Nhà nớc. Nghị quyết khẳng định: Doanh nghiệp nhà nớc đã chi phối
đợc các nghành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp
phần chủ yếu để kinh tế Nhà nớc thực hiện đợc vai trò chủ đạo, ổn định và
phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nớcDoanh nghiệp Nhà nớc
ngày càng thích ứng với cơ chế thị trờng; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ
cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ;
hiệu quả và sức cạnh tranh từng bớc đợc nâng lên; đời sống của ngời lao
động đợc cải thiện. Tuy nhiên Nghị quyết cũng chỉ ra những mặt yếu kém
của doanh nghiệp nhà nớc, đó là: Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, cha
đồng bộ, còn nhiều điểm cha phù hợp với cơ chế thị trờng xã hội chủ nghĩa, cha
tạo đợc động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và ngời lao động trong doanh nghiệp
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh.
Nh vậy, làm sao để tạo đợc động lực mạnh mẽ, thúc đẩy cán bộ và ngời lao
động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh
doanh? Làm sao để mọi ngời trong doanh nghiệp liên kết với nhau, hớng đến
một mục tiêu duy nhất là luôn làm cho doanh nghiệp của mình ngày càng phát
triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc và đời sống của
chính mình. Thực hiện mục tiêu đó, tất yếu phải tiến hành xây dựng văn hoá
doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nớc.
Nghị quyết Trung ơng Năm khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.Chúng ta phải làm cho văn


hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống. Vì vậy văn hoá doanh nghiệp đợc


coi là nguồn lực nội sinh, trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền vững của các
doanh nghiệp, góp phần vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nớc.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả n ớc.. Kinh
tế của thủ đô Hà Nội đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của
đất nớc, những năm qua Đảng và Nhà nớc đã có sự quan tâm đặc biệt đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội.
Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị đã đề ra những nhiệm vụ chiến lợc đối với
Hà Nội: Trong 10 năm tới, đảm bảo xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất kỹ
thuật và xã hội của Thủ đô xã hội chủ nghĩa và quyết tâm thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô. Thực hiện Nghị quyết
trên một số doanh nghiệp nhà nớc ở Hà Nội đã làm ăn có lãi, đứng vững trong
cơ chế thị trờng, đã tạo cho mình một diện mạo mới, cung cách làm ăn mới. ở
những doanh nghiệp đó tổ chức Công đoàn phát huy đợc tinh thần sáng tạo và
đóng góp của mọi thành viên trong doanh nghiệp, khẳng định vai trò của mình
trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiêp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến lợi
nhuận, coi lợi nhuận nh là một tiêu chuẩn duy nhất để tồn tại doanh nghiệp,
không quan tâm đến việc xây dựng Văn hoá doanh nghiêp. Từ đó dẫn đến lơng tâm, phẩm giá của ngời lao động bị giảm sút, nạn ô nhiễm môi trờng, các
tệ nạn xã hội, các bệnh hiểm nghèo cũng phát triển theo. Một số doanh nghiệp
khác cũng không quan tâm xây dựng VHDN nên làm ăn kém hiệu quả, chất lợng sản phẩm không đảm bảo, trình độ quản lý, kinh doanh kém, cạnh tranh
không lành mạnh, không trả lơng, trả thởng cho ngời công nhân đúng thời
hạn, không đảm bảo vệ sinh an toàn lao động, làm cho ngời lao động không
hứng thú làm việc, không không gắn bó với doanh nghiệp. Tất cả những điều
ấy cho thấy, các doanh nghiệp thiếu hẳn vai trò của văn hoá trong sản xuất
kinh doanh. Hay nói một cách khác là các doanh nghiệp cha thực sự hình
thành cho mình một VHDN.

Do vậy, vấn đề đặt ra cho Đề tài này là phải khảo sát thực tiễn, rút ra bài
học kinh nghiệm, về xây dựng mô hình VHDN gắn với vai trò của tổ chức
Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nớc trên địa bàn Hà Nội, nhằm phát
huy đợc vai trò của DNNN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nớc nói chung và
Hà Nội nói riêng.


Về mặt lý luận và thực tiễn việc nghiên cứu VHDN ở nớc ta cha đợc chú ý.
Hiện nay, mới có một số nhà nghiên cứu chỉ đề cập đến VHDN trên bình diện
văn hoá trong kinh doanh, hoặc khai thác một vài khía cạnh của VHDN nh:
Tinh thần doanh nghiệp, Đạo đức kinh doanh, Triết lý kinh doanh, cha có đề
tài nào nghiên cứu VHDN trên bình diện chung. Đặc biệt cha có đề tài nào
nghiên cứu xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nớc gắn với vai trò
của tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp nhà nớc, ở Thủ đô Hà Nội nói
riêng cũng nh phạm vi cả nớc nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài:
Hot ng Ca Cụng on Trong Vic Xõy Dng Vn Húa Doanh
Nghip Nh Nc Trờn a Bn H Ni trong các doanh nghiệp nhà nớc
ở Hà Nội là vấn đề rất cần thiết. Bởi vì, vấn đề liên quan đến định hớng kinh tế
- xã hội của đất nớc, liên quan đến vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam
trong việc phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp hệ Cao học chuyên ngành văn hoá
học, là vấn đề rất có ý nghĩa cả về phơng diện lý luận lẫn phơng diện thực
tiễn, trong sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề VHDN trên thế giới mới đợc nghiên cứu trong mấy thập niên
gần đây. Trong cuốn sách Văn hoá học - những bài giảng của A.A.
RADGHIN, nhà xã hội học ngời Mỹ, E.N.Schein đa ra định nghĩa về Văn hoá
Doanh nghiệp hay Văn hoá tổ chức (E. Schein. San- Francínco. 1985).
Trong cuốn Dự báo thế kỷ XXI của các nhà khoa học Trung Quốc, đã
đề cập đến vai trò của doanh nghiệp ở thế kỷ XXI và đa ra lời khuyến cáo

rằng: Nếu không chú ý đến văn hoá, thì doanh nghiệp không thể phát triển đợc; Đạo đức, lơng tâm nghề nghiệp còn quan trọng hơn việc phát triển kỹ
thuật mũi nhọn và cải cách thể chế của doanh nghiệp. Nhận thức đợc những
lời khuyến cáo trên ở Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Đức các doanh
nghiệp đã chú trọng đến yếu tố văn hoá trong sản xuất, kinh doanh và đã bắt
đầu xây dựng VHDN của mình.
Gần đây trong khoá học chuyên đề: Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp của
trung tâm hợp tác nguồn lực Việt Nam - Nhật Bản tháng 12 năm 2004 ở Hà
nội ngời ta đã đa ra một khái niệm về Văn hoá tổ chức.


ở Việt Nam ta, đề cập đến mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế khá muộn.
Trớc đây ngời ta cho rằng, văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực hoàn toàn tách
biệt nhau, không có mối quan hệ hỗ trợ, gắn bó nào. Đấy là một nhận thức sai
lầm. Sau Đại hội VI của Đảng, chúng ta bắt đầu đổi mới về t duy, nhận thức,
trớc hết là đổi mới t duy về kinh tế. Chúng ta đã nhận thức đợc tầm quan trọng
của văn hoá trong phát triển kinh tế. Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực
để phát phát triển kinh tế - xã hội. Mãi đến năm 1995, tại Hà Nội, Trung tâm
Khoa học xã hội - Nhân văn Quốc gia cùng với Uỷ ban Quốc gia Unesco của
Việt Nam mới phối hợp tổ chức cuộc Hội thảo "Văn hoá và kinh doanh.
Trong Hội thảo này các Đại biểu quốc tế và Việt Nam đều nhất trí và khẳng
định rằng, giữa văn hoá và kinh tế có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với
nhau, đồng thời chỉ ra rằng, trong kinh doanh yếu tố văn hoá đóng vai trò cực
kỳ quan trọng.
Đến năm 2001, Ban T tởng - Văn hoá Trung ơng phối hợp với Bộ Văn hoá
- Thông tin và viện Quản trị Doanh nghiệp, xuất bản cuốn sách Văn hoá và
kinh doanh. Trong cuốn sách này các tác giả không đề cập đến Văn hoá
doanh nghiệp mà chỉ nói đến văn hoá trong kinh doanh, quan hệ giữa văn hoá
với kinh doanh. Đây chỉ là những ý kiến gợi mở để chúng ta có thể tham khảo,
đồng thời bớc đầu làm cơ sở cho việc xây dựng lý luận về hình thành VHDN.
Ngoài ra, còn có một số công trình đã đợc nghiên cứu về VHDN và đợc

công bố nh: Văn hoá và triết lý kinh doanh của tiến sĩ Đỗ Minh Cơng (Xuất
bản năm 2000). Trong tác phẩm này, tiến sĩ Đỗ Minh Cơng đã đa ra định
nghĩa về VHDN và cấu trúc của nó. Nhng tiến sĩ Đỗ Minh Cơng lại không đi
sâu hớng nghiên cứu này, mà chỉ chọn vấn đề triết lý kinh doanh để nghiên
cứu.
Năm 2003, tác giả Trần Quốc Dân đã cho ra đời cuốn sách Tinh thần
doanh nghiệp giá trị định hớng của kinh doanh Việt Nam.
Tác giả xác định: Tinh thần doanh nghiệp chính là giá trị định hớng của
văn hoá kinh doanh Việt Nam. Nh vậy tác giả mới chỉ đi sâu nghiên cứu một
yếu tố trong văn hoá doanh nghiệp đó là Tinh thần. Ngoài ra có nhiều bài viết
liên quan đến VHDN, đợc đăng rãi rác trên các tạp chí khoa học. Nỗi bật hơn cả
là bài: Bàn về Văn hoá và Văn hóa kinh doanh của GS -TS Hoàng Vinh, đăng
trong Thông tin Văn hoá và phát triển của Khoa Văn hoá XHCN, Học viện


Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2004. GS -TS Hoàng Vinh đã đa ra
một quan niệm, muốn xây dựng thuật ngữ Văn hoá kinh doanh.
Gần đây tại khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, học viên Cao học chuyên nghành Văn hoá học, Trần Thị Thuý Vân đã
bảo vệ thành công luận văn Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn này đã có những đóng góp nhất định về
phơng diện thực tiễn xây dựng VHDN nói chung ở một địa phơng (Tp Hồ Chí
Minh), song cha chú ý nhiều đến VHDN của DNNN, đồng thời cha quan tâm
đến vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nớc với việc
xây dựng VHDN.
Tóm lại, tất cả những công trình nghiên cứu, những bài viết đã nêu ở trên,
của các tác giả rất có ý nghĩa cho việc hình thành cơ sở lý luận về VHDN. Nhng cha có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về VHDN ở
Việt Nam nói chung và ở địa bàn Thủ Đô Hà Nội nói riêng đặc biệt trong
DNNN. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài Hot ng Ca Cụng on Trong
Vic Xõy Dng Vn Húa Doanh Nghip Nh Nc Trờn a Bn H Ni

trong doanh nghiệp nhà nớc ở Thủ đô Hà Nội để nghiên cứu là nhằm muốn đợc góp một phần nho nhỏ vào xây dựng cơ sở lý luận về VHDN đồng thời đa
ra một số phơng hớng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng văn hoá
doanh nghiệp trong các DNNN và hoạt động Công đoàn cơ sở nhằm thúc đẩy
doanh nghiệp phát triển một cách bền vững trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
- Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu, các tài liệu đã có, Luận văn
khái quát, hệ thống vấn đề mang tính lý luận: VHDN, cấu trúc văn hoá hoá
doanh nghiệp và vai trò của văn hoá doanh nghiệp đối với sự phát triển của
doanh nghiệp.
- Khảo sát, tìm hiểu thực trạng xây dựng văn hoá doanh nghiệp của một số
doanh nghiệp nhà nớc và hoạt động Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá
doanh nghiệp, ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, khẳng định
vai trò của công đoàn cơ sở đối việc xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp
nhà nớc, đồng thời đa ra một số phơng hớng và giải pháp hữu hiệu nhằm nâng
cao hiệu quả xây dựng và phát triển doanh nghiệp, cũng nh nâng cao vai trò


hoạt động của Công đoàn cơ sở để giúp doanh nghiệp phát triển một cách toàn
diện và bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt dợc mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ khái niệm VHDN trên cơ sở phân biệt các khái niệm liên quan
nh Văn hoá, Văn hoá kinh tế, VHKD. Luận văn sẽ đa ra một cách chia cấu
trúc VHDN hợp lý, để nắm bắt đợc thực chất Văn hoá doanh nghiệpvà mô
tả đầy đủ các yếu tố của nó. Đồng thời chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của
VHDN trong sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng VHDN của một số doanh nghiệp nhà nớc
ở thủ đô Hà Nội. Đa ra một số phơng hớng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả VHDN ở Thủ đô Hà Nội gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn cơ sở

trong doanh nghiệp
4. Phạm vi nghiên cứu luận văn
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là một số doanh nghiệp nhà nớc tiêu
biểu trên địa bàn thủ đô Hà nội, trong đó có cả doanh nghiệp trung ơng và
doanh nghiệp địa phơng.
5.Cơ sở lí luận, phơng pháp nghiên cứu luận văn
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nớc và tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
về doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp trong tình hình mới.
Ngoài ra Luận văn còn tham khảo một số quan điểm lý luận trong các văn
kiện của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân thành phố Hà nội, Liên
đoàn Lao động Hà nội về phát triển kinh tế Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Đồng thời luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu của tập thể và
các cá nhân liên quan đến đề tài.
5.2. Phơng pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phơng pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật Mác Lênin về các mối quan hệ vật chất và ý thức, lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất, kinh tế và văn hoá.
- Luận văn sử dụng phơng pháp nghiên cứu điều tra xã hội học, khảo sát
thực tế và phỏng vấn chuyên gia và các nhà chuyên môn, cùng với phơng pháp


phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu để nghiên cứu và trình bày các vấn
đề của bản Luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần định hình khái niệm VHDN và cấu trúc của VHDN.
- Góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề xây dựng VHDN trong DNNN
và khẳng định vai trò to lớn của tổ chức Công đoàn trong việc xây dựng
VHDN. Qua đó khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nớc trong nền

kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu cho việc
nghiên cứu những vấn đề văn hoá và kinh tế, cho việc giảng dạy lĩnh vực văn
hoá ở các trờng đại học, đặc biệt là các trờng đào tạo của hệ thống Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chơng, 6 tiết.


Chơng 1
Mấy vấn đề lý luận về Văn hoá Doanh nghiệp
và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng
văn hóa doanh nghiệp
1.1. Tổng quan về văn hóa doanh nghiệp

1.1.1. Khái lợc về văn hoá
Trong lịch sử phát triển xã hội và sự hoàn thiện nhân cách con ngời, văn
hoá đồng hành với con ngời trên tất cả mọi phơng diện: hoạt động và sáng tạo.
Hoạt động nhằm bộc lộ sức mạnh bản chất ngời và hoàn thiện nhân tính. Sáng
tạo nh một đặc trng bản chất của con ngời, cái thớc đo phân biệt tồn tại ngời
với tồn tại vật, giữa ý thức tự giác của ngời với bản năng tự phát của động vật,
giữa tất yếu và tự do. Nhờ có sáng tạo mà nhân tính mới đợc khẳng định và
hoàn thiện, con ngời mới biểu hiện nh một chủ thể hoạt động và sáng tạo giá
trị.
Văn hoá thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm bởi nhiều sự khác
biệt. Nhờ nó, tự bản chất nó, văn hoá mang thuộc tính một động lc phát triển
và mang ý nghĩa của sự hoàn hảo, không ngừng vơn tới sự hoàn hảo. Bản chất
văn hoá gắn liền với bản chất con ngời. Dới tác động của văn hoá, đặc biệt là
văn hoá đạo đức và văn hoá thẩm mỹ, con ngời có thể nảy nở khát vọng, nhu

cầu trở nên tốt đẹp, cái mà từ lâu, Mác gọi là sự nãy nở nhân tính, làm cho
hoàn cảnh có tính ngời ngày càng nhiều hơn.
Giữa con ngời và văn hoá có quan hệ mật thiết với nhau. Khi nói văn
hoá hay nói con ngời, chỉ là những phạm trù tách ra để nhận thức, chúng là
những đối tợng đợc khu biệt trong nhận thức. Nhng trong tính hiện thực bản
thể của chúng, văn hoá và con ngời luôn gắn liền với nhau, biểu hiện lẫn nhau.
Không có con ngời và hoạt động ngời thì không có văn hoá. Bởi không có một
giá trị, một sản phẩm văn hoá nào ra đời nếu không có bàn tay và khối óc của
con ngời tạo nên. Ngợc lại không có văn hoá con ngời sẽ không thể tồn tại nh
một sinh thể xã hội.
Trong đời thờng, từ văn hoá dùng để đánh giá, chỉ phẩm chất u việt của
một con ngời, một hiện tợng hay một sự vật nào đó. Chẳng hạn khi nói anh ấy
c xử rất văn hoá (nghĩa là có lễ độ, đúng phép lịch sự) hoặc buổi diễn thuyết
hôm nay rất văn hoá (nghĩa là ý tởng dồi dào, diễn đạt lu loát, đợc đa số tán
thởng).


Đã có nhiều cách giải thích từ Văn hoá. Tuy diễn đạt khác nhau, nhng có
một số điểm chung mà mọi ngời đều thừa nhận rằng: Văn hoá là phơng thức
tồn tại đặc hữu của loài ngời, khác cơ bản với tổ chức đời sống các quần thể
sinh vật trên trái đất. Nó là cái do con ngời học đợc mà có, chứ không phải là
cái bẩm sinh do di truyền.
Bàn về văn hoá, Viện sĩ ngời Pháp Teihard de Chardin có đa ra một nhận
định, đại ý nói rằng: Trái đất hình thành và phát triển đến một lúc nào đó thì
xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển (Bisophere). Tiếp đó là sự ra đời
của tri quyển (Noosphere) gắn với sự xuất hiện của ngời khôn ngoan hiện đại
(Hômo - Sapiens). Trí quyển là quyển về ý thức, về tinh thần do con ngời tạo
ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đó chính là văn hoá, biểu hiện nh là
Thế giới nhân tạo của con ngời.
Để giải thích từ Văn hoá, các nhà văn hoá học phơng Tây ngày nay thờng chia ra làm hai trờng hợp:

Một là, từ Văn hoá viết hoa, số ít (LaCulture) đợc chỉ định là một thuộc
tính chỉ có ở loài ngời. Nó là cái dùng để phân biệt giữa loài ngời và loài vật.
Đó là khả năng t duy, học hỏi thích ứng và sáng tạo ra những quan niệm, biểu
tợng, giá trị, làm cơ sở cho hệ thống ứng xử, để loài ngời có thể tồn tại và phát
triển.
Hai là, từ Văn hoá không viết hoa, số nhiều (LesCultures) chỉ những
nền, kiểu văn hoá khác nhau, tức là lối sống của các thể cộng đồng, biểu
hiện trong những quan niệm về giá trị, trong hệ thống các hành vi ứng xử, mà
các cộng đồng ngời ấy học hỏi đợc và sáng tạo ra trong hoạt động sống của
họ. Đó còn là những truyền thống của cộng đồng, hình thành nên trong các
điều kiện xã hội - lịch sử nhất định.
Quan niệm về văn hoá trên đây tơng đối phù hợp với định nghĩa văn hoá
do nguyên Tổng giám đốc UNESCO Fderico Mayord đa ra, nhân dịp phát
động Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá (1988- 1997). Ông viết Văn hoá
là tổng thể sống động các họat động sáng tạo(của các cá nhân và cộng đồng)
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Xuất phát từ quan niệm trên, các nhà xã hội học chia văn hoá thành hai
hình thái: văn hoá cá nhân và văn hoá cộng đồng.


Văn hoá cá nhân là toàn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ vào mỗi các
nhân, biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của các nhân ấy trong đời
sống thực tiễn.
Văn hoá cộng đồng là văn hoá của một nhóm xã hội, nó không phải là số
cộng giản đơn của những văn hoá cá nhân - thành viên trong cộng đồng cộng
lại. Văn hoá cộng đồng là toàn bộ tri thức, kinh nghiệm, giá trị, phơng thức
ứng xữmà cả cộng động cùng chia sẽ và chấp nhập, đã trở thành truyền
thống của cộng đồng ấy. Định nghĩa văn hoá của E Mayor vừa nêu trên chính

là nói về nội dung và đặc điểm của Văn hoá công đồng.

ở Việt Nam, việc nghiên cứu văn hoá với t cách là một khoa học xã hội ra
đời rất muộn. Nhng những nhận định, quan niệm về văn hoá thì có từ rất sớm,
gắn với những tên tuổi các học giả nh Lê Quý Đôn (1773), Phan Kế Bính
(1915), Đào Duy Anh (1938), Nguyễn Văn Huyên (1944)
Nhìn chung, các công trình của các ông đợc các nhà văn hoá hiện nay
đánh giá là viết theo hớng lịch sử văn hoá, mang tính chất miêu tả là chủ yếu,
nhng rất công phu và tỷ mỷ.
Giữa thế kỷ 20 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đa ra một quan niệm về văn hoá
mà đến nay ngời ta cho vẵn còn nguyên giá giá trị: Vì lẽ sinh tồn cũng nh mục
đích của cuộc sống, loài ngời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phơng tiện sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Hiện nay, đất nớc ta ngày càng đổi mới. Đảng và Nhà nớc ta thực sự quan
tâm đến các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đặc biệt là đầu t cho lĩnh vực
nghiên cứu về văn hoá, giáo dục. Bởi vậy, những công trình nghiên cứu văn
hoá ngày càng nhiều và mang lại hiệu quả thiết thực, phục vụ đắc lực cho
công cuộc kiến thiến đất nớc, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Những công trình nghiên cứu về văn hoá ấy đã giúp cho chúng ta
nhận thức một cách đầy đủ hơn về văn hoá, văn minh thế giới cũng nh nhận
thức một cách sâu sắc hơn về văn hoá dân tộc Việt Nam. Ví dụ nh công trình
nghiên cứu của GS-TS Hoàng Vinh đã tóm lợc và giới thiệu 12 nhóm định
nghĩa về văn hoá, từ đó giúp chúng ta nhận biết về các khái niệm văn hoá một
cách đầy đủ hơn sâu sắc hơn và toàn diện hơn.
12 nhóm định nghĩa bao gồm:


(1) Định nghĩa mang tính chất miêu tả, tiêu biểu cho nhóm định nghĩa này

là Edward Burnet Tylor;
(2) Định nghĩa manh tính chất lịch sử, nhấn mạnh vào sự kế thừa di sản xã hội;
(3) Định nghĩa nhấn mạnh vào nếp sống xã hội;
(4) Định nghĩa nhấn mạnh vào sự thích ứng của con ngời với môi trờng tự
nhiên;
(5) Định nghĩa nhấn mạnh vào tính chất di truyền xã hội, tức khả năng học
tập của con ngời;
(6) Định nghĩa nhấn mạnh vào phơng thức ứng xữ;
(7) Định nghĩa nhấn mạnh vào khía cạnh t tởng của văn hoá;
(8) Định nghĩa nhấn mạnh vào phơng diện giá trị của văn hoá;
(9) Định nghĩa nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo trong lịch sử, nhằm
hình thành nên hệ thống giá trị xã hội;
(10) định nghĩa nhấn mạnh vào mô hình các thể chế xã hội;
(11) Định nghĩa nhấn mạnh vào ý nghĩa biểu trng của văn hoá;
(12) Định nghĩa mang tính chất điều khiển học [52, tr.33 - 37].
Từ sự phân tích ở trên, đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học tiếp cận
những vấn đề mới, đó là VHDN, văn hoá kinh doanh, văn hoá kinh tế tất cả
đấy là những dạng, kiểu của văn hoá, mang đầy đủ trong nó những đặc điểm,
đặc trng, thuộc tính của văn hoá tổ chức cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm Văn hóa doanh nghiệp
Khái niệm VHDN đợc cấu tạo bởi bởi hai khái niệm văn hoá và doanh
nghiệp. Để hiểu rõ nội hàm khái niệm VHDN, trớc hết ta cần làm rõ khái
niệm doanh nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm về Doanh nghiệp
Theo đại Từ điển tiếng Việt, doanh nghiệp là: tổ chức hoạt động kinh
doanh của những chủ sở hữu có t cách pháp nhân, nhằm mục đích kiếm lời ở
một hoặc nhiều ngành".
Nh vậy, thuật ngữ doanh nghiệp mang hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, có chức năng sản
xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, một cách hợp pháp theo nhu cầu của thị

trờng, nhằm đạt lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế tối đa. Nghĩa là, doanh
nghiệp bao gồm tất cả các cơ sở sản xuất - kinh doanh, từ các Tổng Công ty,


các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia đến các hộ gia đình kinh doanh cá thể
nhỏ lẻ.
Theo nghĩa hẹp: Doanh nghiệp chỉ bao gồm các cơ sở thuộc khu vực
chính thức, có đăng ký t cách pháp nhân theo các Luật Doanh nghiệp và kinh
doanh hiện hành.
Theo Khoản 1, Điều 3 Luật Doanh nghiệp đã đa ra khái niệm doanh
nghiệp nh sau; Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở, giao dịch ổn định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
ở Việt Nam chúng ta hiện nay, tuỳ theo đặc điểm về hình thức sở hữu, về
lĩnh vực sản xuất, về quy mô tổ chức sản xuất, ngời ta có thể phân ra các loại
hình doanh nghiệp theo hình thức sở hữu nh sau:
Doanh nghiệp nhà nớc:
Doanh nghiệp Nhà nớc là tổ chức kinh tế do Nhà nớc sở hửu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, đợc tổ chức dới hình thức Công ty
Nhà nớc, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn.
Doanh nghiệp nhà nớc đợc tổ chức theo những loại hình sau:
Công ty nhà nớc, là doanh nghiệp do Nhà nớc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ,
thành lập tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh
nghiệp nhà nớc.
Công ty nhà nớc có hai loại: Công ty Nhà nớc độc lập và Tổng Công ty
Nhà nớc.
Công ty Cổ phần nhà nớc là Công ty Cổ phần, mà toàn bộ cổ đông là các
công ty Nhà nớc hoặc tổ chức đợc Nhà nớc uỷ quyền góp vốn, đợc tổ chức và
hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà nớc một thành viên là Công ty trách

nhiệm hữu hạn do Nhà nớc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, đợc tổ chức quản lý và
đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà nớc có hai thành viên trở lên là Công ty
trách nhiệm hữu hạn trong đó có tất cả các thành viên đều là Công ty Nhà nớc
hoặc có thành viên là Công ty Nhà nớc và thành viên khác là tổ chức đợc Nhà
nớc uỷ quyền góp vốn, đợc tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật
Doanh nghiệp.


Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nớc là doanh nghiệp
mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nớc chiếm trên 50% vốn điều lệ. Nhà nớc
giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
Doanh nghiệp có một phần vốn Nhà nớc là doanh nghiệp mà phần vốn góp
của Nhà nớc trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
Công ty Nhà nớc giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác là Công ty sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều lệ của
doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
Công ty Nhà nớc độc lập là Công ty Nhà nớc không thuộc cơ cấu tổ chức
của Tổng công ty Nhà nớc. Vốn điều lệ của Công ty Nhà nớc là số vốn Nhà nớc đầu t vào Công ty và ghi tại Điều lệ Công ty.
1.1.2.2. Quy mô và cơ cấu của doanh nghiệp
Trong những năm đổi mới, trong chiến lợc phát triển kinh tế của Đảng ta,
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng XHCN đã tạo điều
kiện cho các thành phần kinh tế phát huy thế mạnh và khai thác mọi tiềm
năng, nguồn lực của đất nớc. Đặc biệt Nhà nớc ban hành các luật về đăng ký
kinh doanh nh; Luật Doanh nghiệp Nhà nớc, Luật đầu t nớc ngoài, Luật
Doanh nghiệp làm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng trở
nên sôi động và có hiệu quả. Số lợng doanh nghiệp trong các thành phần kinh
tế của đất nớc ngày càng tăng nhanh.
Nếu tính từ năm 2000 tổng số doanh nghiệp là 42.288 đơn vị thì đến năm
2003 tổng số doanh nghiệp lên tới 62.908 đơn vị.

- Xét theo quy mô lao động
Qua kết quả điều tra của Tổng cục thông kê, các doanh nghiệp Việt Nam
xét theo quy mô lao động phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại thời
điểm năm 2002, doanh nghiệp có số lao động từ 1000 CNLĐ trở lên chiếm tỷ
trọng rất nhỏ (1,08%) trong tổng số các doanh nghiệp hiện có. Ngợc lại,
doanh nghiệp có số lao động nhỏ chiếm tỷ trọng khá lớn cụ thể nh sau:
Doanh nghiệp - có từ 5 đến 9 lao động chiếm 28,3% trong tổng số 62.9
doanh nghiệp
Doanh nghiệp có 10 đến 49 lao động chiếm 32,94%
Doanh nghiệp có 50 đến 199 lao động chiếm 11,99%
Doanh nghiệp có 200 đến 299 lao động chiếm 2,15 %


Nh vậy, số doanh nghiệp có quy mô lao động vừa và nhỏ hiện nay ở Việt
Nam vẫn chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp, điều đó phản ánh nguồn
vốn, công nghệ, trình độ quản lý của doanh nghiệp cha cao. Nhng với việc
phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết một phần rất
lớn lao động cho xã hội và đóng góp vào nền kinh tế quốc dân một phần ngân
sách không nhỏ.
- Xét theo quy mô vốn
Tại thời điểm 31/12/2002 tổng số vốn doanh nghiệp là 1.441 nghìn tỷ
đồng, số vốn này gấp 7 lần tại thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 1995 và gấp 1,3
lần cùng thời điểm năm 2000.
Từ số liệu trên chúng ta thấy, lợng vốn đầu t vào phát triển sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng lên, góp phần mở rộng quy mô sản
xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội.
Trong tổng số vốn của doanh nghiệp hiện có, doanh nghiệp nhà nớc,
(DNNN) chiếm 62,1% tổng số vốn doanh nghiệp (895 nghìn tỷ đồng), doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, (DNNQD) chiếm 16,5% (237 nghìn tỷ đồng) và
doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài (ĐTNN) chiếm 21,4% (308 nghìn tỷ

đồng). Hiện tại và trong thời gian tiếp theo, vốn của doanh nghiệp nhà nớc vẫn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp nói chung. Mặc dù đã
có chủ trơng chuyển đổi cơ cấu, sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới phơng thức
quản lý, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nớc mà
trọng tâm là thực hiện cổ phần hoá DNNN.
Đến năm 2005 Chính phủ quy định sẽ có 40% số lợng DNNN sẽ đợc cổ
phần hoá, nhng vốn của các doanh nghiệp này chỉ chiếm 16% trong tổng
nguồn vốn của DNNN. Vì vậy, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nớc
vẫn chiếm tỷ trọng lớn về vốn.
Bảng 1.1: Doanh nghiệp phân theo quy mô vốn
Đơn vị: Doanh nghiệp
Doanh nghiệp
Tổng số doanh nghiệp
Doanh nghiệp có dới 0,5 tỷ đồng
doanh nghiệp có từ 0,5 đến dới 1 tỷ đồng
doanh nghiệp có từ 1 đến dới 5 tỷ đồng
doanh nghiệp có từ 5 đến dới 10 tỷ đồng
doanh nghiệp có từ 10 đến dới 50 tỷ đồng

2000
42288
16267
6534
10759
2745
3957

2001
51680
18326

8403
14556
3385
4623

2002
62908
18591
10994
20141
4490
5711


doanh nghiệp có từ 50 đến dới 200 tỷ đồng
doanh nghiệp có từ 200 đến 500 tỷ đồng
doanh nghiệp có từ 500 tỷ đồng trở lên

1515
312
199

1781
383
223

2160
501
260


Nguồn: Tổng cục Thống kê (2004). Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả
điều tra năm 2001, 2002, 2003 [tr.59].
Từ số liệu trên, có thể nói rằng các loại hình doanh nghiệp có quy mô, vốn,
đặc điểm, cơ chế hoạt động khác nhau.
1.1.2.3. Các quan niệm văn hóa doanh nghiệp
Nh chúng ta đã biết, doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật chất,
kinh doanh và phục vụ nhu cầu của xã hội. Những hoạt động sản xuất này đợc
thể hiện trên một dây chuyền công nghệ nhất định. Để vận hành tất cả các
khâu của dây chuyền này, trong doanh nghiệp có hệ thống hành chính hoặc hệ
thống quản lý mà trong đó mọi ngời đều phải thực hiện các chức năng của
mình hoặc là lãnh đạo cấp trên hoặc là nhân viên cấp dới. Hoạt động của
doanh nghiệp chỉ thực hiện đợc trên cơ sở có kỹ thuật công nghệ và có kỷ cơng gắn với các cấp độ quản lý. Hoạt động trong các doanh nghiệp, các tổ
chức là những con ngời. Điều này có nghĩa là trong hoạt động của mình, họ
tuân theo những quy định cụ thể nào đó và thực hiện những nghi thức nhất
định Theo ý nghĩa này, mỗi doanh nghiệp là một cộng đồng xã hội hoặc một
không gian văn hoá cụ thể.
Mỗi doanh nghiệp đợc thành lập để thực hiện mục đích do nhà kinh doanh
đặt ra. Phơng thức thực hiện mục đích kinh doanh trong doanh nghiệp đã tạo
cho doanh nghiệp một sắc thái riêng, một màu sắc riêng, một vị thế riêng. Xét
từ góc độ ấy, chúng ta có thể xác định VHDN nh một hệ thống đặc thù, đặc trng cho tổ chức đó, một hệ thống các mối liên hệ, các hành động, các tác động
qua lại và các mối quan hệ đợc thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động kinh
doanh cụ thể.
Nhà xã hội học ngời Mỹ E.N.Schein cho rằng:
Văn hóa doanh nghiệp hoặc Văn hoá tổ chức là tổng thể những
thủ pháp và quy tắc giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thích ứng
bên trong các nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá
khứ và vẫn cấp thiết trong hiện tại. Những quy tắc và những thủ pháp
này là yếu tố khởi nguồn trong việc các nhân viên lựa chọn phơng thức
hành động, phân tích và ra quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ



chức không đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp
ấy, mà coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu [1, tr.150].
Còn nhà xã hội học Pháp N.Đemetr cho rằng:
Văn hóa doanh nghiệp đó là hệ thống quan niệm, những biểu
tợng, những giá trị và mẫu hành vi đợc tất cả các thành viên chia sẻ.
Điều đó có nghĩa là trong doanh nghiệp, tất cả các thành viên đó
đều gắn bó vơí nhau bởi quan điểm chung về những vấn đề nh
doanh nghiệp đó là gì, vai trò kinh tế và xã hội của nó nh thế nào,
nó chiếm vị trí ra sao đối với những doanh nghiệp cạnh tranh với nó,
những nghĩa vụ của nó đối với khách hàng là gìChức năng văn hoá
tổ chức là tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành viên, tạo ra
hình ảnh cái chúng tôi tập thể [1, tr.151].
ở Việt Nam theo tiến sĩ Đỗ Minh Cơng trong cuốn sách: "Văn hoá và triết
lý kinh doanh" Xuất bản năm 2000, Ông đã đa ra một khái niệm VHDN nh
sau: Văn hoá kinh doanh là việc sử dung các nhân tố văn hoá vào trong hoạt
động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể tạo ra trong quá
trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù
của nó.
Còn theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh chuyên gia cao cấp của Ban sắp xếp
doanh nghiệp Chính phủ thì cho rằng "Văn hóa doanh nghiệp (Văn hoá trong
kinh doanh) trớc tiên là tôn trọng pháp luật, tôn trọng nhân phẩm con ngời,
phải giữ chử tín và điều này đòi hỏi ngời lãnh đạo doanh nghiệp phải có một
bản lĩnh đổi mới.
Từ những quan niệm về VHDN trên chúng ta thấy VHDN bao gồm các
yếu tố, thủ pháp, nguyên tắc, hệ thống quan niệm, biểu tợng, giá trị hành vi
của một cộng đồng doanh nghiệp có chức năng tổ chức, thống nhất mọi thành
viên của doanh nghiệp hớng tới mục tiêu chung vì sự phát triển của doanh
nghiệp. Với ý nghĩa đó, chúng tôi xin hệ thống lại và đa ra một quan niệm về
VHDN nh sau:

Văn hóa doanh nghiệp là một dạng của Văn hoá cộng đồng, bao gồm
những hệ thống triết lý, đạo lý kinh doanh, thông qua hệ thống tổ chức, công
nghệ, mối quan hệ ứng xử hài hòa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp,
nhằm đạt mục đích đa doanh nghiệp ngày càng phát triển.


Nh vậy, VHDN có tính ổn định và bền vững, bất chấp sự thay đổi thờng
xuyên của các cá nhân kể cả những ngời sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp.
Nó tác động sâu sắc tới động cơ hành động của doanh nghiệp, tạo thành định
hớng có tính chất chiến lợc cho bản thân doanh nghiệp. VHDN luôn đóng vai
trò nh một lực lợng hớng dẫn, nh một sức mạnh cố hữu trong doanh nghiệp là
ý chí thống nhất toàn thể lãnh đạo và nhân viên của doanh nghiệp. Văn hoá
càng mạnh và càng giữ vai trò định hớng hoạt động của doanh nghiệp mạnh
bao nhiêu, thì doanh nghiệp càng ít chỉ thị, mệnh lệnh, càng giảm bớt bộ máy
tổ chức và những điều lệnh bấy nhiêu. Một VHDN mạnh sẽ tạo nên sức mạnh
của doanh nghiệp.
1.1.3. Cơ cấu của Văn hóa doanh nghiệp
Có thể nói rằng, hiện tại ở Việt Nam chúng ta có khá nhiều quan niệm,
khái niệm về VHDN. ở mỗi ngời nghiên cứu, ở từng góc độ khác nhau lại có
một khái niệm và một cơ cấu văn hoá tơng ứng. ở đây chúng tôi nghiên cứu
cơ cấu VHDN là dựa vào những thành tố cấu thành của VHDN đã đợc nêu ở
trên. Vậy, cơ cấu VHDN đợc bao gồm các thành tố sau:
1.1.3.1. Đạo lý, triết lý kinh doanh
Việc đa đạo đức vào hoạt động kinh doanh không phải là điều mới mẻ.
Về phơng diện lịch sử, các nhà doanh nghiệp Mỹ là những ngời đầu tiên quan
tâm đến đạo đức. Ngay từ năm 1913, doanh nghiệp Penny Company đã có một
Bộ luật về đạo đức. Các tín đồ giáo phái Quây-cơ là những ngời đầu tiên
thực hiện đầu t theo tiêu chuẩn đạo đức bằng cách khớc từ đầu t vào các doanh
nghiệp sản xuất vũ khí và thuốc lá. Xu hớng này đã lan rộng ra toàn xã hội
trong những năm 50, các Hiến chơng về đạo đức liên tiếp đợc đa ra. Các ấn

phẩm văn hoá về đạo đức ngày càng phong phú, đã có nhiều Tạp chí đề cập
đến lĩnh vực này nh:
Nhật báo về đạo đức trong kinh doanh, Nhật báo về đạo đức trong
kinh doanh và nghề nghiệp.
Ngay từ lúc mới thành lập, Trờng Đại học Harvard đã đa vào giảng dạy môn
Luân lý trong thơng mại. Nội dung chính của môn học này nhằm giải quyết
những vấn đề nan giải về luân lý mà các nhà quản lý thờng gặp. Tại thị trờng
chứng khoán New york, các tín đồ Dòng Tên đã mở một trung tâm nghiên cứu về
luân lý phục vụ các chủ ngân hàng và các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo. Business


ethics là lý thuyết cơ bản về đạo đức kinh doanh ở Hoa Kỳ. Lý thuyết này bắt
nguồn từ một lôgích thực dụng, kết hợp luân lý, pháp luật và khế ớc.
ở Pháp, đạo đức trong kinh doanh trở thành đối tợng nghiên cứu ở nhiều
Hiệp hội, nhiều học giả từ những năm 60. Cũng chính trong những năm đó,
Trung tâm giới chủ Cơ đốc giáo của Pháp (CFPC), Hiệp hội cán bộ lãnh đạo
(AcaDi) đã cho xuất bản nhiều ấn phẩm, tổ chức nhiều Hội thảo về chủ đề
này. O. Geliner (1991), Chủ tịch danh dự của Cegos, là ngời đầu tiên đã xuất
bản một cuốn sách về đạo đức trong kinh doanh với tựa đề: "Đạo đức trong
kinh doanh, chú ý kẻo chệch hớng. Sau khi cuốn sách ra đời đã đợc độc giả
và các nhà quản lý doanh nghiệp đón nhận nhiệt liệt [31, tr.30].
Nh vậy, một điều khẳng định rằng các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến
các quy luật kinh tế mà phải quan tâm đến phạm trù đạo đức trong kinh doanh.
Căn cứ vào các quan niệm chung về thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa,
nghĩa vụ và danh dự có tính bền vững và truyền thống mà d luận xã hội
(khách hàng) sẽ đánh giá hành vi và phẩm giá của các nhà kinh doanh thông
qua sự thôi thúc của lơng tâm và sự kiểm soát, bình giá của d luận xã hội.
Đạo đức kinh doanh đòi hỏi việc kinh doanh phải thực hiện đúng đạo lý
dân tộc và phù hợp với các quy chuẩn về cái thiện, cái tốt và cái đẹp. Sở dĩ
nghề kinh doanh cần coi trọng tiêu chuẩn đạo đức vì sản phẩm và dịch vụ mà

nhà kinh doanh bán ra thị trờng liên quan trực tiếp tới sức khoẻ và đời sống
của mọi ngời. Khách hàng thờng không thể tự kiểm tra mọi thông tin về chất
lợng, tính năng, tác động về sản phẩm mà nhà kinh doanh đã công bố, quảng
cáo, tức là khách hàng hoàn toàn tin vào tính trung thực của của nhà kinh
doanh. Nếu những thông tin này thiếu trung thực hoặc bị cắt xén, cố ý gian
dối để vụ lợi cá nhân, thì hậu quả mà nhà kinh doanh gây ra cho khách hàng
và xã hội rất tại hại và khôn lờng.
Có thể quan niệm rằng: Đạo đức kinh doanh là một loại hình đạo đức, có
tác động và chi phối hành vi của các chủ thể hoạt động kinh doanh, nhằm
mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho doanh nghiệp.
Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi có thể khái quát một số tiêu chuẩn về
phẩm chất đạo đức trong kinh doanh nh sau:
Một là, tính trung thực: Thể hiện trong sự nhất quán giữa nói và làm, tức là
danh và thực. Không đợc dùng những thủ đoạn lừa dối, xảo trá để kiếm tiền,
không đợc quảng cáo sai sự thật. Thật sự coi trọng tính công bằng, chính đáng
và đạo lý trong sáng trong kinh doanh.


Hai là, tôn trọng khách hàng: Coi trọng những nhu cầu, sở thích và tâm lý
của khách hàng. Tôn trọng và đánh giá cao những sáng tạo, đóng góp của
nhân viên trong doanh nghiệp. Coi trọng chữ tín trong giao tiếp, buôn bán và
hoạt động kinh doanh.
Ba là, luôn vơn tới sự hoàn hảo: Không ngừng tu dỡng bản thân, luôn luôn
lắng nghe ý kiến khách hàng, luôn nỗ lực vơn lên, không cho phép tự thoả mãn
với những gì mình đã đạt đợc. Phải có hoài bảo lớn, không chịu khuất phục trớc
thách thức, quyết tâm vơn lên để thành đạt trong kinh doanh.
Bốn là, phải biết đơng đầu với thử thách: Không ngại khó khăn gian khổ,
biết lờng trớc những tình huống có thể xảy ra mà nghề kinh doanh thờng gặp
phải.
Năm là, coi trọng hiệu quả gắn liền với trách nhiệm xã hội, hiệu quả kinh

tế là thớc đo thành công, thành đạt trong kinh doanh. Muốn tiếp tục phát triển,
doanh nghiệp không những nâng cao hiệu quả, hiệu suất trong hoạt động kinh
doanh mà còn phải làm tốt công tác xã hội, gắn trách nhiệm của doanh nghiệp
với xã hội.
Còn một yếu tố quan trọng trong hệ thống tổ chức - công nghệ để từ đó
hình thành VHDN, đó là vấn đề ứng xử với môi trờng xã hội và môi trờng tự
nhiên. ứng xử hài hoà với tự nhiên, bảo vệ môi trờng tự nhiên là nét đẹp
truyền thống của con ngời Việt Nam. Nhng hiện nay trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh nghiệt ngã, nhiều doanh nghiệp vì mục đích lợi nhuận đã
không quan tâm đến sự bảo vệ mội trờng tự nhiên. Nạn phá rừng khắp cả nớc, những bải rác thải để không đúng chổ trong các thành phố lớn, đã dẫn
đến sự ô nhiễm không khí, lụt lội tàn phá mùa màng, những trận sạt lở đất ở
Hà giang, Quảng Ninh, Yên Bái gần đây nhất, đã làm hàng chục ng ời thiệt
mạng.
Qua đây chúng ta thấy rằng, một trong những thành tố để xây dựng VHDN
đó là bảo vệ mội trờng quan trọng biết nhờng nào.
1.1.3.2. Hệ thống tổ chức - công nghệ
Tổ chức là bố trí, sắp xếp công việc làm sao cho thật hợp lý để đạt hiệu quả
cao nhất. Ví dụ bố trí sắp xếp cán bộ trong cơ quan, doanh nghiệp, đặt mọi ngời
thật đúng vị trí công việc để ai cũng có thể phát huy hết năng lực, trí tuệ của
mình, góp phần xây dựng cơ quan, doanh nghiệp ngày càng phát triển.


Nh vậy, việc bố trí sắp xếp cán bộ cũng nh sắp xếp các dây chuyền sản sản
xuất công nghệ trong doanh nghiệp là một yếu tố thực sự quan trọng, nó góp
phần quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Công nghệ là một tập hợp bao gồm các quy trình, phơng pháp, kỹ năng, bí
quyết, phơng tiện, công cụ, con ngời để biến đổi các nguồn lực thành sản
phẩm phục vụ xã hội và mang về lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nó đợc thể hiện
bằng những yếu tố cơ bản sau:
Con ngời - bao gồm kiến thức chuyên môn cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, trình
độ tay nghề, kinh nghiệm, thói quen nghề nghiệp.

Công cụ - bao gồm máy móc, trang thiết bị, nhà xởng, khí cụ, đờng sá,
giao thông, bến bãi
Thông tin - bao gồm quy trình, phơng pháp, dữ liệu, thiết kế và các bí
quyết nghề nghiệp.
Nh vậy, tổ chức - công nghệ là một thành tố vô cùng quan trọng của
VHDN, nó sẽ quyết định sự thành công hay thất bại trong quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Nh đã phân tích ở trên, kinh nghiệm trong việc tổ chức, sắp xếp, quản lý
nguồn nhân lực là một yếu tố tổ chức - công nghệ của VHDN. Sắp xếp nh thế
nào cho hợp lý, quản lý nh thế nào cho tốt, để mọi thành viên trong doanh
nghiệp đều có thể cống hiến hết mình, phát huy mọi năng lực, trí tuệ, kỹ năng,
kỹ xão, kinh nghiệm thực tiễn của mỗi các nhân, tất cả đều hớng đến một mục
tiêu là doanh nghiệp phát triển. Làm đợc nh vậy gọi là kỹ năng quản lý, và nh
vậy đã vận dụng thành công các yếu tố của văn hoá vào sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, trong quá trình vận hành của doanh nghiệp còn phải thực hiện
những nguyên tắc, những quy định, những chuẩn mực về cách ứng xử cũng là
một trong những yếu tố của hệ thống tổ chức- công nghệ. Hệ thống này sẽ
giúp doanh nghiệp vận hành có trật tự, quy cũ, nền nếp và tất nhiên sẽ làm cho
doanh nghiệp hoạt động ngày càng có hiệu quả. Bởi vì những chuẩn mực ấy,
những nguyên tắc ấy, những quy định ấy vừa là ý thức, nhng vừa là trách
nhiệm tạo động lực thúc đẩy, động viên các thành viên trong doanh nghiệp hớng tới mục tiêu cao cả vì sự phát triển, phồn thịnh của doanh nghiệp, vì lợi
ích của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
Bên cạnh đó, ngoài những quy tắc, quy định mà doanh nghiệp đề ra để
quản lý đơn vị, doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm trớc một số quy định


của cộng đồng. ở Việt Nam chúng ta nói chung và thành phố Hà Nội nói
riêng, có nhiều doanh nghiệp đang phấn đấu thực hiện các phơng thức quản lý
tiên tiến nh: ISO 9000, ISO 9002, ISO 14.000, và tiêu chuẩn SA 8000. Theo
nh các chuyên gia nghiên cứu của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, SA

8000 là một hệ thống tiêu chuẩn quy định về điều kiện làm việc của ngời lao
động, đợc xem nh một giải pháp khẳng định về giá trị đạo đức của sản phẩm.
Cụ thể nó quy định rõ về trách nhiệm xã hội, liên quan đến lao động trẻ em,
lao động cỡng bức, sức khoẻ của ngời lao động, môi trờng sản xuất, tính phân
biệt đối xử và kỷ luật về giờ giấc lao động vvTóm lai tạo môi trờng lao động
tốt, có kỷ luật, nhng phải đảm bảo yếu tố nhân đạo trong quản lý lao động.
Còn ISO 9000 và ISO 9002 quy định về chất lợng sản phẩm, còn ISO 14.000
là quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trờng tự nhiên
Nh vậy, với ý nghĩa hệ thống tổ chức - công nghệ nh là một yếu tố quan
trọng tác động tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thì máy móc, dây
chuyền sản xuất hiện đại, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, sẽ tạo ra một môi trờng sản xuất, kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng suất lao động, sản phẩm
đạt chất lợng cao. Tuy nhiên trong thực tế nhiều ngời cha hiểu, họ cho rằng
đấy là yếu tố đơn thuần về vật chất, không liên quan gì đến VHDN.
Song ở đây, chúng ta xét những yếu tố đó với t cách là một trong những
yếu tố cơ bản thuộc VHDN. Bởi vì, đây là sự kết tinh của tri thức, là trình độ,
là nghệ thuật vận hành dây chuyền sản xuất, là tay nghề, kinh nghiệm, kỹ
thuật, kỹ năng, kỷ xão trong lĩnh vực sử dụng máy móc và các thiết bị khoa
học công nghệ dãn đến chất lợng sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp.
Yếu tố tổ chức - công nghệ trong VHDN còn bao gồm các yếu tố nh:
Marketing, quảng cáo. Đây là con đờng ngắn nhất để đa sản phẩm của doanh
nghiệp đến với ngời tiêu dùng đồng thời tìm kiếm đối tác trong làm ăn. Nhng
quảng cáo nh thế nào đây để vừa hấp dẫn, mang đậm yếu tố văn hoá là một
điều hơi khó đối với các doanh nghiệp. Hiện nay trên đờng phố Hà nội có
nhiều biển quảng cáo loè loẹt, thiếu văn hoá mà báo chí, Đài truyền hình nhắc
đến nhiều. Trong Marketing và quảng cáo nếu thiếu đi yếu tố văn hoá thì
không những không có hiệu quả mà còn bị phản tác dụng. Do vậy, doanh
nghiệp muốn cho khách hàng hiểu đợc sản phẩm của mình thông qua quảng
cáo, Marketing nhất thiết không thể thiếu đợc yếu tố văn hoá trong quá trình
thực hiện và sản xuất.



1.1.3.3. Hệ thống biểu hiện, thơng hiệu doanh nghiệp
Hệ thống biểu hiện, thơng hiệu trong VHDN giống nh bộ mặt của chính
doanh nghiệp. Những biểu hiện ấy bao gồm: lôgô, huy hiệu, thơng hiệu, trang
phục, biểu tợng, lễ hội, nghi thức, tiếp khách, biểu diễn văn nghệ Tất cả các
thứ đó không phải là những cái ngẫu nhiên, sẵn có mà doanh nghiệp phải trải
qua một quá trình dài tìm tòi, lựa chọn, sáng tạo, làm sao cho các biểu tợng ấy
phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của doanh nghiệp và phải mang bản sắc
riêng của doanh nghiệp mình. Ví dụ khi vào một Công ty ngời ta nhìn vào
đồng phục của những nhân viên đang mặc, ngời ta biết ngay đó là doanh
nghiệp nào. Quan trọng nhất trong hệ thống này là thơng hiệu của doanh
nghiệp.
Vậy thơng hiệu là gì?
Trong cuốn sách Xây dựng thơng hiệu mạnh và thành công Nhà xuất
bản Thống kê (9/2004) của nhà nghiên cứu ngời Mỹ JAMES
R.GREGORY, sau 13 năm nghiên cứu, sau khi khảo sát 10.000 doanh
nghiệp của 40 ngành công nghiệp ở Mỹ, ông đã đa ra khái niệm về thơng hiệu
nh sau: Thơng hiệu là một tài sản Doanh nghiệp, có thể - và phải - đợc quản lý
qua thời gian giống nh một tài sản doanh nghiệp khác [31, tr.12].
Đây là tài sản đợc kết tinh các yếu tố vật chất và tinh thần của doanh
nghiệp, đợc cả cộng đồng xây đắp và chi sẻ, giữ gìn và trao truyền từ thế này
sang thế hệ khác tạo nên.
Nh vậy, thơng hiệu là tài sản của doanh nghiệp, đã là tài sản, tất yếu thơng
hiệu sẽ mang về các lợi ích cho doanh nghiệp. Trớc tiên nó làm cho việc tiếp
thị của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Nó có thể làm chậm hoặc ngng sự xói
mòn của thị phần. Nó giúp doanh nghiệp dễ dàng tuyển mộ nhân lực có tài
năng hơn, đồng thời nó tăng sức lôi cuốn của doanh nghiệp đối với các thị trờng nhà đầu t và tài chính.
Chúng ta có thể thấy thơng hiệu sẽ mang về các lợi cho Công ty có thơng
hiệu mạnh:
1. Dẫn đến các kết quả kinh doanh tốt hơn: doanh thu, tiền lời

và luồng tiền mặt.
2. Dẫn đến nguồn tài chính tốt hơn.
3. Có thể hởng một giá cao hơn mức bình thờng.
4. Xây dựng đợc lòng trung thành của khách hàng.
5. Tạo cho tiếp thị hiệu quả hơn.


6. Tạo sự phân biệt giữa các nhà cạnh tranh.
7. Giúp Công ty tuyển dụng và giữ đợc ngời tài năng hơn.
8. Có thể đứng vững và vợt qua các cuộc khủng hoảng dễ dàng
hơn.
9. Làm chậm hay ngăn chặn sự xói mòn của thị phần.
10. Giảm thiểu các trận chiến sống còn của Công ty, do mọi
ngời đang làm việc trên các mục tiêu chung.
11. Lôi cuốn các thị trờng nhà đầu t và tài chính.
12. Giúp định hình các quyết định phức tạp của những nhà điều tiết
[31, tr.32].
Hiện nay ở Việt Nam các công ty đang từng bớc xây dựng thơng hiệu của
mình. Nh Công ty May 10, Công ty giày Thợng Đình ở Hà Nội, Công ty Tàu
biển Nam Triệu ở Hải phòng, Hãng Hàng không Việt Nam Airlines Công ty
Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà NộiTuy nhiên điều quan trọng khi mỗi
doanh nghiệp xây dựng cho mình một thơng hiệu mang bản sắc riêng thì phải
đăng ký quyền bảo hộ thơng hiệu, đồng thời phải đa hình ảnh của doanh
nghiệp đến với quần chúng rộng rãi để quảng bá cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, VHDN còn đợc thể hiện qua các Lễ hội truyền thống, kỷ
niệm sự ra đời của Công ty hay giỗ tổ nghề hoặc giao lu văn hoá vv để nâng
cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trong xã hội.
1.1.3.4. Nhân cách của nhà doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp nguồn lực con ngời là yếu tố quan trọng nhất, đồng
thời cũng là thành tố quan trọng của VHDN. Các yếu tố nh: đạo đức, tài năng,

khả năng quản lý, điều hành doanh nghiệp của mỗi thành viên trong doanh
nghiệp là nguồn lực cơ bản, ổn định và bền vững của doanh nghiệp. Làm thế
nào để phát huy đợc mọi tiềm năng sẵn có ở mỗi con ngời, thì doanh nghiệp
phải có những chiến lợc định hớng cụ thể. Một trong những định hớng quan
trọng là rèn luyện nhân cách của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Điều này
thể hiện đến việc xây dựng môi trờng nhân văn, nhân bản của Công ty. Bởi vì
mọi thành viên trong doanh nghiệp sống và làm việc trong bầu không khí hoà
thuận, vui tơi, đoàn kết giúp đở lẫn nhau chắc rằng hiệu suất công tác sẽ đợc
nâng lên rõ rệt. Ngợc lại, nếu nội bộ doanh nghiệp lục đục, mất đoàn kết,
thiếu sự cộng tác trong quá trình tổ chức sản xuất, kinh doanh, chắc chắn


không những hiệu quả lao động sẽ giảm xuống, mà uy tín của doanh nghiệp
cũng bị mất đi.
Mỗi một thành viên trong doanh nghiệp phải biết tự rèn luyện mình cả đức
lẫn tài. Muốn doanh nghiệp ngày càng phát triển thì nhất thiết mỗi thành viên
phải có tinh thần sáng tạo, cống hiến, làm việc hết khả năng của mình vì mục
tiêu chung của doanh nghiệp. Tất nhiên, bên cạnh đó doanh nghiệp luôn luôn
tạo mọi điều kiện cho mọi thành viên đợc thể hiện vai trò cá nhân của mình,
đợc trau dồi tay nghề, nâng cao kiến thức chuyên môn, phát huy đợc nhiều
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nhằm đa năng suất lao động ngày một lên cao, tạo
ra những sản phẩm mới, đẹp về kiểu dáng, đa dạng về mẫu mã, chất lợng đảm
bảo, làm vừa lòng khách hàng.
Song, điều đặc biệt quan trọng là nhân cách của nhà quản lý, nhà điều hành
doanh nghiệp, hay còn gọi là ngời đứng đầu của doanh nghiệp. Bởi vì họ là hạt
nhân trong việc xây dựng VHDN, đồng thời là tấm gơng phản ánh VHDN.
Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vai trò cá nhân của
ngời đứng đầu doanh nghiệp. Nh Lênin đã thờng nói Vai trò của lãnh tụ là
vai trò quyết định. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói Công việc thành công hay
thất bại là do cán bộ tốt hay xấu. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh cán bộ

tốt ở đây là cán bộ vừa có đức vừa có tài
Nh vậy, nhân cách của ngời đúng đầu một đơn vị quan trọng biết nhờng
nào. ở nhiều nớc trên thế giới, đã hình thành những tiêu chuẩn cơ bản dể lựa
chọn ngời lãnh đạo doanh nghiệp.
Giới quản lý Mỹ đã đa ra 6 tiêu chuẩn đối với nhà lãnh đạo doanh nghiệp:
Một là, làm việc có hiêụ quả cao, chủ động tiến thủ.
Hai là, có năng lực t duy lôgic, năng lực khái niệm hoá, năng lực phán đoán.
Ba là, quan tâm, giúp đỡ, mọi ngời bằng hành động tích cực, khéo gây ảnh
hởng đến mọi ngời.
Bốn là, lãnh đạo tập thể, sử dụng đúng quyền lực.
Năm là, cá tính, tâm lý chín muồi, biết tự kiềm chế, khách quan, cố gắng,
tự chủ.
Sáu là, có tri thức phong phú.
ở Nhật Bản, đối với một doanh nhân ngời ta đã khái quát thành 4 tiêu chuẩn:
1. Độ lợng, khoan dung.
2. Hiểu rõ nghề nghiệp, quyết đoán.


3. Dám chịu trách nhiệm.
4. Công bằng.
ở Trung Quốc, ngời tiêu biểu trong cuộc đời mu sinh bằng buôn bán đó là
Phạm Lãi, ông đã đúc kết thành 16 nguyên tắc kinh doanh căn bản, trong đó
có 5 nguyên tắc cơ bản cho mọi ngời chủ kinh doanh đó là:
1. Trớc hết ngời làm ăn buôn bán phải luôn siêng năng, tích cực, năng
động và nắm đợc mọi thời cơ.
2. Phải biết tiết kiệm, không xa hoa lãng phí.
3. Phải biết chọn ngời giúp việc ngay thẳng, không có tính tham lam, giữ
chữ tín.
4. Phải tích cực, có tinh thần trách nhiệm, có lòng say mê kinh doanh.
5. Luôn sáng suốt, bình tỉnh trong mọi tình huống, không phiêu lu mạo

hiểm, cần lấy sự chắc chắn, an toàn làm đầu [58, tr.21].
ở Việt Nam, việc xây dựng nhân cách Văn hoá doanh nhân cha đợc quan
tâm nhiều, cha đúc kết thành những tiêu chuẩn cơ bản trong kinh doanh. Nhng
rãi rác trong một số quyển sách có một vài tác giả đã đề cập đến vấn đề này.
Trong cuốn sách Văn hoá và phát triển ở Việt Namcủa Nhà xuất bản lý
luận chính trị (Năm 2004), GS - TS Hoàng Vinh đã nêu ra một số yêu cầu đối
với nhân cách nhà doanh nhân nh sau:
Một là, có tinh thần hợp tác. Có ham thích làm việc với ngời khác và đợc
ngời khác hợp tác với mình dựa trên tinh thần tự nguyện.
Hai là, có khả năng quyết đoán. mỗi khi đa ra quyết sách phải dựa vào
những dữ kiện thật, không dựa vào sức tởng tợng chủ quan. Có kả năng nhìn
xa trông rộng.
Ba là, có năng lực tổ chức, nghĩa là có thể phát huy tài năng của những ngời dới quyền mình, biết tổ chức tốt về nhân lực, tài lực và vật lực.
Bốn là, có thái độ tin cậy khi giao nhiệm vụ cho ngời khác. Nắm chắc việc
lớn, giao các việc nhỏ cho cấp dới.
Năm là, giám chịu trách nhiệm. Có ý thức trách nhiệm với cấp trên, cấp dới, với khách hàng và toàn xã hội.
Sáu là, ứng biến linh hoạt. Có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh, cơ động,
linh hoạt, không kh kh ôm lấy sai lầm, không cố chấp bảo thủ.
Bảy là, dám đổi mới. Dám chấp nhận những rủi ro do tình hình xấu tạo ra,
có ý chí và lòng tin để thay đổi tình thế, tạo ra diện mạo mới cho doanh nghiệp.


×