1. Đặt vấn đề
Trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, Giáo dục giữ một vị trí đặc
biệt quan trọng. Nó được coi là chiếc chìa khoá vàng để bước vào tương lai, là
bước mở đầu của chiến lược con người, là điều kiện cơ bản để hình thành, hoàn
thiện phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Hiện nay, thế giới đang đổi thay từng ngày nhờ sự phát triển như vũ bão
của khoa học kỹ thuật, của xu hướng toàn cầu hoá, của nền kinh tế tri thức…
Chính điều đó đòi hỏi nền giáo dục nước nhà phải đổi mới căn bản và toàn diện,
từng bước nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Đổi mới là để nâng cao chất lượng Giáo dục. Chất lượng Giáo dục - Đào
tạo được quyết định bởi rất nhiều yếu tố: chương trình, sách giáo khoa, cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học, giáo viên và học sinh…, trong đó đội ngũ giáo viên là
một trong những yếu tố then chốt, biến những mục tiêu giáo dục trở thành hiện
thực. Trong những năm gần đây, qui mô giáo dục phát triển nhanh chóng. Cùng
với sự gia tăng về mạng lưới trường lớp, số lượng học sinh là sự gia tăng về số
giáo viên tương ứng. Vì vậy, trong mỗi nhà trường lực lượng giáo viên trẻ, mới,
tương đối đông (có năm tới 60%). Trong số giáo viên này, một bộ phận nhỏ có
kiến thức chuyên môn tốt, có năng lực sư phạm, đáp ứng ngay được nhiệm vụ
dạy; Phần lớn số giáo viên còn lại kiến thức chuyên môn chưa vững vàng, thiếu
kinh nghiệm giảng dạy và kiêm nhiệm, lúng túng về phương pháp...chưa đáp ứng
được yêu cầu công tác. Tuy nhiên, những giáo viên mới này lại có sức bật nhanh
nếu được dìu dắt, bồi dưỡng, quản lý một cách khoa học. Như vậy, một trong
những bài toán thực tế được đặt ra cho các hiệu trưởng các trường THPT là: quản
lý, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên mới, nâng cao năng lực cho họ
để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của mỗi nhà trường.
Trong nhà trường THPT, hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm tổ chức,
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đào tạo của nhà trường. Một trong những mục
tiêu đó là chất lượng chuyên môn. Hoạt động chuyên môn được xem là “cái hồn”
1
của các hoạt động quản lý của hiệu trưởng. Thông qua hoạt động chuyên môn,
hiệu trưởng có thể tác động đến giáo viên về tình cảm nghề nghiệp, trách nhiệm,
lương tâm của người thầy, người dạy có thể tác động đến người học. Việc quản
lý chuyên môn của hiệu trưởng được thực hiện một cách khoa học thì hiệu quả
quản lý càng cao. Đối với mỗi đối tượng quản lý nói chung, đặc biệt là đội ngũ
giáo viên mới vào nghề nói riêng, hiệu trưởng cần có những phương pháp thích
hợp. Có như vậy mới giúp cho đội ngũ giáo viên nhà trường nói chung, giáo viên
mới nói riêng trưởng thành nhanh chóng, nâng cao được trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, yên tâm với nghề, tự tin, sáng tạo trong công tác, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ giáo dục đào tạo của nhà trường mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân và
ngành Giáo dục giao phó.
Là Hiệu trưởng của một trường THPT vùng cao, tôi luôn băn khoăn, trăn
trở làm thế nào để nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tế như trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu:
“Biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng đối với giáo viên
mới vào nghề ở trường THPT số 1 Bắc Hà” với mong muốn đóng góp một phần
công sức nhỏ bé của mình vào việc xác định hệ thống các biện pháp quản lý
chuyên môn của hiệu trưởng các trường THPT đối với đội ngũ giáo viên mới vào
nghề.
2
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
2.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác động của
quản lý bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn tự giác, phấn khởi đem hết
năng lực trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội.
2.1.2. Chức năng quản lý
Chức năng quản lý là một hoạt động cơ bản mà thông qua đó chủ thể quản
lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu xác định.Quản lý
là những tác động hướng đích với các chức năng: Lập kế hoạch, tổ chức lãnh
đạo, chỉ đạo, điều khiển, kiểm tra. Bản chất của quản lý là sự phối hợp các nỗ lực
của con người thông qua các chức năng quản lý đó.
2.1.3. Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết những công việc cụ thể
trong từng điều kiện cụ thể của công tác quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý.
Hay nói cách khác, biện pháp quản lý là những phương pháp quản lý cụ thể trong
những sự việc cụ thể, đối tượng cụ thể và tình huống cụ thể.
2.1 .4. Biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng đối
với GV mới vào nghề
Biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn là những cách thức, tổ chức,
cách giải quyết vấn đề của chủ thể quản lý trong phạm vi chuyên môn. Chủ thể
quản lí chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện vấn đề đó nhằm hoàn thành
mục tiêu, kế hoạch đã xác định (GV THPT mới vào nghề GV mới tốt nghiệp từ
các trường ĐHSP hoặc các trường đại học khác tương đương, có chứng chỉ
nghiệp vụ sư phạm theo quy định để hành nghề. Hầu hết họ là những người còn
rất trẻ cả về tuổi đời và tuổi nghề, đang công tác tại các trường THPT dưới 3
năm, trong đề tài này, chúng tôi lấy đối tượng nghiên cứu là những GV có tuổi
nghề từ 5 năm trở xuống).
3
2.2. Thực trạng năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo viên mới vào
nghề ở trường THPT số 1 Bắc Hà và những biện pháp quản lý chuyên môn
của Hiệu trưởng trường THPT số Bắc Hà với các giáo viên đó.
2.2.1. Khái quát về trường THPT số 1 Bắc Hà
Trường THPT số 1 Bắc Hà được thành lập năm 1966 là một cơ sở giáo dục
giàu truyền thống với bề dày gần 50 năm xây dựng và phát triển. Thời kì đầu
trường mới mở, cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, đội ngũ cán bộ, giáo viên ít ỏi
cùng vô vàn khó khăn của điều kiện kinh tế - xã hội song những khó khăn đó
không làm giảm ý chí và lòng yêu nghề của những nhà giáo giàu tâm huyết với sự
nghiệp cao cả "trồng người". Vượt qua thử thách, từng bước khắc phục khó khăn,
các thế hệ nhà giáo đã chung tay cùng nhân dân địa phương xây dựng ngôi trường
ngày một khang trang, nền nếp dạy học ngày một ổn định và chất lượng giáo dục
được nâng lên, đặc biệt là trong những năm gần đây. Tuy nhiên, so với sự nghiệp
phát triển giáo dục đào tạo trong toàn tỉnh và yêu cầu ngày càng cao của xã hội,
nhà trường vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng giáo dục, chất lượng đội ngũ
và CSVC. Nằm ở địa bàn vùng cao của tỉnh, nhà trường còn gặp rất nhiều khó
khăn. Một trong những khó khăn đó là, đội ngũ cán bộ giáo viên đủ về số lượng,
nhưng chưa mạnh về chất lượng, còn một bộ phận giáo viên cao tuổi trình độ
chuyên môn thấp, bộ phận giáo viên mới vào nghề thiếu kinh nghiệm, chưa đáp
ứng được yêu cầu công tác, làm ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục của nhà
trường.
2.2.2. Thực trạng đội ngũ GV mới của trường khảo sát từ năm học
2009- 2010 đến năm học 2013- 2014
Bảng 1: Đội ngũ giáo viên mới ra trường ở trường THPT số 1 Bắc Hà
từ năm học 2009- 2010 đến năm học 2013- 2014
Năm học
T.số GV
nhà
trường
GV có tuổi
nghề dưới
1 năm
GV có tuổi
nghề từ 1
đến dưới 3
năm
GV có tuổi
nghề từ 3
đến 5 năm
GV có tuổi
nghề trên 5
năm
2009- 2010
39
5
12
7
15
2010- 2011
39
15
11
13
2011- 2012
43
9
10
12
12
2012- 2013
43
4
17
10
12
4
2013- 2014
43
12
14
17
Qua bảng thống kê và điều tra ta thấy tỉ lệ giáo viên mới ra trường ( có
thâm niên giảng dạy dưới 5 năm) từ năm học 2009- 2010 đến năm học 20122013 khá cao. Số giáo viên mới này được tuyển từ nhiều nguồn: Đại học sư phạm
Hà Nội II, Đại học sư phạm Thái Nguyên, Đại học Hải Phòng, Đại học Tây
Bắc... GV mới vào nghề phần lớn chưa lập gia đình, có nhiều thời gian giành
cho công việc, giàu nhiệt huyết. Tuy nhiên, phần lớn trong số họ trình độ chuyên
môn nghiệp vụ còn non nớt, thiếu kinh nghiệm giảng dạy, xử lí tình huống sư
phạm…Vì vậy, trong quá trình thực thi nhiệm vụ giảng dạy và kiêm nhiệm, họ dê
mắc sai phạm, thiếu sót, hiệu quả công việc không cao.
2.2.3. Thực trạng chất lượng giảng dạy, công tác của giáo viên mới
trong nhà trường và các biện pháp quản lí giáo viên trẻ của hiệu trưởng
Đánh giá chung về chất lượng đội ngũ giáo viên mới trong nhà trường từ
năm học 2009- 2010 trở về trước là đạt yêu cầu. Tuy nhiên, trong cách đánh giá
còn có sự châm chước. Số giáo viên được xếp loại giờ giỏi qua các vòng hội
giảng nhà trường tổ chức, các đợt kiểm tra của Sở Giáo dục và Đào tạo là hầu
như không có. Một số giáo viên chưa tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, tự
bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn ít, không liên tục,
hiệu quả thấp. Còn có những GV bộ môn chưa chú ý đến công tác giáo dục đạo
đức học sinh, xử lý tình huống sư phạm chưa khéo léo. Mặt khác, việc bồi dưỡng
giáo viên theo chuyên đề chưa được tiến hành thường xuyên. Chương trình bồi
dưỡng thường xuyên theo chỉ đạo của bộ GD-ĐT hàng năm được thực hiện rất
hình thức, ít hiệu quả. Một số giáo viên trẻ ý thức tự bồi dưỡng chưa cao, chưa
chịu khó học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Vì vậy còn hạn chế về năng lực
chuyên môn, chưa theo kịp nhu cầu đổi mới giáo dục.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả công tác chưa được tốt của
nhiều giáo viên mới vào nghề. Tuy nhiên, ở góc độ quản lí tôi cũng nhận thấy
một phần trách nhiệm của hiệu trưởng, hiệu phó nhà trường. Hiệu trưởng nhà
trường đã quan tâm đến các phương diện: Sắp xếp công việc, phân công nhiệm
vụ cho giáo viên mới; có biện pháp chỉ đạo giáo viên mới soạn bài, chuẩn bị bài
lên lớp của GV mới; biện pháp quản lý giờ dạy trên lớp và việc thực hiện chương
trình giảng dạy của GV mới vào nghề; phân công, quản lý giáo viên mới làm
5
công tác chủ nhiệm; công tác kiểm tra đánh giá giảng dạy đối với giáo viên mới
vào nghề; công tác bồi dưỡng giáo viên mới… theo đúng qui trình quản lý. Tuy
nhiên, việc quản lý nhiều khi dựa vào kinh nghiệm thực tế của bản thân những
người quản lý. Chưa thể hiện một cách xuất sắc phong cách quản lý khoa học,
hiện đại mà vẫn gần gũi kiểu “lạt mềm buộc chặt” để công tác quản lý chuyên
môn đạt hiệu quản cao nhất. Quản lý chuyên môn còn mang tính hành chính,
công tác bồi dưỡng mang tính chất “ăn đong” mà chưa có kế hoạch lâu dài; việc
sử dụng các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích trong chuyên môn chưa được khai
thác triệt để và đặc biệt việc nâng cao nhận thức chính trị cho giáo viên chưa
được đặt đúng tầm của nó; việc tổ chức bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội
ngũ giáo viên mới chưa thật thường xuyên; Việc tìm hiểu tâm tư nguyện vọng,
khích lệ động viên có lẽ chưa kịp thời… Thêm vào đó, việc định biên, tiếp nhận
giáo viên mới còn bị động, ở một vài thời điểm chưa chú trọng đến năng lực, chất
lượng thật của giáo viên mới vào nghề. Những điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng đào tạo đội ngũ trong nhà trường.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý
chuyên môn trong nhà trường THPT, từ thực tiên quản lí, sử dụng đội ngũ giáo
viên trẻ trong nhà trường những năm qua, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm
quản lí và nhận thức rõ trách nhiệm của hiệu trưởng là phải đổi mới công tác
quản lí giáo viên mới. Dưới đây tôi xin đề xuất một số biện pháp quản lý chuyên
môn đối với giáo viên mới vào nghề, nhằm từng bước nâng cao chất lượng đội
ngũ, tạo nên được sức mạnh tổng hợp, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của nhà
trường.
2.3. Một số biện pháp quản lý chuyên môn của hiệu trưởng đối với đội
ngũ giáo viên mới vào nghề ở trường THPT
2.3.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động
chuyên môn cho GV mới vào nghề
2.3.1.1.Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:
Bồi dưỡng lòng yêu nghề, say với nghề, lòng nhân ái, lương tâm nghề
nghiệp, tính công bằng, sự nghiêm túc, làm việc kỷ cương, khoa học nhằm giúp
GV mới vào nghề có nhận thức đúng, đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của
chuyên môn, hoạt động chuyên môn ở trường THPT, tạo điều kiện để GV mới
6
nhanh chóng hòa nhập cùng tập thể sư phạm nhà trường, tự tin cống hiến năng
lực của mình trong hoạt động, công tác đặc biệt là trong công việc được giao.
2.3.1.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp
Ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng nhà trường cần tổ chức học tập nhiệm
vụ năm học, quy chế chuyên môn, nghiệp vụ. Qua buổi học tập đầu năm này,
giáo viên nói chung, giáo viên mới vào nghề nói riêng nắm bắt hiểu rõ về quy chế
chuyên môn, về các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học của ngành, về
tình hình kinh tế, chính trị trong nước, quốc tế và địa phương, về chủ trương,
đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước giúp giáo viên mở rộng hiểu biết, nâng
cao phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, góp phần đổi mới tư duy về nghề
nghiệp.
Tiếp sau đó, hiệu trưởng tổ chức bồi dưỡng “nghiệp vụ chuyên môn” cho
đội ngũ giáo viên mới vào nghề. Nghiệp vụ chuyên môn bao gồm những công
việc liên quan đến chuyên môn của người giáo viên như việc soạn bài bài trước
khi khi lên lớp, việc sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, việc thực hiện một chuyên
đề giảng dạy, thực hiện nề nếp, chương trình dạy học, cách đánh giá xếp loại học
sinh , cách tính điểm, vào sổ điểm, ghi chép các loại hồ sơ, cách quản lí lớp học,
giải quyết các tình huống sư phạm cần thiết,… Đây chính là việc cung cấp hướng
dẫn cho giáo viên cách làm, tổ chức các hoạt động chuyên môn trong trường
THPT, giúp họ có kiến thức, kĩ năng tổ chức, quản lí các hoạt động giáo dục góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Và có tri thức căn bản
đó, đội ngũ giáo viên mới vào nghề sẽ nâng cao được các kĩ năng lao động sư
phạm, từ đó thay đổi căn bản tập quán, thói quen lao động tùy tiện, nghĩ gì làm
vậy, hình thành cách làm việc thật sự khoa học và hiệu quả.
Chỉ đạo tổ chức tốt các hoạt động, công việc chuyên môn: phong phú về
nội dung, đa dạng về hình thức để giáo viên mới vào nghề có nhiều cơ hội học
hỏi, vươn lên khẳng định mình.
Tạo ra môi trường làm việc thật thoải mái, tế nhị, lịch thiệp trong tập thể
sư phạm, nhưng hiệu quả công việc phải cao. Làm cho mọi thành viên thống nhất
về quan điểm, cách thức làm việc, chia sẻ và giúp đỡ nhau trong công tác cũng
như trong đời sống.
7
Trong chuyên môn, hiệu trưởng nhà trường cần phát huy tính chủ động,
sáng tạo, khuyến khích những giáo viên mới vào nghề, những giáo viên trẻ đã
được học, trau dồi kiến thức ở trường đại học, hay đã được đi thực tập, kiến tập
sư phạm ở các trường THPT khác có những cách làm hay trong chuyên môn,
hoặc có những ý tưởng tích cực trong các mặt hoạt động của nhà trường khác với
những gì trường mình đang làm đem phổ biến trong cơ quan và đồng nghiệp, góp
phần tích cực vào quá trình quản lí hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng dạy
học, giáo dục trong mỗi nhà trường.
Hiệu trưởng cùng các phó hiệu trưởng, TTCM luôn quan tâm đến đời
sống, tâm tư, tình cảm của giáo viên. Đặc biệt là giáo viên mới vào nghề. Cần
động viên kịp thời khi họ đau ốm, gặp điều rủi ro; giúp đỡ khi họ gặp khó khăn
và biểu dương, khen thưởng kịp thời khi họ có những tiến bộ trong công tác.
Khơi dậy niềm đam mê nghề nghiệp, phát huy mọi khả năng sáng tạo của giáo
viên, khích lệ họ không ngừng phấn đấu, rèn luyện phát huy ưu điểm, khắc phục
hạn chế, có ý thức trách nhiệm và tin tưởng, tự giác an tâm với nghề nghiệp của
mình. Đó là một trong những điều kiện phát huy quyền lực sư phạm, nâng cao
nhận thức cho giáo viên nhằm thực hiện tốt việc quản lí quá trình dạy học cũng
như hoạt động chuyên môn và toàn bộ các mặt hoạt động trong nhà trường.
2.3.2. Đẩy mạnh quản lí thực hiện nội dung chương trình, nề nếp dạy
học của giáo viên
2.3.2.1. Mục đích ý nghĩa của biện pháp:
Thiết lập, xây dựng và củng cố trật tự, kỷ cương trong dạy học, lôi cuốn
được GV mới vào nghề nhanh chóng hòa nhập, quan tâm đến công việc chung,
có ý thức trách nhiệm và mau chóng trưởng thành trong chuyên môn.
Tạo ra nề nếp không khí làm việc lành mạnh, tích cực, tự giác, không gò
bó, ép buộc mang lại hiệu quả cao trong công việc.
Thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ, kiểm soát chặt chẽ và có hiệu quả chương
trình giảng dạy nhằm cụ thể hóa các chức năng, nhiệm vụ trong điều lệ nhà
trường sao cho phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tế của nhà trường, đảm bảo
cho GV hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao.
2.3.2.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp.
8
Ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng nhà trường cần phải xây dựng nề nếp
dạy học, nội quy, nguyên tắc thực hiện chương trình dạy học trong năm học.
Trước tiên, hiệu trưởng cần tập hợp các văn bản pháp qui của Bộ qui định,
qui chế chung về dạy học, các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học của
Sở GD&ĐT về dạy học để làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng kế hoạch chung
của nhà trường. Từ đó, xây dựng các qui định riêng của đơn vị với các tiêu chí cụ
thể, chi tiết để đánh giá thi đua cho chính xác, công bằng (từ việc xây dựng kế
hoạch chi tiết, giảm tải chương trình, thực hiện nề nếp ra vào lớp đúng hiệu lệnh
trống, dạy đúng thời khóa biểu, các hoạt động lên lớp, hồ sơ chuyên môn của
giáo viên, chất lượng soạn giảng, sử dụng các loại sổ sách chung, đến sinh hoạt
tổ, nhóm chuyên môn, chế độ thông tin báo cáo, đăng kí chỉ tiêu chất lượng bộ
môn, vấn đề thi đua khen thưởng…)
Tổ chức cho cán bộ, giáo viên học tập, trao đổi thảo luận và rút kinh
nghiệm cho việc thực hiện nề nếp ở năm trước. Các vấn đề tồn tại, yếu kém, chưa
thực hiện được cần phải quán triệt lại và đề ra các biện pháp khắc phục. Các vấn
đề đã thực hiện tốt phải được phát huy nhân rộng, đồng thời tuyên dương, khen
thưởng kịp thời các cá nhân giáo viên, các tổ chuyên môn thực hiện tốt.
Xây dựng được các thang điểm đánh giá thực hiện nội dung chương trình,
nề nếp dạy học. Từng tháng, từng đợt thi đua, hay từng học kỳ hiệu trưởng cần đề
ra nội dung trọng tâm và yêu cầu GV thực hiện dưới sự kiểm tra, giám sát của
TTCM, ban thi đua nhà trường nhằm chuyển hóa những yêu cầu thành nếp sống,
thành ý thức tự giác, tự chủ và tự đặt ra cho mình một chỉ tiêu cụ thể và phấn đấu
bằng được để đạt được chỉ tiêu đó.
Lập kế hoạch kiểm tra việc thực hiện các qui định, qui chế nề nếp dạy học.
Phân công trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho các tập thể, cá nhân trong trường để
quản lí. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện kế hoạch (định kì, đột xuất, của Lãnh
đạo nhà trường, của Tổ chuyên môn). Qua kiểm tra đều có kết luận, rút kinh
nghiệm, đánh giá cụ thể.
Huy động khuyến khích đội ngũ GV trong nhà trường cùng tham gia xây
dựng nề nếp dạy học, tạo sự thống nhất trong toàn cơ quan, tạo điều kiện để GV
9
mới vào nghề học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp và các thầy cô trong
cơ quan.
Xây dựng nề nếp sinh hoạt trong cơ quan, họp hội đồng hàng tháng cần tổ
chức gọn, đơn giản, có nội dung khoa học sao cho phát huy được tinh thần dân
chủ, tính tích cực chủ động sáng tạo của giáo viên trong việc tham gia đóng góp
ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả của các buổi sinh hoạt, với phương châm huy
động được sức mạnh của tập thể.
Nề nếp sinh hoạt nhóm tổ chuyên môn: Được tăng cường theo kế hoạch
của tổ, đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, thảo luận nội
dung theo các chuyên đề, trao đổi nội dung giảng dạy, nâng cao hiệu quả tự bồi
dưỡng chuyên môn.
Xây dựng nề nếp sinh hoạt các tổ chức Đảng, chính quyền, công đoàn,
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và hội cha mẹ học sinh nhằm phát huy sức mạnh của
đoàn thể trong việc chỉ đạo thực hiện qui chế.
Thực hiện có hiệu quả hệ thống bảng tin, mail cá nhân, webiste (nhà
trường) trong việc nhắc nhở, đánh giá, công tác thi đua và triển khai các hoạt
động của nhà trường theo tuần, tháng, năm học.
2.3.3. Tăng cường quản lí đổi mới phương pháp và sử dụng phương
tiện dạy học
2.3.3.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp
Cải tiến phương pháp dạy học là dựa trên những phương pháp đã có, tìm
cách khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm nhằm nâng cao chất lượng
dạy học.
Phát huy triệt để tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học
tập, rèn cho HS phương pháp học ở lớp cũng như ở nhà, thúc đẩy quá trình nhận
thức và phát triển tư duy sáng tạo của các em.
Khai thác triệt để việc sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học nhằm nâng cao
chất lượng giờ học.
Tạo động lực cho đội ngũ giáo viên mới nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm. Từ đó có năng lực quản lý điều khiển giờ học theo yêu cầu
đổi mới phương pháp dạy học sao cho hoạt động của thày, trò phối hợp nhịp
10
nhàng, từ đó từng bước nâng cao chất lượng giờ giảng và kết quả học tập của học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường
2.3.3.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp
Công tác đổi mới phương pháp dạy học phải luôn được coi là một phần
quan trọng, là chiến lược ưu tiên trong kế hoạch năm học của nhà trường. Việc
đổi mới phương pháp dạy học được coi là một nội dung chủ yếu trong sinh hoạt
hàng tuần, hàng tháng, hàng học kỳ và cả năm học.
Xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp thông qua các hoạt động: Thi
GV dạy giỏi cấp Tổ, cấp trường, xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giỏi cấp
tỉnh; sinh hoạt chuyên môn- Sinh hoạt CM theo NCBH, hội thảo chuyên đề; Bồi
dưỡng giáo viên nói chung, GV mới vào nghề nói riêng (qua tự học, tự rèn luyện,
qua bồi dưỡng thường xuyên; Ứng dụng CNTT trong giảng dạy, làm và sử dụng
ĐDDH; Hoạt động giảng dạy hàng ngày…
Triển khai thực hiện, nhà trường giao cho tổ chuyên môn tổ chức học tập
nâng cao nhận thức và hiểu biết về các phương pháp dạy học, những ưu nhược
điểm của từng phương pháp, giúp những giáo viên mới có cách lựa chọn phù hợp
với từng bộ môn, nội dung bài dạy, với đối tượng học sinh.
Đề ra những quy định, nội quy vừa bắt buộc, vừa khích lệ GV phải sử
dụng ĐDDH khi lên lớp. Khi dạy học, giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài
dạy nhằm dạy học đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng, dạy học sát đối tượng. Dạy
học phải chú ý đến trình độ kiến thức hiện có của học sinh, đặc điểm nhận thức
của học sinh và đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi học sinh, cơ sở vật chất hiện có
của nhà trường.
Tổ chức thường xuyên các hội thảo, hội nghị trao đổi kinh nghiệm giảng
dạy và các nội dung phương tiện, ĐDDH đem lại hiệu quả cao, kết hợp với việc
tổ chức dự giờ, thăm lớp, giúp đội ngũ GV trẻ có điều kiện trau dồi, học tập để
giảng dạy tốt hơn.
Phát động thi đua giữa các tổ CM về ĐMPPDH và sử dụng ĐDDH. Các tổ
CM nghiên cứu trao đổi bàn bạc về phương pháp dạy một số bài khó dạy trong
chương trình, mời các chuyên gia về phương pháp đến dự và truyền đạt kinh
nghiệm.
11
Hàng năm nhà trường có tổng kết, đánh giá việc cải tiến phương pháp dạy
của các tổ, các thành viên trong trường, có động viên kịp thời, có thưởng thoả
đáng với những giáo viên tích cực vào việc thực hiện cải tiến phương pháp dạy
học.
2.3.4. Tổ chức kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề và giao lưu chuyên
môn với đồng nghiệp ở các trường THPT trên địa bàn toàn huyện
2.3.4.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:
Nhằm khẳng định trình độ, khả năng chuyên môn của những GV có tay
nghề được phân công kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề, đồng thời, làm tăng
tinh thần trách nghiệm của các đồng nghiệp với nhau, thể hiện tình đoàn kết, thân
ái, thiện chí hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong chuyên môn.
Tạo ra một sân chơi lành mạnh về hoạt động chuyên môn để đội ngũ GV
trẻ có cơ hội thể hiện trình độ, khả năng chuyên môn, bản lĩnh và phương pháp
sư phạm trước bạn bè đồng nghiệp. Tạo vào phong trào thi đua dạy tốt giữa các
trường THPT trong toàn huyện, trở thành truyền thống để các nhà trường nói
chung, GV mới vào nghề nói riêng có thêm nhiều dịp được gặp gỡ giao lưu, học
hỏi lẫn nhau.
Huy động và phối hợp được chuyên môn nhà trường, và các tổ chức đoàn
thể tham gia các tổ chức chuyên môn làm tăng thêm tình đoàn kết, sự cổ vũ, ủng
hộ của cơ quan nhằm thực hiện tốt chất lượng dạy học trong các nhà trường.
2.3.4.2. Nội dung và cách thức chỉ dạo thực hiện biện pháp
Lãnh đạo nhà trường căn cứ vào năng lực chuyên môn của GV hiện có,
phân công GV đồng môn, có năng lực chuyên môn vững vàng, hướng dẫn thử
việc - kèm cặp GV mới vào nghề. Mỗi cặp được phân công phải xây dựng một kế
hoạch cụ thể, thống nhất, tập trung vào các công việc chủ yếu sau:
Soạn giáo án kĩ càng, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, giảm tải, xác định
trọng tâm của từng tiết dạy, thống nhất phương tiện dạy học, cách thức tổ chức
từng phần, từng mảng kiến thức của tiết dạy, thể hiện rõ phần việc của thầy, của
trò, kí duyệt giáo án trước khi đến lớp.
GV chịu trách nghiệm hướng dẫn, giúp đỡ phải thường xuyên dự giờ (mỗi
tuần ít nhất 2 tiết), chỉ đạo uốn nắn, chấn chỉnh những hạn chế thiếu sót ngay sau
12
những tiết dạy của giáo viên được giúp đỡ. GV mới phải chủ động sắp xếp thời
gian, tích cực đi dự giờ GV hướng dẫn và các đồng nghiệp khác để rút kinh
nghiệm cho bản thân.
Hướng dẫn GV mới học tập nghiêm túc các quy chế chuyên môn, nghiệp
vụ: Ghi chép các loại hồ sơ, tiến độ kiểm tra cho điểm, cách ra đề, cách đánh giá
xếp loại học sinh… GV mới vào nghề phải chủ động hỏi GV hướng dẫn và có
tinh thần tự giác thực hiện chương trình, nền nếp dạy học theo quy định.
GV hướng dẫn luôn giám sát, nhắc nhở GV mới vào nghề hoàn thành công
việc, hướng dẫn GV mới mọi vấn đề liên quan đến chuyên môn, nghiệp vụ, đến
việc tu dưỡng, đạo đức lối sống, cách ứng xử với học sinh, phụ huynh học sinh,
đồng nghiệp…trong cuộc sống, công tác hàng ngày. Như vậy, ngoài công việc
chuyên môn, GV có thể cùng chia sẻ, giúp đỡ nhau hoàn thành tốt các công việc
khác ở nhà trường, cùng nhau xây dựng tập thể sư phạm đoàn kết, thân ái, với
tinh thần: Mình vì mọi người và mọi người vì mình.
Trên cơ sở tổ chức kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề, chỉ đạo Đoàn
TNCS HCM phối hợp với chuyên môn của nhà trường kết hợp với Đoàn TNCS
HCM và chuyên môn các trường bạn cùng tổ chức giao lưu, dự giờ, thăm lớp, rút
kinh nghiệm giảng dạy, hòa nhập, thân ái cùng nhau, gặp gỡ đoàn kết làm tăng
thêm lòng yêu nghề, phát huy sức mạnh của thế hệ trẻ và tình đoàn kết giữa các
trường.
Cách tiến hành: Ban thường vụ Đoàn họp cùng nhau để xây dựng kế hoạch
thực hiện, sắp xếp thời gian hợp lý. Mỗi năm học tổ chức giao lưu chuyên môn 1
lần, luân chuyển địa điểm các trường THPT trong toàn Huyện. Mỗi trường cử 3
GV mới vào nghề ở 3 bộ môn khác nhau để thao giảng, có thể bố trí GV dạy ở
từng lớp, từng đối tượng HS khác nhau. Mời lãnh đạo nhà trường, TTCM và
100% Bí thư Đoàn thanh niên các trường THPT trong toàn huyện, GV mới vào
nghề trường sở tại, mỗi trường 5 GV mới tham gia dự giờ.
GV được giao trách nhiệm và được nhận nhiệm vụ giảng dạy để dự giờ
cần tham khảo GV được phân công kèm cặp, giúp đỡ mình, tham khảo ý kiến của
đồng nghiệp và chuẩn bị giờ dạy thật chu đáo, cố gắng thể hiện hết khả năng,
trình độ sư phạm của mình.
13
Sau mỗi buổi dạy, tổ chức họp rút kinh nghiệm giờ dạy theo tinh thần:
Không đánh giá giờ dạy, chỉ nhận xét ưu điểm, nhược điểm và đóng góp ý kiến
để người dạy có thêm những kinh nghiệm bổ ích và mau tiến bộ, trưởng thành
trong chuyên môn, tạo không khí thật thoải, vui vẻ, nghiêm túc khi nhận xét.
Cuối đợt giao lưu, tổ chức tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm, phổ biến
rộng rãi đến tất cả các trường. Đồng thời cuối năm học tổng kết, đánh giá việc
kèm cặp, giúp đỡ GV mới vào nghề, khen thưởng các cặp đôi hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao và tiếp tục duy trì hoạt động này trong những năm tiếp
theo.
2.3.5. Tăng cường quản lí hoạt động bồi dưỡng và tự bồi dưỡng trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên mới
2.3.5.1. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp
Biến hoạt động bồi dưỡng thành hoạt động TBD của GV mới vào nghề để
nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ CM, NVSP, làm động lực cho hoạt động
dạy học và nâng cao kết quả học tập cho HS.
Xây dựng cơ chế quản lí hợp lý, có hiệu quả trong việc tổ chức, chỉ đạo
hoạt động tự bồi dưỡng, tạo điều kiện để GV phát huy dân chủ, tự giác chia sẻ
kinh nghiệm dạy học đạt kết quả tốt.
Thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của GV mới để họ có nhu cầu,
kỹ năng tự học, TBD. Đổi mới tư duy về TBD và phát huy thái độ tích cực đối
với hoạt động TBD của GV mới vào nghề để họ biết vận dụng sáng tạo kiến thức
bồi dưỡng.
2.3.5.2. Nội dung tổ chức chỉ đạo thực hiện biện pháp
Việc bồi dưỡng giáo viên mới cần tuân theo những nguyên tắc, thống nhất
giữa bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và các nhiệm vụ đặt ra từ thực tiên.
Bồi dưỡng theo kế hoạch. Việc bồi dưỡng phải thu hút được tất cả giáo viên, lãnh
đạo nhà trường. Luôn cập nhật các thành tựu mới của khoa học giáo dục và kinh
nghiệm tiên tiến. Kết hợp giữa bồi dưỡng và tự bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng phải
được tiến hành liên tục, không bao giờ kết thúc. Chú ý nhu cầu đào tạo, nhu cầu
bồi dưỡng của từng cá nhân giáo viên, trên cơ sở đó mà có nội dung, phương
pháp và hình thức bồi dưỡng cho phù hợp.
14
Nhà trường cần chỉ đạo GV lập kế hoạch tự bồi dưỡng, nêu rõ trọng tâm
kiến thức cần đạt trong từng giai đoạn của năm học. Chú ý, các modun trong kế
hoạch BDTX của Sở, lựa chọn các modun cần BD trong năm theo nhiệm vụ được
phân công.
Yêu cầu mỗi GV có một sổ BDCM ghi chép chi tiết, cụ thể các kiến thức,
chuyên môn, những kinh nghiệm, PPGD, các công việc NVCM đã lĩnh hội.
Về kiến thức chuyên môn, GV tự đọc tài liệu, tìm hiểu các vấn đề cần quan
tâm, có liên quan đến CMNV của mình để nghiên cứu tìm tài liệu. Tích cực khai
thác tài liệu trên Internet, tra cứu, nắm bắt thông tin trong nước, quốc tế, tìm
kiếm kiến thức chuyên môn… góp phần mở rộng kiến thức, tầm nhìn và hoàn
thiện mình hơn.
Về nghiệp vụ sư phạm, chỉ đạo GV mới phải tự ý thức xin dự giờ của đồng
nghiệp, kể cả những người không cùng chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm
giảng dạy. Đặc biệt chú ý, dự giờ các tiết trước mình của đồng nghiệp cùng
chuyên môn để học tập, rút kinh nghiệm cho tiết dạy sau của mình, phát huy ưu
điểm, khắc phục những hạn chế của đồng nghiệp để mau tiến bộ và nâng cao chất
lượng giờ dạy, cũng như nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Lãnh đạo
nhà trường, tổ CM, người hướng dẫn thử việc tiến hành dự giờ GV mới, trao đổi,
rút kinh nghiệm.
GV mới phải tự kiểm soát các công việc nghiệp vụ của mình, tự học hỏi
kinh nghiệm đồng nghiệp, từ cách cho điểm, vào sổ điểm, tính điểm, ghi, phê học
bạ, ghi chép hồ sơ sổ sách, hoặc cách giao tiếp, ứng xử với cha mẹ học sinh…cho
đến công tác chủ nhiệm lớp, giải quyết các tình huống sư phạm cụ thể.
Tiến hành kiểm tra sổ Bồi dưỡng của GV cùng với kiểm tra hồ sơ cá nhân
định kỳ, đột xuất. Một năm tổ chức kiểm tra khảo sát kiến thức GV, kiểm tra việc
BDTX của GV 2 lần, để đánh giá công tác BDGV trong năm.
Cuối học kỳ, cuối năm học, tiến hành tổng kết, đánh giá, phổ biến những
kinh nghiệm TBD cho toàn thể đồng nghiệp trong cơ quan và có kế hoạch chỉ
đạo công tác Bồi dưỡng, tự bồi dưỡng trong năm học mới.
15
Cần kết hợp Bồi dưỡng tại chỗ, với việc cử giáo viên đi học. Việc đi học
các lớp có hệ thống hoặc tham quan điển hình giáo dục tiên tiến giúp nhận thức
và trình độ giáo viên mới được nâng lên rõ rệt.
2.3.6. Sử dụng các biện pháp tâm lí xã hội kích thích sự tự giác, tinh
thần làm việc của GV mới vào nghề
2.3.6.1. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp:
Tạo môi trường đoàn kết trong cơ quan, mọi người cùng vui vẻ, chia sẻ,
yêu quý, giúp đỡ GV mới hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo cho
họ động lực để tự kiểm soát công việc nghề nghiệp của bản thân… song vẫn giữ
được trật tự, kỷ cương nề nếp của nhà trường và quy chế chuyên môn theo quy
định.
2.3.6.2. Nội dung tổ chức, chỉ đạo thực hiện biện pháp
Hiệu trưởng luôn phải thể hiện rõ quan điểm làm việc với GV nói chung,
GV mới nói riêng, có thái độ dứt khoát nhưng tế nhị, cẩn trọng đối với công việc.
Hiệu trưởng là tấm gương sáng, khiêm nhường, đúng mực cho CB, GV, NV noi
theo. Cần tìm hiểu rõ hoàn cảnh, tính cách của GV, từ đó biết cách điều hòa các
mối quan hệ trong cơ quan. Xây dựng mối quan hệ dân chủ, bình đẳng trong giáo
dục, dạy học trên cơ sở tôn trọng kỷ cương nề nếp quy định chung của nhà
trường.
Gặp gỡ, trao đổi thường xuyên với GV mới, quan tâm đến việc phát triển
sự nghiệp của họ, tạo điều kiện giúp họ thành công và khẳng định chỗ đứng của
mình trong tập thể sư phạm.
Hiệu trưởng nhà trường phải biết khai thác và sử dụng các nhân tố tích cực
là những GV trẻ có nhiều tố chất thành công của các tổ nhóm chuyên môn để
kích thích các GV khác thi đua dạy tốt, công tác tốt bằng việc phân công hợp lý
theo hướng chuyên sâu, phù hợp với khả năng, năng lực của GV mới vào nghề,
quan tâm đến hoàn cảnh của GV, động viên thăm hỏi kịp thời, xếp TKB chú ý
đến hoàn cảnh, nguyện vọng của GV, hoặc tổ chức cho GV tham quan, du lịch
trong hè, nhằm phát huy tinh thần tự chủ và sự phát triển theo hướng tích cực của
mỗi GV.
16
Hiệu trưởng cần quan tâm xử lý tình huống, giải quyết các vụ việc, sự
kiện, hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lí, chỉ đạo hoạt động
chuyên môn của nhà trường. Trong công việc, hiệu trưởng phải luôn chú ý đến
quyền lợi của GV, cùng với Công đoàn luôn bảo vệ, chia sẻ với họ.
Hiệu trưởng luôn đặt niềm tin, thể hiện sự tin tưởng tôn trọng thế hệ trẻ,
mạnh dạn giao việc cho họ, đồng thời tìm ra những ưu điểm để khen ngợi, động
viên họ làm tốt công việc được giao. Hiệu trưởng tuyệt đối không thể hiện quyền
uy, độc đoán, soi xét, giám sát thái quá tới công việc của GV, cần làm cho họ
thấy được tôn trọng, và từ đó họ tự giác làm việc đạt hiệu quả. Tuy nhiên, cũng
phải có một yêu cầu chặt chẽ để họ được rèn giũa về nghiệp vụ sư phạm, nâng
cao trình độ chuyên môn.
2.4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo Lào Cai, Ủy ban
nhân dân huyện Bắc Hà, tích cực đưa những tri thức, kinh nghiệm tích lũy được
trong quá trình quản lý vào công tác quản lý hoạt động chuyên môn đối với giáo
viên mới vào nghề nhằm tạo đà cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
hướng tới mục tiêu xây dựng trường THPT đạt chuẩn quốc gia, chúng tôi đã áp
dụng những biện pháp trên đây vào đơn vị công tác của mình và bước đầu đã
mang đến những hiệu quả tích cực.
Một trong những xuất phát điểm quan trọng của quá trình công tác là vấn
đề nhận thức, tư tưởng. Trên cương vị người đứng đầu cơ quan, nhà trường đã
thường xuyên tác động tới nhận thức của tập thể giáo viên tầm quan trọng của
hoạt động chuyên môn đối với GV nói chung và GV mới vào nghề nói riêng
trong mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thuộc lộ trình xây dựng
trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Trong các buổi sinh hoạt Chi bộ, họp Hội
đồng, tổ chủ nhiệm hàng tháng, đoàn thể vấn đề xây dựng đội ngũ, quản lý hoạt
động chuyên môn luôn là một nội dung quan trọng được triển khai, một tiêu chí
được xem xét trước tiên để đánh giá quá trình công tác và học tập của giáo viên,
nhà trường lựa chọn cử những cán bộ giáo viên trẻ tham gia các khóa học nâng
cao trình độ, tạo điều kiện để những giáo viên chưa đạt chuẩn tiếp tục theo học
đảm bảo chuẩn hóa, các GV đã đạt chuẩn nâng chuẩn.
17
Trong quản lý hoạt động chuyên môn của GV nói chung, GV mới vào
nghề nói riêng, nhà trường đặc biệt lưu ý quản lý việc thực hiện chương trình
(quản lý giáo viên dạy đúng và dạy đủ chương trình dạy học là nắm toàn bộ
chương trình hoạt động dạy của giáo viên: Soạn bài, lên lớp, ôn tập, kiểm tra, tổ
chức các hình thức học tập ngoài lớp học); Quản lý chỉ đạo, kiểm tra việc soạn
bài và chuẩn bị giờ lên lớp; Quản lý giờ lên lớp của giáo viên, quản lý các loại hồ
sơ của giáo viên; Quản lý bồi dưỡng giáo viên. Nhà trường xây dựng kế hoạch, tổ
chức thực hiện, có kiểm tra, giám sát, điều chỉnh kế hoạch và đánh giá kết quả
thực hiện theo tháng, học kỳ và năm học. Kết quả, qua các năm, 100% GV trong
đơn vị thực hiện tốt quy chế chuyên môn, thực hiện nghiêm túc việc xây dựng kế
hoạch dạy học chi tiết, dạy học sát đối tượng (giảm tải chương trình); Đổi mới
phương pháp dạy học, có ý thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thông qua
công tác tự bồi dưỡng, thông qua dự giờ thăm lớp, sinh hoạt chuyên môn theo
nghiên cứu bài học…
Kết quả sau 4 năm thực hiện, công tác chuyên môn của nhà trường đặc biệt
công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mới có nhiều khởi sắc:
Năm học 2009- 2010 nhà trường chưa có GV có trình độ thạc sĩ (mới có
01 đỗ cao học), năm học 2013 - 2014 đã có 6 cán bộ quản lý và giáo viên theo
học các lớp cao học, hiện đã có 5 CBGV đã có bằng Thạc sĩ (trong đó có 4 giáo
viên trẻ, GV mới vào nghề).
Trình độ tay nghề của giáo viên mới được nâng cao rõ rệt hơn những năm
học trước. Trong hội thi GV dạy giỏi cấp trường năm học 2013- 2014 có 24 GV
đạt giải trong đó có 8 GV có tuổi nghề từ 5 năm trở xuống. Trong kỳ thi chọn học
sinh giỏi lớp 12, trường có 4 đội tuyển tham gia (các bộ môn văn hóa, giải toán
trên máy tính cầm tay; giải toán, tiếng anh trên Internet; nghiên cứu khoa học)
nhà trường đạt 29 giải trong đó có 6 giáo viên mới tham gia bồi dưỡng, trong đó
môn Ngữ văn, Vật lý, Địa lý đều do GV trẻ bồi dưỡng (đạt 12 giải, có 01 HS
trong đội tuyển quốc gia).
Tiêu biểu nhất trong số đó là thầy giáo Phạm Huy Dũng, giáo viên môn
Vật lý và cô giáo Nguyên Thị Mỹ Hằng, GV môn Ngữ văn, là hai GV trẻ của
trường, ra trường được 2 năm, các thầy cô đã cố gắng phấn đấu thi Cao học, trở
18
thành học viên của trường ĐHSP Hà Nội và sau 2 năm nỗ lực, cố gắng học tập,
nghiên cứu hai thầy cô giáo đã có bằng Thạc sĩ và trở về nhà trường để công tác
từ tháng 10 năm 2011 đến nay. Khi giao nhiệm vụ, hiệu trưởng đã khảo sát, tìm
hiểu năng lực thực tế và tin tưởng giao cho hai giáo viên mới này nhiệm vụ dạy
bồi dưỡng đội tuyển môn Vật lý, Ngữ văn lớp 12 của trường dự thi chọn học sinh
giỏi cấp tỉnh. Trong quá trình giao việc, hiệu trưởng luôn quan tâm, động viên,
thu thập thông tin kịp thời trao đổi giúp giáo viên có niềm tin. Với sự quản lý sát
sao, hợp lý của nhà trường, sự giúp đỡ của đồng nghiệp, cùng với sự nỗ lực của
bản thân mình, 2 giáo viên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Từ năm
học 2011 - 2012 đến nay bộ môn Vật lý của nhà trường luôn có HS đạt giải HSG
cấp tỉnh (cả văn hóa và máy tính cầm tay). Năm 2013, nhóm HS do thầy giáo
Phạm Huy Dũng hướng dẫn đã có sản phẩm dự thi đạt giải nhất cấp Tỉnh trong
cuộc thi Sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng lần thứ 8 Tỉnh Lào Cai; năm học
2013- 2014, thầy đã có 03 giải HSG môn vật lý cấp Tỉnh, trong đó 01 em trong
đội tuyển chính thức HSG Quốc gia; 04 giải MTCT cấp Tỉnh; 02 dự án Nghiên
cứu khoa học cấp Tỉnh của HS lớp 10, lớp 12 do thầy hướng dẫn đã đạt giải cấp
tỉnh. Cô giáo Nguyên Thị Mỹ Hằng cũng đã xuất sắc trong việc ôn luyện đội
tuyển, kết quả có 02 giải Văn cấp tỉnh, trong đó có 01 em trong đội dự tuyển
quốc gia. Về tinh thần tự học, tự bồi dưỡng, hai GV trẻ (Thầy Dũng và cô Hằng)
luôn vạch ra một kế hoạch học tập cho bản thân mình một cách hiệu quả, khoa
học. Chương trình bồi dưỡng chuyên đề của trường thầy cô đều tham gia đầy đủ,
có trách nhiệm và góp nhiều ý kiến sâu sắc. Dự giờ rút kinh nghiệm thường
xuyên từ đồng nghiệp, chăm chỉ đọc tài liệu tham khảo từ thư viện nhà trường.
Với phong trào bồi dưỡng, tự bồi dưỡng qua việc chỉ đạo, quản lý của hiệu
trưởng các thầy cô đều đạt GV dạy giỏi cấp trường 2 năm liền (Sở không tổ chức
thi GVDG cấp Tỉnh). Năm học 2013- 2014 Hội đồng thi đua khen thưởng của
nhà trường, xét và đề nghị Hội đồng thi đua khen thưởng cấp trên xét, công nhận
hai thầy cô giáo đạt Chiến sỹ thi đua cơ sở, thầy giáo Phạm Huy Dũng, được đề
nghị Chủ tịch UBND Tỉnh tặng Bằng khen.
19
Biểu 2: Kết quả xếp loại GV theo chuẩn nghề nghiệp, kết quả xếp loại
viên chức, xếp loại thi đua đối với GV mới (Năm học 2009- 2010 chưa xếp loại
GV theo chuẩn, nhà trường lấy kết quả kiểm tra chuyên môn)
Kết quả
T.số GV mới
ra trường (có
thâm niên
công tác dưới
5 năm)
Năm học
Năm học
Năm học
Năm học
Năm học
2009- 2010 2010- 2011 2011- 2012 2012- 2013 2013- 2014
24
GV xuất sắc
GV Khá
GV TB
GV Kém
0
5
19
0
HTXSNV
HTTNV
HTNV
0
5
19
Không
HTNV
0
CSTĐCS
LĐTT
GVDG cấp
trường
0
5
0
26
31
31
26
2
20
9
0
3
22
1
0
2
20
9
3
22
1
0
0
0
Xếp loại Thi đua
0
0
8
20
02
20
03
22
6
8
Xếp loại GV theo chuẩn
0
0
8
20
18
11
0
0
Xếp loại Viên chức
0
0
8
20
18
11
0
0
2
Kết quả xếp loại GV theo chuẩn, viên chức, thi đua đều tăng hơn so với
những năm học trước. Số lượng giáo viên đạt trình độ khá, giỏi, đảm nhận nhiệm
vụ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi năm học này tăng. Đặc biệt số giáo viên mới xếp
loại Trung bình giảm so với năm học 2012- 2013 là 8 GV.
Với tất cả các biện pháp trên, cùng với sự đồng lòng nhất trí của tập thể cán
bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh nhà trường, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo,
nhân dân địa phương, chất lượng đội ngũ của nhà trường đã có sự nâng lên rõ rệt.
Đây là điều kiện thuận lợi để xây dựng nền tảng cơ bản trong công tác giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện hướng tới mục tiêu xây dựng
20
trường THPT đạt chuẩn quốc gia, đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội tại huyện Bắc Hà nói riêng, tỉnh Lào Cai nói chung.
3. Kết luận
Trong lộ trình xây dựng trường THPT đạt chuẩn quốc gia với định hướng
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và đào tạo nguồn nhân lực ngày càng
đông về số lượng và đảm bảo chất lượng, công tác quản lí hoạt động chuyên môn
đối với GV trẻ, GV mới vào nghề là vấn đề cơ bản có vai trò nền tảng quan
trọng. Vì vậy, đề tài vừa thể hiện sự quan tâm thỏa đáng của những người làm
công tác quản lý giáo dục tới một vấn đề nan giải của giáo dục vùng cao, vừa
bước đầu vạch ra cách tiếp cận và đề xuất những biện pháp cụ thể để giải quyết
vấn đề theo đặc trưng của giáo dục Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung.
Quan điểm xuyên suốt toàn bộ đề tài là cụ thể, thiết thực, khả thi, tựu
chung lại là mang tính ứng dụng, phù hợp với đặc trưng giáo dục vùng cao, các
trường thường xuyên có sự luân chuyển giáo viên, có nhiều GV trẻ, giáo viên
mới. Bởi vậy, theo tôi, khả năng áp dụng đề tài này vào thực tế quản lý giáo dục
của địa phương là rất khả thi. Hiệu quả của nó đã được kiểm nghiệm, ít nhất là tại
một cơ sở giáo dục của tỉnh nhà - một ngôi trường THPT nằm trên huyện vùng
cao Bắc Hà. Trong tương lai, vấn đề này sẽ được quan tâm nhiều hơn nữa. Bởi
muốn phát triển hệ thống giáo dục vùng cao, nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, xa hơn nữa là cải thiện không ngừng chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng, phát triển tỉnh nhà, việc đầu tiên phải làm phải có những thầy
giáo “vừa hồng, vừa chuyên”, có đủ phẩm chất chính trị, có đủ năng lực chuyên
môn, có lòng yêu nghề.Thứ hai là xây dựng môi trường sư phạm thân thiện, nhân
văn, đảm bảo mọi điều kiện tốt nhất cán bộ, GV phát huy năng lực, sở trường
công tác, cho học sinh học tập, vui chơi. Từ đó, nâng cao chất lượng giáo dục
bằng đổi mới nội dung, cải tiến phương pháp dạy học,… Nói như vậy không có
nghĩa là nhất nhất phải theo trình tự trên. Tất cả những khâu ấy nằm trong mối
liên hệ biện chứng. Khâu trước là cơ sở của khâu sau. Đồng thời khâu sau điều
chỉnh, bổ sung, hỗ trợ khâu trước. Các khâu có thể xuyên thấm vào nhau, bổ sung
cho nhau tạo nên một tổng hòa về mặt phương pháp. Khâu đầu là nền tảng, khâu
tiếp theo là then chốt, khâu cuối cùng là quyết định.
21
Các biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng trường
THPT đối với giáo viên mới vào nghề mà đề tài đưa ra trên cơ sở thừa kế các
nghiên cứu trước đó, đồng thời xuất phát từ thực tiên quản lý hoạt động chuyên
môn của hiệu trưởng trường THPT số 1 Bắc Hà sẽ có tác dụng thiết thực đối với
việc nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Tuy nhiên các biện pháp
này được sử dụng có hiệu quả nhất khi được khai thác triệt để thế mạnh riêng phù
hợp với điều kiện thực tế từng trường. Dựa vào đặc điểm điều kiện của địa
phương, của từng trường mà người hiệu trưởng có thể tham khảo tìm ra những
điều phù hợp cho mình trong quá trình quản lý./.
22
Tài liệu tham khảo
1. Bộ GD & ĐT- Nhiệm vụ năm học 2009- 2010, 2010-2011, 2011-2012; 20122013; 2013- 2014; NXBGD 2009, 2010, 2011, 2012, 2013.
2. Các tài liệu của UBND tỉnh Lào Cai và Ngành GD&ĐT tỉnh Lào Cai
3. Chương trình hành động số 104-CTr/TU của Tỉnh uỷ thực hiện Kết luận 51KL/TW của BCH TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
4. Đề án số 11 của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XIV về “Phát triển, nâng cao chất lượng
giáo dục giai đoạn 2011-2015”;
5. Đảng công sản Việt Nam,Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính
trị Quốc gia Hà Nội, 1996.
6. Đảng công sản Việt Nam,Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính
trị Quốc gia Hà Nội, 2001.
7. Đảng công sản Việt Nam,Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 2005.
8. Đảng công sản Việt Nam,Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính
trị Quốc gia Hà Nội, 2011.
9. Trần Quốc Thành, Khoa học quản lý đại cương, Đề cương bài giảng dành cho
HV cao học, chuyên ngành QL Khoa tâm lý giáo dục trường ĐHSP, ĐHQG
Hà Nội; 2011.
10. Nguyên Quang Uẩn, Bài giảng tâm lý học quản lý lãnh đạo; ĐHSP Hà Nội
2010.
11. Đề án xây dựng trường THPT đạt Chuẩn quốc gia giai đoạn 2011- 2015 của
trường THPT số 1 Bắc Hà.
12.Các báo cáo tổng kết năm học của trường từ năm 2010 đến 2014.
23
24