Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Biện pháp quản lí hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường Tiểu học huyện Tam Đảo – Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.29 KB, 122 trang )

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Gooc ki viết: “Sức mạnh giàu có của một dân tộc không phải là ở
chỗ nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quý mà ở số lượng và
chất lượng những con người có học thức, ở sự nhạy bén năng động và khả
năng sáng tạo của trí tuệ”. Sức mạnh trí tuệ có thể giúp cá nhân con người
trở nên tự tin hơn, độc lập hơn và có khả năng giải quyết được những vấn
đề đầy thách thức mà cuộc sống vốn dĩ luôn ẩn chứa. Giáo dục là biện pháp
hữu hiệu nhằm tăng cường sức mạnh cho mỗi cá nhân. Không có quốc gia
tiên tiến nào trên thế giới, để đạt tới những thành tựu kinh tế xã hội như
ngày nay, mà không có sự đầu tư vào giáo dục. ở nước ta tầm quan trọng
của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội đã được Đảng và Nhà
nước xác định rất rõ. Đảng ta đặt con người ở vị trí trung tâm, con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Nghị quyết trung ương
4, khoá VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: “…Cùng với khoa học
và công nghệ, giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng câo dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, và coi “Giáo dục và đào tạo là
chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai”. Nghị quyết trung ương 2, khoá
VIII của Đảng, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và hội nghị
trung ương 6 khoá IX đã khẳng định: “ phát triển giáo dục - đào tạo là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy, nguồn lực con người – yếu tố cơ
bản phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Giáo dục tiểu học được coi là bậc học nền tảng, nền móng cho ngôi
nhà giáo dục, và tất nhiên chúng ta sẽ không thể xây lên được những ngôi
nhà cao, đẹp, chắc chắn, bền vững trên một nền móng yếu ớt. Giáo dục tiểu
học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ về các kĩ năng cơ
1
bản để học sinh tiếp tục học lên. Quản lí trường tiểu học, một vấn đề nhạy
cảm mang dấu ấn đặc trưng của quá trình lao động sư phạm, mà người hiệu


trưởng là hạt nhân chủ yếu ứng dụng khoa học quản lí, cải tiến các biện pháp
quản lí để thực hiện mục tiêu giáo dục và đồng thời là người chịu trách
nhiệm quản lí các hoạt động của trường mình. Công tác quản lí của người
hiệu trưởng trong các nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng chủ
yếu là quản lí hoạt động dạy học. Hiệu quả công tác quản lí phụ thuộc phần
lớn vào các biện pháp quản lí. Nếu người hiệu trưởng có các biện pháp quản
lí đúng đắn thì sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục của nhà trường. Công
tác quản lí hoạt động dạy học ở tiểu học có nhiều điểm khác với quản lí hoạt
động dạy học ở các cấp học khác. Từ khi Bộ GD - ĐT quyết định bỏ kì thi
tốt nghiệp tiểu học, công tác quản lí hoạt động dạy học ở tiểu học càng có ý
nghĩa quan trọng. Tuy vậy, việc nghiên cứu các biện pháp quản lí hoạt động
dạy học của hiệu trưởng các trưởng tiểu học nói chung, ở địa bàn miền núi
nói riêng, nhất là sau khi bỏ thi tốt nghiệp chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục nói
chung và hoạt động dạy học nói riêng ở cấp tiểu học.
Là một người trực tiếp làm công tác quản lí trường tiểu học nhiều
năm ở miền núi, chúng tôi thấy đây là một vấn đề cấp thiết vừa có ý nghĩa
lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề:
“Biện pháp quản lí hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường Tiểu
học huyện Tam Đảo – Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài góp phần hoàn thiện các biện pháp quản lí hoạt động dạy học
của hiệu trưởng các trường tiểu học, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tiểu
học ở huyện Tam Đảo – Vĩnh Phúc.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
2
Công tác quản lí trường học của hiệu trưởng các trường tiểu học
huyện Tam Đảo – Vĩnh Phúc.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Các biện pháp quản lí hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường
tiểu học.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, việc quản lí hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường
tiểu học huyện Tam Đảo đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục song
trong quá trình thực hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hiệu quả giáo dục có
thể được nâng lên nếu người hiệu trưởng thực hiện đồng bộ, sáng tạo các
biện pháp quản lí hoạt động dạy học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về quản lí hoạt động dạy học của
hiệu trưởng trường tiểu học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng về các biện pháp quản lí hoạt động dạy học của
hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Tam Đảo – Vĩnh Phúc.
5.3. Hoàn thiện các biện pháp quản lí hoạt động dạy học của hiệu trưởng góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học của huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu biện pháp quản lí hoạt động dạy học của
hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Tam Đảo – Vĩnh Phúc trong giai
đoạn từ 2005 đến 2010.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết
- Phương pháp hệ thống hoá lí thuyết
- Phương pháp mô hình hoá lí thuyết
- Phương pháp giả thuyết
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

- Phương pháp khảo nghiệm
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp chuyên gia
7.3. Nhóm các phương pháp hỗ trợ khác
- Phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương
Chương 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của
hiệu trưởng các trường tiểu học huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3. Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học của hiệu
trưởng các trường tiểu học huyện Tam Đảo
4
Chương 1
Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường nói chung
và nhà trường tiểu học nói riêng từ lâu đã trở thành vấn đề quan tâm của
các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của xã hội. Để nâng cao chất lượng dạy học, vai trò đóng góp của các
biện pháp quản lí là hết sức quan trọng. Đây cũng là vấn đề luôn được các
nhà quản lí giáo dục quan tâm nghiên cứu. ở nước ta, vấn đề quản lí nhà
trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học cũng là một vấn đề được giới
nghiên cứu quan tâm trong nhiều năm qua. Có thể kể đến các công trình
của các tác giả Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Ngọc Quang, Hoàng Chúng, Hà Sĩ
Hồ, Lê Tuấn…Trong những công trình này các tác giả đã nghiên cứu và
nêu lên những nguyên tắc chung của việc quản lí hoạt động dạy học của
người giáo viên như sau:
- Khẳng định trách nhiệm của mỗi giáo viên bộ môn là chịu trách
nhiệm về chất lượng giảng dạy học sinh trong lớp mình phụ trách.

- Đảm bảo định mức lao động với các giáo viên.
- Giúp đỡ thiết thực và cụ thể để cho các giáo viên hoàn thành tốt các
trách nhiệm của mình.
Từ các nguyên tắc chung đó các tác giả đã nhấn mạnh các vai trò
quản lí trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục tác giả Hà Sĩ Hồ và Lê Tuấn
cho rằng: “Trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo việc quản lí dạy và học là
nhiệm vụ trung tâm của nhà trường”. Đặc biệt với sự tâm huyết của mình
đối với công tác giáo dục, các tác giả đã nhấn mạnh: Hiệu trưởng phải là
người “luôn luôn biết kết hợp một cách hữu cơ sự quản lí dạy và học (theo
nghĩa rộng) với sự quản lí các quá trình bộ phận. Hoạt động dạy học của
5
các bộ môn và các hoạt động khác hỗ trợ cho hoạt động dạy học nhằm làm
cho tác động giáo dục được hoàn chỉnh trọn vẹn”.
- Biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng cho giáo viên và bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ để xây dựng tiềm lực giảng dạy cho đội ngũ giáo
viên cũng là một bộ phận được tác giả Nguyễn Văn Lê chú trọng trong các
biện pháp quản lí của hiệu trưởng [21; 5].
- Tác giả Nguyễn Thị ẩn đánh giá cao công tác thi đua và khen
thưởng trong quá trình quản lí. Bởi thi đua là động lực cho mọi thành viên
phát huy hết khả năng, trí tuệ ,động viên lẫn nhau dạy thật tốt, học thật tốt,
làm cho chất lượng và hiệu quả giáo dục ngày một nâng cao hơn [1; 3]
Tác giả Lê Ngọc Trà, Nguyễn Ngọc Thanh cũng đã nhấn mạnh
trong tài liệu “Giáo dục tiểu học – Những vấn đề đặt ra ở các nước trong
khu vực Châu á - Thái Bình Dương” như sau: “Các nhà quản lí làm công
tác giáo dục phải không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng điều hành và
quản lí của mình để qua đó tác động một cách có hiệu quả vào quá trình cải
tiến chất lượng ở các khâu, các biện pháp của hệ thống giáo dục ở cấp vi
mô cũng như vĩ mô” [33]
Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng dạy học, từ lâu đã được các nhà
nghiên cứu trong nước quan tâm. ý kiến của các nhà nghiên cứu có thể khác

nhau, nhưng điểm chung mà ta thấy trong các công trình nghiên cứu của họ
là: Khẳng định vài trò quan trọng của công tác quản lý của người hiệu
trưởng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp học, bậc học.
Đây cũng chính là một trong những tư tưởng mang tính chiến lược về phát
triển giáo dục của Đảng ta “Đổi mới mạnh mẽ nội dung – phương pháp giao
dục và quản lí giáo dục - đào tạo”. Trong Hội nghị gặp gỡ các nhà giáo tiêu
biểu ngày 12/02/2003 tại văn phòng chính phủ, Thủ tướng Phan Văn Khải,
Chủ tịch Hội đồng giáo dục quốc gia đã nói: “Nâng cao chất lượng giáo dục
là nhiệm vụ cấp bách, mà yếu tố quan trọng hàng đầu là giáo viên và cán bộ
quản lí”. Thủ tướng còn nhấn mạnh “Khâu quan trọng nhất để nâng cao chất
6
lượng giáo dục là người thầy. Chương trình, sách giáo khoa có cải tiến, cơ sở
vất chất và trang thiết bị có đầu tư bao nhiêu mà không có thầy dạy giỏi,
thầy dạy tốt, người quản lí giỏi, người quản lý tốt thì cũng vô ích” (trích dẫn
theo báo Giáo dục và thời đại số 20 ra ngày 15 /2/ 2003) [2].
Huyện Tam Đảo là một huyện miền núi mới thành lập. Biện pháp
quản lý nói chung và QLHĐDH nói riêng của hiệu trưởng tiểu học còn rất
nhiều hạn chế. Việc tìm ra các BPQLHĐDH của hiệu trưởng vừa có tính
cấp bách vừa có tính lâu dài bởi đó là công việc phải làm thường xuyên và
liên tục.
Gần đây, đã có một số luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, chuyên
ngành quản lí và tổ chức công tác văn hoá, giáo dục nghiên cứu về
BPQLHĐDH của hiệu trưởng như đề tài: Một số biện pháp quản lí hoạt
động dạy học của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở trường
THCS huyện Đông Sơn – Thanh Hoá; Các biện pháp tăng cường quản lí
hoạt động dạy học của hiệu trưởng trường THPT thành phố Hải Phòng;
Một số biện pháp nâng cao quản lí hoạt động giảng dạy của hiệu trưởng các
trường THCS vùng ven đô quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng; Các
BPQLHĐDH của hiệu trưởng trường THPT ở tỉnh Thái Nguyên… Nhưng
các đề tài này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số biện pháp quản lí

nói chung của một cấp học, chưa có đề tài nào đề cập tới các BPQLHĐDH
của hiệu trưởng tiểu học miền núi. Việc chỉ ra những BPQLHĐDH của
hiệu trưởng trường tiểu học nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ở huyện Tam
Đảo – Vĩnh Phúc, chính là vấn đề mà chúng tôi quan tâm nghiên cứu trong
luận văn này.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lí
Quản lí là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm, nó xuất hiện từ khi
con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà họ
7
không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, nó là một yếu tố cần
thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung.
Con người trải qua bao nhiêu giai đoạn phát triển với những hình thái
xã hội khác nhau thì cũng có bấy nhiêu kiểu quản lí. Quản lí vừa là biện pháp
hành chính, vừa là nghệ thuật, sau này khi khoa học phát triển, quản lí thành
khoa học ứng dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
K. Marx đã viết: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào
được thực hiện ở một quy mô tương đối lớn, đều cần ở một chừng mực nhất
định đến sự quản lí. Quản lí xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá thể và
hoàn thành những chức năng chung xuất hiện trong sự vận động của các bộ
phận riêng rẽ của nó”. [20; 9]. Như vậy, bản chất của quản lí là một loại lao
động để điều khiển lao động. Xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao
động phong phú, phức tạp thì hoạt động quản lí càng có vai trò quan trọng.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan niệm về quản lí dưới các
góc độ khác nhau:
Các nhà nghiên cứu lí luận liên bang Nga cho rằng: Quản lí một hệ
thống xã hội, là khoa học, là nghệ thuật tác động (của chủ thể quản lí) vào
hệ thống, chủ yếu là vào con người, nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế
– xã hội nhất định.[ 20; 9]
Hoặc: “Quản lí là tính toán sử dụng hợp lí các nguồn lực (nhân lực,

vật lực, tài chính) nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ bởi kết quả tối ưu về
kinh tế – xã hội” [20 ; 9]
Các tác giả nghiên cứu quản lí phương Tây cũng có những định
nghĩa quả lí rất cụ thể như: “Quản lí chính là dự báo, lập kế hoạch, tổ chức,
điều khiển, phối hợp và kiểm tra” [12; 25]
“Quản lí là một hoạt động thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực
cá nhân nhằm đạt được những mục tiêu của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà
quản lí là hình thành một môi trường mà con người có thể đạt được các
mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất.
8
Với tư cách thực hành thì quản lí là nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức thì
quản lí là khoa học [12 ; 25]
ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều khái niệm khác
nhau về quản lí: theo Từ điển tiếng Việt (1992) thì “Quản lí là hoạt động
của con người tác động vào tập thể người khác để phối hợp, điều chỉnh,
phân công thực hiện mục tiêu chung”. [32]
Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lí là sự tác động liên tục
có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí (người quản lí, tổ chức quản
lí) lên khách thể (đối tượng quản lí) về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội … bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện
cho sự phát triển của đối tượng. [10; 7]
Theo tác giả Hà Sĩ Hồ: “Quản lí là một quá trình tác động có định
hướng, có tổ chức nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định
và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định” [16; 61]
Theo tác giả Bùi Trọng Tuân: “Quản lí là chức năng của những hệ
thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật, sự vật, xã hội)
thực hiện những chương trình mục đích hành động” [30; 5]
Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lí một hệ thống
là quá trình tác động đến nó nhằm đạt được những mục tiêu nhất định

những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà nhà quản
lí mong muốn” [ 15; 225]
Theo tác giả Hoàng Chúng và Phạm Thanh Liêm: “Quản lí là tác
động có mục đích đến tập thể những con người nhằm tổ chức và phối hợp
hoạt động của họ, động viên kích thích họ trong quá trình lao động. [4]
Từ những định nghĩa trên ta rút ra một số điều khái quát là:
- Quản lí là hoạt động tất yếu của những hệ thống có tổ chức, chủ
yếu là tập thể người (nhóm).
9
- Quản lí bao giờ cũng hướng đích: có mục tiêu, có tổ chức, có các
tác động tương ứng phù hợp nhằm hướng dẫn điều khiển những đối tượng
quản lí để đạt tới những mục tiêu định sẵn.
- Quản lí bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các
thành phần.
+ Chủ thể quản lí (người quản lí, tổ chức quản lí) đề ra mục tiêu dẫn
dắt điều khiển các đối tượng quản lí để đạt tới mục tiêu đã định sẵn.
Khách thể quản lí (đối tượng quản lí) con người (được tổ chức thành
một tập thể, một xã hội …); thế giới vô sinh (các trang thiết bị kĩ thuật), thế
giới hữu sinh (vật nuôi, cây trồng…).
- Cơ chế quản lí: Những phương thức mà nhờ đó hoạt động quản lí
được thực hiện và quan hệ tương tác giữa chủ thể quản lí và khách thể
quản lí được vận hành điều chỉnh.
- Mục tiêu chung: Cho cả đối tượng quản lí và chủ thể quản lí là căn
cứ để chủ thể quản lí tạo ra các hoạt động quản lí.
* Quản lí là khoa học, là nghệ thuật sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu
quả cao nhất mà chi phí thấp nhất.
* Quản lí tạo ra mối quan hệ hữu cơ giữa chủ thể quản lí và khách thể quản
lí. Chủ thể quản lí tạo ra các tác động quản lí, còn khách thể quản lí tạo ra
các sản phẩm có giá trị sử dụng, hiện thực hoá mục tiêu đã định và thoả
mãn mục đích của nhà quản lí.

Như vậy, quản lí là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của
chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí thông qua các cơ chế quản lí, nhằm sử
dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến
động để hệ thống ổn định, phát triển, đạt những mục tiêu đã định.
Để đạt được những mục tiêu đã định, quản lí phải thông qua các
chức năng quản lí. Chức năng quản lí chính là những nội dung, những
phương thức hoạt động cơ bản mà trong quá trình quản lí, chủ thể quản lí
sử dụng nó tác động đến đối tượng quản lí để thực hiện mục tiêu quản lí.
10
Quản lí có bốn chức năng cơ bản, các chức năng này luôn luôn có
mối quan hệ mật thiết, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong quá trình quản lí, bao
gồm: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Kế hoạch hoá: là căn cứ vào thực trạng ban đầu của tổ chức và căn
cứ vào nhiệm vụ được giao mà vạch ra mục tiêu của tổ chức trong từng
thời kì, từng giai đoạn, từ đó tìm ra con đường, biện pháp, cách thức đưa tổ
chức đạt được mục tiêu đó.
Tổ chức: là những nội dung phương thức hoạt động cơ bản trong
việc thành lập cấu trúc của tổ chức mà nhờ cấu trúc đó chủ thể quản lí tác
động lên các đối tượng quản lí một cách có hiệu quả nhằm thực hiện mục
tiêu kế hoạch.
Chỉ đạo: là phương thức tác động của CTQL nhằm điều hành tổ
chức, nhân lực đã có của tổ chức (đơn vị) vận hành theo đúng kế hoạch để
thựuc hiện mục tiêu quản lí.
Kiểm tra: là những hoạt động của công tác quản lí tác động đến
khách thể quản lí nhằm đánh giá và sử lí các kết quả vận hành của tổ chức.
Như vậy: chức năng quản lí là một trong những vấn đề cơ bản của lí
luận quản lí, nó giữ vai trò to lớn trong thực tiễn quản lí, chức năng quản lí
và chu trình quản lí thể hiện đầy đủ nội dung hoạt động của chủ thể quản lí
đối với khách thể quản lí. Chính vì vậy, việc thực hiện đầy đủ các giai đoạn
quản lí trong một chu trình quản lí là cơ sở đảm bảo cho hiệu quả của toàn

bộ hệ thống được quản lí.
1.2.2. Quản lí hoạt động dạy học trong nhà trường tiểu học
Trong quản lí nhà trường, quản lí hoạt động dạy học là nhiệm vụ
hàng đầu. Quản lí hoạt động dạy học là quản lí các hiệu quả thành tố cấu
trúc của hoạt động dạy học, cần phải tạo điều kiện và tác động cho sự cộng
tác tối ưu giữa giáo viên và học sinh, nhằm xác định đúng mục tiêu, lựa
chọn nội dung chương trình thích hợp, thực hiện đúng kế hoạch, áp dụng
hài hoà các phương pháp, tận dụng các phương tiện và điều kiện có tổ chức
linh hoạt các hình thức dạy học, tìm ra phương tiện kiểm tra - đánh giá kết
11
quả dạy học đáng tin cậy. Để quản lí hoạt động dạy học có hiệu quả cần
tuyệt đối chú ý đến những vấn đề cơ bản sau:
+ Chỉ đạo nội dung chương trình dạy học: Nội dung chương trình
dạy học thường xuyên được cụ thể hoá bằng môi trường dạy học trong từng
bộ môn, thông qua nôi dung đó mà người học sinh tiếp tục hoàn thiện, phát
triển những năng lực trí tuệ và nhân cách của mình theo mục tiêu đó.
+ Quản lí việc sử dụng sách giáo khoa là pháp chế trong quản lí tài
liệu, hướng dẫn dạy và học. Tính linh hoạt trong quản lí nội dung, trong
trình dạy học thể hiện ở chỗ tinh giản, mở rộng, bổ sung những nôi dung
đặc thù trong phạm vi cần thiết đối với từng loại trường.
+ Chỉ đạo hoạt động dạy học trên lớp: Chỉ đạo phương hướng chính
trị tư tưởng bài giảng, vì phương hướng chính trị của bài giảng là yếu tố
hàng đầu góp phần hình thành sự phát triển nhân cách người học.
+ Chỉ đạo việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh: kiểm
tra, đánh giá là một khâu không thể thiếu được trong hoạt động dạy học.
Chỉ đạo việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm tác động
trực tiếp đến giáo viên để họ thực hiện đầy đủ và khoa học quá trình kiểm
tra, đánh giá trên cơ sở công bằng, khách quan nhằm thúc đẩy quá trình học
tập của học sinh và quá trình giảng dạy của giáo viên đáp ứng ngày càng
đầy đủ và vững chắc các yêu cầu do mục tiêu đã đề ra.

Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, sự tăng trưởng vượt bậc
khối lượng và tính phức tạp của sản xuất đời sống, người quản lí nói chung
và quản lí giáo dục nói rtiêng, giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Để đạt được
những yêu cầu về hoạt động dạy học thì phải có sự chỉ đạo đúng hướng của
người hiệu trưởng.
1.2.3. Biện pháp quản lí hoạt động dạy học của hiệu trưởng trường tiểu học
1.2.3.1. Khái niệm biện pháp quản lí hoạt động dạy học
Theo từ điển tiếng Việt “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một
vấn đề cụ thể”. Như vậy biện pháp là cách làm cụ thể được chủ thể sử dụng
12
trên cơ sở các phương pháp đã được xác định. Muốn hiểu rõ khái niệm biện
pháp quản lí giáo dục, trước hết chúng ta xem xét các phương pháp quản lí
giáo dục. Phương pháp quản lí giáo dục là một bộ phận đồng nhất linh hoạt
trong hệ thống quản lí, phương pháp quản lí cũng thể hiện rõ nhất tính năng
động, sáng tạo của công tác quản lí trong mỗi tình huống, mỗi đối tượng
nhất định. Người cán bộ phải biết cách sử dụng phương pháp quản lí thích
hợp. Tính hiệu quả của quản lí phụ thuộc một phần quan trọng vào việc lựa
chọn đúng đắn và áp dụng linh hoạt nhất các biện pháp quản lí. Biện pháp
quản lí chính là các cách thức cụ thể để thực hiện phương pháp quản lí.
Trong giáo dục biện pháp quản lí là tổ hợp nhiều cách thức tiến hành
của chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết
những vấn đề trong công tác quản lý làm cho hệ vận hành đạt mục tiêu mà
chủ thể quản lý đã đề ra phù hợp với quy luật khách quan.
Như vậy, biện pháp quản lý HĐDH của hiệu trưởng trường tiểu học
là những cách thức tiến hành của hiệu trưởng để tác động đến những lĩnh
vực trong quản lý HĐDH nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này và
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của cấp học.
1.2.3.2. Hoạt động dạy
Lịch sử phát triển của loài người gắn liền với giáo dục, giáo dục là
một nhu cầu không thể thiếu được của nhu cầu xã hội loài người. Nó duy

trì và bảo tồn những kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích luỹ được, nó
thựuc hiện các chức năng xã hội hết sức quan trọng đó là chức năng kĩ
thuật sản xuất, chức năng chính trị xã hội, chức năng văn hoá tư tưởng. V.I
Lênin coi giáo dục là hiện tượng tất yếu và vĩnh hằng của xã hội loài người.
Vì ở đâu có con người thì ở đó có giáo dục, có dạy học, ở đâu còn con
người ở đó còn sự truyền đạt những kinh nghiệm của xã hội loài người và
như vậy giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường, trong đó có con
đường quan trọng nhất là tổ chức dạy học, đó là con đường ngắn nhất để
chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm đã tích luỹ được của cả nhân loại. Hoạt
13
động dạy học sẽ cung cấp cho con người hệ thống kiến thức khoa học, bồi
dưỡng phương pháp tư duy sáng tạo và kĩ năng thực tiễn nhằm nâng cao
trình độ học vấn, hình thành lối sống văn hoá. Mục đích cuối cùng là hình
thành cho người học được trang bị những kiến thức mới tiếp thu một cách
năng động tự chủ, sáng tạo và vận dụng trong thực tế cuộc sống. Như vậy,
thực hiện được chức năng nâng cao dân trí cho toàn xã hội.
Dạy học được thực hiện trong môi trường thuận lợi là nhà trường.
Nội dung chương trình liên hoàn, phù hợp với từng lứa tuổi, thích ứng với
từng môi trường nghề nghiệp của địa phương. ở nhà trường phổ thông, đặc
biệt là trường tiểu học thì hoạt động dạy học là hoạt động trọng tâm, nó
giúp cho học sinh nắm vững kiến thức một cách có hệ thống qua hoạt động
dạy của thầy giáo. Theo Babanxky: chỉ có tác động qua lại giữa thầy và trò
thì mới xuất hiện bản thân quá trình dạy học – nếu không có mối liên hệ tác
động qua lại giữa dạy và học sẽ làm mất đi quá trình toàn vẹn đó. Theo
Đặng Vũ Hoạt thì: Hoạt động của thầy là hoạt động điều khiển,’.hoạt động
cuảt trò là hoạt động tự điều khiển của quá trình dạy.
Hoạt động dạy là hoạt động của thầy với vai trò là người tổ chức,
điều khiền chỉ đạo,hướng dẫn hoạt động nhận thức nói riêng và hoạt động
học tập của học sinh nói chung nhằm thực hiện các mục đích và nhiệm vụ
dạy học.Hoạt động học là quá trình nhận thức, đóng vai trò chủ động, tích

cực , tự giác và sáng tạo trong nhận thức và rèn luỵên nhân cách.. Như vậy,
hoạt động dạy học được hiểu một cách đầy đủ là bao gồm toàn bộ việc
giảng dạy, của thầy điều khiển việc học tập rèn luyện của trò theo nội dung
giáo dục toàn diện nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành người làm chủ đất nước,
có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, có văn hoá, kĩ thuật, có sức khoẻ, là những
người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới.
1.3. Vị trí của trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.3.1. Vị trí trường tiểu học
14
Trường tiểu học do nhà nước đặt ra và xây dựng nhằm thực hiện mục
tiêu giáo dục tiểu học. Do đó trường tiểu học có vị trí, chức năng và nhiệm
vụ đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp “ trồng người”.
Trong điều 2 của điều lệ trường tiểu học xác định rõ: “Trường tiểu học
là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục
quốc dân. Trường tiểu học có tư cách pháp nhân và con dấu riêng [ 7; 5]
Trong cuốn chuyên khảo “Công tác quản lí hành chính và sư phạm
của trường tiểu học” JeanValerien có ghi ý kiến của UNESCO như sau:
“Tiểu học không cần phải bàn cãi gì nữa, là cấp đào tạo chính để
cung cấp nền giáo dục cơ bản mà mọi trẻ em có quyền được hưởng” [19]
Giáo sư Phạm Tất Dong đã từng khẳng định “giáo dục tiểu học là
một bộ phận nền tảng để trên đó chúng ta xây dựng toà nhà học vấn cho
toàn dân”
Đây là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 đến 14 tuổi, thực hiện
trong 5 năm học từ lớp 1 đến lớp 5. Bậc học này nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức,
trí tuệ, thể chất thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS.
Đối với mỗi con người trong quá trình trưởng thành, trường tiểu học
là nơi con người chính thức được tổ chức học tập, rèn luyện một cách
“chính quy” nghiêm túc nhất. Trường tiểu học lần đầu tiên tác động đến trẻ
em bằng phương pháp nhà trường (bao gồm cả nội dung, phương pháp và

tổ chức giáo dục) nơi đầu tiên tổ chức một cách tự giác hoạt động học tập
với tư cách là một hoạt động chủ đạo cho trẻ em, nơi diễn ra cuộc sống
thực của trẻ em và là nơi tạo cho trẻ em có hạnh phúc đi học.
Như vậy, với tư cách là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục
quốc dân, giáo dục tiểu học có vững chắc thì mới đảm bảo được nhiệm vụ
xây dựng toàn bộ nền móng không những chỉ đạo cho giáo dục phổ thông
mà còn cho cả sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Điều 3 - luật phổ cập giáo dục tiểu học quy định mục tiêu của giáo
dục tiểu học là: “Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh nắm vững
15
các kĩ năng nói, đọc, viết, tính toán, có những hiểu biết cần thiết về thiên
nhiên, xã hội, con người, có lòng nhân ái, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu
quý anh chị em, kính trọng thầy cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi, giúp
đỡ bạn bè, em nhỏ; yêu lao động, có kỉ luật, có nếp sống văn hoá; có thói
quen rèn luyện thân thể và giữ vệ sinh; yêu quê hương đất nước, yêu hoà
bình”
Trong điều 27 khoản (2) của luật giáo dục cũng đã ghi rõ: “Giáo dục
tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS” [ 24; 20].
Mục tiêu chung của giáo dục tiểu học trong giai đoạn mới là: “Xây
dựng cấp tiểu học lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển bền vững
và về cơ bản đạt trình độ tiến triển” [ 6; 21]
Như vậy, mục tiêu của giáo dục tiểu học đã khẳng định:
+ Phát triển toàn diện con người là mục tiêu chung và lâu dài của
giáo dục phát triển. Giáo dục tiểu học chỉ hình thành cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đó.
+ Con người phát triển toàn diện phải có đầy đủ các phẩm chất và
năng lực về đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và phải có các khái niệm cơ
bản để tiếp tục học lên, sẵn sàng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

+ Học xong bậc tiểu học, học sinh phải tiếp tục học THCS
Từ mục tiêu trên, nội dung giáo dục tiểu học phải “bảo đảm cho học
sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con-->

×