Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

TẠO PHÁC đồ MIỄN DỊCH CHỦ ĐỘNG và ĐÁNH GIÁ MIỄN DỊCH TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG (mus musculus var albino) BẰNG VACCINE PHÓ THƯƠNG hàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 47 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC & KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ SINH HỌC


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Đề tài:

TẠO PHÁC ĐỒ MIỄN DỊCH CHỦ ĐỘNG VÀ ĐÁNH GIÁ
MIỄN DỊCH TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG (Mus Musculus
Var. Albino) BẰNG VACCINE PHÓ THƯƠNG HÀN
SVTH:
Đàm Thị Đào.............................2008120156
Phạm Nguyễn Hải Bằng...........2008120102
Trần Hoài Thương...................2008120165
Khâu Đăng Quang....................2008120178
Nguyễn Thị Lập........................2008120139
GVHD:
ThS. Lại Đình Biên

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 12 Năm 2015

LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cám ơn đến:


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

ThS. Lại Đình Biên – Giảng Viên Khoa Công Nghệ Sinh Học & Kỹ Thuật Môi
Trường, Trường Đại học Công nghiệp Thực Phẩm Thành Hồ Chí Minh là người trực


tiếp hướng dẫn, giúp đỡ chúng em trong suốt thời gian thực hiện đồ án.
Ban chủ nhiệm Khoa Công Nghệ Sinh Học & Kỹ Thuật Môi Trường, Trường
Đại học Công nghiệp Thực Phẩm Thành Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện về vật
chất: nơi làm việc, thiết bị, hóa chất, … để chúng em hoàn thành tốt đồ án.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2015

Nhóm sinh viên thực hiện

LỜI CAM ĐOAN


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Nhóm cam đoan rằng báo cáo đề tài đồ án chuyên ngành này là do chính nhóm
thực hiện. Các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong báo cáo là trung thực, không
sao chép từ bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Nhóm xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nội dung bài của mình.

Tp HCM, ngày 05 tháng 12 năm 2015
Nhóm sinhviên thực hiện

MỤC LỤC


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong cộng đồng sinh vật, đấu tranh sinh tồn là một trong các qui luật tự nhiên,
cho nên mọi sinh vật đều ít nhiều có khả năng tự bảo vệ chống lại sự xâm nhập của
bất kỳ vật lạ nào, nhằm bảo toàn tính toàn vẹn của chúng. Khả năng tự bảo vệ xuất

hiện ngay ở cơ thể sống nhỏ bé chưa tiến hóa.
Trước khi vắc-xin ra đời, đã xuất hiện rất nhiều dịch bệnh làm cho số ca mắc bệnh
liên quan đến virus, vi khuẩn, không ngừng tăng lên. Cùng với sự tiến hóa của sinh
vật, các biện pháp bảo vệ ngày càng phong phú và hoàn thiện, trong đó đáp ứng miễn
dịch là một biện pháp quan trọng và phức tạp nhất. Trong việc nghiên cứu về miễn
dịch thì thí nghiệm gây đáp ứng miễn dịch nhân diện kháng nguyên - kháng thể ở
chuột là thí nghiệm tốt nhất giúp nhận diện và định lượng kháng thể trong huyết thanh
chuột, giúp hiểu rõ hơn về miễn dịch và thực tế hơn.
Vì vậy, để có được những thông tin chính xác nhất nên nhóm chúng tôi chọn đề
tài:” Tạo phác đồ miễn dịch chủ động và đánh giá miễn dịch trên chuột nhắt
trắng (mus musculus var. Albino) bằng vaccine phó thương hàn”.
1.1. Mục tiêu nghiên cứu



Xây dựng được phác đồ gây miễn dịch
Xác định được cơ chế đáp ứng miễn dịch đối với vaccin Phó Thương Hàn trên chuột
nhắt trắng và khả năng đáp ứng miễn dịch của chuột nhắt với vaccin Phó Thương
Hàn.
1.2. Ý nghĩa khoa học



Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là cơ sở khoa học phục vụ cho các nghiên cứu tiếp
theo, đồng thời đóng góp tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về miễn dịch trên
động vật trong ngành thú y và miễn dịch ở người.
1.3. Ý nghĩa thực tiễn

-


Sinh viên được củng cố lại kiến thức về miễn dịch, làm quen với phương pháp
Outerlony và Macini, đặc biệt nắm được kiến thức thực tế về miễn dịch.

4


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Giới thiệu miễn dịch học
1.1.
-

Khái niệm về miễn dịch học

Trong cộng đồng sinh vật, đấu tranh sinh tồn là một trong các quy luật tự nhiên, cho
nên mọi sinh vật đều có ít nhiều khả năng tự bảo vệ để chống lại sự xâm nhập của bất

-

kỳ vật lạ nào.
Theo những quan niệm ban đầu “miễn dịch là trong khi cơ thể này không mắc bệnh
truyền nhiễm còn những cơ thể khác lại mắc bệnh truyền nhiễm tuy ở trong cùng điều

-

kiện”.
Hiện nay miễn dịch được định nghĩa: “Miễn dịch là khả năng phòng vệ của toàn bộ cơ

thể đối với các yếu tố mang thông tin di truyền ngoại lai (thông tin lạ)”.

 Vậy Miễn dịch học (immunology) là một ngành khoa học nghiên cứu về khả năng
-

phòng vệ của cơ thể sinh vật. Những nội dung chính của ngành học bao gồm:
Nghiên cứu các quy luật, cơ chế bảo vệ của cơ thể trong quá trình sống.
Nghiên cứu quá trình hoạt động của hệ miễn dịch trong cơ thể, sự tương tác và điều

-

hoà miễn dịch.
Nghiên cứu những thay đổi của hoạt động miễn dịch trong trường hợp miễn dịch bệnh

-

lý.
Ứng dụng các quy luật của hoạt động miễn dịch vào việc chẩn đoán, phòng và trị
bệnh. Lý luận của khoa học miễn dịch có liên quan chặt chẽ tới nhiều môn học như:
sinh lý học, sinh hoá học, tế bào học, bệnh lý học, sinh học phân tử, vi sinh vật học,...
1.1.1.

-

Đáp ứng miễn dịch tự nhiên ( Natural immunity)

Hệ miễn dịch tự nhiên (còn gọi là miễn dịch bẩm sinh) bao gồm các cơ chế đề kháng
đã tồn tại trong cơ thể khi chưa có nhiễm trùng và sẵn sàng đáp ứng rất nhanh khi vi
sinh vật xâm nhập. Miễn dịch tự mang tính di truyền trong các cơ thể cùng một loài.
Nói một cách khác đó là khả năng tự bảo vệ của một cá thể có ngay từ lúc mới sinh,
không đòi hỏi phải có sự tiếp xúc trước của cơ thể với kháng nguyên của vật lạ (tức là
không cần phải có giai đoạn mẫn cảm).


-

Cơ chế này phát huy tác dụng dù là kháng nguyên xâm nhập lần đầu hay những lần
sau, nhưng nó có vai trò quan trọng ở lần đầu tiên vì lúc này đáp ứng miễn dịch thu
được chưa phát huy tác dụng. Các cơ chế này chủ yếu phản ứng chống lại vi sinh vật
5


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

chứ không phản ứng với các vật lạ không phải là vi sinh vật; đồng thời chúng phản
ứng theo một cơ chế giống hệt nhau khi vi sinh vật xâm nhập tái đi tái lại.
 Các thành phần chính của miễn dịch tự nhiên bao gồm:

(1) Các hàng rào vật lý và hoá học như da, niêm mạc, các chất kháng khuẩn được
tiết ra trên các bề mặt này;
(2) Các tế bào thực bào (tế bào trung tính, đại thực bào) và tế bào NK (tế bào giết
tự nhiên);
(3) Các protein trong máu, bao gồm các thành phần của hệ thống bổ thể và các
chất trung gian khác của phản ứng viêm; và
(4) Các protein gọi là cytokin có vai trò điều hoà và phối hợp các hoạt động của tế
bào trong hệ miễn dịch tự nhiên.
 Cơ chế hoạt động củaa hệ miễn dịch tự nhiên chỉ đặc hiệu cho những cấu trúc chung
của từng nhóm vi sinh vật và không đặc hiệu cho những khác biệt tinh tế trong từng
nhóm này. Hệ miễn dịch tự nhiên tạo ra những phản ứng đầu tiên chống lại sự xâm
nhập của vi sinh vật.
1.1.2.

Đáp ứng miễn dịch thu được:


Ngược với hệ miễn dịch tự nhiên, có những đáp ứng miễn dịch khác được kích
thích bởi sự tiếp xúc với vi sinh vật và tạo ra cường độ tăng dần nếu sự tiếp xúc này
được lặp đi lặp lại. Bởi vì dạng đáp ứng này chỉ xuất hiện sau khi vi sinh vật xâm
-

nhập cơ thể nên nó được gọi là miễn dịch thu được.
Tính chất đặc biệt của đáp ứng miễn dịch thu được là tính đặc hiệu đối với từng phân
tử và khả năng “nhớ” khi phân tử đó xâm nhập trở lại cơ thể để tạo ra một đáp ứng
mạnh hơn nhiều so với lần xâm nhập đầu tiên. Hệ miễn dịch thu được có khả năng
nhận diện và phản ứng lại với nhiều vật lạ có bản chất nhiễm trùng hoặc không nhiễm
trùng. Ngoài ra, nó còn có khả năng tuyệt vời trong việc phân biệt sự khác nhau rất
nhỏ giữa các vật lạ này và vì vậy mà nó còn được gọi là miễn dịch đặc hiệu. Các thành
phần của miễn dịch thu được là tế bào lymphô và các sản phẩm của chúng. Những
chất lạ tạo ra đáp ứng miễn dịch đặc hiệu hoặc chịu tác động của hệ miễn dịch này
được gọi là kháng nguyên. Theo thói quen, các thuật ngữ “đáp ứng miễn dịch” và “hệ

6


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

thống miễn dịch” thường dùng cho đáp ứng miễn dịch thu được, trừ khi có những
nhấn mạnh riêng khác đến miễn dịch tự nhiên.
Có hai kiểu đáp ứng miễn dịch thu được, đó là đáp ứng thể dịch và đáp ứng qua
trung gian tế bào. Cả hai kiểu này đều có sự tham gia của rất nhiều thành phần của hệ
thống miễn dịch với mục đích là loại trừ nhiều loại vi sinh vật khác nhau ra khỏi cơ
thể.



Miễn dịch dịch thể
Miễn dịch dịch thể được thực hiện qua trung gian của những phân tử hiện diện
trong máu và dịch niêm mạc có tên là kháng thể, được sản xuất bởi tế bào lymphô B
(còn gọi là tế bào B). Kháng thể có khả năng nhận diện kháng nguyên vi sinh vật,
trung hoà tính gây bệnh và tác động lên vi sinh vật để loại trừ nó qua nhiều cơ chế
hiệu quả khác nhau.
Miễn dịch dịch thể là cơ chế đề kháng chủ yếu chống lại các vi sinh vật ngoại bào
cũng như độc tố của chúng theo cơ chế kháng thể liên kết với các vi sinh vật hoặc độc
tố để xúc tiến việc loại trừ. Bản thân kháng thể là những phân tử được chuyên môn
hoá, những tuýp kháng thể khác nhau có thể tạo ra nhiều cơ chế loại bỏ kháng nguyên
khác nhau. Một số tuýp kháng thể có khả năng xúc tiến hoạt động thực bào, một số
khác lại kích thích tế bào bạch cầu sản xuất ra các chất trung gian của phản ứng viêm.



Miễn dịch qua trung gian tế bào
Miễn dịch qua trung gian tế bào (còn gọi là miễn dịch tế bào) là kiểu đáp ứng được
thực hiện qua trung gian của tế bào lymphô T (còn gọi là tế bào T). Các vi sinh vật nội
bào như virus và một số vi khuẩn có khả năng sống và nhân lên trong đại thực bào
cũng như một số tế bào chủ khác, vì thế chúng không chịu tác động trực tiếp của
kháng thể lưu động trong máu. Sự đề kháng chống lại những vi sinh vật kiểu này là
chức năng của miễn dịch tế bào.

7


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Hình 1. Miễn dịch qua trung gian tế bào.
• Các thành phần tế bào của hệ thống miễn dịch thu được

Các tế bào chính của hệ miễn dịch là tế bào lymphô, tế bào trình diện kháng
nguyên, và tế bào hiệu quả.
Tế bào lymphô là những tế bào có khả năng nhận diện một cách đặc hiệu kháng
nguyên lạ và tạo phản ứng chống lại chúng. Do vậy, lymphô bào là tế bào trung gian
của cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào.
o

Tế bào lymphô B là tế bào duy nhất có thể sản xuất kháng thể. Chúng nhận diện
kháng nguyên ngoại bào (kể cả kháng nguyên trên bề mặt tế bào) và biệt hoá thành tế

o

bào tiết kháng thể, do đó chúng tác dụng như tế bào trung gian của miễn dịch dịch thể.
Tế bào lymphô T nhận diện kháng nguyên của vi sinh vật nội bào và có chức năng
tiêu diệt những vi sinh vật này hoặc những tế bào bị nhiễm trùng. Thụ thể kháng
nguyên của chúng là những phân tử màng khác với kháng thể nhưng có cấu trúc liên
quan. Tế bào T có tính đặc hiệu rất chặt chẽ đối với kháng nguyên. Chúng chỉ nhận
diện những phân tử peptid gắn với một protein bản thân được mã hoá bởi những gen
trong phức hệ hòa hợp mô chủ yếu (MHC) và được thể hiện trên bề mặt của những tế
bào khác. Như vậy, tế bào T nhận diện và phản ứng với kháng nguyên gắn trên bề mặt
8


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

tế bào chứ không phải kháng nguyên hoà tan. Tế bào T có nhiều nhóm mang chức
năng khác nhau. Được biết nhiều nhất là tế bào T giúp đỡ, T gây độc.
 Khi đáp ứng với kháng nguyên, tế bào T giúp đỡ tiết ra những protein gọi là
cytokin có chức năng kích thích sự tăng sinh và biệt hoá của tế bào T và một số tế bào
trong đó có tế bào B, đại thực bào và các bạch cầu khác. Tế bào T gây độc giết các tế

bào sản xuất ra kháng nguyên lạ như các tế bào bị nhiễm virus hay những vi khuẩn nội
bào khác. Một số tế bào T được gọi là T điều hoà có chức năng ức chế đáp ứng miễn
dịch. Bản chất và vai trò sinh lý của tế bào T điều hoà chưa được biết đầy đủ. Có một
nhóm tế bào lymphô thứ ba là tế bào giết (NK), đây là những tế bào tham gia vào hệ
thống miễn dịch bẩm sinh chống lại nhiễm trùng virus và các vi sinh vật nội bào khác.
Sự khởi động và phát triển đáp ứng miễn dịch thu được bao giờ cũng đòi hỏi kháng
nguyên phải được bắt giữ và trình diện cho tế bào lymphô. Tế bào chịu trách nhiệm
làm việc này được gọi là tế bào trình diện kháng nguyên (APC). Tế bào trình diện
kháng nguyên được chuyên môn hoá cao nhất là tế bào hình sao (dendritic), chúng bắt
giữ những vi sinh vật từ bên ngoài xâm nhập vào, vận chuyển những kháng nguyên
này đến các cơ quan lymphô và trình diện kháng nguyên cho những tế bào T để khởi
động đáp ứng miễn dịch.
 Các giai đoạn của đáp ứng miễn dịch thu được

Quá trình đáp ứng miễn dịch thu được có thể chia thành nhiều giai đoạn khác
nhau:
- Nhận diện kháng nguyên.
- Hoạt hoá tế bào lymphô.
- Giai đoạn hiệu quả (loại trừ kháng nguyên).
Sau đó là sự trở lại hằng định nội môi và duy trì tính nhớ miễn dịch (Hình 1.6).

9


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Hình 2. Các giai đoạn của đáp ứng miễn dịch thu được
1.2.

Hệ Thống Các Cơ Quan Và Tế Bào Tham Gia Vào Đáp Ứng Miễn


Dịch
Hệ thống miễn dịch gồm nhiều cơ quan và nhiều loại tế bào nằm rãi rác khắp cơ
thể, tác động qua lại nhau để dẫn đến đáp ứng miễn dịch cuối cùng.
Ngay cả trước khi khái niệm miễn dịch được hình thành, nhiều thầy thuốc cổ đại
đã mô tả những cơ quan mà về sau người ta chứng minh được là thuộc hệ miễn dịch.
Các cơ quan chính của hệ miễn dịch gồm tuyến ức, lách, tủy xương, các mạch
lympho, hạch lympho và các mô lympho thứ cấp (như các hạch amiđan, V.A.) và da.
Các cơ quan chính, tuyến ức và lách, đã được nghiên cứu đơn thuần về mặt mô học
qua các tử thiết. Ngoài ra, có thể dùng phẫu thuật lấy ra các hạch lympho và một số
mô lympho thứ cấp để nghiên cứu khi bệnh nhân còn sống (sinh thiết).
Nhiều tế bào thuộc hệ miễn dịch không liên kết với một cơ quan đặc biệt nào, mà
chỉ tập trung hoặc lưu chuyển giữa nhiều mô trong khắp cơ thể.
Tất cả các tế bào tham gia vào đáp ứng miễn dịch (ĐƯMĐ) đều có nguồn gốc
chung là tế bào gốc ở tủy xương; chúng được biệt hóa để tạo thành các dòng tế bào
khác nhau.

10


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Trong hệ thống miễn dịch có 2 loại tế bào chính là: Các tế bào lympho và các đại
thực bào
Dòng tạo máu biệt hóa thành các tế bào mono (monocyte, tiếng Hy Lạp: mono =
đơn, cyte = tế bào), từ tế bào này tạo ra đại thực bào và tế bào tua, tức là các tế bào
đơn nhân; các tế bào đa nhân (granulocyte) còn gọi là bạch cầu nhân đa hình (PMN)
bao gồm bạch cầu trung tính, bạch cầu kiềm, bạch cầu axit; dòng hồng cầu tạo hồng
cầu; dòng tế bào nhân khổng lồ tạo tiểu cầu.
Tế bào chủ chốt tham gia vào đáp ứng miễn dịch là tế bào lympho, tổ chức có chứa

tế bào lympho và tham gia vào đáp ứng miễn dịch gọi là tổ chức lympho.
Lympho có nguồn gốc từ các tế bào nguồn, còn gọi là tế bào gốc, không biệt hóa,
ở tuỷ xương. Từ tế bào nguồn, nhiều dòng tế bào có chức năng khác nhau được biệt
hóa rồi sau đó trải qua một quá trình thành thục hay chín khi kết hợp với các tổ chức
chuyên hóa.
Dòng lympho được tạo thành do các tế bào nguồn biệt hóa ở các cơ quan lympho
trung tâm. Nếu vào tuyến ức sẽ tạo thành các tế bào T (từ chữ thymus = tuyến ức), còn
nếu vào túi Bursa Fabricius thì sẽ tạo thành tế bào B. Ở động vật có vú không có túi
Fabricius thì tế bào B được hình thành trong tủy xương hoặc gan bào thai

11


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Hình 3. Các tế bào tham gia vào ĐƯMĐ - (Theo L.M.Prescott, J.P.Harley,
D.A.Klein, 2005)
Đại thực bào (ĐTB)
ĐTB là các tế bào đơn nhân có nguồn gốc từ tủy xương. Thường có kích thước lớn
có khả năng thức bào, tức là bắt và nuốt các phân tử lạ, kể cả các vi sinh vật. ĐTB có
những hình thái khác nhau và cư trú ở nhiều nơi khác nhau. Trong huyết tương chúng
ở dạng lưu động, đó là ĐTB thực sự, đóng vai trò trung tâm trong ĐƯMĐ. Trong tế
bào chất có nhiều lyzoxom chứa các enzym tiêu hóa, dễ bắt màu thuốc nhuộm dành
cho esteaz không đặc hiệu, các peroxitaz và hydrolaz axit.
- ĐTB tiết ra các sản phẩm sau:

12


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH


• Các thành phần của bổ thể C1, C2, C3, C4, C5, và các yếu tố B, D, propecdin, I,
H.
• Các proteaz trung tính (collagenaz, elastaz, chất hoạt hóa plasminogen).
• Cytokin: Interleukin IL-1, -6, -8, -10, -12, yếu tố hoại tử ung thư α (TNF-α), yếu
tố kích thích quần lạc (CSF), interferon α (IFN-α).
• Các yếu tố gây đông tụ: tromboplastin mô, yếu tố V, VII, IX, X.
• Prostaglandin (PGE2, PGF2α)
- Trên bề mặt Đại Thực Bào có các thụ thể:
• Dành cho Fc của KT (phần Fab của KT gắn với KN)
• Dành cho C3b (để rồi C3b lại gắn vào KN)
• Dành cho lectin gắn vào đường mannoza trên thành tế bào vi khuẩn.
ĐTB được biệt hóa từ tế bào mono. Khi di chuyển tới các mô trở thành ĐTB cố
định. Tùy theo từng loại mô mà có các tên gọi khác nhau. Ở phế nang thì gọi là ĐTB
phế nang (alveolar), ở ổ bụng là ĐTB phúc mạc, ở dưới da là Langerhans (một dạng tế
bào tua), ở gan là Kupffer, ở hạch lympho và lách là tế bào tua, ở mô thân kinh là tế
bào hình sao.
Bạch cầu đa nhân (PML-polymorphonuclear leukocyte)
Bạch cầu (BC) đa nhân hay BC hạt có nguồn gốc từ tủy xương, chiếm 60-70%.
Trong máu ngoại vi, chúng có khả năng bám dính và xuyên mạch. Chúng bao gồm
BC trung tính, BC ưa kiềm, BC ưa axit. Chúng không có tính đặc hiệu với KN nhưng
đóng vai trò quan trọng trong viêm cấp.
Bạch Cầu trung tính (neutrophil)
Gọi là BC trung tính là vì trong tế bào chất chứa nhiều bọng (hạt) nhỏ không bắt
màu thuốc nhuộm kiềm hay axit, nhân tế bào có cấu tạo nhiều thùy
• Có khả năng thực bào mạnh
• Trên bề mặt có chứa các thụ thể dành cho lectin, Fc, C3b của bổ thể C3

13



ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

• Trong bọng chứa các enzym myeloperoxitaz, Lyzozym, hydrolaz axit (ví dụ βglucuronidaz, photphataz), peptit dạng cation (defensin).
• Có các bọng nhỏ chứa lactoferrin, lyzozym, histaminaz.
• BC trung tính cũng tiết ra các sản phẩm khác: như cytokin [IL-1, -6, -8, TNF-α,
yếu tố kích thích quần lạc-(CSF), IFN-α], leukotrien [LTC4, LTD4, LTE4 (SRS)],
prostaglandin (PGE2), yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (PAF).
Khả năng giết của thực bào
ĐTB và BC trung tính đều có khả năng tiết ra các chất diệt khuẩn theo hai cơ chế:
phụ thuộc oxy và không phụ thuộc oxy.
Cơ chế phụ thuộc oxy bao gồm:
(1) O2oxitaz màng 2O2- (superoxit)
(2) 2O2- + 2H+ superoxitaz, dismutaz H2O2 + 1O2 (singlet oxy)
(3) H2O2 + O2- OH + OH- + 1O2 (oxy đơn gốc hydroxyl)
(4) H2O2 + Cl- (hoặc I-) myeloperoxitaz OCl- (hoặc OI-) + H2O (OCl- = hapohalite)
(5) OCl- +H2O21O2 + Cl- + H2O
Oxit nitơ là hợp chất gây độc tế bào khác được tạo thành từ cơ chất là L-acginin và
O2 với sự xúc tác bởi syntetaz của oxit nitơ.
2 acginin + 2O2 + 3NADPH + 3H+ 2citrulin + 2NO + 2HCl + 3NADPCơ chế không phụ thuộc oxy bao gồm

14


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Hình 4. Cơ chế opsonin hóa của ĐTB với các chất opsonin là: a) thụ thể không
đặc hiệu, b) là KT, c) C3b, d) phối hợp cả KT và C3b - (Theo L.M.Prescott,
J.P.Harley, D.A.Klein, 2005)
• Lyzozym

• Các sản phẩm của lyzoxom (protein dạng cation như defensin, serprocidin),
hydrolaz
• Lactoferrin
• Proteaz trung tính
Vai trò của ĐTB và BC trung tính có thể tóm tắt như sau:


Có khả năng thực bào



Tiết ra các chất hóa học trung gian để diệt khuẩn và gây viêm



Các tế bào này khi nhận được tín hiệu hóa học (các chất hóa ứng động) sẽ tập
trung ở ổ nhiễm để gây viêm.

15


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

Nhận diện tế bào đích nhờ các thụ thể bề mặt dành cho Fc của KT, lectin và



C3b.



Tiêu diệt vi khuẩn nhờ tạo thành phagolyzoxom hoạt hóa cơ chế diệt phụ thuộc
và không phụ thuộc oxy
Bạch cầu ưa kiềm (basophil leukocyte)
Tế bào có tỷ lệ thấp (0-2%) trong máu. Trong sinh chất chứa các hạt khác nhau về
kích thước bắt màu thuốc nhuộm kiềm (xanh metylen). Các hạt này chứa các amin
hoạt mạnh. Các chất này được giải phóng ra ổ viêm và vị trí xảy ra quá mẫn. Trên bề
mặt tế bào kiềm có các thụ thể dành cho Fc của IgE. Về mặt miễn dịch học tế bào
kiềm giống như tế bào mast.
Bạch cầu ưa axit (eosinophil leukocyte)
Có trong máu ngoại vi chiếm 1-5% tổng số bạch cầu (ở người Việt là 6-10%).
Trong tế bào chất chứa các hạt bắt màu thuốc nhuộm axit (eosin). Khi bị nhiễm ký
sinh (giun, sán) hoặc khi bị dị ứng thì số lượng BC axit tăng lên.
BC ưa axit được hấp dẫn bởi các chất hóa ứng động [C5a, ECF (eosinophil
chemotactic factor do tế bào mast tiết ra] đi đến nơi có KN. Trên bề mặt BC axit có
các thụ thể dành cho Fc của IgE hoặc IgG và C3b. Các KT và C3b lại gắn với KN trên
bề mặt ký sinh (giun, sán). BC axit được hoạt hóa, tiết các chất hóa học trung gian để
tiêu diệt vật ký sinh
Các sản phẩm của BC ưa axit



Có nhiều hạt đặc hiệu chứa protein chính, protein dạng cation, neurotoxin,
peroxitaz.



Các hạt nhỏ chứa các enzym aryl sulphataz, photphataz.




Các chất hóa học trung gian gồm: H 2O2, superoxit, leukotrien (LTB4, LTC4),
prostaglandin (PGE2), yếu tố hoạt hó tiểu cầu; các cytokin (ví dụ IL-1α, -3, -5, -6, -8),
yếu tố kích thích quần lạc của tế bào hạt và ĐTB (GM-CSF-granulocyte-macrophage
16


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

colony-stimulating factor), yếu tố hoại tử ung thư α (TNF-α); các enzym histaminaz,
photpholipaz và β-glucuronidaz
1.3.

Kháng nguyên (Antigen)

1.3.1.

Khái niệm về kháng nguyên

- Kháng nguyên (Antigen) có nguồn gốc từ nấm mốc, vi khuẩn, virus hay các loại
protein ngoại lai, các yếu tố lạ đối với cơ thể, mà khi vào cơ thể có khả năng đáp ứng
miễn dịch (tính sinh miễn dịch) và sau đó kết hợp đặc hiệu với sản phẩm của đáp ứng
này (Tính đặc hiệu). Không phải tất cả các yếu tố lạ khi vào cơ thể đều là kháng
nguyên, chúng phải có kích cỡ ít nhất bằng
1.3.2.

Những đặc tính của kháng nguyên

- Tính sinh kháng thể ( tính sinh miễn dịch)
Tính sinh kháng thể là khả năng của một kháng nguyên tạo ra một đáp ứng miễn
dịch. Đáp ứng này có thể là tế bào hay dịch thể, có thể là dương tính (cơ thể mẫn cảm

sinh kháng thể) hoặc âm tính ( cơ thể dung nạp và không sinh kháng thê).
- Tính đặc hiệu
Tính đặc hiệu của kháng nguyên là đặc tính mà kháng nguyên chỉ được nhận biết
bởi đáp ứng miễn dịch (kháng thể đặc hiệu) do nó gây ra, chứ không phải những đáp
ứng miễn dịch do các kháng nguyên khác. Như thế một kháng thể chống A chỉ phải
chỉ phản ứng với kháng nguyên A. Ngược lại kháng nguyên A chỉ được nhận biết bởi
một kháng thể chống A.
Tính đặc hiệu của kháng nguyên rất chặt chẽ, bởi vì nếu có một thay đổi nhỏ về
cấu trúc hóa học của kháng nguyên cũng làm mất tính đặc hiệu, kháng nguyên đã thay
đổi không còn khả năng kết hợp với kháng thể do nó kích thích sinh ra trước nó. Ví
dụ: đối với kháng nguyên là protein chỉ cần thay đổi một axit amin hoặc axit amin
dạng D thay thế cho dạng L đã làm thay đổi tính đặc hiệu của kháng nguyên được
nhận biết bởi hệ thống miễn dịch được gọi là nhóm quyết định kháng nguyên hay
Epitope. Đó là phần kháng nguyên kết hợp đặc hiệu với kháng thể.
- Tính đa trị kháng nguyên
Kháng nguyên xâm nhập vào cơ thể, các tế bào trình diện kháng nguyên bắt giữ và
biến chúng thành các Epitope khác nhau, vì thế mà kích thích cơ thể sinh ra nhiều
kháng thể tương ứng. Điều này giải thích tại sao khi tiêm chủng vacxin và khuẩn
17


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

nhược độc A sẽ thu được huyết thanh chứa nhiều loại kháng thể chống lại A được gọi
là một họ kháng thể A
1.3.3.

Phân loại kháng nguyên dựa vào đặc tính và điều kiện kháng

nguyên

Căn cứ vào đặc tính và điều kiện kháng nguyên mà chia kháng nguyên thành hai
loại: kháng nguyên hoàn toàn (antigen) và kháng nguyên không hoàn toàn (hapten).
- Kháng nguyên hoàn toàn: Là loại kháng nguyên có đầy đủ hai đặc tính: kích
thích cơ thể sinh kháng thể (tính sinh miễn dịch) và kết hợp đặc hiệu với kháng thể do
chính kháng nguyên kích thích sinh ra (tính đặc hiệu). Hầu hết các kháng nguyên hoàn
toàn thường có bản chất protein như các phần như các phần cấu của cơ thể động vật,


thực vật, vi sinh vật, nọc độc động vật.
- Kháng nguyên không hoàn toàn (hapten) còn gọi là bán kháng nguyên: Là
những kháng nguyên chỉ có tính đặc hiệu, không có tính kháng nguyên. Những kháng
nguyên này tự than chúng không có khả năng kích thích cơ thể sinh kháng thể, nhưng
có khả năng kết hợp đặc hiệu với kháng thể tương ứng
Để trở thành kháng nguyên hoàn toàn, kháng nguyên không hoàn toàn này phải
gắn với một chất mang (Carrier), tạo thành phức hợp hapten-carier, phức hợp này kích
thích cơ thể sinh kháng thể. Carier là những chất có trọng lượng phân tử lớn như: BSA
(Bovine Serum Albumin)…. Dung để kết hợp với hapten tạo ra kháng nguyên hoàn
toàn.
1.3.4.

Điều kiện để kháng nguyên có tính miễn dich

- Kháng nguyên phải có kích thước phân tử lớn ( ngưỡng tối thiểu của trọng lượng
phân tử là 1000 Dalton). Tuy nhiên có chất có trọng lượng phân tử nhỏ nhưng chúng
tìm cách gắn với protein khác để trở thành kháng nguyên hoàn chỉnh, ngược lại một
số chất có trọng lượng phân tử lớn như Dextran tới 200000 Dalton nhưng không có
tính sinh miễn dịch hoặc có nhưng rất yếu
- Kháng nguyên phải có ít nhất một Epitope khác loài vì hệ thống miễn dịch không
phản ứng với Epitope cùng loại. Epitope là những cấu trúc trên bề mặt tác nhân gây
bệnh, có khả năng tác dụng tương hỗ riêng biệt với những thụ thể đặc hiệu trên bề mặt

của một số tế bào lympho. Như vậy toàn bộ cấu trúc (tác nhân gây bệnh, những hạt
phân tử) mà trên đó những epitope hiện diện được gọi là kháng nguyên.
18


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

1.4.

Kháng thể và phản ứng kháng nguyên – kháng thể

1.4.1.

Khái niệm về kháng thể (Antibody)

Kháng thể là các phân tử globulin miễn dịch nên được gọi là immunoglobulin (có
bản chất là glycoprotein), do các tế bào lympho b cũng như các tương bào ( biệt hóa
từ lympho B ) tiết ra để hệ miễn dịch nhận biết và vô hiệu hóa các tác nhân lạ, chẳng
hạn các vi khuẩn hoặc virus. Mỗi kháng thể chỉ nhận diện đặc hiệu một kháng nguyên
duy nhất.
1.4.2.
-

Cấu trúc của kháng thể.

Phân tử kháng thể đặc hiệu có nhiều lớp khác nhau: IgG, IgM, IgA, IgE, IgD. Trong
các lớp globulin miễn dịch có IgG chiếm khaorng 75 -85 % tổng số globulin miễn

-


dich trong cơ thể.
Phân tử kháng thể cấu tạo từ 4 chuỗi polypeptide gồm gồm hai chuỗi nặng ( H,
heavy) giống hệt nhau và hai chuỗi nhẹ (L, light) cũng giống hệt nhau. Có hai loại
chuỗi nhẹ k (kappa) và

-

λ (lamda), do đó hai chuỗi nhẹ của mỗi phân tử

immunoglobulin chỉ có thể cùng là k hoặc λ.
Các chuỗi của immunoglobulin liên kết với nhau bởi các cầu nối disulfide và có độ
đàn hồi nhất định. Một phần cấu trúc của các chuỗi thì cố định nhưng phần đầu của
hai “cánh tay” chữ Y thì rất biến thiên giữa các kháng thể khác nhau, để tạo nên các vị
trí kết hợp có khả năng phản ứng đặc hiệu với các kháng nguyên tương ứng, điều này
tương tự như một enzyme của nó. Có thể tạm so sánh sự đặc hiệu của phản ứng kháng
thể - kháng thể như ổ khóa với chìa khóa.

Hình 5. Cấu trúc của một phân tử kháng thể

19


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

1.4.3.

Vai trò kháng thể.

Trong một đáp ứng miễn dịch, kháng thể có 3 chức năng chính: gắn với kháng
-


nguyên, kích hoạt hệ thống bổ thể và huy động các tế bào miễn dịch.
Liên kết với kháng nguyên: Các immunoglobulin có khả năng nhận diện và gắn một

-

cách đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng.
Hoạt hóa bổ thể: Một trong những cơ chế bảo vệ cơ thể của kháng thể là việc hoạt hóa
dòng thác bổ thể. Bổ thể là tập hợp các protein huyết tương được hoạt hóa sẽ tiêu diệt
các vi khuẩn xâm hại bằng cách: (1) đục các lỗ thủng trên vi khuẩn, (2) tạo điều kiên
cho hiện tượng thực bào, (3) thanh lọc các phức hợp miễn dịch và (4) phóng thích các

-

phân tử hướng động.
Hoạt hóa các tế bào miễn dịch: Sau khi gắn vào kháng nguyên ở đầu biến thiên (Fab),
kháng thể có thể liên kết với các tế bào miễn dịch ở đầu hằng định (Fc). Những tương
tác này có tầm quan trọng đặc biệt trong đáp ứng miễn dịch. Như vậy, các kháng thể
gắn với một vi khuẩn có thể liên kết với một đại thực bào và khởi động hiện tượng
thực bào. Các tế bào lympho NK (Natural Killer) có thể thực hiện chức năng độc tế
bào và ly giải các vi khuẩn bị opsonine hóa bởi kháng thể

Hình 6. Hoạt hóa các tế bào miễn dịch
1.4.4.
-

Phản ứng kháng thể - kháng nguyên.

IgG trong hệ thống miễn dịch có nhiệm vụ kết hợp đặc hiệu với kháng nguyên. Đây là
một trong những chức năng quan trọng nhất bên cạnh các chức năng khác như hoạt


-

hóa bạch cầu, bổ thể, hoạt hóa cơ chế vận chuyển qua màng tế bào…
Khả năng kết hợp đặc hiệu với kháng nguyên có được là do cấu trúc đặc hiệu của
phân tử globulin miễn dịch là: đoạn F(ab) sẽ kết hợp đặc hiệu với kháng nguyên, bất
hoạt nó ( hay còn gọi là trung hòa kháng nguyên) mà kết quả của sự kết hợp này được
ứng dụng rất nhiều trong các kỹ thuật miễn dịch. Đoạn F(c) có chức năng kết hợp với

20


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

các thụ thể có trên bề mặt của tế bào và hoạt hóa các cơ chế hoạt động đáp ứng miễn
-

dịch.
Phản ứng in-vitro diễn ra giữa kháng nguyên kháng thể hay còn được gọi là các
phương pháp huyết học ( serological assays) đã và đang được sử dụng rộng rãi trong

-

chuẩn đoán bệnh.
Sự kết hợp giữa kháng nguyên – kháng thể chính là kết quả của hàng loạt các phản
ứng tủa, phản ứng ngưng kết, phản ứng cố định bổ thể và phản ứng miễn dịch đánh
dấu. Sản phẩm hóa lý của sự kết hợp kháng nguyên với kháng thể mà cụ thể là kết quả
của phản ứng trung hòa kháng nguyên có ý nghĩa rất lớn và được ứng dụng nhiều
trong các kỹ thuật miễn dịch chuẩn đoán bệnh. Người ta chia kỹ thuật này làm 2
hướng cơ bản sau: phản ứng định tính và phản ứng định lượng.

Những kháng nguyên – kháng thể quan sát được như: quan sát kết tủa hay các
phép đinh tính, định lượng kĩ thuật, kĩ thuật đo độ đục, kĩ thuật miễn dịch khuếch tán
kép, kĩ thuật khuếch tán vòng…
Những kháng nguyên – kháng thể không nhìn thấy được thì phải dung các kĩ thuật
dánh dấu phát hiện:



Dùng enzyme gắn với kháng thể rồi cho kết hượp với kháng nguyên, sau đó dung cơ
chất hiện màu thích hợp để phát hiện đánh giá đo màu sử dụng quang phổ kế hoặc
quang kế (máy đo mật độ quang học…). Phương pháp này gọi là phương pháp miễn
dịch đánh dấu enzyme (phản ứng ELISA).
Dùng thuốc nhuộm huỳnh quang để nhuộm kháng thể cho kết hợp với kháng
nguyên (trực tiếp hay gián tiếp) và phát hiện phức hợp kháng nguyên – kháng thể
bằng kính hiển vi huỳnh quang. Phương pháp này được gọi là phương pháp miễn dịch
huỳnh quang (FIA).
2. Chuột nhắt trắng Mus Musculus Var. Albino.
Với đặc trưng của chuột nhắt trắng là tính hiền, được nuôi và nhân đàn một cách
dễ dàng và quan trọng hơn là do tính tương đồng cao trong bộ gene của chuột và bộ
gene của người nên hiện nay chuột bạch được coi là đối tượng quan trọng cho các
nghiên cứu Y sinh học. Y sinh học cũng là lĩnh vực nghiên cứu sử dụng chuột bạch
làm mẫu thí nghiệm nhiều nhất. Các gene của chuột bạch được giải mã để làm
21


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

giàu ngân hàng gene nhưng với mục đích chính là phục vụ cho con người. Chuột bạch
còn được dùng để thử tác dụng bảo hộ và tác dụng phụ của vac-xin, thử tác dụng chữa
bệnh của thuốc, của các tia xạ, tác dụng và ảnh hưởng của một loại thức ăn.

Bảng 1: Đặc điểm của chuột nhắt trắng.
Đặc điểm
Vòng đời
Quá trình thai nghén
Chu kỳ động đực
Số lượng tinh trùng/ 1 lần phóng tinh
Số trứng rụng tự nhiên
Siêu rụng trứng băng hormone
Đời sống sinh sản con đực
Đời sống sinh sản con cái
Tuổi cai sữa
Trọng lượng mới sinh
Trọng lượng con đực trưởng thành
Trọng lượng con cái trưởng thành
Thể tích máu ( trưởng thành)
Thể tích nước tiểu (ngày)
Thức ăn tiêu thụ (ngày)
Nước tiêu thụ (ngày)
Số lượng bộ NST
DNA tổng số
Gen

Khoảng 1,5 ngày
Khoảng 20 ngày
Khoảng 4 ngày
Khoảng 5x107
Khoảng 10
Khoảng 30
Khoảng 1,5 năm
Khoảng 8 lứa đẻ

Khoảng 19 ngày
Khoảng 1,25g
Khoảng 35g
Khoảng 30g
Khoảng 2ml
Khoảng 2ml
Khoảng 4,5 g
Khoảng 6 ml
2n = 40
Khoảng 6pg
Khoảng 105

Chuột nhắt trắng (Mus Musculus Var. Albino) được nuôi trong điều kiện tiêu
chuẩn ở khu chăn nuôi của Viện Công nghệ sinh học.

3. Vaccine
Vaccine là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ
động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một (số) tác nhân gây bệnh cụ thể.
Các nghiên cứu mới còn mở ra hướng dùng vaccine để điều trị một số bệnh (vaccine
liệu pháp, một hướng trong các miễn dịch liệu pháp). Thuật ngữ vaccine xuất phát từ
vaccinia, loại virus gây bệnh đậu bò nhưng khi đem chủng cho người lại giúp ngừa
được bệnh đậu mùa (tiếng Latinh vacca nghĩa là "con bò cái"). Việc dùng vaccine để
phòng bệnh gọi chung là chủng ngừa hay tiêm phòng hoặc tiêm chủng, mặc dù
vaccine không những được cấy (chủng), tiêm mà còn có thể được đưa vào cơ thể qua
đường miệng.

22


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH

-

Cơ chế hoạt động: Hệ miễn dịch nhận diện vaccine là vật lạ nên hủy diệt chúng và
"ghi nhớ" chúng. Về sau, khi tác nhân gây bệnh thực thụ xâm nhập cơ thể, hệ miễn
dịch đã ở tư thế sẵn sàng để tấn công tác nhân gây bệnh nhanh chóng hơn và hữu hiệu
hơn (bằng cách huy động nhiều thành phần của hệ miễn dịch, đặc biệt là đánh thức

các tế bào lympho nhớ). Đây chính là các ưu điểm của đáp ứng miễn dịch đặc hiệu.
- Một số loại vaccine thường được sử dụng:
• Vaccine bất hoạt là các vi sinh vật độc hại bị giết bằng hóa chất hoặc bằng nhiệt. Thí
dụ: các vaccine chống cúm, tả, dịch hạch và viêm gan siêu vi A. Hầu hết các vaccine
loại này chỉ gây đáp ứng miễn dịch không hoàn toàn và ngắn hạn, cần phải tiêm nhắc
nhiều lần.
• Vaccine sống, giảm độc lực là các vi sinh vật được nuôi cấy dưới những điều kiện đặc
biệt nhằm làm giảm đặc tính độc hại của chúng. Vaccine điển hình loại này thường
gây được đáp ứng miễn dịch dài hạn và là loại vaccine được ưa chuộng dành cho
người lớn khỏe mạnh. Các vaccine ngừa bệnh sốt vàng, sởi, bệnh ban đào và quai bị
đều thuộc loại này.
• Các "toxoid" là các hợp chất độc bị bất hoạt trích từ các vi sinh vật (trong trường hợp
chính các độc chất này là phương tiện gây bệnh của vi sinh vật). Thí dụ: các vaccine
ngừa uốn ván và bạch hầu.
- Các loại vaccine đang được nghiên cứu
• Sử dụng các phụ gia (adjuvant) mới, nhằm gây ra loại đáp ứng miễn dịch mong muốn.
Thí dụ, chất nhôm phosphate và các oligonucleotide chứa CpG demethyl hóa đưa vào
vaccine khiến đáp ứng miễn dịch phát triển theo hướng dịch thể (tạo kháng thể) thay


vì tế bào.
Vaccine khảm: sử dụng một sinh thể quen biết để hạn chế hiện tượng "phản tác dụng",


thí dụ dùng virus vaccinia mang một số yếu tố của virus viêm gan B hay virus dại.
• Vaccine polypeptidique: tăng cường tính sinh miễn dịch nhờ liên kết tốt hơn với các
phân tử MHC: peptide nhân tạo 1/2 giống virus, 1/2 kia gắn MHC; đoạn peptide mô
phỏng 1 quyết định kháng nguyên (epitope).
• Anti-idiotype: idiotype là cấu trúc không gian của kháng thể tại vị trí gắn kháng
nguyên, đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng. Anti-idiotype là các kháng thể đặc
hiệu đối với idiotype, do đó anti-idiotype xét về mặt đặc hiệu lại tương tự với kháng
nguyên. Vậy, thay vì dùng kháng nguyên X làm vaccine, người ta dùng idiotype antianti-X.

23


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH


Vaccine DNA: DNA của tác nhân gây bệnh sẽ được biểu hiện bởi tế bào người được
chủng ngừa. Lợi thế của DNA là rẻ, bền, dễ sản xuất ra số lượng lớn nên thích hợp
cho những chương trình tiêm chủng rộng rãi. Ngoài ra, vaccine DNA còn giúp định
hướng đáp ứng miễn dịch: tác nhân gây bệnh ngoại bào được trình diện qua MHC loại
II, dẫn đến đáp ứng CD4 (dịch thể và tế bào). Khi kháng nguyên của tác nhân đó được
chính cơ thể người biểu hiện, nó sẽ được trình diện qua MHC loại I, lúc này đáp ứng
miễn dịch tế bào qua CD8 được kích thích. Tuy nhiên phương pháp này là con dao hai
lưỡi bởi lẽ tế bào mang DNA lạ có nguy cơ bị nhận diện là "không ta", sinh ra bệnh tự

miễn.
- Những hạn chế khi sử dụng vaccine:
• Vai trò của phụ gia: để giảm tác dụng không mong muốn của vaccine, người ta
thường tinh lọc các chế phẩm, nhưng có những vaccine quá tinh khiết lại trở nên kém
hiệu quả. Đó là do hệ miễn dịch muốn được kích hoạt, phải nhận được một tín hiệu
báo nguy, tín hiệu này thường không phải là kháng nguyên dùng làm vaccine. Để khắc

phục, người ta dùng một số loại phụ gia trong chế phẩm vaccine. Thí dụ phụ gia
Freund, nhôm hydroxide, nhôm phosphate hoặc trộn lẫn các vaccine với nhau.
• Loại phản ứng miễn dịch và hiện tượng chuyển hướng miễn dịch: đối với các tác nhân
gây bệnh ngoại bào, đáp ứng miễn dịch dịch thể là thích hợp (loại đáp ứng này được
sự hỗ trợ của các tế bào lympho Th1). Ngược lại, đáp ứng miễn dịch tế bào (cần sự hỗ
trợ của lympho Th2) lại hữu hiệu cho các tác nhân gây bệnh nội bào. Do đó, nếu
vaccine gây được đáp ứng miễn dịch nhưng không đúng loại đáp ứng nên có, hiệu quả
cũng không được bảo đảm. Th1 và Th2 có xu hướng khắc chế lẫn nhau. Vaccine kinh
điển có xu hướng tạo đáp ứng Th1. Do đó đối với những bệnh do tác nhân nội bào
như nhiễm leishmania, miễn dịch đặc hiệu sau lành bệnh lại tốt hơn vaccine, vì
vaccine lại gây hiệu quả ngược, kiềm hãm phản ứng bảo vệ.
• Vaccine sống, giảm độc lực có thể gây bệnh cho người bị suy giảm miễn dịch.
• Nguy cơ hồi phục của tác nhân vi sinh: một tác nhân bị làm giảm độc lực tìm lại được
độc tính của mình. Nguy cơ này ở vaccine ngừa bại liệt là 10−7, nghĩa là cứ 10 triệu
trẻ em uống vaccine Sabin thì có 1 em bị tai nạn loại này. Điều không may này không


ngăn cản được việc sử dụng vaccine này bởi lẽ tỷ lệ đó được xem là chấp nhận được.
Nguy cơ nhiễm các tác nhân gây bệnh khác vào trong chế phẩm vaccine. Điều này có
thể hạn chế bằng các quy trình sản xuất, bảo quản và sử dụng chặt chẽ.

24


ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH


Vaccine ngừa ho gà có thể gây sốc kèm di chứng thần kinh với xác suất 10−4-10−6.
Việc tinh lọc vaccine này làm tăng mức an toàn nhưng một lần nữa, giảm hiệu quả.


2. Phương pháp khuếch tán hai chiều (phương pháp Outerlony)
Trong kỹ thuật này, sự khuếch tán của kháng nguyên và kháng thể gặp nhau từ
những giếng trên thạch. Nhìn chung, giếng trung tâm chứa phần kháng nguyên, các
huyết thanh thử nghiệm được đặt ở các giếng xung quanh.
Để một cặp kháng nguyên-kháng thể xuất hiện, vị trí của vạch kết tủa trên thạch
phụ thuộc duy nhất các hệ số khuếch tán điện kháng và không phụ thuộc vào nồng độ.
Tuy nhiên, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự kết tủa:
-

Chất lượng của thạch.
pH và nhiệt độ.
Bản chất kháng nguyên.
Sự xuất hiện kết tủa liên quan đến nồng độ kháng nguyên-kháng thể.
Phương pháp này được ứng dụng trong tự miễn để phân tích chất lượng của 1 hỗn
hợp kháng thể đôi khi phức tạp. Sự xuất hiện nhiều vạch kết tủa chỉ ra sự hiện diện
một số cặp kháng nguyên-kháng thể giống nhau (1 vài cặp có thể xếp chồng lên nhau).
Hơn nữa, nó cho phép nhận dạng các kháng thể bằng cách so sánh các phản ứng của
chúng đối diện với các huyết thanh mẫu chứng đặc hiệu đơn nghĩa là “huyết thanh
mẫu chuẩn”. Như vậy, bằng sự so sánh các vạch tạo bởi 2 hệ thống kháng nguyênkháng thể, có thể suy luận quan hệ của chúng.
Phần đáy giếng chứa kháng nguyên, phần trên là huyết thanh (huyết thanh thử
nghiệm và huyết thanh mẫu chuẩn).

-

Nếu vạch kết tủa cắt nhau mà không chồng chéo nhau, 2 hệ thống này không giống
nhau và, với kết quả này, các kháng thể có trong huyết thanh thử nghiệm thì không
giống kháng thể trong huyết thanh mẫu chuẩn. Được gọi là phản ứng không giống

-


nhau.
Lối ra của vạch kết tủa của 2 cặp liên kết và dính nối với nhau để tạo thành 1 vạch duy

-

nhất: các kháng thể là giống nhau. Đây là phản ứng giống nhau.
Vạch kết tủa của 2 hệ thống kháng nguyên-kháng thể nối với nhau cho hình ảnh mũi
tàu: cặp kháng nguyên-kháng thể riêng từng phần. Nó được gọi là phản ứng giống
25


×