Câu 1:
Hãy trình bày những thành tựu về Nghệ thuật - Kiến trúc của nền văn minh
phương Đông cổ trung đại? (10 điểm)
1. Ai Cập (2đ):
+ Kiến trúc: Người Ai Cập đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cung
điện, kim tự tháp nổi tiếng làm người phải kinh ngạc và cúi đầu trước cái uy nghi hùng vĩ,
biểu hiện quyền lực vô biên của thần và của nhà vua. Trong kiến trúc, nỗi bật nhất là các
kim tự tháp. Cho đến nay, người ta đã phát hiện được trên 70 kim tự tháp, chủ yếu là ở
khu vực phía bắc Ai Cập, gần thủ đô Cairo nằm ở phía tây sông Nile.
Việc xây dựng lăng mộ được các Pharaon từ vương triều III chú ý. Kim tự tháp
Djoser, do kiến trúc sư Imhotép xây dựng, là kim tự tháp đầu tiên. Tới vương triều IV,
kim tự tháp được xậy dựng nhiều nhất, quy mô và kết cấu hoàn chỉnh, kĩ thuật tinh xảo và
nghệ thuật trang trí đạt tới trình độ cao. Nỗi bật nhất là kim tự tháp của Kheops có chiều
cao 148m, phải mất 30 năm mới xây dựng xong.
+ Điêu khắc: Ngoài việc xây dựng lăng mộ, người Ai Cập còn đạt tới trình độ cao về
điêu khắc. Đặc biệt là tượng Sphinx (nhân sư) ở gần kim tự tháp Khéphren, mình sư tử,
đầu vua Khéphren, ý muốn ca ngợi vua không những có trí tuệ của loài người mà còn có
sức mạnh của sư tử.
+ Nghệ thuật tạo hình thời Trung và Tân vương quốc phát triển. Thời Trung vương
quốc có rất nhiều tượng nổi khắc trên tường đá và những bức tranh vẽ trên tường mộ.
Thời Tân vương quốc đã để lại một tác phẩm điêu khắc xuất sắc nhất của nghệ thuật Ai
Cập là những tượng nữ thần Neferti.
Những công trình kiến trúc, điêu khắc trên là kết quả của quá trình lao động, là đỉnh
cao của sự sáng tạo của con người ở lưu vực sông Nile.
2. Lưỡng Hà (2đ):
Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc của Lưỡng Hà là thành Babylone và khu
vườn treo Babylone được xây dựng trong thời kỳ trị vì của Nabuchodonosor – quốc
vương tân Babylone, sau này được coi là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
- Vườn treo Babylone: được xây dựng kề bên cung điện của vua Nabuchodonosor.
Tương truyền khu vườn thượng uyển độc đáo này được Nabuchodonosor xây dựng để
chiều ý vương hậu sủng ái của ông vốn là cồn chúa xứ Mèdes, xứ sở của núi rừng, cây,
cảnh.
- Đền tháp Ementélauki cũng là một loại hình kiến trúc độc đáo của Lưỡng Hà. Tháp
cao 90m, từ xa trông ngọn tháp bảy tầng như một cái thang khổng lồ vươn thẳng lên trời.
- Cung điện của vua Giudéa dài tới 50m, rộng 30m, tường xây bằng gạch đá có trang
trí chạm khắc sặc sỡ và cung điện của vua Nabuchodonosor cũng là những công trình
kiến trúc độc đáo của người Lưỡng Hà.
3. Ấn Độ (3đ):
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ nhất phương Đông. Chính
vì thế đây là nơi cung cấp nguyên mẫu cho nền nghệ thuật của nhiều nước, trong đó có
Trung Quốc.
Nghệ thuật Ấn Độ mang tính chất bền vững và lâu đời. Đó là nền nghệ thuật chuyển
tải nội dung tôn giáo, do đó ứng với mỗi tôn giáo sẽ có một mảng nghệ thuật riêng biệt,
trong đó phải kể đến 3 mảng nghệ thuật lớn, nhiều về số lượng, phong phú về nội dung là
nghệ thuật Hindu giáo, Phật giáo và Hồi giáo.
Điểm chung của những mảng nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ là khát vọng tâm linh, khát
vọng về cái đẹp và sự giải thoát. Tất cả những đặc điểm trên được thể hiện thông qua một
số công trình kiến trúc tiêu biểu sau đây:
- Stupa Sanchi và chùa Hang Ajanta là những công trình kiến trúc Phật giáo sớm nhất
của Ấn Độ, đây là những mẫu lí tưởng của kiến trúc Phật giáo.
- Các công trình kiến trúc Hindu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn, và phát
triển cực thịnh từ thế kỉ VII đến thế kỉ XI. Tiêu biểu có các công trình như cụm đền tháp
Khajuraho ở Trung Ấn được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 900 - 1150, gồm 85
đền đài trải rộng giữa những hồ nước và cánh đồng.
- Kiến trúc Hồi giáo tiêu biểu là các giáo đường và lăng mộ với những đường cổng đồ
sộ, những tháp xây cao vút và được trang trí bằng những hoa văn đặc trưng phi hình
tượng. Tháp Mina được xây dựng từ TK XIII và lăng Mahah được xây dựng từ TK XVII
là những công trình nỗi tiếng của dạng kiến trúc này.
4. Trung Quốc (3đ):
+ Hội họa: Từ thời đại đồ đá mới, người Trung Quốc đã từng biết dùng màu sắc để
trang trí.
- Cách đây 2000 năm, đã xuất hiện những bắc tranh lụa như “Phượng quỳ mỹ nữ” và
“Nhân vật Ngự Long” cho thấy hội họa Trung quốc đã dạt trình độ cao.
- Từ đời Hán trở về sau, hội họa Trung Quốc ngày càng phát triển, chất liệu để vẽ đa
dạng (Lụa, đất nung, tượng đá, tường…). Nổi tiếng là tranh lụa thời hán, tranh Phật thời
Ngụy, Tấn, Nam - Bắc triều. Cố Khải Chi với những bức “Nữ sử châm đồ”, “Lạc thần
phú đồ”… là mẫu mực về họa pháp. Tranh vẽ người thời Đường đạt đến đỉnh cao như
tranh của Thánh họa Ngô Đạo Tử. Thời Minh - Thanh tranh sơn thủy, mai, lan, trúc,
thạch, cỏ cây... được thể hiện nhiều.
- Về lí luận hội họa: “Lục pháp luận” của Tạ Hách tổng kết kinh nghiệm sáng tác từ
đời Hán đến đời Tùy, “Khổ qua hòa thượng họa ngữ lục” của Thạch Thọ (Minh - Thanh)
viết về lịch sử hội họa rất nổi tiếng.
+ Điêu khắc:
Trung quốc có một nền nghệ thuật điêu khắc từ rất sớm (ngọc điêu có cách đây 6000
năm, sớm nhất thế giới), và rất phong phú về cách thể hiện (điêu khắc trên ngà voi, trên
gỗ, gạch đá...). Thạch điêu là một ngành nghệ thuật nổi tiếng đã để lại những công trình
vô giá như cặp tượng “Tần Ngẫu” đời Tần, “Lạc sơn Đại Phật” đời Tây Hán là pho tượng
lớn nhất hành tinh, tượng phật “Nghìn mắt nghìn tay” và 500 vị La Hán “Vạn Tự Bi” có
39 vạn chữ thời Tống...
+ Kiến trúc:
Trung Quốc là nước có nền kiến trúc phát triển rực rỡ với nhiều công trình độc đáo,
có tầm cỡ quốc tế. Thời Cổ-Trung đại, lịch sử phát triển kiến trúc Trung Quốc được chia
làm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một nét đặc trưng riêng. Có những công trình kiến
trúc nỗi tiếng như: Thành Trường An, Vạn Lí Trường Thành, chùa Phật Quang ở Ngũ Đài
Sơn, tháp chùa Giang Thiên trên ngọn Kim Sơn, thành phố Lạc Dương, Điện Màu Ni (Hà
Bắc), Cổ Cung, Viên Minh Viên, Tử Cấm Thành....
Câu 2:
Hãy trình bày những thành tựu về khoa học tự nhiên của Ấn Độ và Trung Quốc cổ
đại ? (10 điểm)
1. Ấn Độ (5đ):
+ Thiên văn học: Người Ấn Độ biết chia một năm thành 12 tháng, mỗi tháng 30
ngày, cứ năm năm thì có một tháng nhuận. Họ đã biết Trái đất và Mặt Trăng hình cầu,
biết được các hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đặc biệt họ đã biết tổng kết những
hiểu biết về thiên văn học trong tác phẩm Sidhanta, một tác phẩm thiên văn cổ vào loại
sớm nhất thế giới.
+ Toán học: Người Ấn Độ đã phát minh ra 10 chữ số tự nhiên, đã đưa ra được những
khái niệm cơ bản về hình học và lượng giác, hoàn thiện hệ thống số thập phân có số 0.
+ Y học:
- Có nhiều thành tựu cả trên lĩnh vực lí thuyết và thực hành, không chỉ dừng lại kinh
nghiệm mà đã tổng kết để viết thành sách. Nỗi tiếng là các tác phẩm “Y học toát yếu”,
“Luận khảo về trị liệu”…
- Người Ấn Độ đã biết mô tả các dây gân, cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi
được qua trình phát triển của thai nhi …
+ Vật lí và hóa học:
Người Ấn Độ đã nêu ra thuyết nguyên tử, biết chế những chiếc la bàn đơn giản phục
vụ cho các nhà hàng hải, biết được sức hút của Trái Đất … thời Gúpta, nghề nấu sắt đã
phát triển khá cao, một số nghề khác cũng phát triển như nghề nhuộm, thuộc da, nấu thủy
tinh, xi măng …
4. Trung Quốc (5đ)
+ Toán học: Trung Quốc là nước biết sử dụng phép ghi số tính mười bậc sớm nhất
thế giới. Đời Chu đã rất coi trọng việc giáo dục toán học trong nhà trường… Thời Tây
Hán có sách “Chu bể toán kinh”, thời Đông Hán sách toán đã đạt trình độ nhất định và
thành hệ thống. Nhà toán học Tổ Xung Chi (429-500) đã tìm ra số Pi chính xác đến con
số thập phân thứ 10, đi trước thế giới 1000 năm.
+ Thiên văn học: Để phục vụ sản xuất nông nghiệp, thiên văn học ra đời rất sớm.
Đời nhà Thương (cách đay 3000 năm) người ta đã ghi chép đúng về hiện tượng nhật thực,
nguyệt thực. Bộ sách “Cam Thạch kinh tinh” thời Chiến Quốc là sách ghi chép về các
hành tinh sớm nhất thế giới. Người Trung Quốc đã biết chế tạo ra nhiều dụng cụ để đo
bóng Mặt Trời tính lịch (Thổ Khuê), đo động đất (Hồn thiên nghi)…
+ Lịch pháp: Từ thời Ngũ đế, người Trung Quốc đã biết làm lịch,đến nhà Hạ, người
ta làm lịch dựa trên sự vận hành của Mặt Trăng (gọi là Hạ lịch, hay âm lịch) nay vẫn dùng
ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên và những người khác soạn ra
“Lịch Thái Sơ” nỗi tiếng (chỉ ra chu kì nhật thực là 135 tháng, chia một năm ra 24 tiết…)
có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời
Nguyên) soạn ra “Thụ Thời lịch”. Chia một năm ra 365,2425 ngày đi trước nhân loại rất
xa về cách tính lịch.
+ Nông học: Nghề trồng trọt có cách đây khoảng 7000 năm, bên cạnh trồng ngũ cốc,
còn trồng dâu, chè… “Trà kinh” của Lục Dã là sách đầu tiên trên thế giới viết về trà. Giả
Hiệp với cuốn “Tề dân yếu thuật” viết về trồng trọt và chăn nuôi sớm nhất thế giới… Từ
Quang Khải (nhà Minh) viết cuốn “Nông chính toàn thư” trên 50 vạn chữ, lí giải tường
tận mọi mặt của nghề nông được xem là đỉnh cao của sự am hiểu về nền nông học cổ đại
Trung Quốc.
+ Y dược học: Nền y học Trung Quốc đã có nhiều thành tựu đáng khâm phục. Về lí
thuyết, thời chiến Quốc có sách “Hoàng đế nội kinh”, được coi là bộ sách kinh điển bậc
nhất của y học cổ truyền Trung Quốc. Thời Hán có “Thương hàn tạp bệnh” của Trương
Trọng Cảnh, thời Đường có “Tiên thụ lí thương, kế tục mật phương” của Lan Đạo
Nhân…
Về Đông y: Có rất nhiều sách viết về các dược liệu như “Sơn hải kinh” (Tiên Tần),
“Thần nông bản thảo kinh” (Hán), “Bào cứu luận” (Nam Triều)… Đặc biệt “Bổn thảo
cương mục” do Lí Thời Trân (nhà Minh) soạn đã phê phán và kế thừa được những tinh
túy của các sách thuốc trước đó, đồng thời giới thiệu các loại thuốc mới… được dịch ra
tiếng Latinh và nhiều thứ tiếng khác. Darwin coi đây là bộ “bách khoa toàn thư” của
Trung Quốc cổ đại.
+ Địa lí học:
- Địa lí tự nhiên đã được nghiên cứu và viết thành sách từ cuối thời Xuân Thu như
cuốn “Sơn hải kinh”, vào cuối thời Chiến Quốc như cuốn “Vũ Cống”, giúp người đời sau
tìm hiểu lịch sử, địa lí thời Tần.
- Địa đồ học có từ thời Chu, Bản đồ vẽ trên gỗ phát hiện vào năm 1986 ở ngôi mộ Tần
sớm hơn bản đồ sớm nhất thế giới hơn 300 năm. Các ông Bùi Tú, Giả Đam, Thẩm
Quát… đã để lại nhiều kinh nghiệm và tác phẩm quý cho ngành địa đồ học.
Bốn phát minh quan trọng: Phát minh thuốc súng, phát minh kim chỉ nam, Phát
minh ra nghề làm giấy, phát minh nghề in. Bốn phát minh trên được hậu thế đánh giá rất
cao.
Câu 3:
Hãy trình bày thành tựu về Tôn giáo của nền văn minh phương Đông (Ai cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ) cổ đại ? (10 điểm)
1. Ai Cập (2đ)
+ Tôn giáo của người Ai Cập rất phong phú, gồm nhiều hệ thần linh địa phương hỗn
dung với nhau. Ban đầu mỗi vùng thờ những vị thần của mình, chủ yếu là những vị thần
tự nhiên, linh hồn người chết...
+ Đến thời kì thống nhất quốc gia, ngoài việc thời cúng các thần riêng của từng địa
phương, còn xuất hiện những vị thần chung. Người Ai Cập thờ thần Ra (Thần mặt trời),
thần Ptah (thần sáng tạo vũ trụ và con người), thần Amon (thần đem lại sức mạnh cho
vương quốc và Pharaon), thần Osiris (được coi là thần Nông nghiệp, thần sông Nile), thần
Montou (thần chim ưng), Sobek (thần Cá sấu)...
+ Người Ai Cập tin linh hồn bắt tử, nên việc chôn cất thi hài gắn liền với quan niệm
hồn và xác. Khi chết, linh hồn tuy thoát ra ngoài nhưng vẫn còn tìm chỗ dựa ở nơi xác, vì
vậy khi con người cần phải giữ lại xác. Việc xây dựng các Kim tự tháp (các lăng mộ của
nhà vua) và kĩ thuật ướp xác bắt nguồn từ quan niệm trên.
2. Lưỡng Hà (3đ)
- Trong thời kỳ đầu, người Lưỡng Hà theo đa thần giáo. Họ tôn sùng những lực
lượng tự nhiên, coi đó là những lực lượng thống trị cuộc sống của mình. Người Lưỡng Hà
thờ thần Anu, Eaua, thần Enlin... ngoài các thần chủ, người Lưỡng Hà còn tôn thờ nhiều
thần khác như thần trồng trọt, thần chăn nuôi và các hiện tượng tự nhiên như thần Samat
(thần Mặt trời). Thần Istaro (thần Ái tình)... người ta tin rằng thần Mẹ (Inana) còn là thần
bảo hộ nông nghiệp, thần của sinh nở, thần Ea (thần Biển) còn dạy cho người ta biêt nghề
thủ công, nghệ thuật, khoa học, thần Tamuz (thần Nước) được coi như vị thần dạy bảo cư
dân trông trọt, làm nghề thủ công và là vị thần của lòng nhân ái, bảo vệ mùa màng...
- Cùng với sự xác lập quyền lực tối cao, trong toàn Lưỡng Hà của Hammourabi, thần
Mardouk đã trở thành vị thần tối cao trong toàn quốc, bản thân nhà vua cũng được thần
thánh hóa, thay mặt thần Mardouk cai trị muôn dân.
- Người ta xây dựng nhiều đền miếu thờ thần và tiến hành nhiều nghi lễ phức tạp.
Việc xây dựng đền miếu đã trở thành gánh nặng đối với quần chúng. Nhân dân đã bị tập
đoàn tăng lữ nô dịch về tinh thần và bóc lột về kinh tế. Tập đoàn tăng lữ của Babylone rất
cồng kềnh, có đến hơn 30 đẳng cấp.
3. Ấn Độ (5đ):
- Bàlamôn giáo ra đời vào những thế kỉ đầu thiên niên kỉ I.TCN do sự phát triển của
xã hội có giai cấp và sự bất bình đẳng về đẳng cấp. Là một tôn giáo đa thần, cao nhất là
thần Brama, vị thần sáng tạo thế giới. Ngoài thần Brama còn có thần Visnu, Siva … nội
dung quan trọng trong giáo lí của Bàlamôn giáo là thuyết luân hồi. Về mặt xã hội,
Bàlamôn giáo là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ. Bàlamôn được truyền
bá rộng rãi trong nhiều thế kỉ, đến thế kỉ VI.TCN bị suy thoái do sự phát triển mạnh mẽ
của đạo Phât.
- Khoảng thế kỉ VII, đạo Phật bị suy sụp, nhân đó đạo Bàlamôn phục hồi và phát
triển. Đến khoảng thế kỉ VIII-IX, Bàlamôn giáo được bổ sung thêm nhiều yếu tố về đối
tượng sùng bái, kinh điển và nghi thức… từ đây Bàlamôn giáo được gọi là Hinđu giáo
(Ấn Độ giáo). Đối tượng sùng bái chủ yếu của Hinđu giáo vẫn là ba thần Brama, Visnu,
Siva. Các loài động vật như rắn, hổ, khỉ, bò, cá sấu… cũng được Hinđu giáo coi là các
thần và rất được tôn sùng, Giáo lí của Hinđu giáo được thể hiện trong các bộ kinh Vêđa,
Upanisad và các sử thi Mahabharata, Ramayana, Bhagavad….
- Phật giáo: Ra đời vào cuối thiên niên kỉ I.TCN, Siddharata Gautama là người sáng
lập. Nội dung chủ yếu của Phật giáo là chỉ ra chân lí về nguyên nhân cảu các nổi khổ ở
đời và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy.
Chân lí về nỗi đau và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó được thể hiện trong “Tứ diệu
đế”.
Về mặt thế giới quan nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết “duyên
khởi”. Mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, duyên khởi do tâm mà ra, tâm là
nguồn gốc của duyên khởi và cũng là nguồn gốc của vạn vật.
Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp vì nguồn gốc xuất thân
không phải là điều kiện để được cứu vớt. Đạo Phật khuyên con người phải từ bỏ ham
muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt. Phật giáo được truyền bá nhanh
chóng không những ở Ấn Độ mà còn sang các nước khác. Khoảng 100 năm SCN, đạo
Phật chia làm hai phái là Tiểu thừa và Đại thừa.
Ảnh hưởng của các tôn giáo trên đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, có mặt ở nhiều
nước trên thế giới. Ngay cả Hindu giáo cũng có thể coi nó là tôn giáo mang tính quốc tế,
bởi vì sự ảnh hưởng đậm nét của nó đối với vùng Đông Nam Á.
- Ấn Độ còn là quê hương thứ hai của Hồi giáo, một tôn giáo lớn trên thế giới, và
Jain giáo, Xích giáo…
Câu 4:
Trình bày thành tựu về tư tưởng của nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại?
(10 điểm).
1- Ấn Độ:
Triết học Ấn Độ rất phong phú và đa dạng với nhiều quan điểm và trường phái khác
nhau.
- Bàlamôn giáo cho rằng thế giới vật chất cũng như thần thánh đều do Brama sáng
tạo ra, Bàlamôn đem cái “bản ngã” (at man) của con người kết hợp với Brama làm một và
cho rằng chính cái bản ngã này sáng tạo ra thế giới. Triết học Bàlamôn chia ra làm 6
trường phái triết học như: Yoga, Purova Mimãna, Vêđanta, Niaga, Xankia, Vaisêrica.
Phái Vaisêrica do Canada đề xướng ra thuyết nguyên tử. Ông cho rằng, vũ trụ gồm vô số
vật khác nhau nhưng vật nào cũng được cấu tạo từ những nguyên tử, ngoài nguyên tử và
chân không ra thì không có gì hết. Nguyên tử vận động là do một lực lượng vô hình chứ
không phải do một vị thần linh nào cả.
- Triết học Phật giáo: Triết học Phật giáo phủ nhận hai yếu tố Brama và Át man của
Bàlamôn giáo, không thừa nhận có đấng thần linh tối cao sáng tạo ra vũ trụ và phủ nhận
luôn cả tồn tại khách quan. Những yếu tố của phép biện chứng của triết học Phật giáo tuy
còn ở mức độ tự phát, chưa hoàn chỉnh nhưng đã nhìn thấy sự vận động biến đổi của thế
giới, thấy được sự đối lập trong thống nhất, vạch ra những mâu thuẫn nội tại của chúng
như ý thức và vô thức, niết bàn và vô minh…
- Triết học Sácvaca: Đây là trường phái triết học duy vật cổ đại, cho thế giới chung
quanh là vật chất được tạo nên bởi bốn nguyên tố: đất, lửa, nước và không khí. Con người
nhận thức được thế giới là do cảm giác. Con người có ý thức và ý thức là sản phẩm của
thể xác, khi con người ta chết thì ý thức cũng mất theo. Triết học Sácvaca cũng phủ nhận
những quan niệm về thần sáng tạo thế giới của tôn giáo.
2. Trung Quốc:
a. Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia:
Vào thời Ân, Chu, người Trung Quốc đã có các thuyết: Bát quái (cho rằng thế giới
do 8 loại vật chất cấu tạo thành, âm dương là hai yếu tố căn bản của Bát quái...). Người ta
dùng ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và âm dương để giải thích nguồn gốc của vũ
trụ, mọi vật sinh sinh hóa hóa đều do sự tác động tương hỗ hay sự phối hợp không điều
hòa các yếu tố trên mà thành. Những người theo học phái Âm dương gia đã đem kết hợp
thuyết Âm dương với thuyết Ngũ hành rồi thần bí hóa các thuyết này... để giải thích các
biến động của lịch sử xã hội.
b. Nho gia -Nho giáo:
+ Nho gia:
Khổng Tử (551-479. TCN) nhà tư tưởng lỗi lạc, người sáng lập phái Nho gia. Khổng
Tử chủ trương “nhân”, khôi phục “lễ” của nhà Chu. Từ hại nhân tư tưởng là “nhân” ông
đã chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa nhân và lễ. Ông đưa ra thuyết “chính danh định
phận”, đề cao tư tưởng “Thiên mệnh”... Cái có giá trị nhất trong học thuyết của ông là tư
tưởng giáo dục: ông là người đầu tiên đề xuất có thể dạy học cho tất cả mọi người “Hữu
giáo vô loại”... Học trò của ông và những môn đệ của họ hợp thành học phái Nho gia. Tư
tưởng triết học Nho gia chính là cội nguồn nhân đạo chủ nghĩa của văn hóa truyền thống
Trung Quốc.
+ Nho giáo:
- Từ thời Hán Vũ Đế (140-87.TCN) với lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”
Nho học trở thành trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc.
- Đổng Trọng Thư (179-104.TCN) đã phát triển Nho học lên một bước mới, đồng
thời dùng thần học để giải thích nó làm cho học thuyết này mang màu sắc thần học tôn
giáo nên từ đó người ta thường gọi là Nho giáo. Nho giáo trở thành cơ sở lí luận và tư
tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc suốt 2000 năm lịch sử.
c. Đạo gia – Đạo giáo.
+ Đạo gia:
Lão Tử (không rõ năm sinh, năm mất) là đại biểu chủ yếu của học phái Đạo gia.
Trang Tử (khoảng năm 369-286.TCN), người phát triển học thuyết của Lão Tử thành một
học thuyết tư tưởng, cùng với Lão Tử hợp thành học phái Đạo gia.
Hệ thống tư tưởng của Đạo gia được thể hiện trong các tác phẩm “Đạo đức kinh” và
“Nam Hoa kinh”: “Đạo” là cơ sở đầu tiên của thế giới, có trước đất trời, từ “Đạo” sinh ra
tất cả. “Đạo”còn để chỉ quy luật biến hóa của sự vật, vừa có trước sự vật, vừa nằm trong
sự vật. Quy luật biến hóa tự thân của mỗi sự vật gọi là “Đức”. Như vậy “Đạo” và “Đức”
của Lão Tử là phạm trù thuộc thế giới quan, ông là người đầu tiên xác lập nên thế giới
quan của triết học Trung Quốc.
Về quan điểm lịch sử - xã hội: Lão Tử đề xướng quốc gia lí tưởng là “tiểu quốc quả
nhân” (nước nhỏ dân ít), “vô vi nhi trị” (không làm gì mà thịnh trị)... Đạo gia không chỉ là
cơ sở triết học của văn hóa truyền thống mà còn ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của dân
tộc Trung Quốc.
+ Đạo giáo:
- Là tôn giáo ra đời vào giữa thời Đông Hán, đến thời Đường, Tống được sự hỗ trợ
của vương triều, Đạo giáo phát triển mạnh. Từ thời Minh, Đạo giáo bị suy vi.
- Đạo giáo có nguồn gốc phức tạp, tín ngưỡng cơ bản là Đạo, hạt nhân là tư tưởng
thần tiên.
- Đạo giáo cho rằng sống ở đời là việc sung sướng nên họ cổ vũ tư tưởng trọng sinh,
lạc quan. Quan niệm thế giới thần tiên của Đạo giáo không giống thế giới hiện thực,
không hoàn toàn tách biệt thế giới hiện thực và thế giới bên kia. Đạo giáo là tôn giáo đa
thần.
-
Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với văn hóa truyền thống rất rộng rãi và sâu sắc.
d. Mặc gia:
- Mặc Tử (khoảng 479-381TCN), nhà tư tưởng, nhà giáo dục kiệt xuất, người sáng
lập học phái Mặc gia. Hạt nhân của tư tưởng triết học Mặc gia là nhân và nghĩa (nhân là
kiêm ái, nghĩa là nghĩa lợi) với 10 chủ trương lớn...
- Là người đầu tiên đề xuất “thủ thực dư danh” (lấy thực đặt tên) như một phạm trù
triết học, cũng là một trong những người đi tiên phong trong ngành logic học của nhân
loại.
- Tư tưởng của học phái Mặc gia đầy thiện chí, có ảnh hưởng lớn một thời nhưng
chứa đựng nhiều ảo tưởng, nên từ Tần, Hán về sau Mặc gia dường như không còn tồn tại
nữa.
e. Pháp gia:
- Pháp gia là học phái triết học đại biểu cho lợi ích của gia cấp địa chủ mới ra đời
trong thời kì Xuân Thu. Sở dĩ gọi là Pháp gia vì học phái này chủ trương “pháp trị”, cai trị
đất nước theo pháp luật.
- Người tiêu biểu cho Pháp gia là Hàn Phi (khoảng 280-233.TCN), công tử nước
Hàn, đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và lí luận của các pháp gia thời kì đầu, hình thành
hệ thống tư tưởng Pháp gia hoàn chỉnh hơn. Ông phản đối tư tưởng phục cổ, lấy pháp,
thuật, thế làm nội dung cơ bản cho hệ thống chính trị của mình, chủ trương vô thần. Lí
luận của học phái Pháp gia có đóng góp lớn trong cuộc thống nhất đất nước, đưa lịch sử
Trung Quốc phát triển lên một bước mới.
Câu 5:
Trình bày những thành tựu về chữ viết - văn học của nền văn minh phương Đông cổ
đại? (10 điểm).
1. Ai Cập:
Chữ viết
Khoảng thiên niên kỉ III TCN, người Ai Cập cổ đại đã sáng tạo ra chữ tượng hình.
Từ chữ tượng hình, sau này người Ai Cập cổ đại đã hình thành ra hệ thống 24 chữ cái.
Vào thiên niên kỉ II TCN, người Híchxốt đã học cách viết của người Ai Cập để ghi lại các
ngôn ngữ của mình. Về sau này, loại chữ viết ấy lại ít nhiều ảnh hưởng tới người Phênixi
và người Phênixi đã sáng tạo ra vần chữ cái A, B... Những chữ tượng hình của người Ai
Cập được khắc trên đá, viết trên da, nhưng nhiều nhất là được viết trên vỏ cây papyrus.
Văn học
+ Ở giai đoạn đầu văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu tả
nghi lễ thờ cúng và tang lễ. Đến thời Tân và Trung Vương quốc, văn học đã phản ánh
những mâu thuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói lên nỗi khổ của những người lao
động.
- Tiêu biểu là tập truyện “Người nông phu biết nói những điều hay” phê phán tầng
lớp quan lại ức hiếp người dân và sự khốn khổ của những người lao động.
- Thơ ca trữ tình: Các bài thơ ca ngợi tình yêu, và sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên được tập hợp trong cuốn “Papyrus Haris 500”.
- Văn học mang tính chất triết lí: Tiêu biểu là cuốn “Đối thoại một người thất vọng
với linh hồn của mình”, nói đến sự suy sập của người Ai Cập trước sự đổ vỡ của các giá
trị truyền thống, tâm trạng chán đời.
+ Văn học Ai Cập đã có những bước tiến khá rõ rệt, từ những tác phẩm thô sơ mang
tính chất tôn giáo, đến chỗ xuất hiện nhiều tác phẩm với nhiều thể loại, phản ánh tình hình
xã hội, thể hiện sức sáng tạo kì diệu cỉa người Ai Cập cổ đại.
2. Lưỡng Hà:
+ Chữ viết.
Chữ viết ở Lưỡng Hà xuất hiện từ khá sớm. Người Sumer sáng tạo ra chữ tượng hình
vào khoảng đầu TNK III.TCN. Đầu tiên người Sumer dùng những hình vẽ về sau là
những nét vạch hợp lại thành ý. Họ dùng một thanh gỗ hay sậy nhỏ, vót nhọn một đầu, ấn
trên phiên đất mềm tạo thành một đầu nhọn, đáy bằng, trở ngược thanh gỗ vạch một
đường thẳng, trông như mũi tên hay chiếc đinh. Một số chiếc đinh này tập hợp lại thành
từ.
Chữ viết của người Lưỡng Hà được viết trên đất sét, mỗi tấm đất sét là một trang
sách. Chữ có hình như những góc nhọn, nên thường được gọi là chữ hình góc nhọn, chữ
hình nêm hay chữ tiết hình.
Rất nhiều dân tộc ở Tây Á thời cổ đại đã dùng loại chữ viết này để ghi lại sinh hoạt
kinh tế, xã hội và những diễn biến chính trị thời đó. Vì vậy, có thể coi chữ viết của người
Sumer phát minh ra là nguồn gốc của nhiều chữ viết khác của người Akkad, Babylone,
Hittiles, Assyria, Ba Tư.
+ Văn học:
Văn học Lưỡng Hà phong phú về nội dung và thể loại, với nhiều tác phẩm có giá trị
nghệ thuật cao. Các thể loại văn học chính là văn học dân gian, thơ và anh hùng ca. Nội
dung thường gắn liền với tín ngưỡng và phản ánh đời sống thường ngày của người lao
động. Điển hình nhất là hai trường ca: Anuma Elit và Gilgamesh.
- Trường ca Anuma Elit ca ngợi sự sáng tạo của vũ trụ, một khối hỗn mang thuở ban
đầu, từ đó sinh ra con người và muôn vật trên trên mặt đất.
- Trường ca Gilgamesh ca ngợi tinh thần anh dũng của những nhân vật có thật được
thần thánh hóa, phản ánh với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đó là nhữnh cuộc
đấu tranh quyết liệt trước sự tàn phá của thác lũ, hạn hán và thú dữ để bảo vệ đời sống
yên lành của cư dân.
3. Ấn Độ:
+ Ngôn ngữ và chữ viết: Ấn Độ có rất nhiều ngôn ngữ, những ngôn ngữ chính được
biểu đạt bằng hệ thống chữ viết riêng. Chữ viết đầu tiên của Ấn Độ dưới dạng đồ họa có
từ thời Harappa. Sau đó xuất hiện chữ cổ Brahma, chữ Phạn (Sanskrit), chữ Pali … Nhiều
loại ngôn ngữ đang lưu hành hiện nay ở Ấn Độ như Hindi, Benga, Urdu … là biến thái
của ngôn ngữ Phạn.
+ Chữ viết đã chuyển tải được một nền văn chương Ấn đầy sắc thái, một kho tàng
văn hóa vô cùng phong phú bao gồm các bộ kinh Hindu và kinh Phật, Sử thi, kịch và thơ
ca trữ tình. Hai viên ngọc quý nhất trong kho tàng văn học Ấn Độ là hai bộ sử thi
Mahabharata và Ramayana.
- Mahabharata là bản trường ca gồm 110.000 khổ thơ (220.000 câu). Chủ đề của bộ
sử thi nói về cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền bắc Ấn Độ.
Mahabharata được coi là một bộ (bách khoa toàn thư) của Ấn Độ.
- Ramayana dài 48.000 câu thơ là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử Rama tuấn
tú và nàng công chúa kiều diễm Sita. Thông qua câu chuyện tình đó, bộ sử thi phản ánh
những ngành nghề, việc làm ăn sinh sống, phong tục cưới xin, quan niệm của người Ấn
Độ về con người, cha con, vợ chồng, anh em, lòng chung thủy và đức tính trung nghĩa ở
đời.
- Nhà thơ – nhà viết kịch Kalidasa sống vào thế kỉ IV thời vương triều Gúpta, ông là
tác giả của tác phẩm văn học trữ tình nỗi tiếng Sacuntala. Tác phẩm phỏng theo một câu
chuyện dân gian trong sử thi Mahabharata, mô tả cuộc tình duyên trắc trở của Sacuntala
và nhà vua Dusianta. Mối tình tuyệt đẹp đã sinh ra Bharata vị thủy tổ của nhân dân Ấn
Độ. Tuy chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn nhưng Kalidasa đã thể hiện trong tác phẩm của
mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối của giai cấp thống
trị.
- Ngoài ra văn học Ấn Độ còn xuất hiện nhiều tác phẩm viết bằng nhiều loại phương
ngữ khác nhau.
4. Trung Quốc:
a. Chữ viết:
+ Văn tự đầu tiên của người Trung Quốc là văn tự kết thừng. Đến thiên niên kỉ
II.TCN, người Ân Thương đã viết lên mai rùa, xương thú gọi là giáp cốt văn. Ngoài ra
còn có chữ được khắc trên đồ vật (Ân khư khư thế), chữ khắc trên đá (Thạch cổ văn), chữ
khắc hay đúc trên đồng (Kim văn), chữ trên chuông đỉnh (Chung đỉnh văn). So với Giáp
cốt văn, Kim văn không khác biệt về bản chất, nhưng chữ ngay ngắn, vuông vắn, thành
hàng lối rõ rệt và nhiều chữ phức tạp hơn.
+ Đến nhà tần, chữ viết được chỉnh lí, đơn giản và cải tiến… khuôn trong hình
vuông gọi là chữ Tiểu triện. Đây là lần thống nhất quan trọng cơ bản đầu tiên trong lịch
sử phát triển chữ viết của Trung Quốc… ra đời từ thiên niên kỉ thứ II.TCN, chữ viết
Trung Quốc là hệ chữ viết duy nhất hiện còn được sử dụng.
b. Văn học:
+ Thơ:
- Kinh thi: là tập thơ cổ nhất do nhiều tác giả sáng tác từ đầu Xuân Thu đến giữa Tây
Chu (khoảng 500 năm) gồm 3 phần: Phong, Nhã, Tụng, trong đó Phong chiếm số lượng
nhiều nhất và cũng có giá trị cao nhất. Kinh thi đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Trung
Quốc sau này.
- Thơ Đường: Thơ Đường là đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc, nó trở nên vô giá
bởi nội dung và giá trị nghệ thuật tuyệt vời của mình. Hiện nay còn lại khoảng 48.000 bài
thơ của 2300 tác giả. Các tác giả nỗi tiếng như Lí Bạch (701 – 762) đã để lại trên 1200
bài, Đỗ Phủ (712 - 770) khoảng 1400 bài, Bạch Cư Dị (772 - 846) khoảng 2800 bài …
+ Tiểu thuyết Minh - Thanh:
Thời Minh - Thanh đã để lại cho hậu thế một số lượng lớn tiểu thuyết chương hồi
phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Có các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc
chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô thừa
Ân…
Từ đầu nhà thanh tới cuối thời vua Càn Long là thời kì tiểu thuyết cực thịnh. Các tác
phẩm tiêu biểu như Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính
Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cẩn… Trong đó Hồng lâu mộng là tiểu thuyết có giá
trị nhất, là một kiệt tác của nhân loại.
Câu 6 Hãy trình bày nguyên nhân, điều kiện, tóm tắt những phát kiến địa lý cuối thế
kỷ XV đầu thế kỷ XVI và hệ quả của nó? (10 điểm)
Mẫu đáp án
ĐÁP ÁN MÔN THI: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
MÃ MÔN HỌC: .............................
THỜI GIAN:....60....phút
Không sử dụng tài liệu.
1. Nguyên nhân:
- Do nhu cầu mở rộng thị trường buôn bán hàng hoá và cung cấp nguyên liệu của
CNTB Tây Âu, do đó cần thị trường càng rộng càng tốt để phát triển nền kinh tế hàng hoá.
- Xuất phát từ nhu cầu giải quyết sự bế tắc trong quan hệ buôn bán với phương
Đông. Buôn bán với phương Đông thời kỳ này rất có lợi, vì những món gia vị mà phương
Tây rất cần như hồ tiêu, ớt... Có 3 con đường đều bị bế tắc là:
Đường xuyên Trung á nối với Trung Quốc và Châu Âu (con đường tơ lụa), con
đường này đến TK15 bị các cư dân du mục Tây á chiếm giữ, họ là người có trình độ thấp,
dã man tàn bạo, hay cướp những chuyến hàng buôn bán từ Châu á về Châu Âu.
Con đường xuyên qua Ấn Độ dương cập vịnh Péc-xích (Ba Tư), sau đó hàng hoá
được chở bằng đường bộ qua Trung Cận Đông, qua Địa Trung Hải vào Châu Âu. Con
đường này bị đế quốc Ốt-tô-man chiếm giữ, họ thường xuyên giết người, cướp của, làm
các thương dân không dám đi qua đây nữa.
Con đường vượt qua Ấn Độ dương, đi qua Hồng Hải, qua bán đảo Ả-rập, sau đó
được chở qua Địa Trung Hải vào Châu Âu. Con đường này cũng bị những người Ả-rập
Hồi Giáo chiếm giữ.
- Ngoài ra, còn một nguyên nhân chính nữa là do lòng tham vàng của các quý tộc và
thương nhân phương Tây, họ rất muốn sang phương Đông tìm kiếm vàng, kích thích tính
phiêu lưu mạo hiểm của họ.
2. Các điều kiện:
- Đây là thời kỳ Châu Âu trở nên giàu có, cho phép người Châu Âu có thể trang bị
cơ sở vật chất cho các chuyến đi biển dài ngày, tốn kém.
- Đây cũng là thời kỳ mà khoa học kỹ thuật (đặc biệt là thiên văn, địa lý, kỹ thuật
hàng hải) đã phát triển, giúp cho các chuyến đi thành công (thời kỳ này người ta đã có
quan niệm về trái đất hình tròn). Là thời kỳ vẽ được bản đồ thế giới đầu tiên do Tôx-cane-li (người Ý) vẽ, tuy rằng chưa chính xác, chỉ có Địa Trung Hải là khá chính xác. Đây
là cơ sở cho các nhà thám hiểm thực hiện các chuyến đi của mình.
- Về hàng hải, người ta đã đóng được tàu Ca-ra-ven là loại tàu vượt đại dương đầu
tiên, sử dụng các cánh buồm hình phản. Đây là thời kỳ mà la bàn do người Trung Quốc
chế tạo đã được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu (loại la bàn này do Mác-cô-pô-lô đem từ
Trung Quốc về sau chuyến đi Châu á của mình). Đặc biệt là thuốc súng (cũng do người
Trung Quốc phát minh ra) đã vào Châu Âu và được người Châu Âu chế tạo ra vũ khí
phòng vệ một cách vô cùng hữu hiệu.
- Về mặt địa lý thì Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là 2 quốc gia đều nằm ở ven bờ đại
dương, có lịch sử hàng hải lâu đời, có các cảng biển lớn, thuận lợi cho việc thám hiểm.
3. Tóm tắt 3 phát kiến địa lý lớn và hệ quả của nó?
- Năm 1487 Đi-a-xơ đã đi đến cực nam Châu Phi và ông gọi đây là Mũi Bảo tố,
sau gọi là Mũi Hảo vọng.
- 8/1492 Cô-lôm-bô đến được Cuba và một số đảo vùng Ca-ri-bê. Ông là người
đầu tiên phát hiện ra Châu Mĩ.
- 7/1497 Va-xcô đơ Ga-ma đã đến được Ca-li-cút (Ấn Độ).
- Năm 1519 - 1522 Ma-gien-lan người đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng đường
biển.
4. Những phát kiến địa lý đã gây nên các hệ quả lớn:
- Những phát kiến địa lý thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp, mở rộng ra
không chỉ ở Châu Âu, mà cả thế giới. Thị trường thế giới đã được xác lập sau những phát
kiến địa lý ấy.
Trên các thị trường Châu Âu, các mặt hàng của phương Đông đã được tràn vào và
mở rộng như thuốc lá (từ Châu Mỹ), ca cao, cà phê (ở Trung Cận Đông), đường trắng,
gạo trắng (từ Trung Quốc, Ân Độ)...
Các trung tâm thương nghiệp có sự thay đổi từ các thành phố của Ý tận Địa Trung
Hải sang các vùng bờ biển. Ví dụ như vào TK16 thành phố An-véc-pan của Hà Lan trở
thành trung tâm thương nghiệp lớn nhất Châu Âu, sang TK17 thì Am-téc-đam của Hà Lan
lại chiếm vị trí trung tâm thương nghiệp thế giới.
- Những phát kiến về địa lý đã dẫn tới "cuộc c/mạng giá cả", hàng hoá Châu Âu tăng
vọt 2,5-3 lần do vàng của người Châu Âu khai thác được ở các thuộc địa như Châu Mỹ
(vàng do các thổ dân khai thác lâu năm tích tụ, đặc biệt là người In-ca họ có rất nhiều
vàng, khi người Châu Âu đến, họ đã cướp hết vàng bạc), tung ra thị trường Châu Âu làm
giá cả các mặt hàng khác tăng vọt, sự tăng vọt giá cả này có lợi cho các nhà sản xuất,
buôn bán và gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
- Về chính trị, sau những phát kiến về địa lý đã hình thành chủ nghĩa thực dân
(chiếm đất đai, cai trị, di dân đến sống tại các thuộc địa...), đặc biệt là các cuộc di dân ồ ạt
đối với các nước Châu Mỹ, Châu Phi, Châu á. Điển hình là Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Anh, Pháp, Hà Lan... Tại các thuộc địa, họ cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ
mạt, bắt dân làm việc trong điều kiện tồi tệ... dẫn đến những người da đỏ thổ dân dần bị
diệt vong, nạn buôn bán nô lệ da đen từ Châu Phi sang Châu Mỹ trở nên phổ biến...
- Những cuộc phát kiến địa lý cũng dẫn tới sự tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
nền văn hoá, văn minh. Đặc biệt trên 2 lĩnh vực: Tôn giáo và ngôn ngữ: Đạo Cơ Đốc theo
chân những người Châu Âu sang các thuộc địa và trở thành quốc tế giáo. Đồng thời Châu
Âu cũng tiếp thu các đạo khác. Về ngôn ngữ, tiếng Anh được truyền bá ra các thuộc địa
thành tiếng quốc tế; tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha được truyền bá chủ yếu sang
Châu Phi, Châu Mỹ và nó đã trở thành ngữ hệ La-tinh
Ngoài ra còn một số lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học công nghệ cũng tràn vào
các thuộc địa do người Châu Âu phải xây dựng các nhà máy, xí nghiệp ở các thuộc địa,
đồng thời mở trường dạy học nghề... Về nghệ thuật cũng được du nhập đan xen, nhưng
chiều ảnh hưởng chủ yếu là từ Châu Âu sang.
Những phát kiến về địa lý về mặt khách quan đã dẫn tới sự phát triển của các bộ
môn khoa học, vì các vùng đất mới là vùng đất dành cho việc nghiên cứu, là đối tượng
nghiên cứu bao la...
Mẫu đề thi 7
ĐỀ MÔN THI: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
MÃ MÔN HỌC: ......
THỜI GIAN: 70 phút
Không sử dụng tài liệu.
Phong trào Văn hóa phục hưng ở Tây Âu diễn ra trong bối cảnh nào? Hãy trình
bày nội dung và những thành tựu chính của phong trào này? (10 điểm)
Mẫu đáp án
ĐÁP ÁN MÔN THI: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
MÃ MÔN HỌC: .............................
THỜI GIAN:....70....phút
Không sử dụng tài liệu.
1. Bối cảnh xã hội:
- Thời hậu kì trung đại, bộ mặt kinh tế Tây Âu có nhiều thay đổi, quan hệ sản xuất
TBCN hình thành; cùng với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật.
- Cùng với sự ra đời của tư bản là giai cấp tư sản cũng được ra đời, giai cấp tư sản
cần có một hệ tư tưởng mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
- Những quan điểm lỗi thời của xã hội phong kiến, hệ tư tưởng khắt khe của Giáo
hội Thiên chúa đã kìm hãm sự phát triển của giai cấp Tư sản.
- Cùng với phong trào cải cách tôn giáo, cuộc đấu tranh của nông dân diễn ra sôi
nổi cũng là hậu thuẫn cho giai cấp tư sản chống lại phong kiến.
Như vậy: Giai cấp tư sản có thế lực về kinh tế song chưa có địa vị về xã hội tương
ứng nên muốn xoá bỏ chướng ngại phong kiến.
2. Nội dung của phong trào Văn hoá Phục Hưng
Phong trào văn hóa phục hưng, thực chất là một phong trào văn hóa mới, tư tưởng
của giai cấp tư sản đang phát triển chống lại tư tưởng lỗi thời, lạc hậu, ràng buộc, kìm
hãm sự phát triển của con người và xã hội của giai cấp phong kiến và giáo hội.
Tư tưởng chủ đạo của Văn hóa phục hưng là chủ nghĩa nhân văn (tư tưởng của con
người mới). Thực chất của Văn hóa phục hưng là:
-
Đề cao giá trị con người, Đòi tự do cá nhân
-
Phê phán, đã kích xã hội phong kiến, giáo hội.
-
Chống lại quan điểm lỗi thời và lạc hậu, phản khoa học, đề cao tinh thần dân tộc.
3. Những thành tựu chính
Văn hoá Phục hưng là khôi phục tinh hoa văn hoá xán lạn cổ đại Hi Lạp - Rôma;
đấu tranh xây dựng một nền văn hoá mới, một cuộc sống tiến bộ.
3.1 Văn học: Gồm có nhiều thể lọai như: Thơ, tiểu thuyết, kịch …
- Thơ: Có nhiều tác giả với những tác phẩm xuất sắc:
+ Đantê, là người mở đầu cho thơ ca thời phục hưng, tác phẩm tiêu biểu là Thần
khúc.Ông không chủ trương chống lại giáo hội nhưng ông ghét giáo hội và giáo hoàng.
+ Pêtơraca, là nhà thơ trữ tình, tác phẩm lớn nhất là tập thơ ca ngợi tình yêu tặng
nàng lôra.
- Tiểu thuyết: cũng có nhiều tác phẩm và tác giả nổi tiếng:
+ Bôcaxiô, tác phẩm nổi tiếng là truyện mười ngày.
+ Rabơle, chủ yếu là những tác phẩm trào phúng, tiêu biểu là Gacgiăngchuya –
pănhtagruyen.
+ Xéc văng tét, được coi là người đặt nền móng cho văn học của Tây ban Nha thời phục
hưng, tác phẩm tiêu biểu là: Đông ki sốt.
- Kịch: Séchxpia, tiêu biểu cho nghệ thhuật kịch thời phục hưng, Ông sáng tác 36 vở hài
kịch, nổi tiếng như: Đêm thứ mười hai, theo đuổi tình yêu vô hiệu… bi kịch như: Hăm lét,
Rômêô và Giuliét…
3.2 Nghệ thuật
Ý là nơi khởi đầu nền nghệ thuật thời phục hưng, với rất nhiều họa sĩ, nhà điêu
khắc nổi tiếng như:
+ Giốt tô, người mở đầu xu hướng hiện thực trong hội họa thời Phục hưng.
+ Maxsiô: là người phát triển nghệ thuật thời phục hưng.
+ Lêôla Đơ Vanhxi (ý), là danh họa lớn nhất thời phục hưng không chỉ ở Italia
mà cả Châu Âu. Ông còn là người có kiến thức uyên bác về nhiều ngành khoa học: toán,
lý, thiên văn…
+ Mikenlănggiơ (ý), cũng là họa sĩ rất nổi tiếng, tác phẩm tiêu biểu là tượng
Đavít, Môidơ, người nô lệ bị trói… Ông là người đầu tiên thiết kế nhà thờ Xanhpie.
+ Raphaen, là họa sĩ thiên tài người Ý, tác phẩm nổi tiếng: Cô gái làm vườn xinh
đẹp.
+ Ngoài ý còn nhiều họa sĩ nổi tiếng tên tuổi khác như: Lucátđơ lâydơ (Hà Lan),
Đuyrê (Đức), Lơnanh (Pháp)…
3.3 Khoa học tự nhiên và triết học
Thời phục hưng ở Tây Âu sản sinh ra rất nhiều nhà khoa học, bác học thiên tài có
rất nhiều đóng góp cho nền văn minh nhân loại như:
+ Côpécních (Balan), là người mở đầu cho khoa học tự nhiên thời phục hưng. Ông nêu
ra học thuyết về vũ trụ, và cho rằng: mặt trời là trung tâm của vũ trụ, trái đất tự quay
quanh mình nó và quay quanh mặt trời.
+ Brunô (Ý), là người tiếp tục phát triển quan điểm của Côpécních, Ông cho rằng: vũ trụ
là vô tận, mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ. Ông chứng minh vật chất luôn vận
động biến đổi và tồn tại vĩnh viễn.
+ Galilê (Ý), là người tiếp tục phát triển quan điểm của Côpécních và Brunô lên một
bước, Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng để quan sát bầu trời. Ông là người mở
đầu cho khoa học thực nghiệm.
+ Ngoài ra còn có rất nhiều các nhà khoa học nổi tiếng khác thời kì văn hóa phục hưng:
nhà tóan học nổi tiếng: Đêcáctơ (người Pháp), nhà vật lí Tôrixeli (Ý), nhà y học Vêdalơ
người Nêđéclan…
Triết học: Có rất nhiều nhà triết học nổi tiếng, tiêu biểu:
+ Bây cơn (Anh), là người mở đầu cho trường phái triết học duy vật thời phục hưng. Ông
đề cao Đêmôcrít, phê phán Xôcrát, Platông.
+ Uácte (Tây Ban Nha), Ông là nhà triết học duy vật, là người phê phán mạnh mẽ triết
học kinh viện.
+ Êraxemơ (Hà Lan), Là nhà triết học, nhà bác học và là một trong những nhà nhân đạo
chủ nghĩa thời phục hưng, là người phê phán mạnh mẽ xã hội phong kiến và giáo hội.
Ngoài ra, còn có sự tiến bộ về Khoa hoc kỹ thuật như: cải tiến guồng nước, cải tiến
kỹ thuật trong ngành dệt, những tiến bộ trong luyện kim và khai mỏ, những tiến bộ về kỷ
thuật quân sự…
Mẫu đề thi 8
ĐỀ MÔN THI: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
MÃ MÔN HỌC: ......
THỜI GIAN: 70 phút
Không sử dụng tài liệu.
Câu 1: Hãy so sánh, phân tích điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư hình thành nền văn minh
Hy – La cổ đại ? (5 điểm).
Câu 2: Hãy trình bày thành tựu về tôn giáo của La Mã cổ đại và sơ đồ tóm lược quá trình
phát triển của Kitô giáo từ thế kỷ I đến thế kỷ XVI ? (5 điểm).
Mẫu đáp án
ĐÁP ÁN MÔN THI: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
MÃ MÔN HỌC: .............................
THỜI GIAN:....70....phút
Không sử dụng tài liệu.
Câu 1:
1. Điều kiện địa lý tự nhiên và dân cư của Hy lạp cổ đại
1.1- Địa lý tự nhiên
Vùng đất của thế giới Hy Lạp cổ đại lớn hơn nước Hy Lạp ngày nay rất nhiều, nó
gồm miền Nam bán đảo Bancăng (Balkans), các đảo trên biển Êgiê (Aegean) và phía tây
Tiểu Á. Trung tâm của thế giới Hy Lạp cổ đại nằm ở phía nam bán đảo Bancăng.
Đất đai Hy Lạp không được phì nhiêu, không thuận lợi cho việc trồng cây lương
thực, địa hình lại còn bị chia cắt thành nhiều vùng đồng bằng nhỏ hẹp.
Hy Lạp có nhiều vũng, vịnh, thuận lợi cho việc lập những hải cảng. Ở đây còn có
nhiều khoáng sản lại tương đối dễ khai thác như đồng, vàng, bạc... Chính vì vậy, kinh tế
Hy Lạp cổ đại chú trọng phát triển về công, thương nghiệp hơn nông nghiệp, nhất là buôn
bán đường biển.
Đặc điểm này của kinh tế cũng làm cho nền văn minh Hy Lạp cổ tuy phát triển sau
văn minh Ai Cập cổ, nhưng những lái buôn Hy Lạp trong quá trình ngang dọc trên Địa
Trung Hải cũng học được nhiều điều hay từ Ai Cập và Lưỡng Hà.
1.2 Về dân cư
Dân Hy Lạp cổ đại gồm nhiều tộc người như người Êôliêng (Eolien), Akêăng
(Acheen), Đôriêng (Dorien)...
Lúc đầu các tộc người này đều gọi theo tên riêng từ thời bộ lạc của mình, tới thế
kỉ VIII-VII TCN các tộc người đó đều tự gọi một tên chung là Helen (Hellenes) và gọi đất
nước mình là Hella (Hella) tức Hy Lạp.
2. Điều kiện địa lý tự nhiên và dân cư của La mã cổ đại
2.1 Địa lý tự nhiên
Bán đảo Italia, nơi hình thành nhà nước La Mã cổ đại nằm ở Nam Âu, có nhiều
đồng bằng, tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp
Đất chứa nhiều khoáng sản, thuận lợi cho nghề luyện kim.
Địa hình không bị chia cắt, tạo điều kiện cho sự thống nhất. Bờ biển ở phía nam
bán đảo có nhiều vịnh, cảng thuận tiện cho tàu bè trú ẩn khi thời tiết xấu.
Do điều kiện địa lí như vậy nên bán đảo Italia có điều kiện tiếp xúc với những nền
văn minh phát triển sớm ở phương Đông.
2.2 Dân cư
Người dân có mặt sớm nhất ở trên bán đảo Italia được gọi là Italiot, trong đó bộ
phận sống trên đồng bằng latium được gọi là người Latinh (Latin), ngoài ra còn có một số
nhỏ người gốc Gôloa, gốc Hy Lạp. Người Latinh đóng vai trò chủ đạo trong quá trình
phát triển của La Mã cổ đại.
Câu 2:
Thành tựu về tôn giáo của La Mã cổ đại:
1. Ki tô giáo:
1.1 Người sáng lập:
Người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ I tại
Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo. Tư
tưởng Bình Đẳng, Bác ái, lòng tin vào thiên đàng và lên án chế độ hà khắc La Mã.
1.2 Giáo thuyết
Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết
sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời,
chúa Jesus, thánh thần tuy ba mà là một (tam vị nhất thể) .
Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo lí
của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ
khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.
Học thuyết Kitô giáo: Trên cơ sở của nền triết học duy tâm khắc kỷ kết hợp với
thần đạo phương đông, nhất là thần học Do thái giáo với nền triết học Hi Lạp đã được
dung tục hóa đã góp phần tạo nên học thuyết Kito giáo.
1.3 Về tổ chức, Lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa
mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã
Kitô dần phát triển thành Giáo hội.
Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa phương cho là
sự truyền bá tôn giáo phản loạn, tập hợp quần chúng chống đối nên đã đàn áp rất tàn bạo.
Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho
Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Năm 311, một hoàng đế La Mã
đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công
nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo
Kitô. Ki tô giáo trở thành quốc giáo.
2. Sơ đồ tóm lược quá trình phát triển của Ki tô giáo từ thế kỷ I đến thế kỷ
XVI (3đ).
- Từ thế kỷ I – thế kỷ XI: Công giáo, Chính Thống giáo.
- Từ thế kỷ XI – thế kỷ XVI: Anh Giáo, Công giáo, Tin Lành và Chính Thống
giáo.
Mẫu đề thi 9
ĐỀ MÔN THI: LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
MÃ MÔN HỌC: ......
THỜI GIAN: 70 phút
Không sử dụng tài liệu.
Phong trào cải cách tôn giáo ở Tây Âu diễn ra trong bối cảnh nào? Hãy trình bày
một số cuộc cải cách tiêu biểu ? (10 điểm).