Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Văn học nhật bản hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.48 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ HUẾ
KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA NHẬT BẢN

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: VĂN

HỌC NHẬT BẢN THỜI KÌ HIỆN ĐẠI

Giáo viên hướng dẫn: HOÀNG THỊ XUÂN VINH
Tổ 6: Bùi Thị Thanh Thủy
Trần Nử Nhật Hiên

LỜI MỞ ĐẦU


Văn học Nhật Bản là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời
nhất và giàu có nhất thế giới, nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng
lớn từ thuở bình minh của các bộ tộc Nhật Bản và trải qua một quá trình
lịch sử lâu dài và nhất quán, nó trở thành nét đặc trưng mà không một
nền văn học nào trên thế giới có được. Qua quá trình học tập môn Lịch sử
văn học Nhật bản, chúng em đã có cơ hội tiếp xúc với một nền văn học
đẹp như thế này. Chúng em được biết đến những tác phẩm nổi tiếng,
những thời kì phát triển rực rỡ của nền văn học Nhật Bản và đặc biệt
chúng em rất ấn tượng với thời kì văn học hiện đại của Nhật Bản- một
thời kì được đánh dấu bởi những kiệt tác văn học của những nhà văn xuất
chúng. Bài tiểu luận dưới đây là kết quả tìm hiểu, thảo luận và làm việc
nhóm của chúng em về đề tài Văn học hiện đại Nhật Bản. Trong quá
trình làm việc chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, chúng em
rất mong nhận được sự giúp đỡ của cô để bài tiểu luận của chúng em
được hoàn thiện hơn. Qua đây chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến cô- người đã truyền nhiệt huyết và niềm đam mê văn học đến


với những sinh viên ngoại ngữ chúng em. Chúng em mong cô vẫn luôn
mãi như vậy, mãi là người dẫn đường cho chúng em đến với một nền văn
học đẹp-Văn học Nhật Bản.

VĂN HỌC HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN
I.
1.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI NHẬT BẢN:
Bối cảnh lịch sử:


Xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ chia làm ba thời kì:
+ Thời kì Meji: 1868 – 1912
+ Thời kì Taiso: 1912 – 1926
+ Thời kì Showa:1926 – 1989
2.
















Tình hình xã hội Nhật Bản:
Vào thời kì Edo (1603 – 1867): Nhật đóng cửa đất nước suốt hơn hai thế kỷ.
Chế độ Mạc Phủ ra chính sách “bế quan tỏa cảng”, cấm thương nhân Nhật
thông thương với nước ngoài.
Càng về sau, chế độ cai trị của chính quyền Mạc Phủ ngày càng trở nên lỗi
thời. Thời điểm này, Mĩ liên tục tạo áp lực đối với chính quyền Nhật Bản vì
vậy chế độ Mạc Phủ phải xóa bỏ chính sách “bế quan tỏa cảng”.
Khoảng giữa Thế kỉ XIX, mâu thuẫn giữa nền kinh tế tư bản và quan hệ sản
xuất phong kiến lỗi thời trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân
nổ ra và chế độ phong kiến Mạc Phủ khủng hoảng trầm trọng.
Năm 1868: cuộc Cách mạng của Thiên Hoàng Mitshuhito thắng lợi, xóa bỏ
hoàn toàn chế độ Mạc Phủ, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử Nhật Bản:
Minh Trị Duy Tân.
è Nhật Bản bắt đầu mở cửa, giao lưu với thế giới sau mấy trăm năm bị
kìm hãm.
a. Thời kỳ Minh Trị:
Ngày 3 tháng 2 năm 1867, Thiên hoàng Hiếu Minh qua đời, hoàng tử
Mutsuhito 16 tuổi lên thay, một thời kỳ mới bắt đầu - thời kỳ Minh
Trị. Nhật hoàng khôi phục uy quyền năm 1868 chấm dứt 265 năm phong
kiến dưới triều Mạc phủ Tokugawa.
Đây là thời kỳ có tính chất bước ngoặt. Thiên hoàng Minh Trị đã có nhiều
chính sách cải cách quan trọng, “duy tân” đất nước:
Bãi bỏ chế độ đẳng cấp khắt khe
Đẩy mạnh giao lưu, tiếp xúc với thế giới về mọi mặt
Thay lịch âm bằng lịch dương
Đổi mới to lớn trong giáo dục: xóa bỏ phân biệt giới tính địa vị; Giáo dục
dành cho phụ nữ. Đây là bước tiến lớn của phong trào Duy tân.
Từ một nước quân chủ chuyên chế, Nhật tiến nhanh lên con đường TBCN

với tốc độ rất cao, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa và chuyển sang giai
đoạn chủ nghĩa quân phiệt.
b. Thời Đại Chính (1912 – 1926) và thời Chiêu Hòa (1926 – 1989):
Năm 1912: Nhật Hoàng qua đời, kết thúc triều đại Minh Trị, mở ra thời kỳ
lịch sử mới với hai triều đại Taiso và Showa do hoàng đế Taisho và hoàng
đế Hirohito trị vì.




Đây là thời kỳ bất thường nhất của Nhật Bản; được đánh dấu bằng các cuộc
chiến tranh xâm lược, nhằm thực hiện tham vọng bành trướng:
+ Chiến tranh Trung – Nhật: 1894 – 1895
+ Chiến tranh Nga – Nhật: 1904 – 1905
+ Chiến tranh Thế giới II: 1939 – 1945



NB huy động toàn bộ tiềm lực kinh tế cho chiến tranh xâm lược này. Nhưng
đã thất bại hoàn toàn.



Đây là giai đoạn lịch sử đen tối nhất của nước Nhật



Xuất hiện một nền “văn hóa đại chúng”, phát triển song song với các trào
lưu dân chủ. Giới trí thức thời này có một môi trường sinh hoạt khá thoải
mái hơn thời Minh Trị.




Xuất hiện phong trào khuyến khích thanh niên sống và ăn mặc theo mốt hiện
đại kiểu Phương Tây.



Thời kỳ này, sách báo được xuất bản nhiều chưa từng thấy, tạo tiền đề và
điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của văn hóa và văn học.



Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật Bản trở thành một đất nước hoang
tàn, kiệt quệ, không còn gì, hoàn toàn mất tinh thần. Sự bại trận, thảm họa
bom nguyên tử và thời kỳ chiếm đóng của Mỹ trở thành những cú sốc tinh
thần to lớn, để lại những vết thương sâu sắc trong tâm hồn người Nhật.



Giai đoạn khủng hoảng đối với nền văn hóa, đạo đức truyền thống Nhật
Bản.



Sau 1954, nền kinh tế Nhật được phục hồi và phát triển thần tốc, đặc biệt là
vào những năm 1960 – 1970. Làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn
ra mạnh mẽ ở Nhật, biến Nhật trở thành một trong những nước có nền kinh
tế lớn nhất thế giới (đứng thứ 2).




Đến nay, Nhật Bản là một nước dân chủ kiểu phương Tây với nền chính trị
ổn định, kinh tế phát triển nhanh và ổn định,tỷ lệ tội phạm ít, xung đột giai
cấp dường như không có, do xã hội Nhật đã hình thành giai cấp trung lưu,
chiếm hầu hết dân số. Về mặt văn hóa, xã hội, tuy rất phát triển về mặt kinh


tế nhưng Nhật Bản vẫn giữ được cấu trúc văn hóa và những giá trị truyền
thống.
II.


Tình hình văn học:
Vấn đề phân kỳ văn học hiện đại Nhật Bản
Có hai quan điểm phân chia chính :
(1) Văn học hiện đại Nhật Bản có 3 giai đoạn:
Thời Meji (1868 – 1912)
Thời Taiso (1912 – 1926)
Thời Showa (1926 – 1989)
(2) Văn học hiện đại Nhật bản có 4 giai đoạn:
• Thời meji (1868 – 1912)
• Thời Taisho (1912 – 1926)
• Thời Showa tiền chiến (1926 – 1941)
• Showa hậu chiến (1941 – 1989)
Ngoài ra có một số học giả với quan niệm cởi mở, họ cho rằng văn học
hiện đại Nhật Bản không chỉ trong khoảng từ 1868 đến 1989 mà còn
phải kể đến các nhà văn thời đại Heisei (cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ
XXI).
Một số đặc điểm cơ bản của văn học hiện đại Nhật Bản:

a. Đặc điểm văn học:
Quá trình hiện đại hóa nền văn học diễn ra song song với quá trình Nhật Bản
hiện đại hóa đất nước (bắt đầu từ thời Duy Tân Minh Trị). Nhưng việc “hiện
đại hóa văn học” diễn biến đa dạng và phức tạp hơn.






1.




Giai đoạn đầu, văn học hiện đại Nhật Bản tiếp thu nền văn học phương Tây
trên cơ sở dịch thuật các tác giả, tác phẩm lớn. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX, hầu kết tinh hoa văn học nhân loại dường như đều có mặt ở Nhật Bản
với những tên tuổi: Dostoievski, Nietzche, Jame Joyce, Proust… Chính điều
này đã trở thành nhân tố kích thích sự phát triển nền văn học Nhật Bản.



Song song với việc dịch những tác phẩm kinh điển của văn học Châu Âu là
sự mô phỏng nhiều sáng tác nổi tiếng: Robinson Crusoe (Defoe), Không
Tưởng (Thomas More), Sự thú tội (Rousseau), Hamlet, Vua Lear, Người lái
buôn thành Venice (Shakespeare)…





Ở giai đoạn đầu thế kỷ XX, văn học Nhật đã hội tụ đầy đủ các học thuyết,
trường phái, chủ nghĩa trong văn học thế giới: chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa tự nhiên, phân tâm học…



Năm 1885: dấu mốc đánh dấu bước ngoặt về sự cách tân của nền văn xuôi
Nhật Bản, với sự xuất hiện cuốn “Tinh túy của tiểu thuyết” của nhà nghiên
cứu, phê bình văn học Tsubouchi Shoyo.



Mở ra một giai đoạn mới cho nền văn học Nhật Bản: văn xuôi chiếm vị trí
trung tâm.



Một số nhà văn bắt đầu sáng tác theo khuynh hướng hiện đại. Xuất hiện
hàng loạt những cây bút đầy tài năng trong nền văn học Nhật Bản. Đây là
lực lượng sáng tác mới, quyết định sự bứt phá của một nền văn học nội sinh.
(những tên tuổi như: Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro,
Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Mishima Yukio, …)
Thơ ca:

Năm 1882 đánh dấu một mốc lớn đầu tiên của tiến trình hiện đại hóa
thơ ca Nhật Bản khi Toyama Seiichi (1848-1900), Yatabe Ryokichi
(1851-1899) và Inoue Tetsujiro (1855-1944) ba giáo sư Đại học
Tokyo, trong khi dịch thơ Tây phương, đã thử sáng tác một số bài thơ
theo phong cách châu Âu đương thời và cho in thành tập mang tên

Shintaishi-sho (Tân thể thi sao)
• Vào những năm cuối của thời Meiji, thơ tự do ra đời và thơ mới đã nở
rộ cùng sự nở rộ của một loạt trào lưu văn học như chủ nghĩa lãng
mạn, chủ nghĩa tượng trưng, khuynh hướng ấn tượng, thơ duy hiện
đại vào nửa cuối của thời Taishō cho đến hết sơ kỳ Shōwa.
Vai trò của các tạp chí văn học và hoạt động phê bình:
b.

2.


Các tạp chí văn học không chỉ đóng vai trò quan trọng trong lịch sử văn học
Nhật Bản mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự nghiệp sáng tác của các nhà
văn.

-

Mỗi tờ tạp chí có thể coi là phát ngôn của các khuynh hướng, trào lưu khác
nhau giúp người đọc có thể nhận diện một cách rõ ràng sự khác biệt của các
khuynh hướng, trường phái sáng tác.
Các tạp chí này hầu hết là những tổ chức có cơ cấu hết sức chặt chẽ và được
vận hành chuyên nghiệp ð tạo nên một bối cảnh văn học mới, thúc đẩy nền
văn học hiện đại phát triển với phạm vi rộng lớn hơn.

-


-

Xét về mặt lịch sử văn học, các tạp chí này đã góp phần thúc đẩy sự phát

triển của phê bình, lí luận trong văn học



Hoạt động phê bình văn học

-

Văn học Nhật có cả một truyền thống lâu đời về hoạt động phê bình văn học.

-

Các nhà văn lớn đồng thời cũng là những nhà phê bình xuất sắc (Natsume
Soseki, Tanizaki Junichiro, Akutagawa, Kawabata, Mishima Yukio…)

-

Hoạt động phê bình đã thúc đẩy sự phát triển của hoạt động sáng tác văn
học, sự phát triển của lí luận, mĩ học Nhật Bản.

ð Đóng vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa, thúc đẩy sự phát triển
của Văn học Nhật Bản.
III.

Các tác giả, tác phẩm tiêu biểu:

1.

MORI OGAI (1862 – 1922 )




Ông sinh ra trong một gia đình đời đời làm nghề
thầy thuốc cho lãnh chúa ở thị trấn Tsumano (hiện
nay là quận Shimawe) .



Ông tốt nghiệp khoa Y đại học Tokyo năm 1881 và
làm bác sĩ quân y trong quân đội.



Năm 1884 ông được cử sang Đức học và bắt đầu
dịch thuật một số tác phẩm tiếng Đức. Ông nghiên
cứu sâu rộng triết học, văn học châu Âu và là nhà
văn lớn đầu tiên của Nhật thể nghiệm cuộc sống, tư
duy và tình cảm châu Âu.



Ông là một trong 3 nhà văn được coi là lớn nhất Nhật Bản, là người đã có
công đưa vào nền văn học Nhật tiểu thuyết cỡ vừa và thể loại tự truyện
(watakushi shosetsu), tiểu thuyết lịch sử.



Mori Ogai thể hiện khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa, đấu tranh cho cá nhân,
chống lại những tư tưởng phong kiến trong xã hội.




Ông được nhiều nhà văn thế hệ sau hâm mộ, coi là bậc thầy.


Tác phẩm tiêu biểu:
Nhạn là một quyển tiếu thuyết ngắn của Mori
Ogai viết vào những năm cuối đời để nhớ lại
một thời tuổi trẻ. Đóng vai trò người kể truyện,
một mối tình tay ba giữa mỹ nhân Otama,
chàng sinh viên điển trai Okada và con buôn
Suezo từ từ hiện ra qua từng trang văn điềm
đạm. Trên đó những toan tính, dằn vặt, mâu
thuẫn gia đình, bản chất con người dần hiện lên
rõ ràng minh bạch. Nhân sinh từ ngàn đời nay,
dù nơi nào cũng vậy cũng diễn đi diễn lại một
vở tuồng. Có trung có nịnh, có khát khao đam
mê, có tuyệt vọng thẫn thờ, có những toan tính
nhỏ nhen với những ước vọng phi thường.


-Một số tác phẩm khác : Nàng vũ công ( tác phẩm đầu tay ), Utakata no
ki (1890, Truyện người ca kỹ), Fumizukai (1891, Người đưa thư), Wita
sekusuarisu (1909, ヰタ・セクスアリス Tính dục), Seinen (1910, Tuổi trẻ)…

2.


NATSUME SOSEKI (1867 – 1916)
Là một trong ba trụ cột của văn học hiện đại Nhật

Bản, là nhà trí thức lớn, có nhiều đóng góp đối với
nền văn học, triết học Nhật Bản.



Ông học văn học và ngôn ngữ ở Anh. Hiểu biết
rộng văn hóa phương Tây, tinh thông Thiền học
và văn hóa cổ điền Trung Hoa.



Dạy văn học Anh tại đại học đế chế Tokyo trước
khi viết văn chuyên nghiệp.




Soseki là nhà văn rất thành công và được nhiều người nể phục trên văn đàn.
Nhiều nhà văn trẻ tìm đến ông để học hỏi và ông cũng rất quan tâm nâng đỡ
những cây bút trẻ tài năng.



Soseki là chủ soái của trường phái văn chương tâm lí cao sang (đối lập với
trường phái tự nhiên). Ông là người thường có những tranh luận về văn học,
mỹ học trên các tạp chí nổi tiếng và được nhiều người quan tâm.



Tác phẩm Soseki thường phân tích cái tôi, nỗi cô đơn của người trí thức

trong xã hội tư sản mang nhiều tàn tích phong kiến. Sự bế tắc của cá nhân và
tư tưởng hoài nghi xã hội.


Tác phẩm tiêu biểu : Gối đầu lên cỏ

Phong cảnh mùa xuân vùng núi yên ả khiến lòng
người dịu lại. Chàng họa sĩ rời Tokyo đến miền
quê, ngắm phong cảnh mùa xuân này để tìm lại sự
thanh thản. Suốt quá trình đó, anh muốn vẽ một
bức tranh đẹp với khuôn mặt của giai nhân đã
thoát ly với cuộc đời. Có lẽ bức tranh ấy sẽ không
thể hoàn thành cho đến cuối truyện, khi anh nắm
được khoảng khắc vô giá biểu hiện trên gương
mặt cô gái mà anh mời làm người mẫu trong tranh
để tranh có được nét thần.
-Một số tác phẩm khác : Tôi là con mèo, Nỗi
lòng, Mười đêm mộng…

3.

TANIZAKI JUNICHIRO (1886 – 1965)



Là nhà văn trọng yếu nhất của nền văn học hiện đại
Nhật Bản.




Ông được tôn sùng chủ nghĩa duy mỹ một cách tuyệt
đối. Chủ đề ông phản ánh thường là những xung đột
văn hóa, tinh thần Đông – Tây.




Tiểu thuyết của ông được đánh dấu bởi tình dục và chủ nghĩa duy mỹ Tây
hóa.



Tanizaki bị hấp dẫn một cách mãnh liệt bởi tác phẩm vĩ đại Genji
monogatari. Ông đã chuyển dịch lại tác phẩm sang ngôn ngữ Nhật hiện đại
rất thành công. Các tác phẩm lớn của ông hầu hết đều chịu ảnh hưởng từ
cảm hứng Genji.



Người phụ nữ là đề tài chính trong những sáng tác của Tanizaki.



Ông cũng là nhà phê bình xuất sắc với các bài viết gây được tiếng vang lớn
trên các tạp chí văn học: “Các khái niệm đạo đức và các khái niệm thẩm
mĩ”; “Phong cách nghệ thuật của một người kể chuyện hiện đại”.



Tác phẩm tiêu biểu :

Yêu Trong Bóng Tối gồm 2 truyện ngắn của Tanizaki Junichiro là Yêu trong
bóng tối và Cầu mộng. Hai bầu không khí tồn tại
trong một cuốn sách, một cổ kính thơ mộng, một bi
tráng trầm hùng. Và hai tình yêu, một trung thành tận
hiến, một ngây thơ tội lỗi. Yêu trong bóng tối xoay
quanh chuyện một nô bộc đem lòng thầm yêu người
nữ chủ nhân xinh đẹp và quyền quý, bằng một tình
yêu thầm lặng. Qua bao nhiêu thăng trầm, với mấy lần
đổi chủ, hắn vẫn tận tụy bên nàng với niềm hi vọng
nhỏ nhoi được dự phần vào số mệnh nữ chúa của
mình. Trong khi đó Cầu mộng lại là một câu chuyện
khác. Đó là một hồi ức thơ mộng đẹp về thuở ấu thơ
của nhân vật “tôi”, trong “khu vườn địa đàng” của đời
chàng cùng với hai bà mẹ. Phủ đầy Cầu mộng là một
làn khói mơ màng xen lẫn những ám ảnh miên man.
Theo dòng suy tưởng của nhân vật chính, độc giả
được dẫn dắt từ giấc mơ này sang giấc mơ khác, đến nỗi rốt cuộc không còn
phân biệt được đâu là thực đâu là mê, đâu là ngây thơ đâu là tội lỗi.
Một số tác phẩm khác : chiếc chìa khóa, chữ Vạn…

4.

AKUTAGAWA RYUNOSUKE (1892 – 1927)




Nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng nhất văn học
Nhật Bản hiện đại thời Taiso.




Tuy thấm nhuần văn hóa phương Tây nhưng
Akutagawa lại tìm về với văn học cổ Nhật Bản. Đề
tài ông yêu thích là những gốc truyện truyền thống,
những câu chuyện lịch sử từ thế kỷ X – XII =>
truyện ngắn của ông còn được gọi là “truyện ngắn
lịch sử”.



Nhà văn ảnh hưởng chủ nghĩa duy mỹ.



Chủ đề xuyên suốt sáng tác của Akutagawa là bộ
mặt đạo đức của con người.



Ông có cách phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Miêu tả
khách.



Truyện thường pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và huyền ảo, văn phong
hoa mỹ nhưng súc tích, tinh tế, bố cục chặt chẽ.




Đến nay, truyện ngắn Akutagawa được coi là di sản tinh thần vô giá của văn
học Nhật.



Tên ông được đặt cho giải thưởng văn học danh giá nhất ở Nhật: giải
Akutagawa.





Tác phẩm tiêu biểu: Tuổi già, Truyện cái mũi, Cánh đồng khô…

5.

KAWABATA YASUNARI (1899 – 1972)

Kawabata sinh ở Osaka, có một cuộc đời đầy
bất hạnh. Cảm thức cô đơn trong văn phẩm
Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc
sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông.




Kawabata nghiên cứu cả văn học Anh lẫn văn học Nhật ở Đại học Tokyo.
Ông say mê thơ văn cổ điển như Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu,
Sách gối đầu của Sein Shonagon lẫn các tác giả hiện đại Tây phương như
Marcel Proust, James Joyce




Khi còn là sinh viên ông đã cùng với Yokomitsu Riichi lập ra tờ Văn nghệ
thời đại (Bungei jidai) làm cơ quan ngôn luận cho trường phái văn học Tân
cảm giác (shinkankaku-ha)



Kawabata được mệnh danh là “người lữ khách suốt đời đi tìm cái đẹp”



Phong cách của ông là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa kỹ
thuật viết văn phương Đông và phương Tây. Nhưng gốc rễ của ông vẫn là
một nhà văn Nhật Bản.



Năm 1968, Kawabata được trao tặng giải Nobel cho bộ ba tiểu thuyết: “Xứ
tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”, tròn 100 năm năm ngày Minh Trị Duy
Tân bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước. (1868 – 1912).



Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt trong một căn phòng ở Hayama,
Kamakura.




Tác phẩm tiêu biểu:

" Ngàn cánh hạc" là tác phẩm đã đoạt Nobel văn học năm 1968, Giải thưởng
Hàn Lâm Viện Nghệ thuật Nhật Bản cho Kawabata. Câu chuyện được bắt đầu
bằng một buổi trà đạo tại đền Engakuji do cô Chikako Kurimoto, một người
có cái bớt gớm ghiếc trên ngực và cũng là tình nhân cũ của cha Kikuji tổ
chức. Tại đây, Kikuji đã gặp cô gái nhà Inamura có chiếc khăn thêu ngàn
cánh hạc và bà Ota cùng cô con gái là Fumiko. Bà Ota là một nhân tình cũ
của thân phụ chàng. Bà Ota ôn lại chuyện cũ với Kikuji và bà nhìn thấy cha
của chàng qua hình dáng của chàng. Bà Ota ân ái với Kikuji và kể từ sau lần
đó bà luôn bị dày vò bởi cảm giác tội lỗi. Một mặt Fumiko con gái của bà đã
từng biết chuyện bà Ota đã một thời là tình nhân của cha Kikuji nên ngăn cản
mối tình tội lỗi của bà với Kikuji. Đau buồn và hổ thẹn, bà Ota tự sát.
Chikako tìm cách đẩy Kikuji đến gần Yukiko _ con gái nhà Inamura và
Kikuji lại cũng có cảm tình với Fumiko vì chàng tìm thấy vẻ đẹp của bà Ota
qua hiện thân người con gái. Hình ảnh ngàn cánh hạc với người thiếu nữ nhà
Inamura luôn chập chờn trong tâm trí Kikuji cùng với hình ảnh trong trắng


của Fumiko luôn tạo cho chàng cảm giác thanh thản và
bình an giữa một xã hội nhơ nhớp, những ghen ghét
mưu toan của một người đàn bà mang cái bớt trên
ngực và sự rụt rè sợ hãi của một người đàn bà khác
mang mặc cảm tội lỗi trong tâm hồn.
Kết thúc tác phẩm chỉ còn lại Kikuji và
Kurimoto... "Ngàn cánh hạc" sẽ đưa người đọc vào
một thế giới của những rung động thầm kín nhất, say
đắm nhất nhưng cũng tinh tế nhất của tâm hồn Nhật
Bản.
-Một số tác phẩm khác : Xứ tuyết, ( tiểu thuyết đầu

tiên), (Yukiguni, 1935-37, 1947), Người đẹp say
ngủ (Nemueru bijo, 1961), Cái đẹp và nỗi buồn (Utsukushisa to Kanashimi
to, 1964)…

6.

MISHIMA YUKIO (1925 – 1970)



Thuộc thế hệ nhà văn trẻ nổi lên sau chiến tranh.



Mishima hứng thú tìm về với truyền thống trong hình
thức chiến binh. Ông tập luyện kiếm đạo và sống theo
lí tưởng samurai.



Là nhà văn thử nghiệm nhiều hình thức, phong cách
văn học phương Tây.



Mishima sớm thành công từ trẻ và trở thành nhà văn
hiểu biết cả Đông Tây, mang phong cách duy mĩ đặc
trưng.




Mishima thường miêu tả những tâm trạng bệnh hoạn của thế hệ thanh niên
thời kì hậu chiến, mang tâm trạng hoang mang trước thực tại và ít gắn bó với
truyền thống. Sáng tác của ông thể hiện sự xung đột Đông – Tây, giữa hiện
đại và truyền thống.



Mishima cuối cùng chọn cái chết mổ bụng theo kiểu samurai. Hành động tự
sát theo nghi thức mổ bụng của nhà văn được cho là mang ý nghĩa đánh thức
dân tộc vì sự đánh mất tinh thần thượng võ.




Tác phẩm tiêu biểu:

+ Hanazakari no Mori (花ざかりの森 Khu rừng kết hoa), một câu chuyện
trong đó người kể mô tả cảm xúc về những người tổ tiên còn sống trong nội
tâm nhân vật. Câu chuyện với ngôn ngữ ẩn dụ và cách ngôn, đã được xuất
bản năm 1944, giới hạn trong 4000 bản do việc thiếu nguyên liệu giấy thời
chiến tranh.
+ Chuyện Tabako (煙草, Thuốc lá), xuất bản năm 1946, mô tả sự khinh miệt
và đối xử mà Mishima gặp phải ở trường khi ông thổ lộ với những thành
viên của CLB Rugby trường rằng ông gắn bó với nghề văn chương. Những
kí ức này cũng là nguồn tư liệu cho tác phẩm Shi o Kaku Shōnen (詩を書く
少年, tạm dịch: Cậu bé làm thơ) sau này, xuất bản năm 1954.

7.


DAZAI OSAMU (1909 – 1948)



Dazai Osamu, tên thật là Tsushima Shuui. Sinh
trưởng trong một gia đình đại địa chủ vùng
Tsugaru tỉnh Aomori, phía Đông Bắc Nhật Bản.



Năm 1930 ông tốt nghiệp cao đẳng. Sau đó ông
chọn ban Văn học Pháp để nhập học trường Đại
học đế quốc Tokyo. Nhưng quá trình học ở đây
không được Dazai duy trì thường xuyên, ông
thường bỏ học và tham gia các hoạt động của
chủ nghĩa Cộng Sản.



Cuộc đời của Dazai Osamu là cuộc đời đau
thương và vỡ mộng với 5 lần tự sát nhưng phải
đến lần thứ 5 mới được toại nguyện. Là một người có tài và ôm mộng văn
chương nhưng ông thường rơi vào trạng huống vỡ mộng.



Dazai Osamu thuộc dòng văn học “Vô lại phái” (Buraiha)




Sáng tác theo phong cách tự thuật (tư tiểu thuyết: watakushi shosetsu)



Trong sáng tác của ông phảng phất nụ cười kiểu “hài hước đen”, tự trào về
bản thân và cuộc đời. Không khí u uất, buồn thương bao trùm trong những
câu chuyện. Nhưng các nhân vật luôn chân thật đối với người, với đời. Tuy


kết thúc của những tác phẩm thường bi thảm, tự hủy nhưng tác phẩm của
Dazai vẫn toát lên ánh sáng của niềm tin, của lương tri và tình yêu thương
con người, yêu cuộc sống...


Tác phẩm tiêu biểu:

Thất lạc cõi người được dưới dạng ghi chép của chàng trai trẻ tên Ōba
Yōzō (大庭葉蔵 ?) được một người lạ mặt tìm thấy từ một phụ nữ từng là
madam quán bar.
Quyển sổ ghi chép thứ nhất
Yozo từ nhỏ đã cảm thấy không thể nào hiểu được con
người. Cậu buộc phải làm trò hề để có thể quan hệ với
người khác và cũng để nhằm quên đi việc bị gia
nhân xâm phạm thuở nhỏ.
Quyển sổ ghi chép thứ hai
Yozo trở nên cực kì nhạy cảm với những ai có thể
bóc mẽ màn giả vờ của cậu. Sau khi quen với Horiki,
một sinh viên cùng học ở trường mỹ thuật tư thục,
cậu bắt đầu sao nhãng việc học mà rượu chè, hút hít
và mại dâm. Đỉnh điểm, cậu quan hệ với một phụ nữ

đã có chồng và cùng tự sát đôi với cô ta. Nhưng
người phụ nữ thì chết, chỉ Yōzō được cứu sống, mang
trên mình mặc cảm tội lỗi.
Quyển sổ ghi chép thứ ba
Yozo bị đuổi học khỏi trường đại học và sau đó, sống nhờ nhà một
người bạn của cha cậu. Một thời gian sau, cậu sống với một bà mẹ đơn
thân là chỗ quen biết của Horiki, nhưng cũng không lâu sau lại đến sống
với một madam quán bar. Về sau, Yōzō yêu thương và cưới một cô gái
trẻ và ngây thơ. Nhờ cô mà trong một thời gian, Yōzō tu chí làm việc là
một hoạ sĩ truyện tranh và vẽ minh hoạ. Tuy nhiên, Horiki lại xuất hiện
và Yōzō lại ngựa quen đường cũ. Cậu còn trở nên xa lạ với vợ mình sau
khi cô bị cưỡng hiếp bởi một người quen. Qua thời gian, Yōzō nghiện
rượu và ma túy. Cậu bị đưa vào viện tâm thần và sau đó được đưa về
nhà một người phụ nữ do anh cả cậu sắp xếp. Chuỗi ngày như ác mộng
của cậu tiếp tục khi quanh năm bị người phụ nữ đó hãm hiếp nhưng
bây giờ cậu không còn thấy vui hay buồn. 27 tuổi nhưng tóc bạc nên ai
cũng tưởng Yōzō đã trên 40.
Một số tác phẩm khác: Một trăm cảnh núi Phú Sĩ, Tà dương…


8.

KENZABURO OE (1935 – )



Ông được coi là gương mặt đại diện tiêu biểu
cho dòng văn học chống bom nguyên tử ở Nhật
sau chiến tranh.




Sáng tác của Oe mang đậm tính truyền thống,
phong cách văn học dân gian và chủ nghĩa
nghịch dị đặc trưng.



Tác phẩm của ông khơi gợi nhiều vấn đề về thân
phận con người, đi sâu vào bản thể của con
người Nhật Bản thời hậu chiến và luôn thể hiện
những nỗi u buồn, tối tăm, hỗn độn của nhân loại trong giai đoạn đầy đau
thương, mất mát.



Những nhân vật của Oe hầu hết có số phận bi kịch, nhưng thông qua tác
phẩm của mình, Oe muốn hàn gắn nỗi đau con người, mang lại cho họ ánh
sáng của niềm tin và ý nghĩa hiện sinh.



Năm 1994, Oe là nhà văn Nhật Bản thứ hai nhận giải Nobel Văn học.


Tác phẩm tiêu biểu:

Một nỗi đau riêng
Ngoại hình nhân vật trong Một nỗi đau riêng là sự kết
hợp nghịch dị giữa cái bình thường và bất bình thường,

nhân hình và phi nhân hình. Thế giới nhân vật
trong Một nỗi đau riêng là thế giới người với những
đường nét chim thú, hình tượng nhân vật phụ nữ mang
âm hưởng giễu nhại mỹ học truyền thống và những biến
dạng của khuôn mặt trẻ thơ.
-Một số tác phẩm khác : Nuôi kẻ thù (Shiiku, 1957),
Tuổi mười bảy (Sevuntin, 1961), Nước ngập tận tâm
hồn tôi (Kozui wa waga tamashii ni oyobi, 1973)…

9.

HARUKI MU RAKAMI (1949-)




Murakami Haruki sinh ngày 12 tháng 1 năm
1949 tại Kyoto, nhưng lớn lên tại thành phố
Ashiya ở tỉnh Hyogo.



Murakami say mê văn học và âm nhạc Âu –
Mĩ.



Thời niên thiếu, thích đọc sách, dịch các tác
phẩm văn học phương Tây của các tác giả:
Scott Fitzgerald, Kurt Vonnegut, Raymond

Chandler, Richard Brautigan...



khởi nghiệp năm 29 tuổi với tiểu thuyết Lắng nghe gió hát (giải Gunzo
Shinjinsho lần thứ 22 vào năm 1979)



Hàng loạt các giải thưởng trong nước: giải Nhà văn mới Noma lần thứ tư
(Cuộc săn cừu hoang,1982); giải Tanizaki Junichiro (Xứ sở kì diệu tàn bạo
và chốn tận cùng thế giới,1985)...



Trở thành thần tượng của giới trẻ Nhật và Châu Á với Rừng Nauy (1987)



Sang Mĩ sống và viết các tiểu thuyết.



1997: trở về Nhật sau động đất ở Kobe (1995) và vụ đánh hơi độc Sarin.



Murakami là nhà văn Nhật Bản có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn cầu. Ông
được xem là hiện tượng hấp dẫn nhất của nền văn học đương đại Nhật Bản,
người khổng lồ của văn học hậu chiến.




Murakami Haruki đi vào lịch sử văn học Nhật Bản với vai trò là “nhà văn
tiên phong” trong việc đổi mới nền văn học hiện đại.



Tác phẩm của ông phẩn ánh sự trăn trở trước số phận con người trong xã hội
hiện đại đầy bất an, phi lí. Xây dựng những hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa
đích thực của cuộc sống. Thế giới nhân vật của Murakami đa dạng, phong
phú, và có tính phổ quát cao, đã phản ánh những tồn tại sâu kín của con
người Nhật Bản và nhân loại nói chung trong thời hậu kì tư bản.



Phong cách văn chương của Murakami ảnh hưởng bởi phương Tây, trong
chừng mực nào đó có thể nói đó là sự tổng hợp tinh hoa của văn chương
nhân loại. Nhưng trong sâu xa, ông vẫn giữ được gốc rễ tinh thần Nhật Bản.
Văn học Nhật Bản từ sau khi xuất hiện Murakami, chia làm hai giai đoạn:


Trước và Sau Murakami. Rất nhiều nhà văn trẻ đã chịu ảnh hưởng và sáng
tác theo phong cách của ông.


Tác phẩm tiêu biểu:

Rừng Na-Uy (tiếng Nhật: ノ ル ウ ェ イ の
森 , Noruwei no mori) là tiểu thuyết của nhà

văn Nhật Bản Murakami Haruki, được xuất bản
lần đầu năm 1987. Với thủ pháp dòng ý thức, cốt
truyện diễn tiến trong dòng hồi tưởng của nhân vật
chính là chàng sinh viên bình thường Watanabe
Tōru. Cậu ta đã trải qua nhiều cuộc tình chớp
nhoáng với nhiều cô gái trẻ ưa tự do. Nhưng cậu ta
cũng có những mối tình sâu nặng, điển hình là với
Naoko, người yêu của người bạn thân nhất của
cậu, một cô gái không ổn định về cảm xúc, và với
Midori, một cô gái thẳng thắn và hoạt bát. Các
nhân vật trong truyện hầu hết là những con người cô đơn móc nối với nhau.
Có những nhân vật đã phải tìm đến cái chết để giải thoát khỏi nỗi đau đớn
ấy.
Câu chuyện xảy ra với bối cảnh là nước Nhật những năm 1960, khi mà
thanh niên Nhật Bản, như thanh niên nhiều nước khác đương thời, đấu tranh
chống lại những định kiến tồn tại trong xã hội. Murakami miêu tả những
sinh viên cải cách này như những tên đạo đức giả và thiếu sự kiên định.
-Một số tác phẩm khác : Lắng nghe gió hát; con voi biến mất; cây liễu mù,
cô gái ngủ…




IV. Tổng kết:
Văn học hiện đại Nhật Bản không ngừng phát triển và đạt những thành tựu
nổi bật trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX và trong suốt thế kỷ XX.
Văn học hiện đại Nhật Bản mang diện mạo như hôm nay là kết quả của sự
tiếp thu tinh hoa văn học phương Tây và yếu tố nội sinh của văn học Nhật
Bản; sự kết hợp của tính khác biệt và thống nhất, tính kế thừa và biến đổi.






Các nhà văn, đồng thời là những nhà trí thức lớn đóng vai trò quan trọng
trong quá trình hiện đại hóa văn học hiện đại.
Ngày nay, văn học hiện đại Nhật Bản đã và đang hòa vào dòng chảy của văn
chương thế giới một cách mạnh mẽ với một lực lượng sáng tác trẻ đầy tài
năng và tâm huyết trong việc đổi mới, quốc tế hóa văn học.


Tài liệu tham khảo:
/>%ADt_B%E1%BA%A3n
/> /> /> />


×