Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Yên lạc trong công cuộc đổi mới từ 1996 2010 luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.11 MB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
===  ===

PHẠM THỊ LÝ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Yªn L¹c trong c«ng cuéc ®æi
míi tõ 1996 - 2010

CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

VINH - 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ
===  ===

PHẠM THỊ LÝ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Yªn L¹c trong c«ng cuéc ®æi
míi tõ 1996 - 2010

CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
Lớp 48B1 - Sử (2007 - 2011)

Giáo viên hướng dẫn: ThS. NGUYỄN KHẮC THẮNG

VINH - 2011




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thiện khoá luận này cùng với sự nỗ
lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy
cô giáo trong khoa Lịch sử trường Đại học Vinh. Đặc biệt là sự hướng dẫn
tâm huyết của thầy giáo hướng dẫn - ThS. Nguyễn Khắc Thắng. Đồng thời có
sự nhiệt tình cung cấp thông tin tư liệu của Văn phòng huyện uỷ, UBND, các
cơ quan, tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn huyện Yên Lạc.
Nhân dịp khoá luận hoàn thành, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến các cá nhân, tập thể đã giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này. Tôi cũng
xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động
viên khích lệ tôi về vật chất cũng như tinh thần để tôi có điều kiện học tập,
nghiên cứu tốt.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do thời gian và năng lực có hạn nên
khoá luận không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Vinh, tháng 5 năm 2011
Tác giả
Phạm Thị Lý


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU...........................................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên đề tài...................................................................................8
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu.......................................................................8

5. Bố cục đề tài.......................................................................................................................9
B. NỘI DUNG......................................................................................................................10
Chương 1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI YÊN LẠC TRƯỚC KHI TÁI
LẬP (TRƯỚC 1996)............................................................................................................10
1.1. Đặc điểm tự nhiên và lịch sử - xã hội............................................................................10
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên......................................................................................................10
1.1.2. Đặc điểm lịch sử - xã hội............................................................................................11
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Yên Lạc trước khi tái lập (trước 1996).........................15
Chương 2 YÊN LẠC TRONG NHỮNG NĂM ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
(1996 - 2010)........................................................................................................................19
2.1. Yên Lạc trong giai đoạn 1996 - 2000............................................................................19
2.1.1. Huyện Yên Lạc tái lập và nhiệm vụ đặt ra.................................................................19
2.1.2. Thành tựu và hạn chế.................................................................................................20
2.1.2.1. Kinh tế.....................................................................................................................21
2.2. Yên Lạc giai đoạn 2000 - 2005.....................................................................................32
2.2.1. Điều kiện lịch sử.........................................................................................................32
2.2.2. Thành tựu và hạn chế.................................................................................................34
2.3. Yên Lạc giai đoạn 2005 - 2010.....................................................................................53
2.3.1. Tình hình và nhiệm vụ................................................................................................53
2.3.2. Thành tựu và hạn chế.................................................................................................56
Chương 3 BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP.....................................72
3.1. Một số bài học kinh nghiệm..........................................................................................72
3.2. Một số giải pháp............................................................................................................74
KẾT LUẬN..........................................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................83

PHỤ LỤC........................................................................................................


DANH MỤC VIẾT TẮT

BCT:

Bộ Chính trị

CNH - HĐH NNNT:

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn

CNH - HĐH:

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

Đ/C:

Đồng chí

KH - UB:

Kế hoạch uỷ ban

KH/HU:

Kế hoạch huyện uỷ

KHKT:


Khoa học kỹ thuật

NQ - CP:

Nghị quyết Chính phủ

NQ/TW:

Nghị quyết Trung ương

QĐ - BNV:

Quyết định Bộ Nội vụ

TƯ:

Trung ương

TW:

Trung ương

UBND:

Uỷ ban nhân dân

VAC:

Vườn ao chuồng


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Đằng sau những thắng
lợi hào hùng, vẻ vang là những dấu vết mà chiến tranh để lại trong tâm trí con
người là không hề vơi lấp. Mỗi miền quê Việt Nam bằng ý chí, nghị lực đã
vượt qua bao khó khăn để vươn lên xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc góp
phần đưa đất nước phát triển. Yên Lạc mảnh đất đồng bằng vốn thuộc một
phần huyện Vĩnh Lạc (Vĩnh Lạc gồm huyện Yên Lạc và Vĩnh Tường) đi theo
tiếng gọi, ánh sáng của Đảng chiếu rọi hoà chung cùng cả nước thực hiện
công cuộc đổi mới theo đường lối đổi mới của Đảng xác định tại Đại hội lần
thứ VI. Với sự vận dụng một cách sáng tạo chủ trương đường lối của Đảng
vào hoàn cảnh địa phương đã tạo ra những bước chuyển tích cực trên mọi mặt
đời sống xã hội.
Mười lăm năm kể từ khi tái lập huyện (năm 1996) cùng đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Yên Lạc đã đạt được nhiều thành tựu trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng.
Từ một vùng đất thuần nông dựa vào thiên nhiên là chủ yếu. Với việc thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đem lại sự đa dạng trong cơ cấu ngành
kinh tế của huyện, nguồn thu ngân sách của huyện tăng hàng năm, đời sống
nhân dân được cải thiện và từng bước nâng cao. Tình hình chính trị ổn định,
giữ vững an ninh quốc phòng, văn hoá, giáo dục, y tế xã hội có nhiều tiến bộ.
Thành tựu trong mười lăm năm mà Đảng bộ và nhân dân Yên Lạc đã

đạt được là rất đáng tự hào. Bên cạnh đó còn một số hạn chế đã làm ảnh
hưởng đến việc đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH NNNT của quê hương.
Nhằm góp phần tìm hiểu quá trình đổi mới ở địa phương trong những
năm 1996 - 2010 tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Yên Lạc trong công cuộc đổi
mới từ 1996 - 2010” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Với hy vọng góp


7
phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá những thành
tựu của công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và Yên Lạc nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bàn về công cuộc đổi mới cả nước nói chung, Yên Lạc nói riêng là một
vấn đề đang còn mới mẻ, mang tính thời sự cao. Một số công trình nghiên cứu
đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề này.
- Văn kiện của Đảng tại các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng
sản Việt Nam: Đại hội VI, VII, VIII, IX, X đã tổng kết những thành tựu, hạn
chế và vạch ra những mục tiêu mà các Nghị quyết của các Đại hội đã vạch ra.
- Trong cuốn tạp chí “Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam” của nhà xuất
bản Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với một số vấn đề có lien quan
đến công cuộc đổi mới.
- Cuốn “Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay - những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của GS.Trần Bá Đệ biên soạn, nhà xuất bản Đại học Quốc gia 1998
đã nêu lên những thành tựu tiến bộ và những hạn chế yếu kém, khuyết điểm
của đất nước từ khi thực hiện đổi mới đến năm 1996.
- Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Lạc 1930 - 2005” của Ban chấp
hành Đảng bộ huyện Yên Lạc biên soạn đã đánh giá thực trạng kinh tế - xã
hội - văn hoá, khẳng định những thành tựu, những mặt mạnh, đồng thời nêu
rõ những hạn chế và những thiếu sót trong bước đầu thực hiện đường lối đổi
mới, cùng công cuộc đẩy mạnh công cuộc đổi mới của huyện Yên Lạc.
- “Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Tường giai đoạn 1930 - 2003” đã đề

cập những hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá của Yên Lạc trong
thời kỳ huyện Vĩnh Lạc.
- Ngoài ra, một số báo cáo tổng kết của ban chấp hành huyện Đảng bộ
Yên Lạc và các báo cáo tổng kết của Hội đồng nhân dân huyện, báo cáo chính
trị của Đảng bộ huyện Yên Lạc, trong đó đã tổng kết đánh giá sơ lược những


8
thành tựu và hạn chế của quá trình thực hiện đổi mới. Nhưng chủ yếu các báo
cáo này còn nặng về thành tựu và mang tính nhiệm kỳ. Vì vậy, để có một
công trình tương đối hoàn chỉnh về Yên Lạc trong thời kỳ đổi mới từ 1996 2010 cần phải đầu tư nhiều thời gian công sức và trí tuệ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên đề tài
3.1. Đốí tượng
Để nghiên cứu đề tài “Yên Lạc trong công cuộc đổi mới từ 1996
-2010” trước hết cần nghiên cứu điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội của Yên
Lạc, những nhân tố ảnh hưởng đến sự nghiệp đổi mới ở Yên Lạc.
Trong tâm của khoá luận là nghiên cứu những thành tựu và hạn chế mà
Đảng bộ và nhân dân Yên Lạc đã đạt được trong những năm từ 1996 - 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng của
Yên Lạc trong giai đoạn 1996 - 2010.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện đề tài “Yên Lạc trong công cuộc đổi mới từ 1996 - 2010”
tôi đã tập trung khai thác các nguồn tài liệu sau:
- Nguồn tài liệu thành văn: Các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam
từ (Đại hội VI đến X), các tài liệu viết về lịch sử, con người Yên Lạc, các báo
cáo của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân Yên Lạc từ 1996 - 2010.
- Nguồn tài liệu điền dã: Các lần trao đổi, tiếp xúc với các cán bộ và nhân
dân trong huyện, quan sát thực tế sự thay đổi của Yên Lạc trong những năm qua.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử, lôgich. Bên cạnh đó kết
hợp phương pháp điền dã, thống kê, phân tích dựa trên quan điểm sử học Mac
xít làm cơ sở nghiên cứu.


9
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần dẫn luận, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khoá
luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát tình hình kinh tế - xã hội Yên Lạc trước khi
tái lập (trước 1996).
Chương 2: Yên Lạc trong những năm đẩy mạnh công cuộc đổi mới
(1996 - 2010).
Chương 3: Bài học kinh nghiệm và một số giải pháp.


10

B. NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI YÊN LẠC
TRƯỚC KHI TÁI LẬP (TRƯỚC 1996)
1.1. Đặc điểm tự nhiên và lịch sử - xã hội
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Yên Lạc là một huyện đồng bằng của tỉnh Vĩnh Phúc, hiện nay có 16
xã và 1 thị trấn, diện tích 106,7 km 2 .Dân số theo thống kê mới nhất là 148000
người (năm 2010). Huyện nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, phía Bắc giáp
huyện Tam Dương, phía Đông giáp huyện Bình Xuyên, Mê Linh, phía Tây
giáp huyện Vĩnh Tường, phía Nam là sông Hồng phân cách Yên Lạc với Sơn

Tây. Huyện chỉ cách thủ đô Hà Nội 30 km đường chim bay.
Yên Lạc là một huyện đồng bằng, địa hình không phức tạp tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tổ chức các vùng chuyên canh, tạo điều kiện cho việc
ứng dụng các tiến bộ KHKT, Cơ giới hoá. Thực hiện CNH - HĐH NNNT.
Yên Lạc là địa bàn với dòng sông Hồng chảy qua 6 xã của huyện với
12 km đê đại hà tạo thành hai đường giao thông thuỷ, bộ song song nối liền
Việt Trì với Hà Nội. Đem lại nguồn phù sa bồi đắp ven sông cho những bãi
bồi ven sông màu mỡ tạo điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp. Đặc
trưng của khí hậu Yên Lạc biểu hiện khá rõ nét yếu tố khí hậu nhiệt đới gió
mùa: một mùa đông lạnh và khô, các ngày đầu xuân ẩm ướt, âm u do thiếu
nắng cộng với mưa phùn và sương mù. Mùa mưa thường đến tháng 8, 9, 10
với lượng mưa tương đối lớn. Cái nắng hè nơi đây thường vào tháng 5, 6, 7
nhưng không quá gay gắt. Với khí hậu này đã đem đến vùng quê những sản
phẩm phong phú về cây nông nghiệp: rau sạch (điển hình ở Minh Tân), tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua bán trao đổi sản phẩm trên địa bàn


11
huyện và một số vùng lân cận. Góp phần giải quyết nhu cầu về chất lượng
hàng tiêu dùng của cư dân tại địa bàn huyện vào thời điểm này.
Hệ thống giao thông vận tải của huyện có sự đa dạng về loại hình,
thuận lợi cho sự phát triển các ngành kinh tế cũng như giao lưu văn hoá.
Đường bộ: đường sắt Hà Nội - Lào Cai nối liền với thủ đô, các tỉnh ở
đồng bằng sông Hồng và các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai. Huyện có quốc
lộ 13 đi qua nối Vĩnh Phúc với Sơn Tây, lên Tây Bắc. Có tỉnh lộ 303 từ Đồng
Văn đến Nguyệt Đức, sang Bình Xuyên… Ngoài ra, huyện còn có nhiều
đường liên huyện, liên xã, liên thôn, nối liền huyện với các tỉnh.
Đường sông: Nhờ có dòng sông Hồng chảy qua các xã trong huyện nên
thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá như: cát , sỏi… từ các vùng trong
huyện tới các huyện khác. Bến Chu Phan - nơi điểm dừng đỗ chuyên chở

hang hoá.
Tài nguyên khoáng sản ở huyện Yên Lạc: cát xây dựng dọc trên dòng
sông Hồng đã phục vụ cho bà con các xã ven sông: Trung Hà, Liên Châu,
Hồng Phương…
Tóm lại, điều kiện tự nhiên đã có sự tác động không nhỏ đến quá trình
phát triển kinh tế xã hội của huyện Yên Lạc trong sự nghiệp phát triển huyện
nhà. Nhưng nhìn thấy rõ rằng, Yên Lạc là một vùng thuần nông - các nghề thủ
công dần dần hình thành nhưng dưới nền tảng của một nghề nông nghiệp.
Những lợi thế, khó khăn, hạn chế mà điều kiện tự nhiên đem lại cho huyện là
một yêu cầu cho chính quyền và nhân dân Yên Lạc biết khai thác, sử dụng
tiềm năng đó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử - xã hội
Trong suốt tiến trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc, nhân
dân Yên Lạc đã từng bước định hình truyền thống đấu tranh cách mạng kiên
cường của huyện cùng trang sử vẻ vang với nền văn hoá sơ khai - cuội nguồn
của dân tộc Việt Nam.


12
Huyện Yên Lạc nằm ở vùng đất cổ, gắn liền với quá trình hình thành và
phát triển của dân tộc Việt Nam. Những phát hiện của ngành khảo cổ học qua
6 lần khai quật ở di chỉ Đồng Đậu (thuộc xã Minh Tân), hiện vật tìm thấy tại
đây đã góp phần khẳng định: Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, người Việt
cổ từ du canh du cư đã định canh, định cư, dừng lại Đồng Đậu - Yên Lạc,
trồng lúa nước và ngày càng tập trung vào nông nghiệp, trải qua hàng năm
góp phần xây dựng nên nền văn minh sông Hồng rực rỡ.
Ở một vùng đất cổ, có nhiều điều kiện để trồng trọt phát triển nông
nghiệp, con người đã tụ hội sinh sống ở đây từ lâu đời. Huyện Yên Lạc hình
thành từ khá sớm. Theo “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV), “Đại
Việt địa dư toàn diên” của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (thế kỷ XIX ),

“Đại Nam nhất thống trí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn… thì tên
huyện Yên Lạc đã có từ thời Đinh (thế kỷ X), những năm mở đầu thời kỳ độc
lập lâu dài của dân tộc. Từ đó đến nay, trải qua hơn một nghìn năm với bao
thay đổi về chính trị - hành chính, kinh tế - xã hội, huyên Yên Lạc vẫn tiếp tục
tồn tại và không ngừng phát triển.
Thời Đinh huyện Yên Lạc thuộc dạo
Thời Lý - Trần huyện Yên Lạc thuộc lộ
Thời Lê thuộc phủ Tam Đới , châu (xứ, trấn, thừa tuyên) Sơn Tây.
Thời Minh Mạng nhà Nguyễn, các đơn vị hành chính ở nước ta được
chia thành tỉnh. Yên Lạc trở thành huyện của tỉnh Sơn Tây.
Dưới thời phong kiến, Yên Lạc là một huyện lớn, người đông, sản vật
phong phú, khá nổi tiếng.
Năm 1890, sau khi xâm chiếm nước ta, toàn quyền Đông Dương thành
lập đạo Vĩnh Yên, gồm phủ Vĩnh Tường và các huyện khác, trong đó có Yên
Lạc. Đến năm 1899, toàn quyền Đông Dương lập tỉnh Vĩnh Yên. Yên Lạc là
một huyện của tỉnh mới.


13
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), đơn vị hành chính Vĩnh Yên, huyện
Yên Lạc không thay đổi.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước - huyên Yên Lạc đã nhiều lần
thể hiện vị trí của mình trong vai trò một bộ phận hành chính của tỉnh Vĩnh
Phú (gồm Vĩnh Phúc và Phú Thọ - năm 1968), của huyện Vĩnh Lạc (gồm
Vĩnh Tường và Yên Lạc - năm1977).
Ngày 7/10/1995, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra Nghị định số 63/CP, chia Vĩnh Lạc thành hai huyện như trước đây: Yên
Lạc, Vĩnh Tưòng. Ngày 1/1/1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập lại theo Nghị
quyết của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ
họp thứ 10, tháng 11/1996. Từ đó, Yên Lạc lại là huyện của tỉnh Vĩnh Phúc.

Qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển, các thế hệ người Yên
Lạc đã xây dựng nên nhiều truyền thống tốt đẹp.
- Trước hết là truyền thống đoàn kết, cần cù và sáng tạo trong lao động.
Yên Lạc một huyện đồng bằng, với những cánh đồng lớn phì nhiêu và những
đồng bãi phù sa rộng màu mỡ, để có được những cánh đồng màu mỡ ấy nhiều
thế hệ người dân Yên Lạc đã phải chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ,
khai phá rừng hoang, đầm lầy, chống hạn hán, lũ lụt…Biến đất hoang và bãi
lầy thành những cánh đồng lúa và hoa màu tạo dựng những làng xóm đông
vui. Truyền thống đoàn kết quý báu của người dân Yên Lạc còn được bồi đắp
qua tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chống giặc ngoại xâm dai dẳng.
- Yên Lạc có truyền thống văn hoá đặc sắc, được bảo tồn giữ gìn, phát
triển trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là tinh hoa của nền văn nghệ dân gian,
những làn điệu hát xoan, trống quân, chèo… thường được trình diễn trong các
dịp lễ hội, lễ tết, đình đám, được truyền từ đời này sang đời khác. Đó là
truyền thống hiếu học, học để làm người, học để giúp đời. Từ triều Lý (thế kỷ
X) đến cuối triều Nguyễn (đầu thế kỷ XX) ở Yên Lạc có 22 người đỗ đại


14
khoa, nhiều tên tuổi khá nổi tiếng như: Phạm Công Bình, Nguyễn Tông Lỗi,
Nguyễn Đức Kỳ… Cho đến nay, truyền thống ham học hỏi, hiếu học vẫn
không ngừng được phát huy trên địa bàn các xã của huyện.
Truyền thống văn hoá của Yên Lạc còn được thể hiện ở những công
trình kiến trúc: đình, đền, chùa, miếu… vượt qua thử thách khắc nghiệt của
thời gian và khói lửa chiến tranh vẫn tồn tại như bài ca bất hủ ngợi ca khối óc,
bàn tay tài hoa của bao thế hệ người lao động. Tiêu biểu, đền Thính (Bắc
Cung) ở xã Tam Hồng được Nhà nước xếp hạng “Di tích lịch sử - văn hoá”.
- Bằng tình yêu tha thiết quê hương đất nước, từ bao đời nay nhân dân
Yên Lạc đã xây dựng nên cho mình một truyền thống yêu nước và tinh thần
chiến đấu quật cường, viết nên những trang sử hết sức tự hào trong cuộc khởi

nghĩa Hai Bà Trưng, cuộc kháng chiến chống quân Lương (giữa thế kỷ VI),
kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông (thế kỷ XIII), quân xâm
lược Minh (thế kỷ XV)… nhiều người con Yên Lạc đã tham gia nghĩa quân,
anh dũng chiến đấu góp phần làm nên chiến thắng vang dội ở Bình Lê
Nguyên, cầu Xa Lộc…
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương,
cùng với nhân dân cả nước, nhân dân trong huyện dưới sự lãnh đạo của các sĩ
phu yêu nước đã nổi dậy chống Pháp. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Lê
Bột - lập căn cứ ở chân núi Tam Đảo, cuộc khởi nghĩa do Lãnh Áo (Nguyễn
Hữu Tân), Lãnh Sâm (Bùi Sâm) lãnh đạo…
Những truyền thống đó được phát huy mạnh mẽ trong thời kỳ mới của
lịch sử đất nước, thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân. Hoà chung
cùng nhân dân cả nước, nhân dân Yên Lạc tiến hành cuộc đấu tranh oanh liệt
suốt 15 năm giành độc lập và đến ngày 22/8/1945, đã tiến hành khởi nghĩa
thắng lợi, giành chính quyền trong toàn huyện. Tiếp đó, dưới sự lãnh đạo của


15
Đảng, trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Yên Lạc, được thành lập
6/1946 nhân dân trong huyện đã tham gia cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ và anh dũng chống lại thực dân Pháp, vượt qua mọi thử thách
ác liệt, góp phần giải phóng quê hương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc
(7/1954). Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH ở miền Bắc và
đấu tranh giải phóng miền Nam, nhân dân Yên Lạc vừa ra sức thi đua lao
động sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH vừa chi viện sức
người, sức của cho miền Nam, cùng cả nước chống Mỹ, góp phần vào Đại
thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,
cùng cả nước đi lên CNXH.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, nhất là từ khi thực hiện công cuộc

đổi mới do Đảng khởi xướng (12/1986), từ khi tái lập huyện nhân dân Yên
Lạc giành được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực. Là động lực lớn giúp nhân
dân Yên Lạc tiếp tục cố gắng, phấn đấu hơn trên bước đường phát triển kinh
tế - xã hội vì cuộc sống ấm no hạnh phúc, xây dựng quê hương giàu đẹp trong
công cuộc đổi mới đất nước.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của Yên Lạc trước khi tái lập (trước 1996)
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tổ quốc được thống nhất bước vào
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH Đảng bộ và nhân dân Yên
Lạc đã bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương.
Đến năm 1976, nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội ở Yên Lạc được thực
hiện, sản xuất nông nghiệp hoàn thành cả về diện tích gieo trồng, nghĩa vụ
đóng góp lương thực với nhà nước, giá trị tổng sản lượng, thủ công nghiệp,
xây dựng cơ sở hạ tầng… Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân từ xã đến
huyện được củng cố, sắp xếp ổn định tổ chức theo quyết định 130 của Hội
đồng chính phủ. Chính quyền các cấp đã tập trung vào nhiệm vụ khôi phục,


16
phát triển sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân, củng cố và phát triển hợp tác
xã theo hướng sản xuất lớn XHCH, củng cố lực lượng dân quân tự vệ và xây
dựng nếp sống văn hoá mới. Công tác thí điểm về việc thực hiện chỉ thị 214
của Ban bí thư, giữa các phòng văn hoá - cấp chính quyền địa phương về
đám cưới, đám tang theo nếp sống mới. Xã Yên Phương đã thực hiện kết
quả tốt nhất.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội
theo hướng sản xuất và XHCN, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Trong đó có việc tăng cường xây dựng ở cấp huyện,
10/1977 thực hiện nghị quyết của Hội đồng chính phủ huyện Yên Lạc đã hợp
nhất thành một huyện Vĩnh Lạc với 260000 người, 45 xã, 175 thôn, diện tích

tự nhiên 26760 ha [1;222].
Đầu năm 1981, khoán 100 ra đời đã chuyển khoán việc sang khoán sản
phẩm, khoán đội sang khoán hộ bước đầu xây dựng lại quyền tự chủ trong sử
dụng đất lao động của hộ xã viên, gắn lao động với đất đai, làm cho các hộ xã
viên quan tâm hơn đến kết quả cuối cùng. Nhờ đó làm cho sản xuất phát triển
theo hướng toàn diện có hiệu quả, cơ sở vật chất được tập trung xây dựng, các
mặt văn hoá xã hội bước đầu khắc phục được tình trạng xuống cấp.
Từ năm 1986 trở đi quán triệt đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế xã
hội do Đại hội VI của Đảng đề ra, Yên Lạc đã triển khai và tăng cường chỉ
đạo mọi mặt hoạt động và bước đầu đạt được những kết quả nhất định: trên
mặt trận sản xuất nông nghiệp đã gieo trồng được 31972 ha đạt 96,2% kế
hoạch, vượt 5,8% năm 1985. Tổng sản lượng lương thực đạt 77842 tấn
[1;244]; xây dựng nhiều trạm bơm, hệ thống mương máng, đưa các giống lúa
vào gieo trồng, mở rộng quy mô vào vụ đông và vụ thu, sin hoá đàn bò…
Khi Nghị quyết X ra đời (4/1988) các địa phương đã nhanh chóng vượt
ra khỏi khó khăn và thử thách, từng bước đưa công cuộc đổi mới đi vào cuộc


17
sống, chuyển nền kinh tế thuần nông sang nền kinh tế có cơ cấu đa dạng, lấy
nông nghiệp làm trọng tâm, tiếp tục phát triển thủ công nghiệp và mở rộng
sản xuất với dịch vụ thương mại ngày càng được chú trọng. Một bộ phận
nông dân đã có vốn, có kiến thức làm ăn và chủ động được việc bố trí sản
xuất theo hướng sản xuất hàng hoá.
Công tác giáo dục được quan tâm, chú trọng đầu tư xây dựng thêm
nhiều trường học kiên cố ở Tam Hồng, Tề Lỗ, Liên Châu… Phong trào
trường chuyên, lớp chọn được duy trì, chất lượng giảng dạy và học tập được
ngành giáo dục đặc biệt quan tâm. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp, đã gắn
được giáo dục của nhà trường với hoạt động thực tiễn.
Các hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phong trào thể dục, thể thao

được duy trì. Công tác an ninh chính trị, an ninh toàn xã hội được giữ vững.
Giai đoạn 1991 - 1995 là một quá trình phấn đấu mạnh mẽ của địa
phương nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách vững vàng từng bước
giải phóng và phát huy năng lực sản xuất, tạo ra các tiềm năng để phát triển
kinh tế trên địa bàn huyện, phát huy mạnh mẽ tác dụng các tiến bộ KHKT,
mở rộng thị trường. Nền kinh tế đã có bước tăng trưởng khá, nhiều chỉ tiêu đã
đạt được và vượt mức kế hoạch, các mặt đời sống xã hội có nhiều biến
chuyển, kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển tạo việc làm cho
hàng ngàn lao động. Nhiều công trình giao thông thuỷ lợi, điện lực, trạm y tế
được nâng cấp và xây dựng khang trang.
Nhờ chú trọng việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất
hàng hoá, phát triển nông nghiệp toàn diện giải quyết vững chắc vấn đề lương
thực, gắn nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nên các địa
phương bước đầu khắc phục được những hạn chế của nền kinh tế thuần nông,
phá thế độc canh đưa nền kinh tế phát triển liên tục vững chắc.


18
Các tổ hợp kinh tế ngoài quốc doanh được phép “bung ra” như mộc, cơ
khí, vật tư phục vụ sản xuất, vật liệu xây dựng may mặc… góp phần tăng
thêm sản phẩm xã hội.
Mạng lưới điện đã đến với đời sống của cư dân 17 xã trên địa bàn
huyện chỉ trừ một số thôn còn khó khăn: thôn Trung Giang - xã Trung Hà,
thôn Bảo Văn - xã Đồng Văn.
Toàn huyện đã đắp 24 km đê bối cao hơn báo động II 60cm để đảm bảo
tốt công tác thuỷ lợi, phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp của cư dân.
Về phát triển văn hoá xã hội thì công tác giáo dục được Huyện uỷ quan
tâm, chú trọng đầu tư xây dựng thêm nhiều trường học kiên cố ở Tam Hồng,
Tề Lỗ, Liên Châu… Phong trào trường chuyên, lớp chọn được duy trì. Chất
lượng giảng dạy và học tập được ngành giáo dục đặc biệt quan tâm.

Các hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phong trào thể dục, thể
thao được duy trì. Công tác an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững.
Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính
trị của Đảng bộ trong 10 năm qua đã tạo ra nền tảng trên con đường hiện đại
hoá. Đó là những trải nghiệm cần thiết cho Yên Lạc khi tái lập vào thời điểm
của những năm cuối của thế kỷ XX.


19
Chương 2
YÊN LẠC TRONG NHỮNG NĂM ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI (1996 - 2010)
2.1. Yên Lạc trong giai đoạn 1996 - 2000
2.1.1. Huyện Yên Lạc tái lập và nhiệm vụ đặt ra
Thực hiện Nghị định 63 CP của Chính phủ tách huyện Vĩnh Lạc thành
hai huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc. Huyện Yên Lạc được tái lập và đi vào
hoạt động từ ngày 1/1/1996, khi tái lập huyện Yên Lạc có diện tích tự nhiên là
107,6km2, dân số:140680 người, có 17 xã: Đồng Cương, Bình Định, Trung
Nguyên, Tề Lỗ, Minh Tân (thị trấn Yên Lạc), Tam Hồng, Yên Đồng, Đại Tự,
Hồng Châu, Liên Châu, Trung Hà, Trung Kiên, Hồng Phương, Nguyệt Đức,
Văn Tiến, Yên Phương, Đồng Văn.
Khi đã trở thành đơn vị hành chính mới, huyện uỷ, Uỷ ban và các cơ
quan trong huyện rất coi trọng việc ổn định tổ chức và tập trung chỉ đạo sản
xuất, bàn việc chống đói, tích cực giải quyết hạn, chủ động tưới tiêu để phát
triển nông nghiệp.
Huyện Yên Lạc được tái lập đã đáp ứng nguyên vọng, tình cảm của cán
bộ đảng viên và nhân dân, đem đến cho mọi người niềm tin và trách nhiệm
đối với quê hương. Từ đây Yên Lạc lại trở thành một huyện trọng điểm của
Tỉnh, giao thông thuỷ bộ thuận lợi, gần với các tuyến đường tỉnh lị, thành phố

dễ dàng cho việc tranh thủ sự giúp đỡ của các ngành, các cấp tạo tiền đề cho
huyện vươn lên trong sự nghiệp CNH - HĐH. Đánh giá đúng yêu cầu thực
tiễn, Đảng bộ và nhân dân huyện Yên Lạc đã xác định những điều kiện thuận
lợi cơ bản của địa phương để phát huy truyền thống tốt đẹp của người dân từ
bao thế hệ tiếp bước trong thời kỳ mới đưa kinh tế - xã hội của huyện ngày
càng phát triển.


20
Song huyện còn đứng trước những khó khăn: kết cấu hạ tầng phục vụ
sản xuất và sinh hoạt của nhân dân rất thấp kém. Cán bộ thiếu nhiều, một số
bộ phận đồng chí là trưởng phó các ban, ngành, đoàn thể mới được bổ nhiệm
chưa kinh qua công tác, còn rất mới lạ so với nhiệm vụ được giao. Trụ sở và
các điều kiện làm việc còn thiếu. Các cơ quan huyện phải làm tại các nơi
xuống cấp dột nát được xây dựng từ trước 1977. Thời tiết khắc nghiệt, diễn
biến phức tạp; vụ chiêm xuân năm 1996 với giá rét kéo dài làm cho lúa chết
nhiều phải tập trung chỉ đạo khắc phục trước khi tiến hành Đại hội huyện.
Trước không khí phấn khởi của nhân dân và Đảng bộ huyện trước sự
tái lập huyện, cùng sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện
Yên Lạc lần thứ XVII được tiến hành từ ngày 11 đến ngày 13/3/1996. Đại hội
đã xác định nhiệm vụ cho Nhiệm kỳ 1996 -2000 là: “Đẩy mạnh sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng là nhiệm vụ trọng tâm”.
Trên tinh thần thành công của Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, toàn thể
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện đã ra sức phát huy truyền thống
cách mạng của quê hương, biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực, tạo ra
những tiến bộ mới trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đưa tới một
phong trào cách mạng sôi nổi trong toàn huyện, thi đua hoàn thành vượt mức
kế hoạch đề ra. Khai thác hiệu quả những tiềm năng sẵn có, tranh thủ mọi thời
cơ và các chương trình dự án để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ổn
định trên toàn huyện.

2.1.2. Thành tựu và hạn chế
Trong 5 năm (1996-2000), Đảng bộ và nhân dân huyện Yên Lạc đã
được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân và các ban
ngành cấp tỉnh. Có Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh soi sáng. Những thành tựu và kinh nghiệm qua
hơn 10 năm đổi mới đất nước, truyền thống cách mạng, tinh thần đoàn kết, tự


21
lực tự cường, cần cù sáng tạo trong lãnh đạo, trong sản xuất của Đảng bộ và
nhân dân huyện Yên Lạc là những điều kiện quan trọng cho bước đi ban đầu
của huyện.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, Yên Lạc cũng gặp phải những khó
khăn, thử thách: là một huyện thuần nông, xuất phát từ một nền kinh tế còn
thấp, hoạt động buôn bán còn nhỏ lẻ, cơ sở vật chất xuống cấp, ngành nghề
phát triển chậm. Việc làm cho nguồn lao động còn thiếu. Đội ngũ cán bộ còn
tồn tại những bất cập so với yêu cầu phát triển về năng lực, tổ chức thực hiện
của các cấp, các ngành, các đơn vị còn nhiều lúng túng trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Một số cơ sở Đảng chưa
thật sự giải quyết dứt điểm tồn tại trong nội bộ
Vượt lên tất cả những khó khăn thử thách đó nhân dân Yên Lạc đã
phát huy truyền thống cách mạng, tranh thủ điều kiện thuận lợi đã nỗ lực
phấn đấu đạt được những thành tích tương đối toàn diện trong giai đoạn đầu
tái lập huyện.
2.1.2.1. Kinh tế
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII nhiệm
kỳ 1996 - 2000, Đảng bộ huyện Yên Lạc đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu
mạnh mẽ đưa nền kinh tế huyện tiếp tục phát triển đạt những thành tựu to lớn
và toàn diện giữa các ngành kinh tế, các vùng trong huyện. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế 6,55%/năm.

Trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện phương châm coi nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu mà trọng tâm là sản xuất lương thực và đưa chăn nuôi
thành ngành sản xuất chính.
Trong thời gian 5 năm (1996 - 2000) Yên Lạc đã xây dựng đúng cơ cấu
kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, mùa vụ hợp lý, đã chú ý đến kinh tế hộ gia
đình, kinh tế trang trại, quan tâm đúng mức đến việc đưa tiến bộ KH - KT vào


22
sản xuất, từng bước thúc đẩy việc củng cố chính đổi thành lập hợp tác xã theo
tinh thần Nghị quyết 64 CP của Chính phủ, tiến hành giao đất nông nghiệp
cho nông dân. Đảng bộ và các cấp chính quyền Yên Lạc thực hiện những biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, gắn bó mật thiết giữa các doanh nghiệp với
hợp tác xã để sản xuất nguyên liệu từ sản phẩm của hoạt động nông nghiệp.
Bước đầu hình thành những vùng kinh tế nông nghiệp: trồng trọt - chăn nuôi
trong quá trình sản xuất.
Dựa trên những đặc điểm địa lý, địa hình, điều kiện tự nhiên trong kinh
tế nông nghiệp huyện đã hình thành cơ cấu kinh tế nhằm khai thác tiềm năng
đó, đổi mới giống cây trồng, khai thác những vùng đất chiêm trũng, quy
hoạch thành ao cho các hộ nông dân nuôi trồng theo mô hình VAC. Chính
nhờ những chính sách phù hợp thực tế cho đến năm 2000, năng suất lúa đã
đạt 51.6 tạ/ha tăng 11,6 tạ/ha so với năm 1995, đưa tổng sản lượng lương thực
quy thóc từ 49,5 nghìn tấn năm 1995 lên 59 nghìn tấn năm 2000. Lương thực
bình quân đầu người tăng 4,6% [1;259].
Ở xã Nguyệt Đức, do áp dụng kỹ thuật vào sản xuất nên đã đưa năng
suất lúa từ 37 tạ/ha năm 1996 lên 58,3 tạ/ha năm 2000.
Ở Tề Lỗ, giá trị thu nhập trên 1ha canh tác toàn xã tăng từ 17,8 triệu
năm 1996 lên 21,96 triệu năm 2000 trong hoạt động trồng trọt hoa màu…
[18;350].
Trong ngành chăn nuôi đã hình thành sản xuất tập trung, quy mô lớn,

chăn nuôi nhỏ lẻ dần dần bị đẩy lùi. Chương trình Sin hoá đàn bò, nạc hoá
đàn lợn được triển khai trên khắp địa bàn. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi
trong nông nghiệp chiếm 29%, đây vẫn là ngành có thu nhập đáng kể trong
ngành, với chiều hướng ngày càng tăng.
Trong những năm 1996 - 2000 chăn nuôi phát triển đúng hướng: giảm
đàn trâu từ hơn 500 con năm 1996 xuống 300 năm 2000, tăng đàn bò sinh sản


23
kết hợp cày kéo, đẩy mạnh chương trình Sin hoá đàn bò. Tính năm 2000 tổng
đàn bò tăng 10% so với năm 1996. Đàn lợn ngày càng tăng trong các trang
trại của hộ gia đình. Đàn gia cầm phát triển theo hướng chăn nuôi công
nghiệp, phong trào các hộ chăn nuôi vịt, ngan, ngỗng, gà công nghiệp, siêu
trứng, siêu thịt, cải tạo ao nuôi cá và các con có giá trị kinh tế cao được các hộ
phát triển nhân rộng ở nhiều xã. Ở xã Tề Lỗ: đàn lợn thống kê được từ 2200
đến 3000 con, gia cầm có chừng 20000 con trong các hộ gia đình; thu nhập từ
chăn nuôi của toàn xã trong 6 tháng đầu năm đạt 1tỷ đồng.
Nghề trồng dâu nuôi tằm cũng phát triển được nhiều xã đưa vào hoạt
động sản xuất, bước đầu mang lại giá trị kinh tế gấp 2 - 3 lần so với cây trồng
lương thực. Giá trị sản xuất trên 1ha canh tác năm 1996 đạt 17,13 triệu đồng,
năm 2000 tăng lên 22 triệu đồng, tiêu biểu như ở các xã: Nguyệt Đức, Tam
Hồng, Yên Đồng…Diện tích nuôi trồng, thả cá trong ao, sản lượng hàng năm
đạt tới hơn 100 tấn cá nuôi.
Bằng sự nỗ lực của nhân dân huyện Yên Lạc đưa đến tốc độ tăng
trưởng khá và tương đối vững chắc trong đó ngành nông nghiệp tăng trưởng
bình quân 4%/năm.
Cùng với việc tạo ra nhịp độ phát triển trong nông nghiệp, kinh tế tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ - thương mại cũng được quan tâm đúng mức. Kinh
tế công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở Yên Lạc đã có sự chuyển biến lớn so
với những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1995) và đạt được

những thành tựu to lớn - với nhịp độ tăng trưởng khá một số nghề: sản xuất
vật liệu - nhựa (Tam Hồng), đan lát (Trung Kiên), mộc dân dụng (Minh Tân),
bông (Yên Đồng)… Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây
dựng đạt 73,4 tỷ đồng tăng 2,26 lần so với năm 1995, trong đó chủ yếu là giá
trị xây dựng. Một số doanh nghiệp tư nhân được thành lập và đi vào hoạt
động, có sản phẩm tham gia trên thị trường như: bia, đồ gỗ dân dụng (riêng


24
tính trên địa bàn thị trấn Minh Tân của huyện thì trong hoạt động sản xuất đồ
mộc với các xưởng sản xuất đầu tư mua sắm nhiều máy móc đưa thu nhập
bình quân tăng đat 3,1 triệu đồng 1 người/năm - năm 2000), vật liệu xây
dựng…nghề trồng dâu nuôi tằm ươm tơ, dệt ở các xã: Nguyệt Đức, Trung
Kiên, Yên Phương… phát triển. Trên địa bàn xã Nguyệt Đức hình thành nhà
máy ươm tơ tự động công suất 200tấn/năm, khởi công vào những ngày đầu
năm 2001.
Hoạt động kinh tế công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã mang lại
những giá trị kinh tế cao, góp phần cung cấp sản phẩm cho cư dân huyện, các
xã và một phần có giá trị trao đổi vùng lân cận đưa giá trị công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp tăng 17,8%/năm trong nền kinh tế huyện [1;261].
Dịch vụ - thương mại phát triển khá sâu rộng. Nhiều chợ ở các xã được
xây dựng và nâng cấp. Các ngành dịch vụ phát triển: vận tải tư nhân, các cửa
hàng, cửa hiệu, sửa chữa điện tử, xe máy, đại lý đồ điện, buôn bán hàng hoá tiêu
dùng, chợ thị trấn và các vùng, các xã phát triển trở thành các thị tứ, trung tâm
thương mại thúc đẩy giao lưu hàng hoá trong và ngoài huyện có điều kiện phát
triển, đưa thương mại - dịch vụ đạt 48,4 tỷ đồng tăng 1,5 lần so với năm 1995.
Hệ thống giao thông vận tải, mạng lưới thông tin liên lạc không ngừng
được nâng cấp phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất, đi lại của nhân dân.
Huyện Yên Lạc đã đưa ra Nghị quyết “gạch hoá bê tông hoá, nhựa hoá, tất cả
các tuyến đường liên thôn, liên xã, đường làng, ngõ xóm với phương châm

Nhà nước và nhân dân cùng làm, huy động nguồn lực từ nhân dân. Mức huy
động tối thiểu cán bộ là nửa tháng lương một năm từ 1997 đến 2000”. Đây là
một chủ trương hợp lòng dân, lại được huyện có cơ chế khuyến khích cụ thể
phương châm chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm, thực hiện “dân biết, dân làm, dân
kiểm tra” nên chỉ trong 4 năm từ 1997 đến 2000, giá trị xây dựng giao thông
vận tải nông thôn đạt 62 tỷ đồng với khối lượng công trình hoàn thành đưa


25
vào sử dụng là 44km đường nhựa, 65km đường bêtông, 135km đường lát
gạch, 200km rãnh thoát nước. Năm 1998, Yên Lạc được Chính phủ tặng cờ
dẫn đầu về phong trào xây dựng giao thông nông thôn.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản đạt được những thành tích đáng kể.
Xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, huyện đã tập trung lãnh
đạo các ngành chức năng, các cơ sở tích cực đưa các dự án cùng động viên
nhân dân trong huyện đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng. Ở các vùng đất bãi
huyện đã lập dự án, Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt công trình trạm bơm
vùng bãi đặt tại Lũng Hạ, xã Yên Phương với giá trị 4 tỷ đồng, tưới tiêu cho
gần 1000 ha của các xã Hồng Châu, Hồng Phương, Trung Kiên, Liên Châu, 5
tuyến mương tiêu trong huyện được đầu tư nạo vét.Các trụ sở làm việc của cơ
quan huyện, mạng lưới trường học, y tế xã được tu bổ, xây dựng.
Mạng lưới điện phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng đã đến với 100% hộ
dân. Bưu chính viễn thông phát triển nhanh, đáp ứng nhu cầu thông tin liên
lạc của nhân dân và yêu cầu lãnh đạo, điều hành và lưu thông hàng hoá. Đã
đạt 1,09máy/100 dân, tăng gấp 8 lần năm 1995, 11 xã đã có bưu điện văn hoá
xã. Bưu điện huyện Yên Lạc trong những năm qua đã không ngừng phát triển
hệ thống viễn thông, bảo dưỡng các tuyến cáp, trong đó có 1 bưu cục chuẩn 2
và 3 bưu cục tiêu chuẩn 3 đó bưu cục trung tâm ở thị trấn Yên Lạc và bưu cục
chợ Lồ (xã Nguyệt Đức). Toàn huyện có hơn 2000 máy điện thoại. Tốc độ
tăng trưởng trung bình hàng năm đạt chỉ tiêu với doanh thu tăng 25,5%, mật

độ điện thoại tăng 15,6%... [18;355].
Trong công tác thu, chi ngân sách được các cấp uỷ Đảng chính quyền
chỉ đạo chặt chẽ, đúng luật ngân sách, hạn chế và đẩy lùi những tiêu cực trong
quản lý tài chính, đảm bảo chi thường xuyên, chi đột xuất và ưu tiên phát
triển. Tài chính, ngân hàng đảm bảo cho hoạt đông thường xuyên của huyện
và đầu tư vốn phát triển sản xuất.


×