Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Xu hướng bạo động trong phong trào giải phóng dân tộc ở một số nước đông nam á (từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.47 KB, 96 trang )

Lời cảm ơn

Để hoàn thành khóa luận này tôi đã nhận đợc sự giúp đỡ nhiệt tình,
chu đáo của thầy giáo Ths Bùi Văn Hào, là ngời đã trực tiếp hớng dẫn tôi
trong thời gian thực hiện khóa luận này. Qua đây tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đến thầy. Đồng thời tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô
giáo trong khoa Lịch sử trờng Đại học Vinh và bạn bè, ngời thân đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhng đây là công trình đầu tiên của bản
thân cho nên không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận
đợc sự góp ý và bổ sung của quý thầy cô giáo và bạn bè, ngời thân.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Trịnh Thị Nga


Mục lục
Trang
A. Mở đầu.........................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
1.2. Lịch sử vấn đề...............................................................................................2
1.3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.............................................................................3
1.4. Phơng pháp nghiên cứu.................................................................................3
1.5. Bố cục của đề tài...........................................................................................4
B. Nội dung.....................................................................................................5
Chơng 1: Khái quát quá trình xâm lợc và thống trị của thực dân phơg
Tây ở một số nớc Đông Nam á (từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX)...........5
1.1. Khái quát quá trình xâm lợc của thực dân phơng Tây ở một số nớc Đông
Nam á...................................................................................................................5
1.1.1. Tình tình Đông Nam á trớc khi bị thực dân phơng Tây xâm lợc............5
1.1.2. Khái quát quá trình xâm lợc của thực dân phơng Tây ở một số nớc


Đông Nam á......................................................................................................13
1.2. Khái quát quá trình thống thị của thực dân phơng Tây ở một số nớc Đông
Nam á.................................................................................................................28
1.2.1. Chính sách cai trị.....................................................................................28
1.2.2. Chính sách bóc lột....................................................................................32
Tiểu kết chơng 1.................................................................................................37
Chơng 2: Xu hớng bạo động trong phong trào chống xâm lợc và giải phóng dân
tộc ở một số nớc Đông Nam á(từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX)...................39


2.1. Nguyên nhân xuất hiện hai xu hớng: bạo động và cải lơng trong phong
trào chống xâm lợc và giải phóng dân tộc ở Đông Nam á cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX............................................................................................................39

3


2.2. Các cuộc bạo động do giai cấp nông dân lãnh đạo....................................43
2.2.1. ở Đông Dơng...........................................................................................43
2.2.2. ở Inđônêxia..............................................................................................52
2.2.3. ở Philippin...............................................................................................54
2.3. Các cuộc bạo động do giai cấp địa chủ phong kiến lãnh đạo....................56
2.3.1. ở Inđônêxia..............................................................................................56
2.3.2. ở Philippin...............................................................................................58
2.3.3. ở Đông Dơng...........................................................................................59
2.4. Ba lần kháng chiến chống thực dân Anh xâm lợc của triều đình phong
kiến Miến Điện...................................................................................................72
2.5. Các cuộc bạo động theo khuynh hớng dân chủ t sản.................................75
2.5.1. ở Philippin...............................................................................................75
2.5.2. ở Đông Dơng...........................................................................................79

Tiểu kết chơng 2.................................................................................................86
C. Kết luận..................................................................................................87
D. Tài liệu tham khảo..........................................................................89


Danh môc ch÷ viÕt t¾t

CN§Q

Chñ nghÜa ®Õ quèc

CNTB

Chñ nghÜa t b¶n

CTTG

ChiÕn tranh thÕ giíi

§NA

§«ng Nam ¸

§QCN

§Õ quèc chñ nghÜa

TBCN

T b¶n chñ nghÜa



A. Mở Đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, hầu hết các nớc Đông Nam á đều bị
thực dân phơng Tây xâm lợc, thống trị. Tham gia xâm lợc các nớc Đông Nam
á có hầu hết các tên thực dân tiêu biểu nh: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà
Lan, Anh, Pháp, Đức, MĩNhng với tinh thần độc lập, tự cờng dân tộc, phong
trào đấu tranh chống thực dân xâm lợc bùng nổ khắp các nớc. Sau các phong
trào chống xâm lợc là phong trào giải phóng dân tộc diễn ra hết sức mạnh mẽ
để giành lại độc lập cho dân tộc mình. Trong các cuộc đấu tranh đó có sự
tham gia của nhiều giai tầng trong xã hội, nh: nông dân, địa chủ, sĩ phu phong
kiến yêu nớc, nhà s, phong trào đấu tranh theo khuynh hớng dân chủ t sản, t
sản, thậm chí sau này có cả phong trào đấu tranh của công nhân.
Dới tác động của hoàn cảnh khu vực và thế giới, cũng giống nh các nớc
ở khu vực á- Phi- Mỹ La tinh, trong phong trào đấu tranh chống xâm lợc và
giải phóng dân tộc ở ĐNA cũng xuất hiện hai xu hớng: bạo động và cải lơng.
Để hiểu rõ hơn lịch sử ĐNA thời kỳ này, chúng ta đi tìm hiểu xu hớng
bạo động trong phong trào giải phóng dân tộc. Việc tìm hiểu xu hớng này có ý
nghĩa nhất định về mặt khoa học và thực tiễn. Cụ thể là:
-ý nghĩa khoa học: Thông qua việc tìm hiểu xu hớng bạo động trong
phong trào giải phóng dân tộc ở ĐNA giúp chúng ta hiểu rõ hơn lịch sử phong
trào chống xâm lợc ở các nớc và cắt nghĩa đợc vì sao chỉ có thể đấu tranh
giành độc lập bằng phơng pháp bạo động.

6


-ý nghĩa thực tiễn: Trong xu thế đa phơng hoá, đa dạng hóa trong quan
hệ đối ngoại, thông qua xu hớng bạo động đó để có những chính sách mềm

dẻo, phù hợp để vừa có thể đấu tranh, vừa bảo vệ đợc độc lập dân tộc.
Trên cơ sở những lý do và ý nghĩa nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài:
Xu hớng bạo động trong phong trào giải phóng dân tộc ở một số nớc Đông
Nam á (từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX) làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
1.2. Lịch sử vấn đề
Liên quan đến nội dung đề tài, từ trớc đến nay đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả trong và ngoài nớc. Nhng vì điều
kiện thời gian, t liệu, ngoại ngữ còn hạn chế, chúng tôi mới chỉ có dịp tiếp cận
với một số công trình, bài viết của các tác giả ngời Việt Nam và một số công
trình đã đợc biên dịch.
Trớc hết cần nhắc đến công trình: Lịch sử ĐNA [2] của D.G.E.Hall.
Trong công trình này tác giả đã đề cập khá kĩ về quá trình xâm lợc của chủ
nghĩa thực dân, quá trình chống xâm lợc, giải phóng dân tộc của nhân dân
ĐNA và sự biến đổi về tình hình kinh tế- xã hội của các nớc trớc sự tác động
của chủ nghĩa thực dân
Trong công trình nghiên cứu: Lịch sử ĐNA [12] của Lơng Ninh- Đỗ
Thanh Bình- Trần Thị Vinh, các tác giả đã đề cập đến quá trình xâm chiếm
các quốc gia ĐNA của chủ nghĩa thực dân phơng Tây, trong đó đã đề cập đến
cuộc đấu tranh tự vệ và giải phóng dân tộc, giành độc lập của các nớc này. Nổi
bật nhất là xu hớng bạo động diễn ra ở Inđônêxia, Mã Lai, Xingapo, Philippin,
Việt Nam, Lào, Campuchia
Còn trong công trình nghiên cứu: Lợc sử ĐNA [23] do Phan Ngọc
Liên chủ biên cũng nói đến xu hớng bạo động trong phong trào giải phóng
dân tộc của nhân dân ĐNA.

7


Ngoài ra vấn đề này còn đợc đề cập đến trong các chuyên khảo lịch sử
về các nớc nh: Lịch sử Lào [18], Lịch sử Campuchia [20], Lợc sử

Inđônêxia [29], Đại cơng lịch sử Việt Nam, tập II [5]
Hơn thế nữa, vấn đề ấy cũng đợc phản ánh qua các bài viết đăng tải trên
các tạp chí nghiên cứu ĐNA nh: Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, số
6/2001, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 1- 6/1995
Qua các công trình nghiên cứu nêu trên, chúng tôi thấy rằng: vấn đề mà
đề tài đặt ra mặc dù ít nhiều đã đợc đề cập nhng cha có công trình nào đề cập
đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về xu hớng bạo động trong phong trào giải
phóng dân tộc ở ĐNA. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài này làm khoá luận tốt
nghiệp.
1.3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
-Về nội dung: Đề tài tập trung tìm hiểu xu hớng bạo động trong phong
trào giải phóng dân tộc ở một số nớc Đông Nam á.
-Về thời gian: Đề tài tập trung tìm hiểu xu hớng bạo động trong phong
trào giải phóng dân tộc ở một số nớc Đông Nam á từ thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX.
-Về không gian: Đề tài tập trung tìm hiểu xu hớng bạo động trong
phong trào giải phóng dân tộc ở một số nớc Đông Nam á.
1.4. Phơng pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi dựa vào quan điểm chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu sử dụng hai phơng pháp: Phơng pháp lịch sử và phơng pháp lôgic. Ngoài ra còn sử dụng một số phơng
pháp khác để hỗ trợ nh: Phơng pháp so sánh, phơng pháp đối chiếu, phơng
pháp thống kê,

8


1.5. Bố cục của đề tài
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của
khoá luận gồm hai chơng:
Chơng 1: Khái quát quá trình xâm lợc và thống trị của thực dân phơng

Tây ở một số nớc Đông Nam á (từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX).
Chơng 2: Xu hớng bạo động trong phong trào chống xâm lợc và giải
phóng dân tộc ở một số nớc Đông Nam á (từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX).

9


B. Nội dung
CHƯƠNG 1 : Khái quát quá trình xâm lợc và thống trị
của thực dân phơng Tây ở một số nớc Đông Nam á (từ
thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX)
1.1. Khái quát quá trình xâm lợc của thực dân phơng Tây ở một số
nớc Đông Nam á
1.1.1. Tình hình Đông Nam á trớc khi bị thực dân phơng Tây xâm lợc:
Cũng giống nh các quốc gia phơng Đông khác, cho đến trớc khi thực
dân phơng Tây xâm lợc thì về cơ bản chế độ phong kiến ở hầu hết các nớc
Đông Nam á đã, đang suy tàn và khủng hoảng nghiêm trọng trên mọi phơng
diện, từ kinh tế cho đến chính trị, xã hội.
Do sự phát triển không đồng đều, do trình độ của mỗi nớc có sự chênh
lệch nhau nên quá trình khủng hoảng ấy diễn ra không đồng đều nhau giữa
các quốc gia về mặt thời gian. Sớm nhất là ở Campuchia, bắt đầu từ thế kỷ
XIII, Chămpa từ thế kỷ XV, Đại Việt, Miến Điện bắt đầu từ thế kỷ XVI, trong
khi đó vơng quốc Xiêm, Lan Xang lại đang ở thời kỳ hng thịnh. Tuy nhiên,
tựu trung lại thì đến giữa thế kỷ XIX hầu hết các quốc gia ĐNA khủng hoảng
trên nhiều phơng diện:
Tình hình kinh tế:
Do tài liệu viết về ĐNA nói chung trớc thế kỷ XVI còn quá ít nên
chúng ta khó có thể hình dung đợc một bức tranh toàn diện về nền kinh tế cổ
của vùng này. Tuy nhiên, gần đây ngời ta dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác

nhau nh các văn kiện Trung Hoa, các tác phẩm của Paul Wheatky,
O.W.Woltess, và cả Gordon Luce, Louis Malleret,đặc biệt là những bằng
chứng khảo cổ học đã khẳng định rằng: cho đến trớc khi thực dân phơng Tây

10


xâm nhập vào ĐNA thì nền kinh tế của các nớc này cơ bản vẫn là nền kinh tế
nông nghiệp với một phơng thức canh tác lạc hậu, thô sơ.
Biểu hiện của nền kinh tế nông nghiệp ấy là: phần lớn c dân đều sống ở
nông thôn (90% dân số), các phơng pháp sản xuất lơng thực và nhiều nghề thủ
công truyền thống của họ vẫn còn sót lại. Một số dân tộc lạc hậu sống còn rải
rác vẫn còn hái lợm lơng thực.
Phơng thức canh tác chủ yếu là định canh và du canh. Hình thức du
canh đợc đặc trng bởi thuật ngữ đốn cây và đốt rẫy [2, 340]. Phơng pháp đợc sử dụng là phát quang một mảnh rừng bằng cách đốn cây, đốt cây để trồng
các cây lơng thực nh khoai, ngô, lúaMột thời gian sau họ chuyển sang một
khu vực khác với phơng thức canh tác tơng tự. Nhng áp dụng phơng pháp này
chỉ phù hợp với những nhóm ngời có trình độ kinh tế- xã hội còn thấp kém ở
vùng rừng núi, cao nguyên, vùng sâu trong nội địa.
Còn hình thức định canh đợc áp dụng đối với những dân tộc tiên tiến
hơn, sống định c chủ yếu ở đồng bằng và ven biển. Ví nh c dân ở khu vực
sông Hồng của Việt Nam, sông Iraoađi ở Miama, sông Mê Nam ở Thái Lan
Mặc dù vậy, so với các trung tâm văn minh khác thì cho đến trớc khi
thực dân phơng Tây xâm lợc, ĐNA vẫn còn nằm trong tình trạng kinh tế nông
nghiệp với cây lúa nớc là một sản phẩm quan trọng nhất[12, 341] cùng một
phơng thức canh tác thô sơ, lạc hậu.
ở các quốc gia ĐNA, cho đến trớc khi thực dân phơng Tây xâm nhập
thì chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến vẫn còn tồn tại, nên về danh nghĩa
thì ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Nhng trên thực tế đến
thời kỳ này, hầu hết ruộng đất vẫn nằm trong tay công xã nông thôn, tức là

toàn bộ đất đai đều thuộc về cộng đồng. Ngoài những vùng đất thuộc quyền sở
hữu công của làng xã thì còn có một bộ phận ruộng đất đợc phong thởng cho
các vơng hầu, quý tộc, quan lại, địa chủ phong kiến để canh tác với phơng
thức bóc lột mang tính cổ điển là phát canh thu tô. Còn ruộng của các làng xã

11


thì đợc chia cho các gia đình canh tác và nộp thuế cho nhà nớc. Bên cạnh đó
còn một bộ phận ruộng đất t, nhng hình thức sở hữu t về ruộng đất ở các nớc
ĐNA không thực sự phổ biến và phát triển. Đây chính là điểm khác về sở hữu
đất đai ở ĐNA so với ở Trung Quốc. Bởi ở Trung Quốc đến giai đoạn này sở
hữu t rất phát triển. Bắt đầu từ thời Chiến Quốc (thế kỷ V TCN), ruộng đất t ở
Trung Quốc xuất hiện ngày một nhiều và đến đời Minh thì phần lớn ruộng đất
trong nớc đều tập trung vào tay giai cấp địa chủ thống trị. Điều này cũng là
một minh chứng chứng tỏ rằng chế độ phong kiến ở ĐNA nói riêng, phơng
Đông nói chung không đạt đến mức độ điển hình.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, giai cấp địa chủ ngày càng giàu,
đồng thời ngày càng xuất hiện nhiều địa chủ lớn chiếm hữu rất nhiều ruộng
đất. Điều đó cho thấy xu hớng sở hữu t về ruộng đất ngày càng lấn át sở hữu
công làng xã. Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng chế độ ruộng đất ở ĐNA
giai đoạn này vẫn còn duy trì và tồn tại nền kinh tế tiểu nông với hình thức
bóc lột siêu kinh tế và chịu sự chi phối sâu sắc của chính quyền phong kiến.
Một đặc điểm nổi bật của các quốc gia cổ đại phơng Đông nói chung và
ĐNA nói riêng là sự tồn tại dai dẳng của các công xã nông thôn với nhiều tên
gọi khác nhau nh : làng, buôn, bản, mờngĐây là một đơn vị kinh tế đóng
kín mang tính tự cung, tự cấp. Mỗi công xã đợc xem nh một tiểu quốc và độc
lập với nhau. Trong tiểu quốc ấy có sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế nông
nghiệp và thủ công nghiệp. Ngoài những nghề tiểu thủ công gia đình nh: xe
sợi, dệt vải, còn có một số chuyên nghề nhất định nh nghề gốm, làm ô, dụng

cụ gia đình và nông cụCũng có những làng thợ chuyên nghiệp nh thợ đào
mỏ thiếc và vàng, thợ kim khí. Một số nớc theo đạo Phật có nghề tạc tợng
Phật. Bên cạnh đó, ở một số nơi phát triển về giao thông đờng thuỷ, gần biển
nh ở miền Trung Miến Điện còn phát triển nghề chuyên đóng tàu thuyền.
Nh vậy, sự tồn tại của công xã nông thôn là một lực cản lớn đối với sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá, hạn chế sự giao lu với bên ngoài.

12


Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng cho đến trớc khi chủ nghĩa thực
dân phơng Tây xâm nhập thì ở đây cũng đã có sự giao lu buôn bán giữa các
vùng miền với nhau. Sở dĩ nói nh vậy bởi vì ĐNA có một vị trí địa lý thuận lợi
do nằm ở gần hai trung tâm lớn là Trung Quốc và ấn Độ. Do đó ĐNA đã trở
thành khu vực trung chuyển về thơng mại, là nơi gặp gỡ giữa các nhà buôn từ
phơng Đông đến và từ phơng Tây sang. Hơn nữa ở đây cũng rất giàu nguồn tài
nguyên nh: gỗ quý, hơng liệu, hồ tiêu, hồng ngọc và các loại đá quý khác nh
vàng, ngà voi và khoáng sản.
Buôn bán đợc thực hiện chủ yếu trên cơ sở hàng đổi hàng, nhng ở các
trung tâm quan trọng hơn, họ dùng các cục kim loại làm tiền[12, 345] .
Các hải cảng chủ yếu nh óc Eo của Funan, Malắcca và Tuban của
Giava đã phát triển quan hệ thơng mại rộng rãi. Đặc biệt là ở Mã Lai và
Inđônêxia từ xa xa đã là nơi gặp gỡ Đông- Tây. Việc buôn bán hơng liệu và
hồ tiêu đã làm cho ĐNA có tầm quan trọng đặc biệt, là cầu nối trao đổi giữa
Trung Quốc, ấn Độ và phơng Tây.
Mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi cho một nền kinh tế hàng hoá phát
triển, nhng do sự tồn tại của nhà nớc quân chủ chuyên chế phong kiến với việc
thực thi những chính sách, biện pháp không phù hợp nh: trọng nông ức thơng, bế quan toả cảng hoặc do thói quen của nền sản xuất manh mún chủ
yếu mang tính tự cấp, tự túcCho nên ở thời kỳ này mặc dù nền kinh tế công
thơng ít nhiều đã có sự phát triển, mầm mống kinh tế TBCN đã xuất hiện trên

một số khu vực nh ở Xiêm, Mã Lai mà chúng ta nói ở trên nhng nó không thể
đáp ứng đợc yêu cầu của thời đại. Hay nói cách khác, đó chính là mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất phong kiến với lực lợng sản xuất mới phát triển. Cho
nên nó làm cho tình hình kinh tế vốn đã trì trệ dới chế độ phong kiến lại càng
trở nên khủng hoảng trầm trọng hơn. Đây cũng chính là điểm khác biệt nổi
bật giữa phơng Đông và phơng Tây vào trớc thế kỷ XVI. Cũng là chế độ
phong kiến đã bớc vào giai đoạn suy tàn, khủng hoảng nhng ở phơng Tây thì
13


nó tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa phát triển tơng đối
mạnh mẽ, còn ở ĐNA thì hoàn toàn ngợc lại, nền kinh tế càng lạc hậu, què
quặt.
Tình hình chính trị:
Cho đến trớc khi thực dân phơng Tây xâm lợc thì hầu nh tất cả các nớc
ĐNA đều là thể chế chính trị nhà nớc phong kiến trung ơng tập quyền. Đây
cũng là đặc điểm chung của thể chế chính trị ở phơng Đông và là điểm khác
so với phơng Tây là nhà nớc phong kiến phân quyền.
Trong nhà nớc ấy, vua nắm trong tay cả vơng quyền và thần quyền.
Nhà vua là trụ cột của tổ chức nhà nớc, là cội nguồn của quyền lực và nắm
mọi quyền lực[2, 356]. Nhà vua nắm mọi quyền hành quyết định chính sách
đối nội và đối ngoại, bổ nhiệm và cắt chức các quan lại, trừng phạt và ân xá,
huỷ bỏ các đạo luậtBên cạnh đó chế độ chuyên chế còn duy trì hàng mớ
pháp luật, quy tắc, tập quán phong kiến tích luỹ hàng thế kỷ hết sức hỗn độn
và phức tạp, chứa đầy mâu thuẫn.
Tuy nhiên, về cơ bản chế độ phong kiến đã và đang suy tàn và khủng
hoảng nghiêm trọng. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội giữa địa chủ phong kiến
với nông dân vốn đã tồn tại từ lâu, ngày càng trở nên sâu sắc và không thể
điều hòa đợc nữa. Do đó nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra ở khắp
mọi nơi. Ngay trong nội bộ giai cấp thống trị cũng diễn ra sự phân biệt, tranh

giành quyền lực lẫn nhau khiến cho nền thống trị cũng ngày càng suy giảm.
Điều này đợc thể hiện rõ trong lịch sử Campuchia thời kỳ Ăngkor đợc coi là
thời kỳ không tiền khoáng hậu. ở Xiêm thì chia làm ba tiểu quốc là Lan Xa
(phía Bắc), Sukhôthay (miền Trung) và Ayuthaya (ven biển phía Nam). Còn ở
Lan Xang có thể chế độ phong kiến ấy khủng hoảng vào thời gian 1353 hoặc
1357.
Một ý nữa chúng ta cũng thấy là cho đến trớc khi thực dân phơng Tây
xâm lợc, các quốc gia ĐNA hình thành và phát triển không đồng đều nhau. Cụ

14


thể là nhà nớc Văn Lang- Âu Lạc ra đời vào thế kỷ VII TCN, Xiêm ra đời vào
giữa thế kỷ XIV (1350) và nhà nớc Lan Xang cũng ra đời vào giữa thế kỷ
XIV.
Có thể thấy, do điều kiện ở mỗi quốc gia không giống nhau và xu hớng
phát triển, mở rộng của các quốc gia cũng khác nhau nên sự suy thoái của chế
độ phong kiến ở đây cũng không đồng đều nhau và nhanh hơn cả là ở Lan
Xang.
Hơn nữa, do cả các cuộc tranh chấp, thôn tính lẫn nhau giữa các quốc
gia đã khiến cho nền kinh tế, chính trị càng bất ổn, suy thoái trầm trọng. Hệ
quả của nó là làm cho các quốc gia ĐNA càng suy yếu, tiềm lực của quốc gia
không đủ sức để đảm bảo những yêu cầu về kinh tế- xã hội ngày càng gia
tăng. Đây chính là nguyên nhân quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các nớc phơng Tây xâm lợc. Hay nói cách khác thì trong hoàn cảnh ấy, sự xâm
nhập và xâm lợc của thực dân phơng Tây vào ĐNA là một tất yếu.
Tình hình xã hội:
Trớc khi thực dân phơng Tây xâm lợc, về cơ bản thì ở hầu hết các nớc
ĐNA đều đang duy trì các hình thức, các tổ chức xã hội mang tính chất phong
kiến đơn thuần. Đó là sự tồn tại của chế độ công xã nông thôn cơ sở của chế
độ phong kiến. Tuy nhiên, trớc sự khủng hoảng của nền kinh tế chủ đạo là

nông nghiệp và sự xuất hiện của mầm mống kinh tế TBCN nhng không có
điều kiện phát triển thì xã hội phong kiến đơn thuần ấy đang rơi vào tình trạng
suy tàn và khủng hoảng.
Trong xã hội phong kiến ở ĐNA tồn tại hai giai cấp cơ bản là giai cấp
thống trị gồm vua, quý tộc, tăng lữ, địa chủ có mọi đặc quyền, đặc lợi và bóc
lột các giai cấp khác trong xã hội. Dới đó là giai cấp nông dân chiếm số lợng
đông đảo (90% dân số), là lực lợng chính làm ra mọi của cải trong xã hội nhng đời sống lại vô cùng khổ cực, chịu nhiều áp bức, bóc lột của giai cấp thống
trị. Ngoài các loại thuế khóa phải nộp, họ còn phải lao dịch cho nhà nớcMột

15


tầng lớp khác bị bóc lột nặng nề nữa là nô lệ. Tầng lớp này chiếm vị trí tơng
đối ít, hầu nh không đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Nô lệ phần lớn đợc
sử dụng vào các công việc phi sản xuất nh hầu hạ trong các gia đình giàu có,
trong cung vua và một bộ phận đợc sử dụng trong các xởng thủ công, các
công trình kiến trúc. Vì vậy có thể gọi chế độ nô lệ ấy là chế độ nô lệ gia trởng, khác với chế độ nô lệ phổ biến ở phơng Tây.
Nhmg tựu trung lại thì trong xã hội ĐNA bấy giờ chủ yếu là tồn tại mối
quan hệ giữa địa chủ- nông dân. Đây cũng chính là mâu thuẫn cơ bản trong xã
hội. Mâu thuẫn giai cấp này xuất hiện và ngày càng trở nên gay gắt. Không
còn đờng sống, nhân dân, trớc hết là nông dân đã nổi dậy khởi nghĩa. Những
cuộc khởi nghĩa nông dân vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân góp thêm đẩy
chế độ phong kiến, nhà nớc phong kiến suy yếu nhanh hơn. Đây chính là điều
kiện thuận lợi để thực dân phơng Tây tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lợc biến các nớc ĐNA thành thuộc địa.
Minh chứng rõ nhất mà ta thấy là ở Philippin. Cho đến trớc khi thực dân
phơngTây xâm lợc, hầu hết các quốc gia ĐNA đang suy tàn, khủng hoảng,
một số nớc đang trên đà phát triển nhng chỉ duy nhất ở Philippin là đang duy
trì những tàn d của xã hội nguyên thuỷ, tức là tồn tại chế độ thủ lĩnh ở giai
đoạn phong kiến sơ kỳ. Tình hình đó càng dễ dàng để phơng Tây xâm lợc
quốc gia này. Cho nên có thể nói quá trình hình thành chế độ phong kiến ở

Philippin đồng hành với quá trình xâm lợc của thực dân phơng Tây (cụ thể là
Tây Ban Nha).
Tình hình văn hoá:
Đến giai đoạn này, những giá trị văn hoá truyền thống của ĐNA đang
đứng trớc một thách thức bởi sự tác động của văn hoá phơng Tây. Hay nói
cách khác, bên cạnh nền văn hoá truyền thống là văn hoá lúa nớc, văn hoá vật
chất, tín ngỡng, tôn giáođã bắt đầu xuất hiện những làn sóng của văn hoá
phơng Tây. Đó là sự ảnh hởng của văn hoá ấn Độ và Trung Hoa.

16


Văn hoá ấn Độ và Trung Hoa đợc du nhập vào ĐNA từ rất sớm, trên
nhiều phơng diện của đời sống xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực t tởng, tôn
giáo. Ví nh đạo Hinđu và đạo Phật đợc truyền bá vào ngay từ đầu công
nguyên.
Đối với ảnh hởng của ấn Độ ta thấy, thuật ngữ Hinđu hoá nhìn chung
đợc các học giả sử dụng để chỉ tác động của nền văn hoá ấn Độ đối với
ĐNA[12, 31]. Các quốc gia nh Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và Lào chịu
sự chi phối của dòng phật giáo Tiểu thừa (từ thế kỷ XIII). Dòng Phật Tiểu thừa
này đơn giản, không đòi hỏi có một tăng đoàn để duy trì các ngôi chùa đắt
tiền và lễ nghi phức tạp. Những ngời truyền giáo đạo này là các nhà s chủ trơng khổ hạnh, sống ẩn dật, thiền định và quyết tâm sống một cuộc đời nghèo
khổ và tận tuỵ quên mình. Khác với hệ thống tôn ti ở thủ đô, các tu sĩ này có
quan hệ trực tiếp với nhân dân và họ đã phá bỏ hoàn toàn quốc giáo cũ và tất
cả những gì liên quan đến nó. Do vậy chùa Phật mọc lên rất nhiều. Ngôi chùa
là nơi thờ cúng các vị Phật, đồng thời cũng là trung tâm văn hoá tâm linh, là
hình tợng chân- thiện- mỹ đối với c dân ĐNA.
Còn riêng ở Việt Nam, vừa chịu ảnh hởng của Phật giáo Đại thừa, lại
vừa chịu ảnh hởng sâu sắc của các trờng phái t tởng Trung Hoa, trong đó tiêu
biểu là nho giáo Khổng- Mạnh với hệ t tởng Tam cơng- Ngũ thờng. Do vậy,

không phải ngẫu nhiên ở Việt Nam, Nho giáo đã trở thành hệ t tởng chính
thống trong giai đoạn này, là công cụ để bảo vệ chế độ phong kiến và duy trì
trật tự xã hội.
Từ thế kỷ XIII c dân Arập, ấn Độ cũng vào khu vực ĐNA để buôn bán
nên Đạo Hồi cũng bắt đầu đợc truyền bá vào khu vực này mà trớc hết là ở các
nớc hải đảo. Do đó từ cuối thế kỷ XIV sang thế kỷ XV xuất hiện nhiều tiểu
quốc Hồi giáo ở ĐNA nh Mã Lai và Inđônêxia.
Nh vậy, trên cơ sở tiếp thu ảnh hởng của văn hoá bên ngoài, c dân ĐNA
đã biết lựa chọn những yếu tố phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của khu vực
17


rồi kết hợp với nền văn hoá bản địa tạo ra một nền văn hoá phong phú nhng
vẫn mang đậm bản sắc riêng của khu vực, đồng thời có những nét độc đáo
mang tính đặc trng của từng quốc gia, dân tộc. Do đó về cơ bản ta thấy nền
văn hoá ĐNA vẫn mang xu hớng đóng kín cha vợt khỏi khuôn khổ của chế độ
phong kiến. Vì vậy nó cũng là một trong những nhân tố khiến cho chế độ
phong kiến vốn đã, đang khủng hoảng ngày càng suy tàn và khủng hoảng hơn.
Nói tóm lại, cho đến trớc khi thực dân phơng Tây xâm lợc, cả về kinh
tế- chính trị- văn hoá- xã hội của các quốc gia ĐNA đều có sự biến đổi và
biến đổi sâu sắc. Cùng với sự tồn tại của nền kinh tế mang tính tự cấp, tự túc là
một thể chế chính trị xã hội đang trong giai đoạn trì trệ và khủng hoảng.
Trong xã hội, mâu thuẫn giai cấp nổi lên ngày càng sâu sắc. Thêm vào đó là
một nền văn hoá phong kiến đã kìm hãm sự giao lu của nền văn hoá mới với
những t tởng tiến bộ. Tất cả những điều đó làm cho bức tranh chung của ĐNA
hết sức phức tạp. Trong khi ở thời điểm này nhiều nớc ở Âu- Mĩ đã hoàn thành
những cuộc cách mạng t sản để bớc vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Nhu cầu
cấp bách là thị trờng đặt ra một cách bức thiết buộc họ phải đi tìm, mở rộng,
chinh phục ra những vùng đất mới ở Châu á, Châu Phi và Mỹ La tinh. Những
điều kiện thuận lợi ấy khiến cho việc xâm lợc của các nớc phơng Tây ở ĐNA

là điều không thể tránh khỏi.
1.1.2. Khái quát quá trình xâm lợc của thực dân phơng Tây ở một số
nớc Đông Nam á:
Nh ở phần trên chúng ta vừa tìm hiểu là vào thời kỳ cận đại, phơng
Đông nói chung và các quốc gia ĐNA nói riêng rơi vào tình trạng trì trệ, bảo
thủ. Do đó đã xuất hiện thuyết Châu Âu là trung tâm cho rằng các nớc t bản
phơng Tây đã đóng vai trò là ngời khai hoá cho các dân tộc lạc hậu phơng
Đông. Đó là một quan niệm hoàn toàn sai lầm vì mục đích chỉ để phục vụ cho
chính sách thực dân của các nớc t bản phơng Tây.

18


Theo các nguồn tài liệu ghi chép đợc chúng ta có thể nhận định rằng:
quá trình xâm nhập, xâm lợc của thực dân phơng Tây bắt đầu từ sự giao lu tiếp
xúc rất tự nhiên, đó là truyền đạo và buôn bán. Tuy nhiên về sau những việc
làm ấy đã vô tình kích thích ham muốn chiếm đoạt của t bản thực dân phơng
Tây ở khu vực này. Cũng theo nguồn tài liệu còn lu giữ đợc thì các nhà nghiên
cứu đã xác định: ngời Châu Âu đầu tiên có mặt ở ĐNA là Marcô Pôlô. Ông đã
đến Trung Quốc vào năm 1275, đợc Hốt Tất Liệt đón tiếp tại Cung Thợng
ở Xơng Đô[12, 363]. Trong suốt 17 năm lu lại Trung Quốc, ông đã đợc triều
đình tuyển dụng làm sĩ quan tình báo và đợc phái đi công cán ở những nơi xa.
Cụ thể là ông đã từng đặt chân đến Miến Điện, Lào, Inđônêxia, Đại Việt và
Chămpa
Tiếp đó, vào khoảng thời gian trớc khi đoàn của Marco Pôlô bắt đầu
cuộc hành trình từ Trung Quốc về nớc, một vị linh mục thuộc dòng Francis
tên là Jonh Monte Corvino đã bắt đầu đi sang Bắc Kinh với hy vọng cải đạo
Hốt Tất Liệt sang đạo Cơđốc. Sau đó ông đã đến quần đảo Inđônêxia vào năm
1294.
Nhng cuốn sách hay nhất, đáng lu ý nhất là cuốn sách Mô tả về phơng

Đông của Francis Odoric. Theo ghi chép này, tác giả đã rời phơng Đông vào
năm 1316 và quay về Châu Âu vào năm 1330. Tác phẩm này đợc coi là một
bức tranh đầy đủ nhất, nhiều hoạ đồ nhất và thú vị nhất về Châu á của một
ngời truyền giáo để lại vào thời đại này[12, 366]. Cũng trong tác phẩm ấy,
tác giả đã cho ngời đọc thấy một Xumatra và một nớc Chăm khá hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, trong thời gian này còn có hai vị linh mục khác là
Jordanus và Jonh Marignôlli với tác phẩm: Những kỳ quan của phơng
Đông. Qua tác phẩm cho biết hai ông đã từng đặt chân đến ấn Độ vào năm
1330, trong đó có tới một số vùng Châu á khác nh đảo Giava, Xumatra,
Chămpa.

19


ít lâu sau, vào giữa thế kỷ XIV, ngời Châu Âu tiếp theo đến ĐNA
không phải là một nhà truyền giáo mà là một ngời đi thăm dò khả năng buôn
bán, một ngời thuộc một gia đình quý tộc ở Venetian (ý) tên là Nicolo de
Conti. Ông đã đi khắp phơng Đông trong thời gian 25 năm và trở về nớc năm
1444. Những địa điểm ông đã từng có mặt ở đây là: Xumatra, Giava, Miến
Điện
Sau hoạt động của thơng nhân Conti thì một loạt các thơng nhân khác
cũng lần lợt vợt biển sang khu vực này vào các thế kỷ XV, XVI là Hieronomo
de Santo Stefano (1496) và Luctovico de Varthema (1502).
Nh vậy, có thể nói từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV đợc coi là nền tảng cơ
sở đặt nền móng cho các nớc thực dân phơng Tây tiến hành quá trình xâm
nhập mạnh mẽ ở ĐNA. Hay nói cách khác là kết thúc thế kỷ XV, lịch sử đã
chuyển từ thời đại những ngời hoang dã thời trung cổ sang thời đại của
những tên cớp biển Bồ Đào Nha[12, 374].
Sự kiện đánh dấu bớc chuyển ấy là vào năm 1511, thơng nhân Bồ Đào
Nha đã tìm ra con đờng sang phơng Đông qua phát kiến địa lý. Họ đã đến đợc

vùng Tây ấn và mở nhiều thơng điếm ở đây để buôn bán. Từ đó, họ mở rộng
ra một số địa bàn khác ở ĐNA. Có thể nói, sự kiện năm 1511- Bồ Đào Nha
chính thức nổ súng tấn công xâm lợc Malăcca do nhận thấy tầm quan trọng
của khu vực này đã mở đầu cho quá trình xâm lợc của thực dân phơng Tây ở
ĐNA.
Đồng thời với ngời Bồ Đào Nha là ngời Tây Ban Nha cũng đến khu vực
này, đầu tiên là Côlômbô. Nhng thành công nhất là đoàn thám hiểm của
Magienlăng. Với quyết tâm chia phần trong việc buôn bán hơng liệu, nên vào
tháng 2- 1524 một đoàn thuỷ thủ của Tây Ban Nha đã từ Mêhicô vợt biển trinh
sát đến quần đảo này do Ruylopez de Villabos đứng đầu cuộc viễn chinh nhng
hầu nh không thu đợc kết quả gì. Tuy nhiên ông ta chính là ngời lấy tên Philip
(con trai hoàng đế Chorles V) để đặt tên cho quần đảo là Philippin.
20


Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XVI, trung tâm kinh tế Châu Âu đã chuyển
dần từ biển Địa Trung Hải lên ven bờ Bắc Hải nên Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha dần suy yếu. Trong khi đó ngời Hà Lan và ngời Anh đã có nhiều tiến bộ
trong việc phát triển kĩ thuật do đã hoàn thành cách mạng t sản. Vì vậy, để
cạnh tranh với Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan đã thành lập ra công ty Đông
ấn vào năm 1600 và năm 1602. Mặc dù vậy, hai công ty này cũng luôn luôn
cạnh tranh, gây sức ép để loại trừ dần ảnh hởng của nhau. Cuối cùng, với thế
mạnh của mình, ngời Hà Lan đã đánh bật Bồ Đào Nha ra khỏi Malăcca và
xâm lợc Inđônêxia. Nhng sự cực thịnh của Hà Lan cũng không thể kéo dài lâu
đợc cho đến khi Anh vơn lên đánh chiếm Malăcca của Hà Lan rồi tiếp tục tiến
hành chinh phục các tiểu quốc của bán đảo Mã Lai và Miama. Ngay sau đó là
thực dân Pháp tiến vào xâm lợc ba nớc Đông Dơng và cạnh tranh quyết liệt
với Anh. Thêm nữa là đế quốc Mĩ cũng nhân cơ hội để nhảy vào khu vực này
vào đầu thế kỷ XIX.
Nh vậy, về cơ bản cho đến cuối thế kỷ XIX, thực dân phơng Tây đã

hoàn thành quá trình xâm lợc của mình ở ĐNA. Để đạt đợc mục đích của
mình nhằm biến ĐNA thành nớc thuộc địa, phụ thuộc hoặc thuộc địa nửa
phong kiến, thực dân phơng Tây đã không từ một thủ đoạn hèn hạ nào: từ biện
pháp nhẹ nhàng, mềm dẻo ban đầu là truyền giáo cho đến những biện pháp
cứng rắn nh dùng vũ lực, lợi dụng tôn giáo, dân tộc, sắc tộc, thực thi chính
sách chia để trị và mua chuộc nhằm biến các nớc ĐNA thành nơi cung cấp
nguyên nhiên liệu, thành thị trờng tiêu thụ và xuất khẩu t bản cho chính
quốc.
Tất nhiên, trong buổi đầu thời cận đại, khi CNTB cha phát triển cao thì
công cuộc buôn bán và chinh phục các quốc gia phơng Đông thờng đợc giao
cho các công ty thơng mại lớn mà thờng đợc gọi là các công ty Đông ấn Độ.
Các công ty này thực hiện chính sách vừa buôn bán, vừa ăn cớp. Nó đợc
xem nh là một nhà nớc con với bộ máy chính quyền và quân đội đầy đủ.
21


Nhng nhìn chung, thời điểm mà các nớc ĐNA trở thành thuộc địa của
thực dân phơng Tây khác nhau. Quá trình chinh phục của thực dân phơng Tây
trải qua một thời gian dài, các nớc thực dân không thể đánh nhanh nh họ
mong muốn bởi do cuộc kháng cự của các dân tộc ở đây. Có những nơi thực
dân phải trải qua một cuộc chinh phục kéo dài trên dới ba thế kỷ mới hoàn
thành nh ở Inđônêxia hay Miến Điện. Song có những khu vực chỉ cha đầy một
nửa thế kỷ, công cuộc chinh phục đã hoàn thành nh cuộc chinh phục của Pháp
ở Đông Dơng. Rõ ràng quá trình xâm lợc của thực dân diễn ra không đồng
đều, đa dạng và phức tạp. Công cuộc xâm lợc của các tên thực dân ở ĐNA có
những nét chung, đủ phơng thức, thủ đoạn nh ngoại giao, buôn bán, truyền
giáo, khống chế chính trị rồi dùng vũ lực thôn tính. Nhng mặt khác, mỗi tên
thực dân nh vậy cũng có những nét riêng, mang đặc trng của từng nớc. Cụ thể
là:
Quá trình xâm lợc Philippin của Tây Ban Nha:

Với nguồn lợi khổng lồ thu đợc từ việc buôn bán hơng liệu nh một liều
thuốc kích thích lòng ham muốn thơng nhân Tây Ban Nha cho thuyền rẽ sóng
về phơng Đông. Bởi từ lâu cả ngời Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều biết về
phơng Đông giàu có qua những câu chuyện đợc ghi chép, truyền tụng, sau này
đợc công bố dới nhan đề Du kí của Marco PôlôPh ơng Đông giàu có đã
làm say lòng ngời Châu Âu và trớc hết là ngời Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Ngày 10/8/1519, nhà thám hiểm Ph.Magienlăng của Tây Ban Nha đã
dẫn 5 chiến thuyền rời đất nớc và đến quần đảo này vào ngày 16/3/1521. Sau
đó họ tiếp tục cuộc hành trình về đảo Xêbu (phía Nam Philippin). Nhng do
xung đột với thổ dân ở đảo Mactan, dới sự lãnh đạo của tù trởng Lapu Lapu,
Magienlăng bị chết. Những đồng đội của ông trở về Tây Ban Nha với những
nguồn của cải khổng lồ, đầy ắp những sản vật của phơng Đông. Bản chất tham
lam của bọn thực dân lại trỗi dậy và thúc giục chúng chiếm lấy vùng đất này.
Do đó vào năm 1524, chính phủ Tây Ban Nha phái Ruybơlếch de Villalobos

22


lãnh đạo đội quân viễn chinh gồm 5 chiếc tàu cùng 370 binh lính từ Mêhicô
qua Thái Bình Dơng đến xâm lợc quần đảo. Tuy nhiên trong lần này do bị c
dân bản địa phản kháng quyết liệt nên âm mu xâm lợc Philippin của Tây Ban
Nha không thành công. Nhng chính trong lần này, con của Villalobos đã lấy
tên thái tử Philip đặt tên cho Philippin.
Mặc dù bị thất bại trong âm mu xâm lợc Philippin nhng Tây Ban Nha
vẫn không từ bỏ âm mu của mình. Do đó vào năm 1564 chính phủ Tây Ban
Nha lại phái Lơgatspi lãnh đạo đội quân viễn chinh sang Philippin lần hai.
Cuộc chiến tranh ăn cớp tàn ác đã diễn ra. Nhân dân Xêbu đã chiến đấu rất
anh dũng. Nhng cuối cùng do u thế mạnh hơn về vũ khí, lực lợng, tổ chức,
cuối cùng Tây Ban Nha cũng chiếm đợc đảo Xêbu (1565), rồi sau đó làm chủ
cả Manila (1571). Tuy nhiên để có đợc thành công ấy, chính quyền Tây Ban

Nha cũng phải mất một thời gian khá lâu. Và đến năm 1572, thực dân Tây Ban
Nha đã cơ bản làm chủ đợc quần đảo này và nó cũng là mốc đánh dấu sự hoàn
thành quá trình xâm lợc Philippin của Tây Ban Nha. Từ đây chế độ thuộc địa
của Tây Ban Nha ở Philippin kéo dài hơn 300 năm.
Bên cạnh Tây Ban Nha, trong quá trình xâm lợc Philippin còn có một
tên thực dân nữa là Mĩ. Cuộc chiến tranh Mĩ- Tây Ban Nha (1898) là cuộc
chiến tranh đế quốc đầu tiên để chia lại thuộc địa. Tây Ban Nha thất bại. Theo
hiệp ớc Pari (10/12/1898), Tây Ban Nha nhợng lại quần đảo Philippin cho Mĩ.
Từ đó Philippin trở thành thuộc địa của Mĩ.
Quá trình xâm lợc Inđônêxia:
Từ thế kỷ XVI, trên đất nớc Inđônêxia, ngời Châu Âu đã có mặt ở đây,
mà nớc đầu tiên là Bồ Đào Nha. Trớc khi Bồ Đào Nha đến Inđônêxia thì trên
quần đảo này đã diễn ra cảnh buôn bán tấp nập và êm ả giữa ngời bản địa với
ngời Trung Quốc, ấn Độ, Ba T về những sản vật quý nh trầm hơng, hồ tiêu,
đinh hơng, vàng, bạcNhng ngay sau khi Bồ Đào Nha đặt chân đến đây thì
cảnh buôn bán yên bình ấy đợc thay thế bằng những mâu thuẫn, căng thẳng và

23


đổ máu. Sự kiện đánh dấu đầu tiên là Bồ Đào Nha đánh chiếm Malăcca vào
năm 1511. Năm sau, họ đã xây dựng thơng điếm trên đảo Ambon ở Mêlukuquần đảo hơng liệu ở phía đông Inđônêxia. Đến năm 1592, bằng thủ đoạn
ngoại giao, ngời Bồ Đào Nha đã xây dựng pháo đài ở Tecnat và nắm độc
quyền mua bán hơng liệu ở đây. Trên cơ sở đó họ tỏa ra tiến hành chiến tranh,
chiếm các bộ lạc, đồng thời buôn bán nô lệ một cách dã man.
Nhng sự độc quyền của Bồ Đào Nha ở Inđônêxia không kéo dài lâu đợc
khi ngời Tây Ban Nha có mặt ở đây vào năm 1521. Năm 1522 ngời Tây Ban
Nha đến Môlucku, lên đảo Tiđo và lập trạm buôn bán ở đây. Ngời Tây Ban
Nha đã lợi dụng sự mâu thuẫn giữa các bộ lạc địa phơng nh mâu thuẫn giữa
ngời của đảo Tecnat với ngời của đảo Tiđo để trục lợi, đẩy mâu thuẫn của họ

sang phía Bồ Đào Nha. Cuộc đấu tranh giành quyền khống chế trên các đảo
nh Técnat, Tiđo, Ambon giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha kéo dài hơn nửa
thế kỷ. Cuối cùng mâu thuẫn đợc giải quyết bằng sự thoả hiệp: ngời Bồ bồi
thờng cho ngời Tây Ban Nha một số tiền và vàng, còn Tây Ban Nha chuyển
sang hoạt động ở Philippin[31, 387].
Kế tiếp Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là thực dân Hà Lan cũng xuất hiện
trên quần đảo Inđônêxia. Nói đến Hà Lan thì chúng ta biết rằng sau cuộc cách
mạng t sản vào năm 1566, CNTB ở Hà Lan phát triển mạnh mẽ, Hà Lan trở
thành một cờng quốc thơng mại ở Châu Âu. Từ đó họ tham gia vào việc tranh
giành buôn bán hơng liệu từ tay Bồ Đào Nha. Cuộc cạnh tranh làm chủ
Inđônêxia giữa ngời Hà Lan và ngời Bồ Đào Nha trở nên quyết liệt và cuối
cùng kết thúc bằng sự thất bại lớn của ngời Bồ Đào Nha vào năm 1603.
Sở dĩ ngời Hà Lan thắng thế ở Inđônêxia là do đã có một số lợi thế
khiến họ vợt xa bất kì một đối thủ nào lúc bấy giờ, kể cả Anh sau này. Đó là
do lúc đầu thơng nhân Hà Lan với t cách là những kẻ môi giới, vận chuyển
hàng hoá, thổ sản của phơng Đông từ Bồ Đào Nha sang Châu Âu. Hoạt động
đó đã giúp họ có những kinh nghiệm về nghề làm trung gian mà ít ai có thể

24


bì kịp. Hơn nữa, các phơng pháp tài chính của ngời Hà Lan là phơng pháp
tiên tiến nhất Châu Âu và họ đã có một lợng vốn luân chuyển lớn khiến ngay
từ đầu họ đã có lợi thế rất trội.
Lúc đầu, các thơng nhân Hà Lan đã tổ chức ra nhiều công ty buôn bán
để đi về phơng Đông, mà sự ra đời ồ ạt của các công ty Hà Lan đợc gọi là
thời kỳ đi biển một cách bừa bãi [2, 451]. Hầu nh không có hải cảng nào
có tầm quan trọng của ĐNA mà các tàu của ngời Hà Lan không viếng
thăm[2, 451].
Nhng để công cuộc chinh phục và buôn bán có hiệu quả hơn, Hà Lan đã

tổ chức lại các công ty của mình. Do đó vào năm 1602, công ty Đông ấn Độ
của Hà Lan đã đợc thành lập (V.O.C). Công ty đợc chính phủ giao cho toàn
quyền buôn bán với phơng Đông, ký các hiệp ớc liên minh với nớc ngoài, tổ
chức quân đội, tổ chức cai trịNói chung công ty có quyền nh một nhà nớc.
Thông qua việc buôn bán với các vơng quốc địa phơng đã thúc đẩy
tham vọng độc quyền con đờng buôn bán hơng liệu tới Châu Âu đã buộc ngời
Hà Lan phải đuổi Bồ Đào Nha ra khỏi Ambon ở Môlucku và tàn phá các vơng
quốc ở đó. Do đó vào năm 1609 ngời Hà Lan chiếm đợc Ambon và Técnat từ
tay ngời Bồ rồi tự động xây dựng pháo đài ở Giacácta. Suntan Bantan phản đối
và cầu cứu ngời Anh giúp. Với hành động hèn hạ, bỉ ổi Hà Lan tiến hành tàn
phá thành phố và xây dựng đồn trú, nhà cửa của mình. Giacacta vốn là thành
phố buôn bán trọng điểm của Bantan, tây Giava bị Hà Lan chiếm và đổi thành
Batavia (28/5/1619). Batavia trở thành trung tâm của V.O.C và của Hà Lan ở
vùng này.
Sau khi Giacacta rơi vào tay Hà Lan, Bantan trở thành mục tiêu tiếp
theo của họ bởi đây đợc coi là yết hầu của con đờng thông thơng tới Trung
Quốc và Đông Dơng, Giava sẽ thành nơi có nhiều cảng lớn. Chiếm đợc vùng
này sẽ khống chế đợc con đờng buôn bán với nhiều nớc phơng Đông, thu đợc
nhiều lợi nhuận.

25


×