Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Vận dụng những nội dung cơ bản của phép biênh chứng duy vật vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho học sin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.83 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ ĐĂNG ANH

(Qua kh¶o s¸t mét sè trêng TCCN ë NghÖ An)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2

VINH - 2010


B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH

Lấ NG ANH

(Qua khảo sát một số trờng TCCN ở Nghệ An)

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.10

Ngi hng dn khoa hc:
TS. NGUYN THI SN



4

VINH - 2010


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNDT

:

Chủ nghĩa duy tâm

CNDV

:

Chủ nghĩa duy vật

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh


PBCDV :

Phép biện chứng duy vật

TCCN

Trung cấp chuyên nghiệp

:


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................1
B. NỘI DUNG.......................................................................................8
Chương 1: Phép biện chứng duy vật và vai trò của nó đối với với
việc hình thành phương pháp nhận thức khoa học cho học
sinh trung cấp chuyên nghiệp....................................................8
1.1. Phép biện chứng và Phép biện chứng duy vật..............................8
1.2. Những nội dung cơ bản của PBCDV trong chương trình môn học
Chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp...............................19
1.3. Vai trò của Phép biện chứng duy vật đối với quá trình xây
dựng phương pháp nhận thức khoa học cho học sinh trung cấp
chuyên nghiệp............................................................................22
1.4. Thực trạng vận dụng những nội dung cơ bản của phép biện
chứng duy vật vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa
học cho học sinh.........................................................................44
Chương 2: Thực nghiệm và một số giải pháp nhằm vận dụng những
nội dung cơ bản của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp

nhận thức khoa học cho HS trường TCCN hiện nay..............53
2.1. Thực nghiệm việc vận dụng những nội dung cơ bản củan Phép
biện chứng duy vật vào việc xây dựng phương pháp nhận thức
khoa học cho học sinh.................................................................53
2.2. Một số giải pháp nhằm vận dụng những nội dung cơ bản của phép
biện chứng duy vật vào việc xây dựng phương pháp nhận thức
khoa học cho học sinh trường trung cấp chuyên nghiệp hiện nay86
C. KẾT LUẬN..................................................................................101
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................104


7
E. PHỤ LỤC


8

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được những thành tựu to
lớn trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị, văn hoá, giáo dục,... làm tiền
đề cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhưng những thành
tựu đó vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và thời đại. Vì vậy,
để trở thành một nước công nghiệp, sánh vai với các nước trong khu vực và
trên thế giới thì một trong những nhiệm vụ trọng tâm có tính chiến lược hiện
nay của nước ta là đầu tư phát triển nhân tố con người, tức là đầu tư cho phát
triển của Giáo dục và Đào tạo, nhằm mục đích tạo ra những con người có đủ
năng lực và phẩm chất phục vụ quá trình hội nhập và phát triển. Bởi vậy,
Giáo dục và Đào tạo cùng với Khoa học Công nghệ phải là những bước đột
phá, phải thật sự đầu tư cho các “quốc sách hàng đầu” này.

Được sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân, trong những năm gần đây
ngành Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều khởi sắc, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại
nhiều yếu kém và hạn chế. Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện dạy
học hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh, sinh viên, đặc biệt là rèn luyện nếp tư duy sáng tạo và
xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho người học.
Từ trước đến nay, vấn đề nhận thức luôn là một trong những bộ phận
cơ bản của khoa học triết học. Lý luận nhận thức của Chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định và chỉ rõ về khả năng nhận thức của con người, về sự xuất hiện và
phát triển của nhận thức cũng như về con đường, phương pháp nhận thức
đúng đắn… Hiện tại, vấn đề nhận thức khoa học vẫn đang tiếp tục được


9
nghiên cứu, bổ sung và phát triển nhằm giúp con người ngày càng hoàn thiện
hơn những tri thức của mình về bức tranh thế giới hiện thực để tiến gần hơn
đến chân lý.
Môn Chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp là một khoa học. Môn
học này cung cấp một hệ thống hoàn chỉnh những tri thức khoa học chính trị
được tích hợp từ các môn khoa học chính trị cụ thể như: Triết học Mác - Lênin,
Kinh tế chính trị học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó,
những nội dung thuộc lĩnh vực triết học (cụ thể là nững nội dung của PBCDV)
được chương trình cơ cấu ở phần đầu tiên nhằm mục đích cung cấp thế giới
quan và phương pháp nhận thức khoa học cho HS từ đó làm nền tảng để tiếp
thu những tri thức khác thuộc các khoa học chính trị, những tri thức chuyên
ngành và cao hơn là chỉ đạo mọi hoạt động thực tiễn của HS. PBCDV là khoa
học trong đó bao gồm hệ thống tri thức chung nhất, khái quát nhất của con

người về thế giới, những tri thức khoa học đó mang tính liên hoàn, trừu tượng
hoá và khái quát hoá rất cao. Do đó, việc giảng dạy và học tập những tri thức
đó là việc làm không hề đơn giản, đòi hỏi cả người dạy và người học phải có
nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò và ý nghĩa của bộ môn, trong quá trình
giảng dạy và học tập phải tuân thủ hệ thống các nguyên tắc khoa học và
phương pháp hợp lý để đạt hiệu quả cao.
Thực tế cho thấy, việc giảng dạy môn Chính trị nói chung, vận dụng
những nội dung cơ bản của PBCDV trong môn Chính trị nói riêng ở trường
trung cấp đã đạt được những kết qủa khá to lớn, đã đảm bảo được mục tiêu và
nhiệm vụ chương trình, bước đầu xây dựng được ý thức, tình cảm chính trị
đúng đắn cho học sinh... Song việc giảng dạy và học tập những nội dung của
PBCDV, việc vận dụng những nội dung cơ bản của PBCDV vào việc xây
dựng phương pháp nhận thức khoa học cho HS vẫn còn những hạn chế và yếu


10
kém. Đó là sự tiếp thu tri thức của môn học một cách mơ hồ, rời rạc, thụ
động, xơ cứng, máy móc của học sinh. Thậm chí, có lúc những tri thức khoa
học của môn học còn bị tầm thường và đơn giản hoá, do đó khó hoàn thành
được mục tiêu của môn học là cung cấp cho học sinh thế giới quan và phương
pháp nhận thức khoa học chung nhất để người học tiếp cận những tri thức
khoa học chuyên ngành và vận dụng vào các hoạt động thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Vận
dụng những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật vào việc xây
dựng phương pháp nhận thức khoa học cho học sinh thông qua việc giảng
dạy môn Chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp hiện nay (qua khảo
sát một số trường trường trung cấp chuyên nghiệp ở Nghệ An)".
2. Tình hình nghiên cứu
- Chúng ta đã từng biết đến A.P.Séptulin với tác phẩm nổi tiếng:
"Phương pháp nhận thức biện chứng", Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà

Nội 1987. Công trình đề cấp nhiều đến những vấn đề cốt lõi của triết học duy
vật biện chứng, vấn đề nhận thức luận và các phương pháp biện chứng để
nhận thức thế giới; lý luận và phương pháp nhận thức biện chứng; phương
pháp biện chứng và các phương pháp nhận thức chuyên môn, khoa học
chung; tính quy luật liên hệ lẫn nhau giữa các hình thức tư duy theo phương
pháp biện chứng.
- Trần Viết Quang "Giảng dạy triết học với việc bồi, rèn luyện năng
lực tư duy biện chứng cho sinh viên sư phạm ở nước ta hiện nay", Luận án
tiến sĩ; GS.TSKH. Nguyễn Cảnh Toàn, (1997) Phương pháp luận duy vật
biện chứng với việc học, dạy và nghiên cứu toán học", Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội; TS. Nguyễn Đình Trãi - Luận án tiến sĩ: "Nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho cán bộ giảng viên lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị
tỉnh"; Vũ Văn Viên: "Rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy khoa học cho sinh


11
viên, học sinh", Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 2/1992;
Nguyễn Thanh Hưng "Góp phần rèn luyện và phát triển tư duy biện chứng
thông qua dạy học hình học ở trường trung học phổ thông", Luận văn thạc sĩ
Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Vinh, 2003; Hoàng Thúc Lân: “Giảng
dạy triết học Mác - Lênin với viện nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho
sinh viên các trường đại học", Luận văn thạc sĩ triết học, Học Viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2004,... Các công trình đã tập trung phân tích
sự cần thiết rèn luyện tư duy khoc học cho học sinh trung học phổ thông và
sinh viên cao đẳng, đại học. Các công trình này cũng nhấn mạnh vai trò của
triết học Mác - Lênin và các khoa học cụ thể trong việc rèn luyện, bồi dưỡng
tư duy cho học sinh, sinh viên.
Như vậy, do tầm quan trọng của vấn đề, từ rất lâu trong lịch sử các nhà
khoa học cả trong nước và trên thế giới đã quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu.
Nhìn chung các tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ quá trình hình thành, phát

triển, nội dung, ý nghĩa về mặt nhận thức và thực tiễn của PBCDV; cơ sở của
việc cần thiết phải đưa những nội dung cơ bản của PBCDV vào giảng dạy cho
học sinh, sinh viên nói chung, học sinh trường trung cấp chuyên nghiệp nói
riêng. Song một vấn đề khá quan trọng là làm thế nào để vận dụng một cách
có hiệu quả những nội dung cơ bản của PBCDV vào việc xây dựng phương
pháp nhận thức khoa học cho HS thông qua việc giảng dạy bộ môn Chính trị
ở trường TCCN hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài xác lập những cơ sở lý luận và thực tiễn để từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm vận dụng có hiệu quả những nội dung cơ bản của PBCDV vào
việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho HS thông qua việc giảng
dạy bộ môn Chính trị ở trường TCCN hiện nay.


12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đề ra, chúng tôi dự kiến nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài như sau:
- Xác định những nội dung lý luận cơ bản của PBCVD nói chung và
những nội dung của PBCDV được tích hợp trong chương trình môn Chính trị
ở trường TCCN nói riêng.
- Xác định sự cần thiết phải xây dựng phương pháp nhận thức khoa học
cho học sinh ở trường trung học chuyên nghiệp hiện nay.
- Xác định vai trò, ý nghĩa của việc vận dụng những nội những cơ bản
của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho HS
thông qua việc giảng dạy bộ môn Chính trị ở trường TCCN hiện nay.
- Đề tài tiến hành khảo sát thực trạng giảng dạy và học tập môn Chính
trị nói chung việc vận dụng những nội dung cơ bản của PBCDV trong việc
xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho học sinh nói riêng ở một số

trường trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh - Nghệ An.
- Đề tài tiến hành thực nghiệm sư phạm tại Trường trung cấp Kinh tế
Kỹ thuật Công nghệ Việt - Anh, thành phố Vinh, Nghệ An.
- Đề xuất các giải pháp nhằm vận dụng có hiệu quả những nội dung cơ
bản của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho HS
trường trung cấp chuyên nghiệp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khai thác và vận dụng những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy
vật vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho học sinh thông qua
việc giảng dạy bộ môn Chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài không nghiên cứu những nội dung của PBCDV mà tập trung
khai thác nhằm vận dụng những nội dung cơ bản của PBCDV trong chương


13
trình môn Chính trị ở trường trung cấp chuyên nghiệp để xây dựng phương
pháp nhận thức khoa học cho học sinh.
- Đề tài tập trung nghiên cứu những giải pháp nhằm xây dựng phương
pháp nhận thực khoa học dành riêng cho học sinh trung cấp chuyên nghiêp
(không áp dụng cho sinh viên Đại học và Cao đẳng)
- Đề tài tiến hành khảo sát thực trạng giảng dạy và học tập môn Chính
trị nói chung việc vận dụng những nội dung cơ bản của PBCDV trong việc
xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho học sinh nói riêng ở các
trường trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh - Nghệ An. Đề
tài tiến hành thực nghiệm sư phạm tại Trường trung cấp Kinh tế Kỹ thuật
Công nghệ Việt - Anh, thành phố Vinh, Nghệ An.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp biện chứng: Đề tài sử dụng các phương pháp trừu tượng

hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp để nghiên cứu và vận dụng những nội
dung cơ bản của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học
cho học sinh trung cấp chuyên nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản: đọc, nghiên cứu và phân tích một
số tài liệu, văn bản liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài.
- Phương pháp khảo sát, điều tra tìm hiểu thực tế: khảo sát tình hình
giảng dạy và học tập môn Chính trị và vận dụng những nội dung cơ bản của
PBCDV của giáo viên ở một số trường TCCN trên địa bàn thành phố Vinh,
Nghệ An.
- Phương pháp quan sát: quan sát và theo dõi quá trình giảng dạy của
giáo viên và quá trình học tập của học sinh trên lớp.
- Phương pháp toán thống kê: phân tích kết quả điều tra và kết quả
kiểm tra, phiếu điều tra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng thông qua các
mẫu điều tra.


14
- Phương pháp thực nghiệm: Đề tài sẽ tiến hành thực nghiệm việc vận
dụng những nội dung cơ bản của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp
nhận thức khoa học cho học sinh ở một trường trường trung cấp chuyên
nghiệp trên địa bàn thành phố Vinh - Nghệ An.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Chính
trị ở trường TCCN hiện nay;
- Luận văn có thể là nguồn tư liệu tham khảo đối với các giáo viên dạy
môn Chính trị và sinh viên ngành Giáo dục Chính trị;
- Luận văn góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại trong việc vận
dụng những nội dung cơ bản của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp
nhận thức khoa học cho học sinh trường trung cấp chuyên nghiệp hiện nay.
8. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, mục lục và tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Phép biện chứng duy vật và vai trò của nó đối với với
việc hình thành phương pháp nhận thức khoa học cho học sinh trung cấp
chuyên nghiệp
Chương 2: Thực nghiệm và một số giải pháp vận dụng những nội dung
cơ bản của PBCDV vào việc xây dựng phương pháp nhận thức khoa học cho
HS trường TCCN hiện nay.


15

B. NỘI DUNG
Chương 1
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆC HÌNH THÀNH PHƯƠNG PHÁP NHẬN THỨC
KHOA HỌC CHO HỌC SINH TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
1.1. Phép biện chứng và Phép biện chứng duy vật
1.1.1. Phép biện chứng
- Khái niệm phép biện chứng
Biện chứng trong triết học Mác - Lênin là khái niệm dùng để chỉ những
mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa phản ánh sự tồn tại, vận động và phát triển
theo qui luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan (biện chứng của thế giới vật
chất) và biện chứng chủ quan (là sự phản ánh biện chứng khách quan trong
hoạt động tinh thần của con người). Như vậy, thế giới vật chất là vô hạn,
nhưng lại được thể hiện thông qua vô số các sự vật, hiện tượng, quá trình hữu
hạn. Trong thế giới đó, mỗi sự vật, hiện tượng vừa độc lập, tách biệt tương
đối vừa liên hệ qua lại với nhau, luôn biến đổi, phát triển không ngừng; thế
giới tưởng chừng như một mớ hốn độn các sự vật hiện tượng ngẫu nhiên

nhưng lại tự vạch phương hướng phát triển cho mình theo những quy luật
khách quan. Những tính chất cố hữu ấy của thế giới được gọi là biện chứng
khách quan.
Như vậy, về bản chất thế giới là biện chứng, ở cấp độ nhất định, tính
biện chứng của thế giới là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học khác
nhau. Triết học nghiên cứu những tính chất biện chứng chung nhất của thế
giới, chúng được khái quát thành khoa học gọi là Phép biện chứng.
Phép biện chứng, là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của
thế giới thành hệ thống các nguyên lý, qui luật, phậm trù khoa học nhằm xây


16
dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Theo nghĩa đó, Phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, nó đối lấp với
Phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng trong trạng thái
tách bạch và bất biến.
Kết cấu Phép biện chứng bao gồm thế giới quan (hệ thống những quan
điểm duy vật hoặc duy tâm về thế giới) và phương pháp luận (nguyên tắc
phương pháp luận về nhận thức và hoạt động thực tiễn). Chính vì vậy khi
nghiên cứu các hình thức cơ bản của Phép biện chứng chúng ta sẽ thấy được
sự khác nhau căn bản giữa các hình thức lịch sử của nó.
- Lịch sử hình thành và phát triển của phép biện chứng
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu
hình. Lịch sử Phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có
lúc bị Phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của
mình, Phép biện chứng mà đỉnh cao là PBCDV đã khẳng định vị trí của mình
là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và
không phiến diện. Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản:
Phép biện chứng chất phác cổ đại; Phép biện chứng duy tâm của Hêghen và

Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Phép biện chứng chất phác cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện
chứng trong lịch sử triết học. Phép biện chứng này xuất hiện và phát triển
trong các trường phái triết học Trung Quốc, Ấn Độ, và Hy Lạp cổ đại.
Tư tưởng biện chứng của các nhà triết học Trung hoa cổ đại được thể
hiện rất đặc sắc ở “Biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, qui luật
phổ biến trong vũ trụ là Thái dương - Thái âm trong Thái cực) và “Ngũ hành
luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản
thể trong vũ trụ là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ) của Âm dương gia. Theo


17
các học thuyết này thì Âm Dương - Ngũ hành là hai phạm trù cơ bản, là
những khái niệm có tính khái quát, trừu tượng đầu tiên trong quan niệm của
cổ nhân về sự sản sinh, biến hoá của vũ trụ. Đây cũng là một bước tiến bộ,
hình thành quan niệm duy vật và biện chứng sơ khai về vũ trụ của người trung
Hoa cổ đại.
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn
vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau,
nhưng tương tác với nhau. Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà
trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc với nhau theo các nguyên tắc
“tương sinh” và “tương khắc”. Tương sinh (sinh hoá cho nhau): Thổ sinh
Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, v.v…
“Ngũ hành tương sinh” là quá trình các yếu tố tác động, chuyển hoá cho nhau,
tạo ra sự biến chuyển liên hoàn trong vũ trụ. Đất sinh ra các thể rắn biến thành
kim loại. Kim loại nóng chảy sinh ra nước. Thủy là nguồn gốc của sự sống
của gỗ. Gỗ cháy sinh ra lữa. Lửa thiêu cháy mọi sinh vật sinh ra đất, v.v…
Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hoả, Hoả
khắc Kim, Kim khắc Mộc, và Mộc khắc Thổ, v.v… “Ngũ hành tương khắc”
là quá trình các yếu tố ngũ hành đối lập, tạo ra sự ràng buộc chế ước lẫn nhau

giữa chúng. Thủy khắc Hoả vì nước lạnh làm hạ nhiệt và dập tắt lửa. Hoả
khắc Kim vì lửa làm nóng chảy, biến dạng kim loại và các thể rắn. Kim khắc
Mộc vì vì kim khí có thể cưa, chặt cây cối. Mộc khắc Thổ vì rễ cây ăn sâu vào
đất, v.v…
Trong triết học Ấn Độ cổ đại Tư tưởng biện chứng là tư tưởng về “Vô
ngã”, “Vô thường”, “Nhân duyên”. Tư tưởng này được thể hiện tập trung
trong thế giới quan và nhân sinh quan của Phật giáo. Khi luận giải những vấn
đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật giáo đã đề cập tới
hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của Phép biện chứng, với tư cách là


18
học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự biến đổi của mọi tồn tại.
Thế giới quan triết học Phật giáo và những tư tưởng biện chứng của nó được
thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô thường và nhân quả.
Vô ngã: là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập
với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo
đưa ra những nguyên lý về mối liên hệ tất định, phổ biến: không có cái nào là
biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau.
Vô thường: nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái
gì đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là sinh - trụ - dị - diệt.
Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế
giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định
và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người thời kỳ cổ
đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình thành
các tư tưởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tư duy triết học thời kỳ này cũng
bộc lộ nhiều hạn chế như: coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay
phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina.
+ Bước phát triển cao của phép biện chứng chất phác cổ đại được thể

hiện trong triết học Hy Lạp cổ đại, cụ thể là thông qua hệ thống triết học
Arixtốt về các hình thức của tư duy biện chứng hoặc của Hêracơlít về sự tồn
tại, vận động và biến đổi của các sự vật và hiện tượng,… thừa nhận sự tồn tại
của sự vật, hiện tượng thông qua những mối liên hệ, sự vận động, sự thay đổi,
chuyển hoá cho nhau. Với những cống hiến to lớn của các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại, Ăngghen đã đánh giá: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là
những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất
trong các nhà triết học ấy cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất
của tư duy biện chứng... cái thế giới ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực


19
chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần
đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại đồng
thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay
đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong” [21; 34-35]. Phép biện
chứng cổ đại là phép biện chứng nguyên thủy, ngây thơ, cơ bản đã nhận thức
đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực giác, chất phác, chưa
đạt đến kết quả của những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Hạn chế
đó do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó phải nói đến tính lịch sử của sự
phát triển khoa học thời kỳ này.
+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức của các nhà triết học duy tân,
tiêu biểu là Cantơ và Hêghen. Lần điều tiên Phép biện chứng được các nhà
triết học trình bày một cách có hệ thống với nội dung và hình thức phong
phú. Về hình thức Phép biện chứng của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực
logic thuần túy, biện chứng tự nhiên và biện chứng lịch sử. Về nội dung,
Hêghen chia phép biện chứng của mình thành tồn tại (cái vỏ bên ngoài, trực
tiếp, con người có thể cảm giác và được cụ thể hóa bằng các phạm trù
“chất”, “lượng” và “độ” ), bản chất (tầng gián tiếp của thế giới, không thể
cảm giác, được thể hiện trong các cặp phạm trù “hiện tượng - bản chất”, “nội

dung - hình thức”, “khả năng - hiện thực”...) và khái niệm (là sự thống nhất
giữa tồn tại và bản chất, được thể hiện trong các phạm trù “cái phổ biến”,
“cái đặc thù”, “cái đơn nhất” ). Trong phép biện chứng của mình Hêghen
cho rằng thế giới luôn phát triển, luôn chuyển hóa từ cái trừu tượng sang cái
cụ thể, từ chất này sang chất khác được thực hiện nhờ giải quyết mâu thuẫn,
phát triển là sự tự phát triển. Tuy nhiên, Phép biện chứng cổ điển Đức vẫn
mắc phải những hạn chế nhất định, những kết luận của phép biện chứng này
là những phỏng đoán tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện chứng
của khái niệm” [20; 209].


20
Tính chất duy tâm của phép biện chứng này được thể hiện ở quan điểm
cơ bản coi biện chứng của thế giới khách quan là sự phát triển của “ý niệm
tuyệt đối”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan.
Theo Hêghen, quá trình phát triển được bắt đầu từ “ý niệm tuyệt đối” tự tha
hoá thành tự nhiên, xã hội và tư duy, sau đó lại trở về với ý niệm tuyệt đối.
“Tinh thần, tư tưởng, ý niện là cái có trước còn thế giới hiện thực chr là một
bản sao chép của ý niệm” [19; 492-493]. “Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn
đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là có thể phát hiện được các hạt nhân hợp
lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó” [19; 494].
Từ nhu cầu khắc phục tính chất duy tâm và những hạn chế của triết học
Hêghen, trên cơ sở của những “hạt nhân hợp lý”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
sáng tạo nên Phép biện chứng duy vật.
1.1.2. Phép biện chứng duy vật
- Khái niệm Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời là kế thừa trên tinh thần phê phán có
chọn lọc phép biện chứng trước đó. Ph.Ăngghen tự nhận xét: “có thể nói rằng
hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng thoát khỏi
triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và

về lịch sử” [19; 22]. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế
giớ quan duy vật và phương pháp luận biện chứng, giữa lý luận nhận thức và
với logic biện chứng. Sự ra đời của PBCDV là cuộc cách mạng rong phương
pháp tư duy triết học, đây là phương pháp tư duy khác về chất so với phương
pháp tư duy siêu hình trước đây.
Với những khía cạnh khác nhau, PBCDV đã được các nhà sáng lập ra
nó định nghĩa ở những góc độ khác nhau. Khi nhấn mạnh vai trò của mối liên
hệ phổ biến, Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là khoa học về sự liên
hệ phổ biến” [19; 451] và khi nhấn mạnh vai trò của các qui luật Ông khẳng


21
định “Phép biện chứng... là môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” [19;
201]; còn khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển, V.I.Lênin
khẳng định: “Phép biện chứng là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức
hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiếm diện, học thuyết về tính tương đối
của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển
không ngừng” [20; 53]. Từ những định nghĩa của các nhà kinh điển, có thể
kết luận: PBCDV là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về
những qui luật chung nhất của sự vận động, phát triển của giới tự nhiên, xã
hội và tư duy.
- Lịch sử hình thành, phát triển và đặc trưng của Phép biện chứng
duy vật
* Vài nét về lịch sử hình thành, phát triển của Phép biện chứng duy vật:
vào những năm 40 của thế kỷ XIX, PBCDV đã được C.Mác và Ph.Ăngghen
sáng lập nên, sau đó được Lênin phát triển và hoàn thiện vào đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng
của C.Mác và Ph.Ăngghen là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp, dựa trên
các tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên.

Tiền đề kinh tế - xã hội: đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong của nó,
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Nhiều phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân nổ ra song còn mang tính
chất tự phát, thiếu tổ chức, điều này đòi hỏi phải có một vũ khí lý luận sắc bén
soi đường cho cuộc đấu tranh cách mạng này. Chủ nghĩa Mác nói chung và
triết học Mác nói riêng ra đời đáp ứng yêu cầu đó.
Tiền đề lý luận: Triết học Mác - Lênin ra đời trên cơ sở kế thừa và phát
triển các giá trị tư tưởng triết học tiến bộ của nhân loại, đặc biệt Phép biện


22
chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phơbách là một trong những tiền
đề lý luận trực tiếp của triết học Mác.
Tiền đề khoa học tự nhiên: Ba phát minh “vạch thời đại”, của khoa học
tự nhiên thời kỳ này là Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, Học
thuyết về tế bào và Thuyết tiến hoá đã đặt ra yêu cầu phải khái quát về mặt
triết học để chỉ ra các mối liên hệ giữa các quá trình diễn ra trong tự nhiên,
trên cơ sở đó nhận thức đúng đắn và toàn diện về bản chất của các quá trình
phát triển đó. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn
bộ những thành tựu của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên Chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
* Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học, đó là cho ra đời một hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và hình thức cao của phép biện chứng là PBCDV.
Nếu như các quan điểm triết học trước Mác mới chỉ dừng lại ở thế giới quan
duy vật siêu hình hay biện chứng duy tâm thì đến giai đoạn Mác - Ăngghen,
lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng được xây dựng dựa trên
lập trường duy vật triệt để về tự nhiên và xã hội.

Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là
một quá trình phát triển không ngừng. Từ cuối năm 1843 đến năm 1848 đánh
dấu bước chuyển của C.Mác và Ph.Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy
tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tác phẩm “Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói đầu” vào cuối năm
1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật biện chứng sâu sắc. Cuối
năm 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia đình thần
thánh”, “Chống Brunô Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng và


23
duy vật lịch sử. Mùa xuân năm 1845, Mác viết tác phẩm “Luận cương về
Phơbách”, qua đó C.Mác phê phán những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật
Phơbách cũng như những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác nói
chung. Đó là sự phê phán có tính kế thừa của Mác để tiến đến chủ nghĩa duy
vật mới - chủ nghĩa duy vật biện chứng. Năm 1845 - 1846, C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, đánh dấu bước tiến
mới của Mác và Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm “Chống
Đuyrinh” của Ph.Ăngghen được viết vào năm 1876 - 1878 là một trong
những tác phẩm quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của triết học Mác.
Trong tác phẩm, lần đầu tiên Ph.Ăngghen trình bày hoàn chỉnh thế giới quan
mácxít về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Qua tìm hiểu một
số tác phẩm kinh điển của C.Mác và Ph.Ăngghen có thể thấy rằng sự hình
thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen là một quá
trình tự đấu tranh gian khổ để từ bỏ lập trường triết học duy tâm chuyển sang
lập trường triết học duy vật biện chứng.
Chúng ta biết, PBCDV là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp luận biện chứng. Nó không chỉ khái quát các thành tựu

của tất cả các khoa học cụ thể mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình
phát triển tư tưởng triết học nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một
cách có hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những
nguyên lý, phạm trù và những quy luật chung nhất, bao gồm các nội dung cơ
bản sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát những mối liên hệ phổ
biến của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Vì vậy, quán triệt quan điểm
toàn diện là nguyên tắc phương pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi hoạt động
và suy nghĩ của con người. Quan điểm toàn diện đối lập với mọi suy nghĩ và


24
hành động phiến diện, chiết trung, siêu hình.
- Nguyên lý về phát triển phản ánh đặc trưng biện chứng phổ quát nhất
của thế giới. Vì vậy, quán triệt quan điểm phát triển là nguyên tắc chung nhất
chỉ đạo mọi hành động và suy nghĩ của con người. Yêu cầu của nguyên tắc
này đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự vận động, biến đổi và phát triển của
nó, phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức được cái mới
và ủng hộ cái mới.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của PBCDV là sự cụ thể hoá
thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển.
- Các cặp phạm trù: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản
chất-hiện tượng giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu
được toàn bộ các mối liện hệ theo một hệ thống nhất định.
- Các cặp phạm trù: nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ
sở phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự
phát triển là một quá trình tự nhiên.
- Cặp phạm trù nội dung - hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa
dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương
pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn
diện, quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của
PBCDV. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng; phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng.
- Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến
đổi về chất và ngược lại phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là


25
đi từ những biến đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn “độ” thì gây ra sự
biến đổi về chất ở “điểm nút”, thông qua “bước nhảy” và ngược lại.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng và xu thế
phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ trong quá
trình phát triển. Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa có
chọn lọc.
Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của C.Mác và
Ph.Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế
thừa có phê phán di sản lý luận của loài người, vừa là kết quả nghiên cứu, tiếp
thu có chọn lọc các thành tựu khoa học. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật của
thời đại đã chứng minh tính đúng đắn của PBCDV và nâng nó lên thành đỉnh
cao của phép biện chứng. Mặc dù vậy, các nguyên lý của PBCDV cần tiếp tục
được thực tiễn kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Lênin và các đảng macxít
đã đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử đó bằng việc bảo vệ và phát triển triết học Mác
trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
* Giai đoạn V.I.Lênin bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật mácxít
Tiếp sau C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin đã đưa PBCDV phát triển lên
một tầm cao mới. Trong tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ

đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao?”, Lênin đã đấu tranh
quyết liệt chống các quan điểm siêu hình của phái Dân tuý trong việc nhận
thức các hiện tượng xã hội để bảo vệ và phát triển phép biện chứng duy vật.
Với tác phẩm “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán
trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”, Lênin đã phát triển làm
phong phú thêm nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng về mối liên
hệ hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Tác phẩm còn phân tích sâu sắc những
nguyên lý quan trọng khác của Chủ nghĩa duy vật biện chứng như nguyên lý về
mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan, về tính toàn diện, tính lịch sử cụ thể
trong nhận thức các hiện tượng của thế giới bên ngoài.


×