Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Vận dụng phương pháp sử dụng tài liệu học tập để nâng cao năng lực tự học môn chính trị của học sinh các trường trung họ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.84 KB, 90 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
--------------

Phan thu hà

vận dụng phơng pháp HƯớNG Dẫn sử dụng tài liệu
học tập để nâng cao năng lực tự học môn chính trị
của học sinh các trờng trung HọC chuyên nghiệp
(qua khảo sát tại trờng trung cấp
kinh tế, kỹ thuật, công nghệ Việt - Anh (Nghệ An))
Chuyên nhành: Lý luận và phơng pháp dạy học bộ môn chính trị
Mã số: 60.14.11

Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Ngời hớng dẫn khoa học: pgs.ts. Đoàn minh duệ

Vinh - 2008


2

A - Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã đa nhân loại bớc vào
một kỷ nguyên mới với nền văn minh của làn sóng thứ ba - nền văn minh
hậu công nghiệp, văn minh tin học, con ngời đã đạt đợc những thành tựu vô
cùng lớn lao trong các lĩnh vực khoa học điện tử, kỹ thuật hạt nhân, công nghệ
sinh học, công nghệ genCùng với sự phát triển thần kỳ đó, bên cạnh những


thuận lợi to lớn cũng đặt ra cho các nớc trên thế giới những khó khăn và thách
thức to lớn, nhất là đối với các nớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Một trong những thách thức lớn nhất của Việt Nam là phải đào tạo ra những
con ngời có đạo đức, có trí tuệ, có kỹ năng lao động để sẵn sàng tiếp thu có
sáng tạo kỹ thuật công nghệ tiên tiến nhất, góp phần vào sự nghiệp phát triển
của đất nớc.
Sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới, mặc dù đã đạt đợc một số thành tựu
cơ bản trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội làm tiền đề cho quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, nhng những thành tựu đó vẫn cha
đáp ứng những yêu cầu phát triển của thời đại, do vậy, nớc ta vẫn đứng trớc
nguy cơ bị tụt hậu. Vì vậy, để có thể trở thành một nớc công nghiệp, sánh vai
với các nớc trong khu vực và trên thế giới thì một trong những nhiệm vụ trọng
tâm có tính chiến lợc hiện nay của nớc ta là đầu t phát triển nhân tố con ngời,
tức là đầu t phát triển cho giáo dục và đào tạo, để nhằm mục đích tạo ra những
con ngời có đủ năng lực và phẩm chất phục vụ cho quá trình hội nhập và phát
triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, đã xác định Giáo dục và Đào tạo là
quốc sách hàng đầu.
Một trong những vấn đề cấp bách nhất hiện nay là phải đổi mới toàn
diện giáo dục và đào tạo, trong đó đổi mới phơng pháp dạy học và nhằm mục
đích Đổi mới mạnh mẽ phơng pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền


3
thù một chiều, rèn luyện nếp t duy sáng tạo của ngời học, từng bớc áp dụng
các phơng pháp tiên tiến và phơng tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học,
đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh
viên Đại học, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thờng xuyên và
rộng khắp trong toàn dân nhất là thanh niên [19;71].
Tại Hôi nghị của ngành Giáo dục và Đào tạo tháng 8 năm 2006, Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát động phong trào chống tiêu cực trong thi cử và bệnh

thành tích trong toàn ngành giáo dục, đồng thời hãy nói không với đọc - chép.
Đọc chép trong dạy học là phơng pháp dạy học mà thầy đọc - trò chép, thầy
giảng - trò nghe, học sinh không sử dụng đến tài liệu học tập, không biết sử
dụng để làm gì? Sử dụng nh thế nào? Kết quả là đã cho ra lò những sản phẩm
trì trệ, thụ động, lời t duy, không đáp ứng đợc yêu cầu của sự phát triển.
Để thực hiện Nghị quyết của BCHTW Đảng đã đề ra, trong thời gian
qua, vấn đề đổi mới phơng pháp dạy học ở trong các loại hình nhà trờng đã đợc nghiên cứu và bắt đầu ứng dụng trong thực tiễn giảng dạy theo hớng nâng
cao trình độ chuyên môn của ngời dạy và phát huy cao độ vai trò chủ thể tích
cực, độc lập, sáng tạo của ngời học.
Hiện nay, việc dạy và học các môn lý luận chính trị và các môn khoa
học Mác- Lênin trong các trờng Trung cấp, Cao đẳng, Đại học nói chung và
Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An) nói
riêng đã sử dụng nhiều phơng pháp nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh, sinh viên nhng kết quả vẫn cha đạt đợc nh mong muốn, sở dĩ nh vậy
là do các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phơng pháp truyền thụ tri thức của giáo viên các môn học này
vẫn theo lối truyền thống, giáo viên đọc trò chép là phổ biến, nhất là ở các trờng trung học nên không phát huy tốt năng lực t duy khoa học của học sinh.
Giáo viên cũng không có biện pháp yêu cầu học sinh phải kết hợp sử dụng


4
giáo trình, tài liệu tham khảo trong khi học. Vì vậy, học sinh thờng ỷ lại vào
bài giảng của giáo viên, không chủ động đi tìm tài liệu học tập mà chỉ
học những gì giáo viên cung cấp trên lớp và tiếp thu một cách thụ động.
Thứ hai, các môn lý luận Mác- Lênin ở các trờng Đại học, Cao đẳng và
môn Chính trị ở các trờng Trung cấp chuyên nghiệp đã trở thành một trong
những môn thi điều kiện tốt nghiệp, nhng trong nhận thức và suy nghĩ thì học
sinh chỉ coi đây là môn học phụ. Do đó, trong quá trình học, học sinh chỉ học
một cách đối phó, thụ động, hời hợt. Đa số học sinh học chay mà không sử dụng
giáo trình tài liệu, lên lớp các em chỉ ghi chép những gì mà các thầy giáo, cô giáo

truyền thụ.
Thêm nữa, đặc thù tri thức của môn Lý luận chính trị mang tính khái
quát, trừu tợng cao đã không tạo đợc hứng thú ban đầu đối với học sinh, nếu
giáo viên không sử dụng các phơng pháp dạy học tích cực theo một quy trình
cụ thể thì dễ tạo cho các em sự nhàm chán, thiếu hấp dẫn.
Hơn nữa, yêu cầu của xu thế thời đại, đòi hỏi các quốc gia phải phát
triển đồng bộ, toàn diện, phải đào tạo ngời lao động có kiến thức vừa sâu, vừa
tiên tiến. Vì thế, để phát triển nguồn lực con ngời thì cần phải đầu t phát triển
giáo dục và đào tạo; khắc phục đổi mới phơng pháp dạy học cũ bằng phơng
pháp dạy học mới nhằm rèn luyện t duy sáng tạo, phát huy tính tích cực, chủ
động cho ngời học.
Thực tế cho thấy, việc giảng dạy môn Chính trị ở một số trờng trung
cấp đã sử dụng các phơng dạy học pháp khác nhau, nhằm phát huy tính tích
cực học tập của học sinh, nhng kết quả cha cao, vì giáo viên vẫn sử dụng cách
dạy truyền thống đọc, chép, dẫn đến hiệu quả thấp; học sinh thụ động, lệ
thuộc vào giáo viên, cha hứng thú đối với môn học, không chủ động tìm tòi
kiến thức ở giáo trình và những tài liệu liên quan đến môn học.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự phát triển đa dạng của thông tin đại
chúng bên cạnh những tài liệu tham khảo còn có thông tin trên các phơng


5
tiện... vì vậy, giáo viên không chỉ tìm tòi sử dụng các tài liệu học tập có
liên quan đến kiến thức cần truyền thụ, mà còn hớng dẫn học sinh tìm tòi
từ các nguồn tài liệu bổ trợ khác. Từ đó, có thể giúp cho ng ời học chủ
động sáng tạo và phát huy đợc tính tích cực học tập, mang lại hiệu quả học
tập cao.
Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: "Vận dụng phơng pháp hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập để nâng cao năng lực tự học môn Chính
trị của học sinh các trờng trung cấp chuyên nghiệp (Qua khảo sát tại Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An))".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2.1. Tình hình nghiên cứu ở các nớc trên thế giới
Trong lịch sử phát triển giáo dục, tổ chức quá trình học tập theo hớng
tăng cờng tính tự lực của học sinh là vấn đề đợc quan tâm của nhiều nhà giáo
dục trên thế giới. ở Pháp, vào năm 1920 đã hình thành những "nhà trờng
mới", đặt vấn đề phát triển năng lực trí tuệ của học sinh, khuyến khích các
hoạt động do chính học sinh tự quản. Xu hớng này đã có ảnh hởng đến nớc
Mỹ và nhiều nớc ở Châu Âu.
K.Max đã từng nói: "Trong ý nghĩa thực tiễn, con ngời là tổng hoà của
những mối quan hệ xã hội". Sự phát triển của những mối quan hệ xã hội chịu
sự tác động, chi phối của những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định, có tính
khách quan và luôn luôn là đối tợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học,
trong đó có khoa học giáo dục.
Cũng ở Pháp, sau đại chiến thế giới thứ II, đã ra đời "lớp học mới" tại
một số trờng trung học thí điểm. Mọi hoạt động đều tuỳ thuộc vào sáng kiến,
hứng thú, lợi ích, nhu cầu của học sinh. Giáo viên là ngời giúp đỡ, phối hợp
các hoạt động của học sinh, hớng vào sự phát triển nhân cách của trẻ. Tại đây,
Luật định hớng giáo dục 10 năm (1989) đã khẳng định: "Về nguyên tắc, mọi
hoạt động giáo dục đều phải lấy học sinh làm trung tâm".


6
Vào nửa sau thế kỷ XX, một số nớc xã hội chủ nghĩa nh Liên Xô (cũ),
Ba Lan, Tiệp Khắc, Cộng hoà dân chủ Đức đã bắt đầu đặt vấn đề cần thiết
phải tích cực hoá quá trình dạy học, trong đó những khái niệm không đợc
cung cấp dới dạng có sẵn, mà phải dẫn dắt học sinh đi tới khái quát bằng con
đờng độc lập nghiên cứu, giúp ngời học chủ động tích cực, chủ động tìm kiếm
tri thức cần thiết thông qua các hoạt động học tập.
Montaigne (1533- 1592) chuyên nghiên cứu về ký luận đặc biệt là việc
giáo dục, đã đề ra phơng pháp dạy học: Học qua hành. Ông cho rằng:
Muốn đạt đợc mục tiêu này, tốt nhất kiến hiệu nhất là bắt trò liên tục hành để

học, học qua hành. Vì vậy, vấn đề không phải là giảng dạy một cách giáo
điều, thầy nói liên tục, thao thao bất tuyệt. Trái lại, chủ yếu là bắt trò hoạt
động, vận dụng khả năng xét đoán của mình [9;152].
Viện sĩ Viện Hàn lâm Giáo dục Nga G.G. Granhik, lãnh đạo nhóm
"Xây dựng SGK" của Viện Tâm lý thuộc Viện Hàn lâm Giáo dục Nga trong
cuộc Hội thảo bàn tròn với chủ đề "Những vấn đề SGK" do tạp chí
Pedagogika của Viện Hàn lâm Giáo dục Nga tổ chức vào năm 1999 đã khẳng
định: "ở buổi giao thời thế kỉ này, vấn đề xây dựng SGK dạng mới là quan
trọng nhất. Nhóm xây dựng SGK Viện Tâm lý đang nghiên cứu vấn đề thay
đổi chức năng SGK. Sách trớc hết quy định hai chức năng: thông báo - củng
cố kiến thức thu thập ở lớp và luyện tập. Quan niệm đó tồn tại cho đến nay nh
SGK gồm những tài liệu để giáo viên sử dụng các biện pháp dạy học, thuyết
giảng tại lớp, dùng những bài tập để luyện tập củng cố kiến thức và hình thành
một số kỹ năng xác định. Nhng nay SGK cần đổi mới, phải giúp giáo viên
hình thành và phát triển các hoạt động tâm lý học sinh nh sự quan sát, chú ý,
biểu tợng, sự tự kiểm tra, t duy, trí nhớ, kích thích và trợ giúp hứng thú nhận
thức của các em, đặc biệt coi trọng vấn đề học sinh làm việc với sách trên lớp.
Sách có hai bớc giới thiệu tài liệu: bắt đầu là đặt vấn đề, tiếp đó là giải thích
minh hoạ nhng phải chọn lọc, không quá tải. Bởi vậy, sách phải đa dạng, đa


7
chức năng và sinh động, linh hoạt, chú ý đa yếu tố học tập cá thể hoá để học
sinh tự tìm kiếm kiến thức".
Từ năm 1990 ở Mỹ, việc rèn luyện "Kĩ năng đọc nghiên cứu" đã trở
thành một trong những nhiệm vụ đào tạo cực kì quan trọng trong nhà trờng. Vì
vậy, trong các kì nghỉ hè, ngời ta thờng thành lập rất nhiều trung tâm "Kĩ năng
đọc nghiên cứu". Ai đã từng tham gia các trung tâm ấy đều rất ngạc nhiên và
khẳng định đó là nơi học sinh đợc học tập nhiều cách thức đọc khác nhau, là
nền tảng để phát triển việc đọc có tính chất nghiên cứu thông qua việc đọc

đúng, đọc làm nổi bật từng cấp độ ý nghĩa.
Ngoài ra, các nhà giáo dục ở phơng Đông và một số nớc phơng Tây đã
nghiên cứu và đa ra rất nhiều quan điểm dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của ngời học.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Vấn đề phát huy tích cực học tập của ngời học đã đợc đặt ra trong
nghành giáo dục ở nớc ta từ những năm 1960 cũng thời điểm này các trờng s
phạm có khẩu hiệu: Biến quá trình đạo tạo thành quá trình tự đào tạo .
Trong lịch sử phát triển giáo dục ở nớc ta, thì hoạt động tự học đã đợc
chú ý từ lâu. Hoạt động tự học đợc nghiên cứu nghiêm túc, triển khai rộng rãi
từ khi nền giáo dục cách mạng ra đời (1945) trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh Ngời khởi xớng, tấm gơng sáng về tinh thần và phơng pháp tự học - đã dạy:
"về cách học, phải lấy tự học làm cốt". Ngời đã động viên toàn dân coi việc tự
học là nhiệm vụ của ngời cách mạng: "Phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, do
đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập" [12].
Trong Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách Giáo dục (11/1/1979) đã
viết: "Cần coi trọng việc bồi dỡng hứng thú thói quen và phơng pháp tự hoc
cho học sinh, hớng dẫn học sinh biết cách nghiên cứu SGK, thảo luận chuyên
đề, ghi chép t liệu, tập làm thực nghiệm khoa học". Đây là vấn đề có tính thời
sự đợc các khoa học quan tâm nghiên cứu.


8
Nhiều nhà lãnh đạo, nhà khoa học và giáo dục khi nghiên cứu t tởng của
Hồ Chí Minh về giáo dục đã cho rằng: tự học là t tởng giáo dục lớn và xuyên
suốt của Ngời. Ngời đã chỉ ra: "Muốn tự học có hiệu quả thì phải có mục đích rõ
ràng, lao động nghiêm túc, có các điều kiện cần thiết, tích cực luyện tập và thực
hành". T tởng của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục đã chỉ ra rằng: "Coi trọng
việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học mọi lúc, mọi nơi, học mọi ngời" [16;
194].
Nguyên Phó Thủ tớng Phạm Văn Đồng, một trong những học trò xuất

sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tiếp nhận, thể hiện và làm phong phú t tởng,
sự nghiệp giáo dục của Ngời trong lí luận và thực tiễn. Đồng chí chỉ rõ: "phơng pháp giáo dục không phải chỉ là những kinh nghiệm, thủ thuật trong
truyền thụ và tiếp thu kiến thức mà còn là con đờng để ngời học có thể tự học,
tự nghiên cứu chứ không phải là bắt buộc trí nhớ làm việc một cách máy móc,
chỉ biết ghi rồi nói lại" [17].
GS. Nguyễn Cảnh Toàn cùng với tập thể các nhà khoa học đã nghiên
cứu và triển khai chơng trình "Tự học có hớng dẫn kết hợp với thực tập dài hạn
ở trờng phổ thông". Nhiều công trình nghiên cứu về quá trình tự học và hớng
dẫn tự học cũng chỉ ra tính cấp thiết, cơ sở khoa học và tính khả thi của hình
thức tổ chức đào tạo tự học có hớng dẫn. Các tác giả đã nêu và phân tích cơ sở
khoa học của hoạt động tự học: Cơ sở tâm lý học, sinh lí học, giáo dục học, xã
hội học Nhiều tác giả khẳng định rõ các yếu tố thuộc về cá nhân (nội lực)
có vai trò quyết định đối với kết quả tự học trong đó các yếu tố NLTH. Ngoài
ra, các tác giả cũng khẳng định yếu tố bên ngoài (ngoại lực) nh biện pháp hớng dẫn phơng pháp lên lớp của giáo viên cũng góp phần quan trọng để rèn
luyện năng lực tự học SGK cho học sinh. Điều đó khẳng định, cốt lõi của học
là tự học. Hễ có học là có tự học vì không ai có thể học hộ ngời khác đợc.
Nhiệm vụ của chúng ta là: "Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học", tức


9
là khéo léo kết hợp quá trình dạy của thầy với quá trình tự học của trò thành
một quá trình thống nhất biện chứng.
GS. Trần Bá Hoành cho rằng: Dạy học lấy ngời học làm trung tâm,
dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh, dạy chú trọng việc rèn
luyện phơng pháp tự học, dạy học chú ý tới việc dạy học cá thể và dạy học
hợp tác, chú trọng đánh giá và tự đánh giá [5;9].
Đổi mới phơng pháp dạy học các môn khoa học nói chung và môn
Chinh trị nói riêng đã trở thành một yêu cầu và xu thế tất yếu. Dạy học là một
quá trình đòi hỏi nhiều kỹ năng. Muốn xử lý và khai thác đợc những thông tin
cần thiết phục vụ cho nhiệm vụ học tập của học sinh thì phải bắt đầu từ việc sử

dụng và hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập.
Phơng pháp hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập không phải là một phơng
pháp mới trong dạy học Chính trị, đã có những bài báo, tài liệu, diễn đàn trao
đổi về cách đọc sách hay kỹ thuật tìm kiếm thông tin song các tài liệu đó
mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh xung quanh vấn đề này.
Sự biến đổi của thực tiễn xã hội và những yêu cầu mới của quá trình dạy
học đã đặt ra những nhiệm vụ mới đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu phơng pháp này một cách hệ thống và sâu sắc hơn.
Vì vậy, trong những năm gần đây, nền giáo dục của Việt Nam cũng nh
giáo dục thế giới đã đề cập nhiều đến đổi mới phơng pháp dạy học, áp dụng
các phơng pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lợng dạy và học. Trong
dạy học tích cực bao gồm nhiều phơng pháp cụ thể khác nhau và mang những
dấu hiệu đặc trng, đó là dạy học thông qua tổ chức hoạt động của ngời học
một cách chủ động, tích cực và sáng tạo, tìm kiếm tri thức cần thiết qua các
hoạt động học tập, dạy học đồng thời kết hợp với sự đánh giá của thầy và tự
đánh giá của trò trong quá trình dạy học, chú trọng phơng pháp tự học, tăng cờng học tập cá nhân phối hợp với hoạt động hợp tác, dạy học kết hợp với đánh
giá của thầy và tự đánh giá của trò.


10
Ông Trần Hồng Quân (nguyên Bộ trởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) trong
bài: Cách mạng về phơng pháp sẽ mang lại bộ mặt mới, sức sống mới cho
giáo dục ở thời đại mới đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 1/1995 đã
viết: Muốn đào tạo con ngời khi bớc vào đời là con ngời tự chủ, năng động,
sáng tạo thì phơng pháp dạy học cũng phải hớng vào việc khơi dậy, rèn luyện
và phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động, sáng tạo. Ngời học tự tìm hiểu, phân tích, tập xử lý tình huống và giải quyết vấn đề, khám
phá ra cái cha biết. Nhiệm vụ của ngời thầy là chuẩn bị cho học sinh thật
nhiều tình huống chứ không phải là nhồi nhét thật nhiều kiến thức vào đầu óc
học sinh [8; 5].
Tuy quan điểm của các nhà lý luận và giáo dục nh nói ở trên không đề
cập trực tiếp đến phơng pháp HDSDTL học tập cho học sinh nhằm nâng cao

năng lực tự học môn Chính trị ở các trờng trung học chuyên nghiệp, nhng các
tác giả đề cập đến việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và tự học của
ngời học.
Tóm lại, cho tới nay đã có nhiều tác giả nghiên cứu về phơng hớng và
biện pháp nâng cao kết quả học tập của ngời học bằng các PPDH tích cực,
trong đó có các phơng pháp sử dụng tài liệu học tập để phát huy tính chủ
động, sáng tạo của ngời học. Nhìn chung các tác giả đều đa ra đợc hệ thống
những biện pháp khá phong phú. Nhng nghiên cứu vấn đề này vào thực tế ở
Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An) thì cha
đợc tác giả nào đề cập đến. Vì vậy, chúng tôi tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng của phơng pháp HDSDTL học tập để nâng cao năng lực tự học môn
Chính trị của học sinh và mang lại hiệu quả cao trong dạy học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Một là, Xác lập những cơ sở khoa học làm luận chứng cho việc xây
dựng phơng pháp HDSDTL học tập trong dạy học.


11
Hai là, Nghiên cứu thực tiễn giảng dạy và học tập môn Chính trị ở các
trờng THCN qua khảo sat tại một số trờng THCN và Trờng Trung cấp Kinh tế,
Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An).
Ba là, Xây dựng hệ thống quy trình HDSDTL học tập để nâng cao năng
lực tự học môn Chính trị cho học sinh các trờng THCN qua khảo sát tại Trờng
Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đợc mục đích nêu trên, nhiệm vụ của đề tài là giải quyết các vấn
đề sau:
- Xác lập những cơ sở lý luận làm luận chứng cho việc xây dựng quy
trình hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập trong dạy học.

- Xác định đợc những đặc điểm, thực trạng tình hình sử dụng tài liệu
trong dạy học của môn Chính trị ở trờng THCN.
- Xây dựng đợc một hệ thống quy trình hớng dẫn sử dụng tài liệu học
tập môn Chính trị, đảm bảo tính khoa học, tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả
thi trong điều kiện của các trờng THCN hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tợng nghiên cứu:
Đối tợng nghiên cứu của đề tài là phơng pháp HDSDTL học tập và vận
dụng phơng pháp HDSDTL học tập để nâng cao năng lực tự học môn Chính trị
cho học sinh ở các trờng THCN qua khảo sát ở Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ
thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An).
Hệ thống quy trình khai thác và sử dụng tài liệu học tập môn Chính trị ở
các trờng THCN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi vận dụng phơng pháp HDSDTL học tập môn Chính trị cho học
sinh ở Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh (Nghệ An).


12
Để định hớng cho quá trình nghiên cứu, luận văn xác định phạm vi
khảo sát ở góc độ s phạm về phơng pháp HDSDTL học tập ở các trờng THCN
để nâng cao năng lực tự học môn Chính trị của học sinh.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhận thức và
giáo dục, của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo; Lý
luận về tâm lý học, Giáo dục học, Lý luận phơng pháp dạy học của các nhà
khoa học giáo dục trong nớc và ngoài nớc.
5.2. Phơng pháp nghiên cứu
+ Sử dụng phơng pháp phân tích tổng hợp.

+ Phơng pháp nêu vấn đề.
+ Phơng pháp lôgic, lịch sử.
+ Phơng pháp thực nghiệm s phạm.
+ Phơng pháp so sánh kết quả.
+ Phơng pháp điều tra.
6. Những đóng góp của luận văn
Phân tích khái quát những đặc điểm về thực trạng sử dụng tài liệu trong
dạy học hiện nay, đồng thời phân tích những nguyên nhân cơ bản và đề xuất
đợc phơng hớng khắc phục thực trạng nêu trên, làm cơ sở cho việc xây dựng
quy trình HDSDTL học tập đang triển khai ở các trờng THCN.
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về phơng pháp HDSDTL trong học tập
nhằm rèn luyện NLTH SGK cho học sinh.
Luận văn góp phần khẳng định phơng pháp HDSDTL trong học tập,
phát huy đợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của ngời học đồng thời làm tài
liệu tham khảo cho quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh
đối với môn Chính trị ở trờng Trung học chuyên nghiệp.


13
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Phần phụ lục, Phần nội dung của
luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1. Cơ sở lý luận và thực trạng vận dụng phơng pháp hớng dẫn sử
dụng tài liệu học tập để nâng cao năng lực tự học môn Chính trị của học sinh
các trờng THCN. (Qua khảo sát tại Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công
nghệ Việt - Anh (Nghệ An)).
Chơng 2. Thực nghiệm phơng pháp hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập
để nâng cao năng lực tự học môn Chính trị của học sinh các trờng THCN.
(Qua khảo sát tại Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công nghệ Việt - Anh.
(Nghệ An)).

Chơng 3. Quy trình và điều kiện thực hiện phơng pháp hớng dẫn sử
dụng tài liệu học tập để nâng cao năng lực tự học môn Chính trị của học sinh
các trờng THCN. (Qua khảo sát tại Trờng Trung cấp Kinh tế, Kỹ thuật, Công
nghệ Việt - Anh (Nghệ An)).


14
B - Phần nội dung
Chơng 1
Cơ sở lý luận và thực trạng phơng pháp hơng dẫn
sử dụng tài liệu học tập để nâng cao năng lực tự học
môn chính trị của học sinh các trờng THCN.
(Qua khảo sát tại trờng trung cấp kinh tế, kỹ thuật,
công nghệ việt - anh (nghệ an)).

1. Cơ sở lý luận
1.1. Lý luận về phơng pháp sử dụng tài liệu học tập
1.1.1. Khái niệm phơng pháp
Có nhiều cách đề cập đến phơng pháp, nhng nhìn chung khi đề cập đến
phơng pháp là đề cập đến cách thức con ngời mà chủ thể sử dụng để tác động
đến đối tợng nhằm đạt đợc mục đích đề ra.
"Phơng pháp", một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: "Methodos",
theo nghĩa thông thờng thì phơng pháp là con đờng để đạt mục đích. Còn theo
nghĩa khoa học "Phơng pháp là hệ thống những nguyên tắc đợc rút ra từ tri
thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định" [4;378].
Phơng pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con ngời
và là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt
động nhận thức và cải tạo hiện thực của con ngời. Trên cơ sở những điều kiện
khách quan đã có, phơng pháp càng đúng đắn thì kết quả đạt đợc càng cao và

ngợc lại.
Trong Từ điển triết học - NXB tiến bộ, năm 1986 - đã khẳng định: Phơng pháp là cách thức để đạt tới mục tiêu là hoạt động đợc sắp xếp theo một
trật tự nhất định [21;458].
Trong cuốn sách triết học tập 3 - dùng cho Cao học và Nghiên cứu sinh,
tác giả cho rằng: Phơng pháp là hệ thống khách quan để điều chỉnh hoạt


15
động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục đích nhất định
[14;29].
Bản chất của hoạt động dạy học là quá trình chuyển giao thông tin tri
thức của giáo viên và quá trình thu nhận, xử lý thông tin của học sinh. Bàn về
phơng pháp dạy học có nhiều quan điểm khác nhau, song về cơ bản có thể coi
"phơng pháp dạy học là cách thức tổ chức hoạt động của giáo viên và học sinh
nhằm đạt mục tiêu đề ra" [3;6]. Phơng pháp dạy học không phải là những
nguyên tắc có sẵn và bất biến, mà nó luôn phải đổi mới để đáp ứng những đòi
hỏi của hoạt động dạy và học ở thời kỳ mới hiện nay.
Trong thời đại của kinh tế tri thức, với xu thế toàn cầu hoá, quá trình
hội nhập quốc tế đòi hỏi cả ngời dạy và ngời học phải có những phẩm chất
mới, kỹ năng mới, "Khả năng thu nhận, xử lý để hiểu biết thông tin một cách
nhanh chóng và chính xác, là yêu cầu quan trọng hơn nhiều so với trớc đây.
Nh thế, có nghĩa là phải thay đổi tiêu chí, phơng pháp đào tạo trong xã hội
thông tin hôm nay, cần phải đặt khả năng ghi nhớ bằng khả năng tìm kiếm,
thu nhận và xử lý thông tin để đạt tới mục tiêu" [6;6].
Để đáp ứng những yêu cầu mới của thời kỳ hiện nay, ở nớc ta hiện nay
có một số xu hớng đổi mới về quan điểm dạy học - những định hớng mang
tính chiến lợc, cơng lĩnh, đó là: Tích cực hoá dạy học, cá thể hoá việc dạy học;
công nghệ hoá dạy học; dạy học định hớng vào ngời học, dạy học giải quyết
vấn đề; dạy học theo tình huống v.v...
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng khẳng định: "Sớm đa nớc

ta ra khỏi tình trạng kém phát triển" [20;23] và giáo dục cũng không nằm ngoài
hiện trạng ấy.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vai trò giáo dục trong xu thế mới,
Đảng và Nhà nớc ta luôn nhấn mạnh vấn đề: "Đổi mới phơng pháp dạy học"
theo hớng chuyển quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của học sinh dới
sự hớng dẫn và hỗ trợ của giáo viên và phơng tiện của Công nghệ thông tin.


16
Cách đây ba năm, Ban Bí th TW Đảng đã ra Chỉ thị số 40-CT/TW
(15/06/2004) về vấn đề giáo dục:
"Đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phơng pháp giáo dục nhằm khắc phục
kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến khích t duy sáng tạo; bồi
dỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực
thực hành sáng tạo cho ngời học, đặc biệt cho sinh viên các trờng đại học và
cao đẳng. Tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phơng pháp tiên tiến, hiện
đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy và học..." [15;1].
Vào đầu năm học 2006 - 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo có công văn số
1138/BGDĐT- ĐH&SĐH (10/10/2006) về vấn đề hớng dẫn giảng dạy các
môn khoa học Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, chỉ rõ: "Thực hiện đổi mới
phơng pháp giảng dạy theo hớng chuyển quá trình dạy ở bậc đại học thành
quá trình tự học của sinh viên có tổ chức hớng dẫn và hỗ trợ tối u của giảng
viên, ứng dụng mạnh mẽ các phơng tiện hỗ trợ và công nghệ thông tin, chấm
dứt tình trạng đọc chép trên giảng đờng đại học" [18;1].
Do đó, đổi mới phơng pháp dạy học Chính trị cũng nằm trong tiến trình
ấy nhằm nâng cao tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, đồng
thời hạn chế phơng pháp dạy học truyền thống.
Trong bài phát biểu tại Hội nghị về "Đổi mới phơng pháp dạy học môn
Chính trị các trờng THCN", Nguyễn Đại Thành có nêu: "Tiếp tục đổi mới nội
dung, phơng pháp GD&ĐT, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện

thành nếp t duy sáng tạo của ngời học, từng bớc áp dụng các phơng pháp tiên
tiến và phơng pháp hiện đại vào quá trình dạy - học, tự nghiên cứu cho học
sinh, sinh viên" [10;1].
Tuy nhiên, quá trình đổi mới còn diễn ra rất chậm. Điều làm cho ngời
học sợ và nhàm chán không phải vì nội dung mà chủ yếu là do phơng pháp
dạy - học và cách kiểm tra, đánh giá.
Về phơng pháp HDSDTL học tập:


17
Từ sự phân tích và trình bày nói trên chúng ta có thể khẳng định rằng:
Phơng pháp hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập là phơng pháp mà trong đó
giáo viên hớng dẫn cho học sinh chủ động thu thập tài liệu, củng cố kiến thức
theo yêu cầu của môn học, giúp ngời học giải quyết đợc nhiệm vụ học tập.
Trong bài "Sử dụng SGK và các tài liệu khác trong quá trình dạy học
môn Chính trị của học sinh THCN" Hà Huy Tuấn có nêu: "Phơng pháp dạy
học bao gồm phơng pháp dạy và phơng pháp học với sự tơng tác lẫn nhau.
Trong đó, dạy có vai trò chỉ đạo, còn học có tính độc lập tơng đối, chịu sự chi
phối của phơng pháp dạy và ảnh hởng trở lại đối với phơng pháp dạy". "Dùng
SGK và tài liệu khác là phơng pháp dạy- học mà ở đó thể hiện vai trò của ngời giáo viên với t cách là ngời hớng dẫn hỗ trợ đắc lực cho học sinh, đồng thời
phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh ở trên lớp cũng nh tính tự giác của
học sinh ở nhà để định hớng cho vấn đề mà các em cần học tập, nghiên cứu"
[13;173].
Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cần có khả năng vận dụng,
cập nhật và xử lý những tri thức khoa học đã học ở phổ thông nhằm làm cho
kiến thức trở thành dễ hiểu hơn và đầy xúc cảm, có lý lẽ, có sức thuyết phục,
để cho lý luận có khả năng gắn chặt với cuộc sống, với thực tiễn khoa học và
xã hội, phát huy đợc tính tích cực trong dạy học môn Chính trị.
1.1.2 Khái niệm về tài liệu học tập
Tài liệu học tập là những công cụ quan trọng để phục vụ cho quá trình

dạy học. Việc sử dụng tài liệu học tập giúp cho ngời học nắm vững kiến thức
cơ bản nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của ngời học.
Tài liệu học tập đợc chia làm nhiều loại, thông thờng, đối với học sinh
có những loại tài liệu học tập sau:
- Giáo trình: Là tài liệu học tập cơ bản, bắt buộc đối với sinh viên khi
nghiên cứu và học tập.


18
- Tài liệu hớng dẫn ôn tập, học tập: Là tài liệu có tác dụng định hớng, hớng dẫn học tập, ôn tập hay rèn luyện kỹ năng tự học.
- Tài liệu tham khảo: Là tài liệu cần thiết dùng để bổ sung, đào sâu, mở
rộng tri thức cho ngời học. Có những tài liệu bắt buộc học sinh phải có, nhng
cũng có tài liệu tham khảo chỉ cần khi học sinh có nhu cầu.
- Kinh điển: Là loại tài liệu rất quan trọng, dùng để trích dẫn các quan
điểm, t tởng của các nhà kinh điển, phục vụ cho quá trình học tập.
- Sách tra cứu: Là những tài liệu dùng để tra cứu nh từ điển, danh mục,
bảng thống kê số liệu.
- Tạp chí chuyên ngành: Là tài liệu khoa học dùng để nghiên cứu hay
tham khảo.
- Sách nghiên cứu: Là công trình khoa học dùng khi nghiên cứu và làm
đề tài khoa học.
- Tài liệu điện tử: Là thông tin kiến thức về mọi mặt, thờng xuyên đợc
cập nhật trên mạng cho mọi đối tợng, trong mọi lĩnh vực.
Nh vậy, đối với học sinh có rất nhiều tài liệu học tập, nhng tuỳ theo
mục tiêu, nội dung dạy học và đối tợng ngời học mà xác định loại tài liệu học
tập cần thiết và phù hợp cho quá trình học tập. Giáo trình là loại tài liệu quan
trọng nhất đối với ngời học, giáo trình không những cung cấp kiến thức chuẩn
mực, cơ bản, mà còn góp phần hớng dẫn phơng pháp học tập, đồng thời cũng
là cơ sở nền tảng giúp cho học sinh ôn tập và thi cử. Với tài liệu tham khảo
khác sẽ giúp cho học sinh hiểu sâu sắc hơn nhằm mở rộng những nội dung bài

học và mang lại hiệu quả cao trong học tập. Đối với giáo viên, giáo trình là tài
liệu thể hiện khối lợng và mức độ nội dung kiến thức cần giảng dạy, định hớng
cho giáo viên những mục tiêu, nội dung chơng trình môn học, đồng thời hớng
dẫn nghiệp vụ s phạm cho giáo viên. Bên cạnh giáo trình học tập, giáo viên có
thể hớng dẫn học sinh tìm đọc thêm các tài liệu học tập liên quan đến nội dung


19
môn học, giúp cho học sinh nắm vững kiến thức trong khi lĩnh hội tri thức
nhằm cụ thể hoá nội dung chơng trình môn học.
1.1.3. Phơng pháp HDSDTL học tập với t cách là một phơng pháp dạy
học
Quá trình dạy học bao gồm hai giai đoạn cơ bản:
- Hoạt động dạy : là hoạt động tổ chức, điều khiển của giáo viên.
- Hoạt động học: là hoạt động tự tổ chức, tự điều khiển của học sinh.
Trong đó, giáo viên phải có cách thức dạy và học sinh phải có cách thức
học. Cách thức dạy của thầy và cách thức học của trò tập hợp thành các phơng
pháp dạy học nhằm giúp cho thầy trò hoàn thành các nhiệm vụ dạy học phù
hợp với mục đích đề ra.
Vì vậy, có thể hiểu: phơng pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt
động của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Có
rất nhiều phơng pháp dạy học khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích, nội dung và
đối tợng dạy học nh phơng pháp thuyết trình, dạy học nêu vấn đề, phơng pháp
trực quan, vấn đáp, đàm thoại... Từ những năm đầu của thế kỷ XX, cùng với
xu hớng cải tiến, đổi mới phơng pháp dạy học trong quá trình dạy học hiện
đại, nhiều phơng pháp dạy học mới đã ra đời nhằm tích cực hoá, cá biệt hoá
hoạt động học tập của ngời học, đáp ứng cao yêu cầu của đời sống xã hội nh
phơng pháp hoạt động nhóm, phơng pháp đóng vai, phơng pháp động não...và
phơng pháp hớng dẫn sử dụng tài liệu học tập.
ở Việt Nam, vấn đề sử dụng tài liệu nh một phơng pháp trong dạy học

rất ít đợc đề cập. Nhng để nói về vai trò, vị trí quan trọng của tài liệu trong
giáo dục thì cũng đã đợc bàn đến nhiều.
Khi bàn về ý nghĩa SGK. Trong cuốn " Giáo dục học tập 1", tác giả Hà
Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt đã trình bày ý nghĩa của việc dùng sách: "Nếu đợc
sử dụng đúng phơng pháp, sách sẽ có tác dụng lớn nh: mở rộng, đào sâu vốn
hiểu biết của mình một cách có hệ thống và sinh động; rèn luyện kĩ năng, thói


20
quen sử dụng sách, bồi dỡng ngữ pháp, kinh nghiệm viết văn, óc nhận xét, phê
phán; bồi dỡng hứng thú học tập, tình cảm và t tởng trong sáng" [11;236].
Hai tác giả cũng đã hớng dẫn việc dùng sách vở ở trên lớp, việc dùng
sách vở ở nhà và một số yêu cầu cơ bản về phơng pháp hớng dẫn sử dụng sách
giáo khoa.
Trong Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục ngày 11- 011979 đã bàn đến việc sử dụng tài liệu học tập cho học sinh trong dạy học:
"Cần coi trọng việc bồi dỡng hứng thú, thói quen và phơng pháp tự học cho
học sinh, hớng dẫn học sinh biết cách nghiên cứu sách giáo khoa, thảo luận
chuyên đề, ghi chép t liệu, tập làm thực nghiệm khoa học".
Căn cứ vào lí luận dạy học đại học có thể khẳng định HDSDTL học tập
là một trong những phơng pháp dạy học vì nó mang đầy đủ những điểm cơ
bản của một phơng pháp dạy học nh:
- Thứ nhất, phơng pháp sử dụng tài liệu học tập gắn liền với mục đích
đào tạo nghề nghiệp cho học sinh ở các trờng. Thông qua quá trình tìm tòi,
đọc và nghiên cứu những tài liệu chuyên ngành mà học sinh có thể hình dung
đợc công việc mà mình làm sau này nh thế nào. Trên cơ sở đó, các em có cách
tiếp cận dần với công việc chuyên môn của mình dới nhiều góc độ nh: thu
thập thông tin, tài liệu đề cập đến chuyên môn của mình, qua đó sẽ tìm hiểu đợc xu hớng phát triển của lĩnh vực đó trong xã hội ra sao...? Nh vậy, với phơng
pháp HDSDTL học tập, bên cạnh việc góp phần trang bị cho học sinh có kỹ
năng, kỹ xảo nghề nghiệp để họ có thể thích ứng với mọi điều kiện công việc
sau này nhằm hoàn thành mục tiêu đào tạo của nhà trờng.

- Thứ hai, phơng pháp HDSDTL học tập là một phơng pháp dạy học gắn
liền với thực tiễn cuộc sống xã hội và sự phát triển của Khoa học - Công nghệ.
Để có thể thực hiện đợc yêu cầu của phơng pháp này, học sinh phải thờng
xuyên tìm kiếm thông tin tri thức chuẩn bị cho bài học: thông tin này có thể ở
trên th viện, ở trong sách báo tạp chí chuyên ngành hay có thể trong thực tiễn


21
đời sống xã hội, mà cũng có thể học sinh lên mạng tìm kiếm thông tin, trao
đổi với nhau trên mạng. Mục đích của các trờng đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp là đào tạo nghề, cho nên bao giờ cũng có mối liên hệ biện
chứng giữa nhà trờng với thực tế cuộc sống. Mục tiêu của nhà trờng không thể
tách rời với đời sống xã hội và sự phát triển của khoa học - công nghệ, nếu
không sản phẩm của nhà trờng sẽ bị lạc hậu, không đáp ứng đợc yêu cầu của
sự phát triển. Cho nên, trong quá trình áp dụng phơng pháp HDSDTL học tập
để dạy học, ngời giáo viên phải luôn bám sát yêu cầu của thực tiễn kinh tế - xã
hội để nâng cao chất lợng và hiệu quả đào tạo.
- Thứ ba, phơng pháp HDSDTL học tập là một phơng pháp dạy học có
tác dụng phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Với phơng pháp HDSDTL học tập, học sinh đợc phát huy hết năng lực nhận thức,
kích thích đợc tính khát khao tìm tòi, sáng tạo những cái mới, độc lập, tự chủ
trong việc lĩnh hội tri thức thông qua giáo trình tài liệu học tập. Còn giáo viên
đóng vai trò là ngời dẫn dắt, chỉ đờng cho học sinh biết tìm kiếm tri thức đó ở
trong tài liệu nào, sau đó tổ chức và điều khiển để học sinh tự mình khám phá
và chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Tính tích cực là một trong những đặc tính vốn có của con ngời. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về tính tích cực của hoạt động nhận thức nh quan
điểm của tác giả Nguyễn Ngọc Bảo: " Tính tích cực nhận thức là thái độ cải
tạo của chủ thể đối với khách thể, thông qua sự huy động ở mức độ cao các
chức năng tâm lý, nhằm giải quyết những vấn đề học tập nhận thức. Nó vừa là
mục đích học tập vừa là phơng tiện, vừa làm điều kiện để đạt tới mục đích,

vừa là kết quả hoạt động. Nó mang đậm phẩm chất cá nhân" [1;8].
GS. Trần Bá Hoành, TS Lê Tràng Định, PGS.TS Phó Đức Hoà khẳng
định: "Tính tích cực hoạt động học tập, về thực chất, là tính tích cực của nhận
thức, đặc trng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức" [6;13].


22
Với phơng pháp HDSDTL, ngời học đợc chủ động tích cực phát huy
năng lực t duy sáng tạo của mình, tức là ngời học không học thụ động nh
trong các phơng pháp dạy học truyền thống chỉ ngồi nghe thầy giảng và
truyền đạt kiến thức rồi ghi chép, về nhà chỉ học những gì có trong vở, mà ở
đây, trò học tích cực bằng hành động của chính mình, tức là ngời học tự tìm ra
"cái cha biết", "cái cần khám phá", tự mình tìm ra kiến thức, chân lý. Ngời
học không phải đợc đặt trớc những kiến thức có sẵn trong giáo trình hay sự
giảng giải áp đặt của thầy, mà chính từ kiến thức cơ bản của giáo trình làm cơ
sở nền tảng để giáo viên đặt ra trớc học sinh những tình huống thực tế, cụ thể,
thiết thực của cuộc sống, yêu cầu học sinh phải tự giải quyết. Đứng trớc những
tình huống phong phú đó, kích thích ngời học cảm thấy có nhu cầu, hứng thú
đợc giải quyết những khó khăn, mâu thuẫn trong nhận thức của mình. Và để
tự giải quyết những mâu thuẫn đó, ngời học bắt đầu cuộc hành trình tra cứu,
tìm kiếm thông tin trong các tài liệu học tập. Trên cơ sở những thông tin thu
thập đợc, ngời học phải quan sát, suy nghĩ, thực hành, đặt giả thiết, nêu vấn
đề, làm thử, phân tích, phán đoán, tập xử lý tình huống để mình tự giải quyết
vấn đề. Quá trình tìm kiếm, lĩnh hội tri thức của ngời học thông qua giáo
trình, tài liệu học tập không rập theo khuôn mẫu sẵn có, đó đều là những tri
thức và phơng pháp tiếp cận hoàn toàn mới của mỗi cá nhân tuỳ theo nhận
thức và trình độ của mỗi ngời. Cho nên hoạt động tự lực đi tìm cái cha biết
trên cơ sở của giáo trình tài liệu tham khảo đã thể hiện tính chất sáng tạo đối
với học sinh.

- Thứ t, phơng pháp HDSDTL học tập là một phơng pháp dạy học linh
hoạt, đa dạng. Phơng pháp này có thể áp dụng và phù hợp cho tất cả các trờng
Đại học, Cao đẳng và THCN, nó cũng có thể phù hợp với đặc điểm tri thức
của tất cả các môn khoa học khác nhau, nhất là đối với các môn thuộc khoa
học xã hội. Bất cứ giáo viên nào cũng có thể vận dụng một cách linh hoạt ph ơng pháp HDSDTL học tập trong quá trình dạy học của mình.


23
- Thứ năm, phơng pháp HDSDTL học tập là một phơng pháp dạy học
ngày càng gắn liền với các thiết bị và các phơng tiện dạy học hiện đại. Đặc
điểm này biểu hiện mối quan hệ hữu cơ giữa phơng pháp và phơng tiện dạy
học. Trong quá trình vận dụng phơng pháp này, ngời giáo viên có thể sử dụng
linh hoạt các phơng tiện dạy học hiện đại nh: thiết kế giáo án điện tử,
Powerpoint theo phơng pháp HDSDTL học tập, hớng dẫn học sinh khai thác.
Trong qúa trình dạy học, các đặc điểm này đợc thể hiện một cách linh
hoạt sáng tạo tuỳ vào đặc điểm, nhiệm vụ, mục đích và đối tợng đào tạo của
từng trờng. Ngời học phải sử dụng tài liệu học tập thờng xuyên phục vụ cho quá
trình học tập với nhiều nhiệm vụ nhận thức khác nhau qua nhiều giai đoạn nhận
thức khác nhau. Việc sử dụng tài liệu học tập có thể thực hiện trớc, trong và sau
mỗi bài học có sự hớng dẫn của ngời thầy. Trên cơ sở xác định mục tiêu, nội
dung, đối tợng và phơng pháp dạy học mà ngời thầy có kế hoạch cụ thể trong
việc yêu cầu ngời học sử dụng tài liệu học tập phục vụ quá trình dạy học.
Mặc dù bản thân phơng pháp HDSDTL học tập đã mang đầy đủ đặc
điểm của một phơng pháp dạy học, nhng nếu nh giáo viên không biết cách
phát huy những u điểm của phơng pháp này thì cũng không đạt đợc hiệu quả
dạy học. Cho nên, để sử dụng tài liệu học tập đạt kết quả cao, ngời thầy cần
phải đề ra những nhiệm vụ học tập cho học sinh:
- Nhiệm vụ trớc mỗi bài giảng: giáo viên cần phải chỉ rõ những tài liệu
mà ngời học cần tìm đọc là những tài liệu nào? ở đâu? trong tài liệu đó thì cần
phải đọc chỗ nào và ghi chép ra sao? Đồng thời, giáo viên cũng phải nêu ra

vấn đề mà học sinh cần chuẩn bị trớc thông qua những câu hỏi gợi mở, hay
những bài tập... để yêu cầu ngời học phải chuẩn bị trớc khi buổi học diễn ra.
Chính nhờ có quá trình chuẩn bị tài liệu trớc cho nên ngời học hoàn toàn chủ
động thực hiện nhiệm vụ của mình trong suốt buổi học.
- Trong mỗi bài học: ngời học phải thể hiện những gì mà mình đã đọc,
đã nghiên cứu những tài liệu đó nh thế nào, thông qua hình thức trình bày hiểu


24
biết của mình về vấn đề đó trớc tập thể lớp, rồi trao đổi, tranh luận với nhau để
cùng giải quyết vấn đề. Và nh vậy, ngời học hoàn toàn đợc chủ động trong
suốt buổi học.
- Sau mỗi bài giảng: giáo viên yêu cầu học sinh về nhà tiếp tục đọc phần
nào mà trên lớp cha thực hiện xong, giáo vên giới thiệu thêm một vài tài liệu
tham khảo yêu cầu học sinh nghiên cứu đọc thêm để mở rộng kiến thức, đồng
thời đa ra những câu hỏi để kiểm tra khả năng tự đọc, tự nghiên cứu của học sinh
ở nhà?
Việc sử dụng tài liệu học tập của giáo viên nhằm mục đích lĩnh hội tri
thức một cách đầy đủ nhất, nhanh nhất. Tuy nhiên, khi áp dụng phơng pháp
HDSDTL học tập đối với từng nội dung tri thức đòi hỏi giáo viên phải có cách
HDSDTL học tập khác nhau cho phù hợp với việc học tập một khái niệm, một
vấn đề, liên kết các vấn đề hay trong mở rộng một vấn đề để có hiệu quả nhất.
Ngời thầy có thể hớng dẫn cho học sinh những thao tác cần thiết trong việc
đọc tài liệu nh thế nào, rồi trong quá trình đọc, cách ghi chép tri thức lĩnh hội
đợc nh thế nào cho có hiệu quả nhất và khoa học nhất, hay hớng dẫn học sinh
kỹ năng t duy nhận thức trong suốt quá trình nghiên cứu tài liệu...
1.1.4. Mối quan hệ giữa phơng pháp HDSDTL học tập với các phơng
pháp dạy học khác.
* Phơng pháp HDSDTL học tập với phơng pháp thuyết trình
Nh chúng ta đã biết, môn Chính trị là môn học chứa đựng nhiều các

khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính khái quát trừu tợng cao, cho nên, việc
sử dụng phơng pháp thuyết trình cho phép giáo viên có thể truyền đạt những
nội dung kiến thức tơng đối khó, trừu tợng, phức tạp lại chứa đựng nhiều
thông tin mà học sinh khó nắm bắt.
Để phát huy tính tích cực của học sinh thì trong quá trình dạy học, tuỳ
theo từng nội dung, mục tiêu bài học và đối tợng ngời học mà giáo viên sử
dụng phơng pháp một cách phù hợp, việc sử dụng phơng pháp dạy học là một


25
yếu tố rất quan trọng mang lại hiệu quả cao trong dạy học. Có rất nhiều phơng
pháp dạy học để phát huy đợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của ngời học,
trong đó có phơng pháp HDSDTL học tập, đây là phơng pháp dạy học tích cực
và luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các phơng pháp dạy học tích cực khác,
đòi hỏi trong quá trình dạy học phải luôn có sự kết hợp với các phơng pháp
khác, nếu chỉ sử dụng một phơng pháp thì sẽ không mang lại hiệu quả cao
trong dạy học, do đó phơng pháp HDSDTL học tập đòi hỏi giáo viên phải có
sự chuẩn bị chu đáo về giáo trình, các tài liệu liên quan đến môn học, các câu
hỏi gợi ý, dự đoán các tình huống s phạm có thể xảy. Còn đối với ngời học
cũng phải nghiên cứu, chuẩn bị trớc buổi học bằng việc đọc trớc cac nội dung
trong tài liệu có liên quan đến bài học, tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản, ghi chép lại những ý chính, có nh thế mới có thể giúp cho ngời học chủ
động đa ra ý kiến, nhận xét của mình về vấn đề đó trớc tập thể lớp trong giờ học
chỉ có nh vậy thì mới phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của ngời học.
Khi nói đến dạy học và phơng pháp dạy học trong nhà trờng, đồng chí
Phan Trọng Ngọ đã nêu: "Phơng pháp thuyết trình là phơng pháp giáo viên sử
dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để cung cấp cho ngời học hệ thống thông tin
về nội dung học tập. Ngời học tiếp thu hệ thống thông tin đó từ ngời dạy và
xử lý chúng tuỳ theo chủ thể ngời học và yêu cầu của ngời dạy học" [7;187].
Có thể nói, "Phơng pháp thuyết trình là dùng lời nói của giáo viên để

thuyết minh, trình bày một vấn đề có tính chất lý luận, nhằm truyền đạt, thông
báo một nội dung khoa học nào đó" [2;96].
Đây là một phơng pháp dạy học truyền thống lâu đời nhất và cũng là
phơng pháp quen thuộc nhất đối với giáo viên và học sinh, đợc dùng phổ biến
trong các trờng học và hiện nay vẫn cần tiếp tục đợc sử dụng.
Trong quá trình giảng, giáo viên có thể sử dụng phơng pháp thuyết trình
với những trờng hợp sau:
- Giới thiệu những phạm trù, quy luật, khái niệm mới.


×