Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Tình yêu trong thơ thế lữ xuân diệu vũ hoàng chương (1932 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.54 KB, 54 trang )

Khoá Luận tốt nghiệp
Trờng đại học vinh
Khoa ngữ văn
======

Tình yêu Trong thơ:
Thế lữ - Xuân Diệu - Vũ Hoàng chơng (1932 - 1945)

Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: văn học hiện đại việt nam

Cán bộ hớng dẫn: Nguyễn Văn Lợi
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Thuỳ Dung
Lớp:

42E4- Văn

====Vinh - 2006===
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

1

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp

Lời cảm ơn
Đề hoàn thành khoá luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận đợc
sự hớng dẫn tận tình của Thầy giáo Nguyễn Văn Lợi; những kiến thức mà tôi đã tiếp
thu và tích luỹ đợc từ những lời giảng dạy và những bài học quá giá của các thầy cô


giáo trong khoa Ngữ văn; đồng thời tôi cũng nhận đợc sự động viên thăm hỏi nhiệt
tình của bạn bè và ngời thân
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 05 năm 2006

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

2

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp

Mục Lục
Mở Đầu...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
2. Lịch sử vân đề..............................................................................................2
3. Giới hạn đề tài..............................................................................................3
4. Phơng pháp nghiên cứu................................................................................4
Nội Dung.............................................................................................................5
Chơng 1: Nhìn lại đề tài tình yêu trong phong trào thơ mới 1932 1945.........5
1.1. Tình yêu - một biểu hiện của cái tôi trữ tình chân thật và đằm thắm...........6
1.2. Sắc thái biểu hiện đa dạng của tình yêu....................................................9
Chơng 2: Tình yêu trong thơ Thế Lữ - Xuân Diệu - Vũ Hoàng Chơng..............14
2.1. Thế Lữ ....................................................................................................14
2.1.1. Một cái tôi ban đầu và một tình yêu ban đầu.....................................14
2.1.2. Tình trong cõi mộng.........................................................................15
2.1.3. Hình ảnh ngời yêu và một chút đam mê dè dặt.................................18
2.2. Xuân Diệu .............................................................................................22

2.2.1. Cái tôi rực lửa yêu đơng....................................................................22
2.2.2. Hình ảnh ngời yêu và khát vọng đam mê..........................................25
2.2.3. Tình yêu đơn phơng.........................................................................27
2.2.4. Quan niệm tình yêu mang tính triết lý...............................................30
2.3. Vũ Hoàng Chơng ....................................................................................32
2 .3.1. Cái tôi tiêu cực của thơ mới ............................................................32
2.3.2. Một ngời tình chung thuỷ.................................................................33
2.2.3. Hình ảnh ngời yêu và nỗi đau đớn tuyệt vọng...................................36
Chơng 3: Nhận xét về nghệ thuệt biểu hiện tình yêu trong thơ Thế Lữ - Xuân
Diệu - Vũ Hoàng Chơng.....................................................................................41
3.1. Những đặc sắc của bút pháp trữ tình...........................................................41
3.1.1. Cờng độ cảm xúc.............................................................................41
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

3

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
3.1.2. Vai trò của giác quan........................................................................42
3.2. Giọng điệu.................................................................................................43
3.3. Ngôn ngữ...................................................................................................43
3.3.1. Đại từ xng hô với "ngời yêu"............................................................43
3.3.2. Từ láy, động từ, từ và các cụm từ yêu đơng.......................................45
Kết luận...............................................................................................................47
Tài liệu tham khảo..............................................................................................48
Phụ lục................................................................................................................49

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung


4

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tình yêu đợc xem là đề tài muôn thuở khơi nguồn và in đậm dấu vết
trong văn học qua nhiều thế kỷ ( Hà Minh Đức - Thơ tình Xuân Diệu). Tâm trạng
nhớ nhung bồi hồi, buồn bã của hai ngời yêu xa nhau; niềm hạnh phúc khi thấy ngời mình yêu dấu; nỗi tuyệt vọng khi không thể đến với nhau...phức tạp đến nỗi nhiều
khi ngời ta không thể diễn đạt bằng lời. Nhà thơ đã nói thay cho những ngời đang
yêu bằng ngôn ngữ tuyệt vời nhất, xúc động nhất - ngôn ngữ thi ca. Có quan niệm
rằng: Không có tình yêu, trái đất sẽ không có mặt trời, nghĩa là nếu không có tình
yêu, trái đất sẽ không còn sự sống, nó cần cho con ngời nh con ngời cần hơi ấm
ngọn lửa, cần ánh sáng mặt trời. Ngay từ thế kỉ thứ VII trớc công nguyên, ngời ấn
Độ đã khẳng định: Nếu trời đất không tràn trề tình yêu thì con ngời làm sao sống
đợc. Lamactin có nói: Thà đau khổ vì tình yêu tan vỡ còn hơn là không có tình
yêu. V.Huygô cũng khuyên rằng: Nếu là đá, hãy là đá nam châm; nếu là cây, hãy
là cây trinh nữ; nếu là ngời, xin hãy hiến dâng cho tình yêu. Đề tài tình yêu là một
nguồn tài nguyên vô tận và quý giá để chúng ta tìm đến nghiên cứu và khám phá
mọi cung bậc của nó. Ngời ta chỉ có thể ngừng yêu và thôi không tìm đến nó nữa
khi ngừng hơi thở.
1.2. Trong thơ mới, cùng với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân thì Tình yêu
cũng xuất hiện với một diện mạo hoàn toàn mới mẻ mà trớc đó trong Văn học trung
đại cha từng có. Tình yêu trong Thơ mới là một bức tranh nội tâm có ý nghĩa điển
hình cho tầng lớp thị dân tiểu t sản thời kỳ 1932-1945. Biểu hiện đầy đủ và toàn
diện, tình yêu trong Thơ mới giống nh lời giải đáp tâm trạng cho những bài toán tình

cảm riêng t mỗi con ngời. Hơn nữa, còn tìm thấy trong cách thể hiện tình cảm trực
tiếp các trạng thái tự nhiên vốn có của Tình yêu, bản chất chân thực của nó, khơi gợi
cho ngời đọc những rung động thẩm mĩ sâu sắc.
1.3. Khảo sát Tình yêu qua ba tác giả Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chơng là ba tác giả tiêu biểu cho phong trào thơ mới qua ba thời kì, để thấy đợc sự phát
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

5

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
triển của cái tôi biểu hiện trong Tình yêu. Cách mà mỗi tác giả thể hiện cho tình yêu
mang đặc điểm và quan niệm nh thế nào? Mạch cảm xúc yêu đơng đợc bộc lộ trong
cái tôi chủ quan ra sao? Nghiên cứu và khám phá các sắc thái , cung bậc của tình
yêu từ khi mới bắt đầu cho đến khi rơi vào trạng thái mất ngời yêu. Đó là từng bớc
biến đổi của cái Tôi mà đại diện của nó là biểu hiện bằng Tình yêu ở trong thơ Thế
Lữ - Xuân Diệu - Vũ Hoàng Chơng.
1.4. Quá trình nghiên cứu đề tài Tình yêu trong Thơ mới qua ba tác giả có giá
trị bổ ích làm nền giảng giải và phân tích các tác phẩm trữ tình nổi tiếng có đề cập
đến vấn đề Tình yêu đợc đa vào sách văn học lớp 11 của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình yêu vốn là một khái niệm rộng, thể hiện tình cảm thân mật, gắn bó
giữa con ngời với con ngời, hay con ngời với sự vật, thiên nhiên. Nhng chủ đề
Tình yêu đựoc bàn đến trong khoá luận này thuộc về phạm trù yêu đơng của nam
nữ, có tính chất riêng t đặc biệt.
2.2. Cả quá trình cái tôi biểu hiện Tình yêu trong phong trào Thơ mới nói
chung (1932 - 1945) cũng trải qua những thời kì nhìn nhận và đánh giá không thống
nhất với nhau.
Trớc Cách mạng Tháng tám, cùng với cái tôi cá nhân, tình yêu của các nhà thơ

mới đã nhận đợc sự ủng hộ rộng rãi của đông đảo bạn đọc và giới phê bình. Năm
1941, khi Hoài Thanh hoàn thành Thi nhân Việt Nam thì Thời đại cuả cái tôi
đã có một chỗ đứng vững chắc trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Các bài thơ tình đã
đáp ứng đợc nguyện vọng tâm t và nhu cầu cần thiết của giới trẻ bấy giờ. Nó đã làm
cho quan niệm tình yêu mà cha ông ta đặt ra từ bao đời nay phải nhìn nhận lại, Lu
Trọng L đã chỉ ra: Nhìn một cô gái xinh xắn ngây thơ, các cụ cho là điều tội lỗi,
chúng ta cho là mát mẻ nh đứng trớc một cánh đồng xanh ngắtĐối với chúng ta
thì tình cảm có thiên hình vạn trạng, cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình
thân thiết, cái tình ảo mộng, cái tình giây phút, cái tình ngàn thu. Những cái tình
đó đã làm cho các bạn trẻ bấy giờ a thích biết bao.

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

6

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Từ sau cách mạng 1945 đến những năm 1980, cái tôi lãng mạn đã bị đa ra xem
xét một cách bất công, bị gọi là tiêu cực, phản động và bị lên án một cách nặng nề.
Ngay cả Hoài Thanh cũng quay lng lại với đứa con đẻ Thi nhân Việt Nam và
những bài thơ mới là những vần thơ có tội, nó xui ngời ta buông tay cúi đầu, do đó
làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc. Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên...và một số
nhà thơ mới khác cũng quay lại phủ nhận những sáng tác của mình trớc cách mạng.
Trong giới nghiên cứu đa phần cũng đều cho là tiêu cực và có nhiều hạn chế nh Vũ
Đức Phúc, Nh Phong; một số nhà nghiên cứu nh Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn
Hoành Khung, Phan Cự Đệ thì nhìn thấy đợc một số mặt tiến bộ nhng chỉ là phần
nhỏ, không đáng kể. Vấn đề Tình yêu mà phong trào Thơ mới đã đặt ra do đó cũng
bị đẩy lùi và phê phán, không đợc chấp nhận, vì sợ ảnh hởng đến tinh thần chiến

đấu chống kẻ thù của các chiến sĩ.
Thời kì sau 1986 đến nay, cái tôi trong thơ mới đợc nhìn nhận và trả lại sự
công bằng. Ngời ta trở về bản chất của Tình yêu, của cái tôi trữ tình thực sự trong
thơ, nhìn thấy những mặt tích cực của thơ mới, của tình yêu, tâm hồn thi sĩ. Tình
yêu riêng t của đôi lứa lại đợc đánh giá cao và đón nhận trong sự đồng cảm của mỗi
ngời. Hà Minh Đức đã nhận xét rằng: các nhà thơ mới đã đến với tình yêu và xem
tình yêu nh một lẽ sống và niềm hạnh phúc cao nhất của con ngời. Ngày nay,
chúng ta lại có nhiệm vụ nghiên cứu và tiếp tục khám phá thế giới nội tâm sâu sắc
của cái tôi biểu hiện trong Tình yêu.
2.3. Ngời ta thờng hay nói nhiều đến Tình yêu trong Thơ mới, cũng có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến khía cạnh Tình yêu với ý nghĩa là một luận điểm
trong nội dung có tầm khái quát. Còn trong sự nghiên cứu của đề tài này, Tình yêu
là một mảng nội dung lớn của Thơ mới đợc tìm hiểu sâu hơn, kĩ hơn và toàn diện
hơn về sắc thái, cung bậc tình yêu thông qua ba tác giả tiêu biêu của ba thời kỳ: Thế
Lữ _ xuân Diệu _ Vũ Hoàng Chơng.
3. Giới hạn đề tài
Trớc hết, đề tài này đợc tìm hiểu dựa trên nhiều bài thơ tình của phong trào thơ
mới. Sau đó nó tiếp cận cụ thể với các bài thơ tình của Thế Lữ, Xuân Diệu và Vũ
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

7

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Hoàng Chơng đã đợc thống kê trong bảng phụ lục: các bài thơ tình yêu của ba tác
giả.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Chủ yếu là phân tích các trạng thái cảm xúc tình yêu của phong trào thơ mới ,

đặc biệt là của ba tác giả Thế Lữ, Xuân Diệu và Vũ Hoàng Chơng.
So sánh, đối chiếu để thấy đợc các biểu hiện khác nhau trong tình yêu của ba
tác giả tiêu biểu cho các thời kì phát triển của thơ mới.
Đặt cái nhìn tình yêu trong tơng quan thế giới nghệ thuật của mỗi tác giả để
thấy vai trò của cái tôi trữ tình sâu sắc và quan niệm thẩm mĩ tinh tế.
Thống kê các số liệu trong hình thức nghệ thuật biểu hiện tình yêu để nhận ra
phong cách đặc trng trong ngôn ngữ tình yêu của mỗi tác giả.

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

8

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp

Nội dung
Chơng 1: Nhìn lại đề tài Tình yêu trong Thơ mới

(1932 - 1945)
Từ khi thơ mới thắng thế và đẩy lùi thơ cũ, trên thi đàn văn học Việt Nam hiện
đại rầm rộ phát huy cái bản ngã. Tình yêu là một sự biểu hiện của cái tôi rõ rệt khi
tình cảm cá nhân đợc giải phóng hoàn toàn sau một thời gian bị kìm hãm dới chế độ
phong kiến.
Thực ra, chủ đề tình yêu đã có từ lâu trong thơ Đờng hay trong Văn học trung
đại. Nhng do chịu áp lực của những hệ t tởng phong kiến nên các nhà thơ còn có
nhiều hạn chế khi đề cập đến tình cảm nam nữ. Hàng loạt các tác phẩm thời trung
đại có đề cập đến vấn đề Tình yêu nh: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn - Đoàn
Thị Điểm) Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều); Sơ kính tân trang

(Phạm Thái), Truyện Kiều (Nguyễn Du)... đợc xem là những câu chuyện tình
cảm động nhng dù sao cũng cha thực sự bộc lộ hết mọi khả năng và bản chất chân
thực của các sắc thái tình yêu. Điều này là do áp lực bởi các khuôn khổ của lễ giáo
phong kiến, các quy tắc thẩm mĩ, các điển cố, điển tích, ớc lệ tợng trngNgay cả
đầu thế kỷ XX, mối tình của Tố Tâm và Đạm Thuỷ cuối cùng phải thuận theo
nguyên tắc của lễ giáo phong kiến. Vào thời điểm 1932 -1945, chủ đề Tình yêu
ngập tràn trong Thơ mới. Có ngời đã thống kê tới trên 500 bài thơ viết về tình yêu.
Đa số các bài thơ mới đều là thơ tình (trừ Chế Lan Viên trong Điêu tàn). Tình
yêu lúc này mang tính chất là một trào lu, một cuộc cách mạng vì nó đã đợc nhìn
nhận và thể hiện một cách táo bạo, mới mẻ cha từng có. Các nhà thơ đợc tự do nói
về chính mình, bộc lộ những ham muốn và khao khát hởng thụ tình yêu. Cùng với
nó là những cách diễn tả tinh tế về tâm trạng, cảm xúc. Họ nói tới những đau khổ,
buồn vui, hạnh phúc...trong Tình yêu.
Thơ mới - một thứ tình yêu mới.

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

9

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
1.1. Tình yêu - một biểu hiện của cái tôi trữ tình chân thực và đằm thắm
Thơ mới xuất hiện, cái tôi cá nhân có vai trò chủ đạo tạo nên sự mới mẻ trong
thi ca. Khát vọng đợc thành thật với chính mình đợc thể hiện với đầy đủ các ý nghĩa
của nó. Tính chất Trữ tình do đó đã trọn vẹn hơn trong Thơ mới.
Trớc hết, thơ trữ tình là sự thể hiện trực tiếp những cảm xúc và suy t của nhà
thơ hoặc của nhân vật trữ tình trớc các hiện tợng đời sống. Nội dung cơ bản của các
tác phẩm trữ tình là sự thể hiện tâm trạng, trong đó cái tôi trữ tình làm nên nội dung

tác phẩm trữ tình. Do đó, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Có thể nói, sự cá thể hoá cảm nghĩ, tính chất chủ quan hoá của sự thể
hiện là đặc điểm bản chất của thơ trữ tình. Hêghen đã nhấn mạnh bản chất này của
thơ tình: Nguồn gốc và điểm tựa của nó ( thơ trữ tình ) là ở chủ thể và chủ thể là
ngời duy nhất, độc nhất mang nội dung. Bêlinxki cũng cho rằng: Toàn bộ hiện
thực đều có thể là nội dung của thơ trữ tình, nhng với điều kiện là nó phải trở thành
sở hữu máu thịt của chủ thể, gắn liền với sự hoàn chỉnh bản chất chủa chủ thể. Nh
vậy, cái tôi trữ tình nh một nhân tố khởi sự và hoàn tất của sáng tạo trữ tình.
Trong thơ mới, cái tôi trữ tình xuất hiện với đầy đủ diện mạo của nó. Vợt ra
khỏi qui tắc ý tại ngôn ngoại và bản chất phi ngã của văn học trung đại, cái tôi trữ
tình trong thơ mới trực tiếp giãi bày tâm t, bộc lộ tình cảm thông qua cảm xúc và
những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và con ngời. Cái tôi trữ tình đã là một cách
nhìn và cảm nhận về thế giới của chủ thể. Đồng thời, nó đóng vai trò sáng tạo, tổ
chức các phơng tiện nghệ thuật ( thể thơ, hình tợng, vần, nhịp, ngôn ngữ...) để vật
chất hoá thế giới tinh thần thành một hình thức văn bản trữ tình.
Lòng ta sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn hết u buồn của nớc mây
Của những tình duyên thơng lỡ làng
Của lời rên siết gió heo mây
(Hàn Mặc Tử)
Bốn câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của cái tôi buồn sầu đến tột độ, những ngôn từ
đợc bộc bạch với sắc thái mạnh: sầu thảm, u buồn, lỡ dở, rên siết, cờng
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

10

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp

điệu mang tính bi kịch, để làm nổi bật sự tuyệt vọng của chủ thể trữ tình. Tình yêu
chính là một tiêu điểm, một đề tài có ý nghĩa phổ biến và thể hiện cái tôi trữ tình sâu
sắc của mình.
1.2.1. Lịch sử thơ ca Việt Nam nói chung và Thơ mới nói riêng, có những bài
thơ vợt thời gian chính là những bài thơ đã diễn tả đợc những tình cảm chân thành,
lắng đọng. Chỉ những lời xuất phát từ trái tim ngời nghệ sĩ mới đến đợc với trái tim
độc giảTình yêu trong Thơ mới đã bác bỏ quan niệm lỗi thời, khép kín của ngời xa
và chủ động đờng hoàng nói về nó. Do đó, biểu hiện trớc hết của Tình yêu trong
phong trào Thơ mới là sự chân thành và cởi mở. Các nhà thơ đề cập đến Tình yêu
mà không chút giấu giếm, che đậy:
Yêu đi, yêu nữa và yêu mãi
(Thế Lữ )
Khẳng định tình yêu là lẽ sống:
Làm sao sống đợc mà không yêu
Không nhớ không thơng một kẻ nào
(Xuân Diệu )
Cái tôi trữ tình đã khao khát bộc lộ tình yêu chân thành, sôi nổi, thiết tha của
mình, muốn hiến dâng tất cả những gì đẹp đẽ nhất, cao quý nhất cho ngời mình yêu.
Họ thổ lộ tình cảm và phát biểu về chân lý của Tình yêu:
Yêu là chết trong lòng một chút
( Xuân Diệu )
Vì thế, sự biểu hiện của Tình yêu gắn liền với cảm xúc chân thành và nâng nó
lên thành chủ nghĩa ái tình, góp phần làm ấm nóng cuộc đời và tô điểm cho nhân
gian:
Yêu anh em hoá yêu đời
Theo anh chắp cánh tung trời bay cao
(Hằng Phơng )

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung


11

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Đọc thơ tình của họ, chúng ta có cảm giác nh nhìn thấy, thậm chí đứng gần và
đối diện với tâm hồn, với tình yêu của họ. Trong khi đó, ở văn học cổ, điều đó dờng
nh không thể có, bởi các nhà thơ đã cố tình giấu nó đi, không để lộ ra ngoài, khiến
cho ngời đọc khó nhận diện đợc Tình yêu, nh:
Tình th một bức phong còn kín
(Cây chuối - Nguyễn Trãi)
ở Thơ mới, cái tôi trở thành trung tâm của thế giới lãng mạn, Tình yêu lai
chính là cốt lõi của lòng ngời. Có khi ngời ta tự nhận mình là một kẻ tình si, một
kẻ yêu điên cuồng:
Tôi là một kẻ điên cuồng
Yêu những ái tình ngây dại
(Xuân Diệu)
Nhng lại là sự điên cuồng chân thật và có thực trong trạng thái của ngời đang yêu.
Cách thể hiện tình yêu chân thành và đằm thắm là một quan niệm mới mẻ của
Thơ mới, có tính chất tuyên truyền về một tình yêu tự nhiên, vốn có của nó. Nhiều
nhà thơ tình nổi tiếng đã xất hiện trong thời điểm này. Cùng với ông hoàng tình
yêu Xuân Diệu thì Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chơng...đều
là những thi sĩ của tình yêu. Chúng ta nên nhớ rằng: phong trào thơ mới xuất hiện
trong thời kì khủng bố và khủng hoảng về kinh tế. Xã hội rối ren đã kéo theo những
biến động về chính trị, văn hoá và cả những quan điểm thẩm mĩ. Các nhà thơ mới
chủ trơng xây nên những tháp ngà nghệ thuật để chạy theo cái đẹp, tôn thờ cái đẹp
và Tình yêu. Họ thoát ly hiện thực bằng nhiều con đờng: họ vào cõi tiên, lên vũ trụ,
tìm về thế giới của những u hồn, ma quái...phổ biến hơn là thoát li vào tình yêu.
Phan Cự Đệ đã nhận xét nh sau: Trốn vào Tình yêu là con đờng phổ biến nhất, bất

cứ nhà thơ nào cũng có mơi mời lăm bài thơ tình. Nhng trong vỏ bọc Tình yêu, họ
lại tìm thấy chính mình. ở nơi đó, họ đã nhóm lên ngọn lửa tình trong thơ ca mà

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

12

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
bấy lâu nay cha có dịp cháy lên một cách mãnh liệt nh thế. Phần lớn họ miêu tả ái
tình, mà là sự miêu tả hết sức nồng nàn và sâu thẳm, có lúc đẹp và ý vị vô cùng:
Một buổi tra không biết ở thời nào
Nh buổi tra hè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bớm vàng nữa chứ
Mà đôi lứa đứng bên vờn tình tự
(Huy Cận)
Hay có khi thổ lộ Tình yêu thật duyên dáng:
Hồn anh nh hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em
(Nguyễn Bính)
Và luôn đọng lại nỗi nhớ:
Trông nhau bữa ấy, bây giờ nhớ nhau
(Huy Cận )
Có thể nói, cái tôi trữ tình trong thơ mới đã nhận thức đựoc rằng: Tình yêu
tồn tại mãi mãi với con ngời, với cuộc đời trên thế gian này. Cho nên không có gì
mà phải khép kín lòng mình, giấu đi cái bản chất thực sự của tình yêu. Chính vì thế,
Thơ mới đã mang đến thứ tình yêu chân thật nhất, đầy đủ ý nghĩa nhất đến với trái
tim ngời đọc.

1.2. Sắc thái biểu hiện đa dạng của Tình yêu trong Thơ mới
Đối với tình yêu trong phong trào thơ mới, nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận
thấy: Tình yêu đã đi suốt một hành trình với tất cả trạng thái cung bậc của nó,
không chút rùt rè, e dè, càng không có chút ngợng ngập xấu hổ
Các thi sĩ mới đã nhận nhận thấy: trái tim tình yêu không bao giờ đơn giản,
nó đợc cấu tạo bằng chất liệu đặc biệt, trong đó tiềm ẩn mọi sắc thai: từ bâng
khuâng, ngại ngùng đến cháy bỏng, rạo rực; có sung sớng, hạnh phúc, lại có những
thiếu thốn khổ đau và cả những tuyệt vọng... Nó có biểu hiện phong phú, muôn
hình muôn vẻ trong Thơ mới.
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

13

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Vào giai đoạn đầu của phong trào Thơ mới, khi mới chạm chân vào ngỡng cửa
của Tình yêu, một số nhà thơ nh Thế Lữ, Nguyễn Nhợc Pháp... thờng khai thác Tình
yêu ở vẻ nguyên sơ ban đầu:
Cái thở ban đầu lu luyến ấy
Nghìn thu cha dễ đã ai quên
(Thế Lữ )
Thấp thoáng những nét hồn nhiên, rung động đầu đời, gặp nhau rồi yêu nhau
từ lúc nào chẳng hay, chỉ bắt gặp vẻ ngẩn ngơ của cô gái mới tuổi mời lăm:
Ngun ngút khói hơng vàng
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng
(Nguyễn Nhợc Pháp)

Nhà thơ đặt vào tâm hồn các thiếu nữ đang yêu khối tình trong sáng, thơ ngây,
nh nói giùm cho các cô gái cảm xúc hé nụ tình yêu:
Em nhớ lần đầu tiên em biết anh
Nhớ vần thơ mới dệt thêu tình
Lòng em rung động từ hôm ấy
Trong những đêm trăng tởng bóng hình
(Mai Đình)
ở thời kì đầu, cái tôi mới xuất hiện, cho nên Tình yêu đợc biểu hiện với tất cả
nét đẹp trong sáng. Sắc thái và cờng độ Tình yêu ở chừng mực nhẹ nhàng, có chút
ngập ngừng, khó nói nên lời.
Bớc sang giai đoạn sau (1936 - 1940), Tình yêu trong Thơ mới có biểu hiện
mạnh mẽ hơn, sắc màu tình yêu đợc tô đậm, rõ nét . Tức là mức độ trạng thái cảm
xúc của tâm hồn da diết hơn với những nhớ nhung, chờ đợi, tơng t, thổn thức, khắc
khoải:
Nắng ma là bệnh của giời
Tơng t là bệnh của tôi yêu nàng
(Nguyễn Bính)
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

14

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Thi nhân say mê với tình yêu, sống với Tình yêu bằng cả trái tim:
Yêu em trao cả tâm hồn
Lòng thu ngày vắng, tình dồn dặm xa
(Tế Hanh)
Hay:

Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái, mấy cho say
(Nguyễn Bính )
Nhà thơ Xuân Diệu cũng cha bao giờ ngừng yêu:
Ô tình si
Không có một giờ yên ổn
Không bao giờ có thể nói hết mộng ái ân, tình say đắm của các thi sĩ trong
thơ mới. Không chỉ dừng lại ở đó, sự hấp dẫn của tình yêu là tồn tại khát vọng đợc
cùng ngời yêu hoà làm một, cả tâm hồn và thể xác hoà lẫn vào nhau, chìm đắm mê
mảI:
Ngực sát ngực, môi kề môi
Nàng cùng ta nhìn nhau chẳng dám nói
(Vũ Hoàng Chơng)
Hay:
Tôi nhìn đâu thấy cặp đùi non
Một vẻ tơ mơ, một vẻ ngon
Tôi hốt ghen tuông hình ảnh mộng
Rêm rêm khoái lạc - khói sơng vờn
(Bích Khê)
Chính vì càng đi sâu vào khu vờn tình ái các thi sĩ càng thấy phức tạp và
không tìm đợc lối thoát. ở giai đoạn sau cùng, một số nhà thơ đã đi quá xa tình yêu,
đẩy nó tới miền cực lạc có phần bệnh hoạn nh Vũ Hoàng Chơng hay Bích Khê.

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

15

Lớp 42E4 - Ngữ văn



Khoá Luận tốt nghiệp
Trong tình yêu, nếu không tồn tại khát vọng kiếm tìm nhau, khát vọng hoà
lẫn vào nhau thì có nghĩa là tình yêu không chân thực. Nhng khát vọng đó không
đơn giản bởi nó có thể sẽ đẩy trái tim đến sự đòi hỏi khôn lờng. Mà nh thế, ở chỗ
này hay chỗ khác, không thể tránh khỏi sự ích kỷ trong tình yêu. Tuy nhiên, ngời ta
xem đó là sự ích kỷ không đáng trách, vì bản chất của tình yêu là ích kỷ:
Cô nhân tình bé nhỏ của tôi ơi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cời
Những lúc có tôi và cô chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi
Tôi muốn cô dừng nghĩ đến ai
Đừng hôn dù chỉ thấy đoá hoa tơi
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay biển lắm ngời
(Nguyễn Bính)
Nói cho cùng, sự ích kỷ và ghen tuông ấy cũng bởi do quá yêu mà thôi. Tình
yêu đòi hỏi là của riêng và duy nhất, không chia sẻ. ích kỷ nhng không vị kỷ. Nhà
thơ Tagore có lúc đã thốt lên:
Em là của riêng, của riêng tôi, đang ngự trị trong đỉnh mộng triền miên tôi
hằng ấp ủ
Điều đó cũng bởi xuất phát từ một tình yêu đằm thắm, thiết tha.
Tuy thế, trong thơ mới không ít những cuộc tình tan vỡ. Hơn bao giờ hết, các
thi sĩ đã bộc lộ tâm trạng đau đớn khi đứng bên bờ vực thẳm của tình yêu đổ vỡ. Nỗi
đau xuất phát từ tình ái là nỗi đau không bao giờ có thể lành lặn. Đó là một sự tác
động mạnh gây nên những tổn thơng lớn trong trái tim con ngời. Hai sắc hoa
tigôn là của một tâm hồn đang rỉ máu:
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dới trời đau khổ chết yêu đơng
Ngời xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đờng

(T.T.K.H)
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

16

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Sự hoà hợp trọn vẹn trong tình yêu là điều không thể đến nhng tình yêu luôn
là niềm khao khát cái trọn vẹn ấy.Tâm tình của những cõi lòng buồn sầu tê tái khiến
cho trái tim đôi khi cũng đành chấp nhận:
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm dài liễu khuất với sơng che
Em đừng ngoái lại nhìn anh nữa
Anh biết em đi chẳng trở về
(Thái Can)
Thậm chí có khi nỗi đau ấy đã đẩy con ngời vào trạng thái tuyệt vọng.Càng
yêu thì càng lại bị cô đơn, bị ruồng bỏ, có ngời còn tìm đến những thú vui tầm thờng , bệnh hoạn để quên đi sự tồn tại của mình trên cõi đời.
Trong quan niệm của các nhà thơ mới thì biệt ly, chia lìa, đổ vỡ hay mất mát
thờng gắn liền với nỗi đau mà nỗi lại gắn với cái đẹp. Cho nên tình yêu phải dang
dở, phải có những khổ đau mới là tình yêu đẹp:
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đep khi hãy còn dang dở
(Hồ Dzếnh)
Đó cũng là sự lãng mạn của thơ mới.
Đề tài tình yêu trong thơ mới phổ biến rộng khắp và biểu hiện với tất cả sắc
màu, trạng thái và cung bậc của cảm xúc yêu đơng: vui_buồn, hạnh phúc_ đắng cay,
cả đớn đau, chán chờng, tuyệt vọng trong từng giai đoạn khác nhau của phong
trào thơ mới.


SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

17

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Chơng 2: Tình yêu trong thơ Thế Lữ - Xuân Diệu Vũ Hoàng Chơng
2.1. Thế Lữ
2.1.1. Một cái tôi ban đầu và một tình yêu ban đầu
Cái vinh quang rực rỡ của Thế Lữ có lẽ đã khiến nhiều ngời phải thèm
thuồng (Hoài Thanh). Xuất hiện ở giai đoạn đầu và cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất
của phong trào thơ mới thời kỳ 1932 1945, Thế Lữ mang đến cho ngời đọc một
hồn thơ mới lạ, đậm chất mơ màng mà không cần đến những hình ảnh ớc lệ tợng trng nh ngời ta vẫn thờng sử dụng trớc đó trong văn học trung đại. Đợc đánh giá là
khởi điểm của những khởi điểm (Đỗ Lai Thuý), Thế Lữ là một trong những ngời
đầu tiên của phong trào thơ mới đã ý thức đợc cái tôi đích thực và đa nó vào trong
thơ với t thế đờng hoàng, thẳng thắn.
Thực ra, cái tôi đã có mầm mống trong thơ ca từ rất sớm, trong thơ Hồ Xuân
Hơng, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Họ là những trờng hợp đột xuất của văn học
trung đại,đợc xem là những nhà Nho tài tử, nên thực tế cũng cha vợt khỏi khuôn khổ
thi pháp sáng tác và quan niệm văn học nhà Nho. Đầu thế kỷ XX, Tản Đà là nhà thơ
có cá tính sáng tạo mạnh mẽ, Hoài Thanh đã trân trọng đặt Tản Đà lên trang viết đầu
tiên của công trình nghiên cứu Thi nhân Việt Nam (1941) với t cách là ngời dạo
bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đơng sắp sửa. Bởi vì ở Tản Đà từ
hai mơi trớc đã có một giọng phóng túng riêng. Nhng quan niệm cái tôi cá nhân
thực sự thay đổi và phát huy ảnh hởng nhanh chóng ngay sau khi Phan Khôi cho
đăng baì thơ Tình Già trên tờ Phụ Nữ tân văn (10/3/1932). Sự thức tỉnh cuả cái tôi cá
nhân có mặt trong thơ Thế Lữ, Lu Trọng L, Huy Thông Nguyễn Nhợc Pháp, Vũ

Đình Liên, những nhà thơ đầu tiên của phong trào thơ mới. Ngay từ năm 1934,
Nguyễn Tờng Bách đã viết: Thơ cũ cha bao giờ tả đợc nh thơ mới những cảnh vui
buồn, âm thầm hay lộng lẫy, những nỗi yêu thơng, nhớ tiếc hay lo sợ, những tính
tình trong lòng ngời, cao hơn nữa là những sự huyền bí nhiệm màu của đời ngời và
của vũ trụ. Những bài thơ của ông Thề Lữ đã tỏ ra rằng, thơ mới đã vợt qua những
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

18

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
khuôn khổ chật hẹp của thơ văn cũ mà đi vào con đờng khác rộng rãi, tốt đẹp hơn
nhiều. Và đó cũng là con đờng đã chứa đựng tất cả những nét đẹp của thuở ban
đầu- thuở mà ngời ta đã ý thức đợc cái tôi cá nhân và tự trả lại cho mình quyền
sống và yêu, quyền luyến ái bằng cả trái tim, bằng chính con ngời mình:
Lòng ta khao khát đợm tình yêu
Nh cảnh trời xuân luyến nắng chiều
(Giây phút chạnh lòng)
Đó là một thứ tình đờm đợm của thuở ban đầu trong phong trào thơ mới
2.1.2. Tình trong cõi mộng
Chàng trai đa tình ấy cha có một tình yêu thực sự trong thơ, lại càng cha
dám đi vào một tình yêu trần tục, mà chỉ có thể e dè, lấp ló nơi ngỡng cửa mà thôi.
Bớc đi đầu tiên của tình yêu trong thơ mới là bớc đi dè dặt, ngại ngùng của Thế Lữ .
Cái tôi của thời kỳ đầu trong thơ Thế Lữ bộc lộ tình yêu giống nh một cô gái mới
lớn ý tứ và giũ gìn (Hoài Thanh). Đỗ Lai Thuý đã nói, đó là biểu tợng của tôi mới
ở thức tỉnh ở Thế Lữ . Sự thức tỉnh ấy đã mở đầu cho những tình yêu quá bạo dạn
thờng xuất hiện sau này trong thơ Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chơng hay nhiều nhà thơ
khác.

Thế Lữ đã tạo dựng nên một kiểu tình yêu khiến cho ngời đọc có cảm giác đi
trong một cõi mộng xa xăm. Đó là một thứ tình không cụ thể, không rõ ràng, nó gần
giống nh tình yêu cảm tính của một anh chàng mới lớn. Cái hơng vị thơ ngây ban
đầu còn vơng vấn chút gì bâng khuâng, man mác , yêu thầm kín trong lòng mà
không dám thổ lộ cùng nhau:
Yêu hết một mùa đông
Nhìn nhau không dám nói
Ngời khách bộ hành phiêu lãng Thế Lữ thích rong ruổi và đa tình ấy đi bất cứ
nơi nào cũng vơng lại một chút hồn ngây thơ. Nhiều lúc ngỡ tởng nh Thế Lữ đang
đa lời bông đùa, trêu ghẹo, nên câu thơ có gì nh lả lớt, giễu cợt:

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

19

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
ấy đăm đắm mơ mòng chi đó
Hỡi cô em mà đó hây hây ?
Hỡi cô thiếu nữ trong mây
Thẫn thờ nhìn chiếc én bay lng trời
(Hồ xuân và thiếu nữ)
Rồi có lúc hỏi bâng quơ:
Kìa cô con gái thẫn thờ
Đứng trên đỉnh núi trông chờ ai đây
(Mấy vần thơ ngây)
Đôi khi lại nói:
Mấy hàng lau yếu nghiêng mình

Cô em bỗng ngẩn ngơ tình vì đâu.
(Hồ xuân và thiếu nữ)
Có lẽ những câu hỏi mà Thế Lữ đa ra không buộc ngời đẹp phải trả lời, và ý
thơ đó thì không phải là sự bông đùa giễu cợt. Kẻ tình si ấy là một con ngời đa
sầu, dờng nh mỗi thiếu nữ mà Thế Lữ đã gặp trong đời, dù chỉ là thoáng qua và đi
vào trang thơ của thi sĩ, hẳn tâm hồn của ngời thi sĩ ấy đã lắng đọng trong cảm xúc
của ngời thiếu nữ. Cho nên, đó phải là một sự trân trọng vô cùng, thậm chí là sự tôn
thờ, ngỡng vọng. Hoài Thanh đã nói: Thế Lữ là một ngời khát yêu, lòng mở sẵn để
đón một tình duyên không thấy tới . Một trái tim chân thành tha thiết nh ng lại
giấu kín trong lòng:
Tôi muốn dâng tấm tình yêu tha thiết
Yêu say mê đắm đuối cho giai nhân
(Lời mỉa mai)
Tâm hồn Thế Lữ sẵn sàng đón nhận tình yêu nhng tình yêu lại không nằm
trong tầm tay của thi sĩ.

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

20

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Không giống với Xuân Diệu hay Vũ Hoàng Chơng, tình yêu của họ đã đi
qua cái thầm kín của Thế Lữ để đến với một cái tình đòi hỏi, phải luôn nói yêu và
dù yêu tha thiết vẫn không bao giờ thấy đủ:
Yêu tha thiết, thế vẫn còn cha đủ
Nếu em yêu mà chỉ để trong lòng
Không tỏ hay, yêu mến cũng là không

Và sắc đẹp chỉ làm bằng cẩm thạch
Anh thèm muốn vô biên và tuyệt đích
Em biết không? Anh tìm kiếm em hoài
(Xuân Diệu)
Yêu đến cháy cả cõi lòng:
Lòng cháy yêu đơng tự bấy giờ
Sá chi ngoài thực với trong mơ
(Vũ Hoàng Chơng)
Tình yêu của Xuân Diệu và Vũ Hoàng Chơng đã có những lúc đi đến bến bờ
tuyệt vọng, khổ đau đến không tìm đợc lối thoát cho tâm hồn. Với Thế Lữ, tình yêu
lại dìu dịu và thoang thoảng một nỗi buồn, một sự rung động êm ái, một chút bâng
khuâng đủ để đa ngời đọc vào cõi mộng mơ. Ví nh, có lúc chàng thi sĩ đa tình ấy
buồn - một nét buồn thẩn thờ, hụt hẫng cho hơng tình thở xa chàng từng dành cho
ngời yêu dấu:
Ngày trớc mỗi khi qua bên sông
Văng vẳng đa sang tiếng em hát
Ta thôi ngắm trới xanh áng mây hồng
Ta quên dạo vờn hoa gió ngát bay
Ngày nay, ta cũng qua bên sông
Lắng tai, không thấy tiếng em hát
Ta hỏi thăm: em đã đi lấy chồng
Trời nặng, mây mờ, gió hơng cũng nhạt
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

21

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp

(Khúc hát bên sông)
Ngời thiếu nữ xa xa đã làm cho chàng thi sĩ có lúc ngẩn ngơ tình, nay lại
cũng buồn vì nó:
Yêu em từ đó ta phơi phới
Sống trong nguồn thú đắm say
Nhng cũng sống trong đau khổ nữa
Miệng cời trong lúc nhắm cay
(Yêu)
Tình yêu la cái đẹp, nỗi buồn là cái đẹp, mà cái đẹp của Thế Lữ lại ở cõi tiên,
cõi mộng, ở một nơi xa xôi mờ ảo, mịt mùng sơng khói và thấp thoáng những mối
tình h vô.
2.1.3. Hình ảnh ngời yêu và một chút đam mê dè dặt
Thế Lữ cha có một tình yêu thực sự , nhng trong thơ lại có rất nhiều thiếu nữ
yêu kiều,dịu dàng và âu yếm. Hoài Thanh đã cảm nhận thật tinh tế: Trong thơ
Thế Lữ thấp thoáng hình ảnh không biết bao nhiêu là ngời. Mỗi thiếu nữ đã đi qua
trong đời thi nhân hay trong trí tởng tợng của thi nhân đều mang theo một chút hơng
ân ái Và Hoài Thanh cũng phát hiện: không biết bao nhiêu lần thi nhân tả
ngời đẹp với những nét tinh tế, dịu dàng và âu yếm. Ngời thấy rõ:
Trên vầng trán thơ ngây, trong sáng
Vẩn vơ qua một áng hơng buồn
Ngời lặng nhìn:
Đôi mắt cô em nh say, nh đắm
Nh buồn trông hình ảnh giấc mơ xa
Ngời mải mê lắng nghe tiếng hát của ngời đẹp:
''Tiếng hát trong nh nớc ngọc tuyền
Em nh hơi gió thoảng cung tiên
Cao nh thông vút, buồn nh liễu
Nớc lặng, mây ngừng, ta đứng yên""
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung


22

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
Ngời đọc có thể nhận thấy rõ chân dung mỹ miều, thớt tha ngời thiếu nữ, nhng cũng cảm nhận đợc trên khuôn mặt, trong nụ cời hay trong dáng điệu phảng phất
đâu đó một nỗi buồn xao xuyến. Dờng nh nó đã xâm chiếm và lan toả trong tâm
hồn của thi sĩ.
Thế Lữ là ngời tôn thờ cái đẹp, cho nên cách yêu của Thế Lữ có một sự cẩn
trọng và dè dặt. Có lẽ, do xuất hiện trong sự chuyển giao giữa thơ cũ và thơ mới, cái
tôi cá nhân còn có phần ái ngại, rụt rè nên không tránh khỏi những ngại ngần, e ấp:
Ta muốn nâng
Tấm khăn hồng lau mắt lệ cho ai
Vì ta sợ má đào kia phai
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Bởi sợ đôi má đào kia sẽ phai mất trong ngấn lệ của ngời yêu nên Thế Lữ
tỏ ra cẩn thận trong từng chỉ, từng hành động nhỏ đối với ngời yêu.Thi sĩ muốn ấp ủ
trong tâm hồn hơng vị ngọt ngào, hơng vị của vẻ tinh khôi, trong sáng và huyền
diệu.
Nếu nh Xuân Diệu khao khát đợc gần gũi để ôm, để ghì, riết, cắn,
siết, ngời yêu cho thoả lòng, và đòi hỏi một cách mạnh mẽ, quyết liệt một sự
hoà quện đắm đuối thực sự cho tình yêu:
Em phải nói, phải nói và phải nói
Bằng lời riêng nơi cuối mắt đầu mày
Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn chiều say
Bằng đầu ngả, bàng miệng cời tay riết
(Phải nói - Xuân Diệu)
Thì với Thế Lữ, thi sĩ lại luôn giữ cho mình một khoảng cách từ xa. Không
phải là thi sĩ không đủ tự tin để tiến lại gần ngời yêu ghì thật chặt, siết thật chặt, mà

Thế Lữ giữ cho mình một chút hơng ân ái, một chút đam mê dè dặt. Phải chăng có
một điều khác nữa, là bởi trong tình cảm của Thế Lữ còn có gì đó mơ hồ, không rõ
ràng, cho nên Đỗ Lai Thuý đã nói nó còn nằm trong cõi mù mờ, còn cha định hình
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

23

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
diện mạo, thi nhân gọi thứ sơng mù nội tâm đó là bâng khuâng, man mác. Có lẽ
Thế Lữ đã không nhận định đợc tình yêu, chỉ thấy mình là con ngời vơ vẩn, là
khách tình si, là ngời mơ mộng và chỉ nhấm nháp tình yêu của mình bằng cách
ngắm nhìn từ xa:
Cô em đứng bên hồ
Nghiêng tựa mình cây, dáng thẩn thơ
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Đợc ngắm nhìn và chiêm ngỡng vẻ đẹp của ngời yêu, đó đã là một sự vuốt ve
êm ái, làm xích lại gần nhau hơn giữa hai tâm hồn đồng diệu. Thế Lữ không bao
giờ để tình yêu sa vào thứ hành lạc dung tục tầm thờng, mà muốn chấp chới nơi cõi
tiên, nơi mà cái đẹp và tình yêu luôn tồn tại trong trẻo đầy hơng hoa cùng tình ái du
dơng.
Là một thứ tình của cõi mộng, mơ màng, xa xăm, cho nên thú đắm say, mê
mải cũng mơ màng, nh thực thực h h:
Cánh tay ngà ngà lơi lả
Vít chĩu nhánh cây xanh
Lá vàng bay lả tả
Nh bớm lợn quanh mình
Làn sóng mắt ngây thơ

Nét miệng cời tơi thắm
Chân đá nớc hững hờ
Khiến cho ta mê đắm
(Mộng ảnh)
Nhà thơ thờng ngắm rất kỹ từng dáng điệu thẩn thờ, từng nụ cời ngây thơ,
từng tiếng hát trong trẻo và cả những ánh nhìn xa xăm. Đối với với thi sĩ, chỉ nh thế
là tình yêu đã đủ rồi, đủ để cảm nhận đợc nó đẹp. Đam mê của Thế Lữ với ngời tình
nhè nhẹ, chỉ mang theo một chút hơng êm ái, thậm chí với họ, Thế Lữ còn cha

SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

24

Lớp 42E4 - Ngữ văn


Khoá Luận tốt nghiệp
đủ thân mật để gọi bằng em, thi nhân chỉ gọi bằng cô em, nghe lẳng lơ mà xa
vời và thiếu tình ấm áp (Hoài Thanh). Nhà thơ chỉ có thể:
Thổn thức với lòng cô thổi thức
Man mác với lòng cô man mác
(Tiếng trúc tuyệt vời)
Bởi ngời tình của thi sĩ đẹp nh một bông hoa rừng:
Ta ôm thiếu nữ trong lòng
Ngời yêu thoắt biến thành bông hoa rừng
(Bông hoa rừng)
Sau này, không phải có lúc Thế Lữ không rơi vào truỵ lạc. Nhng khi Vũ
Hoàng Chơng tuyệt vọng và tìm đến những thú vui vật chất tầm thờng nơi bùn nhơ
hạ giới, Thế Lữ lại quẩn quanh âu sầu, tâm hồn nặng trĩu với h không. Thời ấy,
khách phong trần thờng tìm đến gái giang hồ để giải khuây. ở đó ngời ta tìm đợc

bạn tình cho mình chăng? Dù vẫn biết thế là ô nhục, nhng ở những cô gái làng chơi,
ngời thi nhân lại có thể trải lòng nhẹ nhỏm, gửi gắm tâm sự. Nhng cũng không thể
phủ nhận Thế Lữ cũng từng có những giây phút hoan lạc cùng họ để rồi nuối tiếc
khi tỉnh laị:
ồ ! Những tấm thân nõn nà nghiêng ngửa
Những chặng cời khoái lạc, giọng ròn tan
Những điệu lẳng lơ khiêu khích nồng nàn
Những khúc hát lả lơi hay uỷ mị
(Trụy lạc)
Cho đến khi Thế Lữ truỵ lạc thì trong phong trào thơ mới giai đoạn này
(1941) có rất nhiều thi sĩ đã tỏ ra chán chừơng, mất phơng hớng và không làm chủ
đợc bản thân. Tuy nhiên, ở Thế Lữ ngời đọc vẫn luôn nhìn nhận ở một cái tôi ban
đầu còn dè dặt, trong sáng. Giống với Xuân Diệu, Thế Lữ đến và tìm đợc sự đồng
cảm của những tâm hồn đau khổ, không có đợc một tình yêu thực sự:
SVTH: Nguyễn Thị Thuỳ Dung

25

Lớp 42E4 - Ngữ văn


×