Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến tây âu thời trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.67 KB, 56 trang )

1

Mục lục
Trang
1

Mở đầu
Chơng 1: Quá trình hình thành tầng lớp nông nô

1.1.

ở Tây âu thời trung đại.

Lệ nông thời hậu kỳ đế chế La mã - Tiền thân của
nông nô thời trung đại.
8
1.1.1. Khủng hoảng của chế độ nô lệ trong đế quốc Tây La Mã.
1.1.2. Chế độ lệ nông thời hậu kỳ đế chế La Mã.
10

8

1.2. Sự xuất hiện công xã Mác-cơ và quá trình nông nô
hoá của ngời xã viên công xã.
13
1.2.1. Sự thành lập vơng quốc Man tộc của ngời
Giec man trên lãnh thổ đế quốc Tây La Mã
13
1.2.2. Công xã Mác cơ và quá trình nông nô hoá của
ngời xã viên công xã
15


Chơng 2: Đặc điểm chủ yếu về đời sống của tầng

lớp nông nô ở Tây âu thời trung đại.

2.1 Đặc điểm về đời sống kinh tế
2.1.1. Tính chất tự cung, tự cấp và phụ thuộc vào
lãnh địa của ngời nông nô
2.1.2. Ngời nông nô không có quyền sở hữu ruộng đất,
bị gắn chặt vào ruộng đất

26
26
29

2.1.3. Nông nô bị bóc lột địa tô phong kiến bằng
hình thức cỡng bức siêu kinh tế

32

2.1.4. Nông nô phải thực hiện những đảm phụ
2.2.

phong kiến nặng nề

40

Đặc điểm về đời sống chính trị, xã hội.

42


2.2.1. Nông nô không có quyền lợi về chính trị

43

2.2.2. Ngời nông nô bị bóc lột bằng nhiều thứ thuế vô lý

44

2.2.3. Địa vị xã hội của tầng lớp nông nô rất thấp kém

46

Chơng 3 : Các cuộc đấu tranh để tự giải phóng của
tầng lớp nông nô ở Tây Âu thời trung đại.
3.1. Những hình thức phản kháng đầu tiên chống lại
lãnh chúa phong kiến.
3.2. Sự tiếp tục của các cuộc đấu tranh giải phóng
nông nô thời trung và hậu kỳ trung đại.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu

48
51


2

3.3. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử các
cuộc đấu tranh của nông nô.


57

Kết luận

61

Tài liệu tham khảo

64

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử thế giới trung đại về cơ bản là thời kỳ thống trị của chế độ phong
kiến. ở Tây Âu, chế độ phong kiến ra đời từ năm 476, khi đế quốc Tây La Mã sụp
đổ và kết thúc lúc cách mạng t sản Anh bùng nổ (1640). Đó là mốc chung cho chế
độ phong kiến thế giới. Tây Âu là nơi chế độ phong kiến phát triển điển hình, vì vậy
nó đã đợc giành một vị trí và thời gian xứng đáng trong chơng trình lịch sử thế giới
trung đại. Đồng thời, từ lâu nó đã thu hút chúng tôi vào việc nghiên cứu, làm sáng tỏ
những vấn đề mà chúng tôi cha có dịp tìm hiểu hoặc hiểu sơ lợc.
Đặc biệt là vấn đề về nông nô (lực lợng sản xuất chính trong xã hội phong
kiến), về quá trình hình thành, đặc diểm chủ yếu và phong trào đấu tranh của họ.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


3

Về cơ bản đây là vấn đề xuyên suốt lịch sử thế giới trung đại, sự tồn tại của nông
nô cũng đồng thời là sự tồn tại của chế độ phong kiến. Vì vậy, đối với một ngời
giảng dạy môn lịch sử, việc đi sâu tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong

kiến Tây Âu, theo chúng tôi là một trong những nhiệm vụ cần thiết.
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về xã hội
phong kiến Tây Âu. Từ đó có thể khẳng định rằng thời trung đại đã tồn tại một
phơng thức sản xuất riêng biệt, đó là phơng thức sản xuất phong kiến. Phơng thức
sản xuất đó mang những đặc điểm, nội dung, tính chất khác với các phơng thức
sản xuất chiếm hữu nô lệ hay t bản chủ nghĩa. Điều đó đã gạt bỏ quan điểm cho
rằng phơng thức sản xuất phong kiến không phải là phơng thức sản xuất độc lập.
Thực hiện đề tài này đã giúp chúng tôi hiểu rõ về những ngời nông nô - một
trong hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến, mà trong quá trình học tập trớc
đây cha hiểu rõ hay do giới hạn chơng trình và thời gian học tập mà cha có dịp
tìm hiểu. Trong quá trình học tập ở trờng mặc dù tôi đã đợc đọc nhiều tác phẩm
đề cập đến chế độ phong kiến, về nông nô, song những tri thức đó còn tản mạn,
không có hệ thống. Nghiên cứu đề tài này đã cho chúng tôi một may mắn để đa
một phần rất nhỏ những tri thức thu nhận đợc vào hệ thống chuyên đề. Trên cơ sở
đó không chỉ hiểu rõ về con ngời đợc gọi là nông nô trong xã hội phong kiến,
mà còn có thể so sánh và làm sáng tỏ thêm vấn đề ngời nông dân trong xã hội
phong kiến phơng Đông, mà sau này có dịp chúng tôi sẽ nghiên cứu. Điều chủ
yếu là qua đó sẽ thấy đợc vai trò, vị trí quan trọng của lực lợng sản xuất chính
trong xã hội mà trong các hình thái kinh tế xã hội khác cũng có, chẳng hạn nh nô
lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ hay vô sản trong xã hội t bản. Đồng thời có thể
so sánh nông nô với nô lệ cũng nh với vô sản. Nhận thức đợc nỗi khổ đau của ngời nông nô là một trong những cơ sở để hiểu rõ về tầng lớp áp bức bóc lột họ lãnh chúa.
Nghiên cứu tìm hiểu về tầng lớp nông nô không chỉ để hiểu về hiện tại mà
còn để hiểu thêm về xã hội tơng lai (T bản chủ nghĩa). Thật khó có thể hiểu hết
đợc xã hội phức tạp nh xã hội t bản phơng Tây nếu không hiểu đợc xã hội trớc
đó. Từ đó ta thấy đợc giá trị của tự do trong cuộc sống, nhất là đối với những ngời lao động, thấy đợc sự vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động do

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


4


cách mạng chủ nghĩa xã hội mang đến, thấy đợc sự tự do chân chính mà con ngời
trong chế độ xã hội chủ nghĩa đợc hởng.
Giải quyết đề tài này đã giúp ích chúng tôi rất nhiều trong nghiệp vụ s
phạm. Trên cơ sở hiểu đợc những ngời nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu đã
giúp chúng tôi hiểu và nắm vững toàn bộ lịch sử của chế độ phong kiến, nó có tác
dụng lớn trong quá trình giảng dạy sau này. Là một giáo viên giảng dạy môn lịch
sử, theo chúng tôi, có đợc vốn tri thức cần thiết cha đủ mà điều cơ bản là phải hiểu
nó, biến nó thành những tri thức nhuần nhuyễn, có hệ thống, để có thể truyền đạt
cho học sinh. Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng tôi có kiến thức để liên hệ
với các thời kỳ lịch sử khác nhau, nâng cao tầm hiểu biết cho bản thân.
Ngoài ra đây là lần đầu tiên tôi nghiên cứu một đề tài khoa học, mặc dù
kết quả còn nhiều hạn chế, nhng dẫu sao nó đã cho tôi có dịp làm quen bớc đầu
với công tác nghiên cứu khoa học, rèn luyện trong một chừng mực nào đó cách
viết, khả năng lập luận, bố cục đề tài, cách đọc, su tầm tài liệu và chọn lọc những
vấn đề cần thiết cho đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
Vấn đề về phơng thức sản xuất phong kiến và chế độ nông nô ở Tây Âu từ
lâu đã đợc sự quan tâm và chú ý của các nhà sử học trong và ngoài nớc. ở Việt
Nam, do những yêu cầu của công tác giảng dạy và học tập lịch sử ở các trờng Đại
học S phạm và Tổng hợp, nhiều nhà sử học qua nhiều năm nghiên cứu đã biên
soạn đợc bộ giáo trình "Lịch sử Thế giới trung đại" (1978). Những năm gần đây,
một bộ giáo trình mới đợc viết tốt hơn, hoàn chỉnh hơn đã ra đời phục vụ kịp thời
cho việc giảng dạy và học tập khoa Lịch sử ở các trờng s phạm. Tuy nhiên với
tính chất của một bộ giáo trình, tài liệu học tập của sinh viên ngành sử, nó không
thể đi sâu tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu đợc mà nội
dung cuả nó là đề cập đến tất cả các mặt từ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá ở
thời trung đại. Thầy Đặng Đức An cũng đã có một hệ thống chuyên đề để phục
vụ cho việc giảng dạy: "Đặc điểm của phong trào nông dân Tây Âu thời trung
đại", "Phong trào nông dân Tây Âu thời trung đại", "Ngời nông dân trong xã hội

phong kiến Tây Âu" Tuy nhiên, đó là những chuyên đề viết ra để phục vụ cho

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


5

giảng dạy nên tác giả chỉ trình bày ở dạng đề cơng, nêu những nét cơ bản nhất
của ngời nông dân Tây Âu mà thôi.
Phải nói rằng ở nớc ta hiện nay cha có những công trình bàn về tầng lớp
nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu. Theo chúng tôi đây là điều dễ hiểu. Nớc ta có vị trí địa lý cách xa Tây Âu, lại có sự khác biệt về chế độ chính trị nên
không có điều kiện khảo sát tận nơi sự kiện đã xẩy ra. Nhất là trong điều kiện
kinh tế của đất nớc, nên ta vẫn cha dịch đợc tất cả các t liệu gốc thời trung đại
nh Liên xô đã làm. Vì vậy, trong chừng mực nhất định đã hạn chế việc nghiên
cứu của các nhà sử học rất nhiều.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài này là tập trung vào những ngời nông nô và
những kiến thức liên quan. Từ đó làm sáng tỏ quá trình hình thành, đặc điểm về
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và phong trào đấu tranh của họ. Do cha từng
thực hiện những đề tài khoa học nên đây là một đề tài tơng đối khó với tôi. Phạm
vi của nó rất rộng, gần nh hết cả thời trung đại Tây Âu. Trên thực tế, chế độ nông
nô chỉ điển hình vào sơ kỳ và đầu trung kỳ trung đại nhng phải tìm hiểu cả một
quá trình tồn tại của chế độ phong kiến. Hơn nữa nghiên cứu về một xã hội đã
qua hàng thế kỷ, tài liệu hiếm hoi quả thực là khó.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.
Có thể nói rằng nguồn tài liệu để tham khảo về thời trung cổ là rất ít. Đối
với khoa học xã hội khi nghiên cứu về bất cứ vấn đề nào thì các tác phẩm của
những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê Nin là nguồn tài liệu quan trọng , nhất là
với khoa học lịch sử. Đề tài này cũng có những tác phẩm tiêu biểu đề cập tới nh
"T bản" Nguồn gốc của gia đình, của chế độ t hữu và của Nhà nớc", "Hệ t tởng

Đức", "Cách mạng dân chủ t sản ở Đức", "Chống Đuy rinh" của Mác và Ăng
ghen, "Bàn về nhà nớc", "Sự phát triển về chủ nghĩa T bản ở Nga" của Lê Nin.
Trong đó Mác, Ăng ghen, Lênin khi nghiên cứu về xã hội T bản đã đề cập mọt
cách sâu sắc đến chế độ nông nô ở Tây Âu. Mặc dù cha có tác phẩm nào chuyên
bàn về chế độ nông nô nhng những vấn đề cơ bản của chế độ đó đã đợc đề cập

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


6

trong các tác phẩm của họ. Tất cả đã trở thành cơ sở cho các nhà nghiên cứu đi
sâu tìm hiểu về ngời nông nô ở Tây Âu. Đó cũng là tài liệu quan trọng cho đề tài
này.
Các nhà sử học Xô viết là những ngời đầu tiên tiếp thu ý kiến của Mác,
Ăng ghen, Lê nin về chế độ phong kiến để làm cơ sở cho chơng trình nghiên cứu
của họ. Trong tác phẩm "Lịch sử kinh tế các nớc (ngoài Liên xô ) "của tác giả
F.Ia.Pôlianxki tác giả đã trình bày khá chi tiết quá trình phong kiến hoá, sự phát
triển và tan rã của chế độ phong kiến châu âu. Tuy nhiên đây là một tác phẩm
chuyên bàn về kinh tế nên nó cha phải là một tác phẩm chủ yếu để có thể nghiên
cứu về tầng lớp nông nô ở Tây Âu.
Mặc dù vậy, trong quá trình tìm hiểu đây là những tài liệu góp phần vào việc
nghiên cứu đề tài này. Đặc biệt những tiểu luận tốt nghiệp sau đại học nh "Phong
trào nông dân Tây Âu thời hậu kỳ trung đại", "Quá trình giải thể chế độ nông nô ở
Tây Âu" hay "Đặc điểm của chế độ phong kiến - nông nô ở Tây Âu " đã giúp
chúng tôi rất nhiều trong quá trình tìm hiểu.
Phải nói rằng, theo chúng tôi biết, hiện nay cha có một tác phẩm nào bàn
về tầng lớp nông nô ở Tây Âu, kể cả những tác phẩm nớc ngoài đã đợc dịch hay
cha. Có chăng khi ở chỗ này khi ở chỗ khác, ở một vài cuốn các tác giả khi bàn
về chế độ phong kiến đã đề cập qua chút ít về ngời nông nô và sự giải phóng của

họ khỏi thân phận lệ thuộc, song quả thực còn quá hiếm hoi. Điều này đã gây
những khó khăn lớn cho chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
Để nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã tổng hợp, thu thập các t liệu để phân
tích đánh giá vấn đề một cách sát thực, đảm bảo tính chính xác và khách quan của
lịch sử. Trên cơ sở đó không phải là mong muốn có những đóng góp mới vào khoa
học lịch sử mà chỉ có thể khái quát hoá và hệ thống hoá một vấn đề lịch sử.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo còn có các nội
dung chính nh sau:
Chơng 1: Quá trình hình thành tầng lớp nông nô

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


7

ở Tây âu thời trung đại.
1. Lệ nông thời hậu kỳ đế chế La mã - Tiền thân của nông nô thời trung đại
2. Sự xuất hiện công xã Mác-cơ và quá trình nông nô hoá của ngời xã viên
công xã.
Chơng 2: Đặc điểm chủ yếu về đời sống của tầng lớp nông nô
ở Tây âu thời trung đại.
2.1 Đặc điểm về đời sống kinh tế
2.2. Đặc điểm về đời sống chính trị, xã hội.
Chơng 3 : Các cuộc đấu tranh để tự giải phóng của tầng lớp nông nô
ở Tây Âu thời trung đại.
3.1 Những hình thức phản kháng đầu tiên chống lại lãnh chúa phong kiến.
3.2. Sự tiếp tục của các cuộc đấu tranh giải phóng nông nô thời trung và
hậu kỳ trung đại.
3.3. Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa lịch sử các cuộc đấu tranh của nông nô.


Lời cảm ơn
Với trình độ của một sinh viên đang tập nghiên cứu các vấn đề nhỏ của
khoa học, khả năng nghiên cứu có hạn, nguồn tài liệu khó khăn nên khoá luận
này cha thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu đề ra. Tuy vậy, với sự cố gắng hết sức của
bản thân, nhất là đợc sự giúp đỡ tận tình và góp ý quý báu của thầy giáo hớng
dẫn Dơng Văn Ninh cùng các thầy cô giáo trong tổ lịch sử thế giới cổ trung đại
cũng nh sự động viên, khích lệ của các bạn trong lớp, tôi đã hoàn thành bớc đầu
khoá luận này.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến tất cả các thầy cô giáo
trong khoa Lịch Sử Trờng Đại học Vinh, và các bạn sinh viên trong lớp, đặc biệt
là sự giúp đỡ quý báu, chỉ bảo ân cần của thầy giáo Dơng Văn Ninh - ngời đã
động viên tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu khoá luận.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


8

T×m hiÓu tÇng líp n«ng n« trong x· héi phong kiÕn T©y ¢u …


9

Chơng 1 : Quá trình hình thành tầng lớp nông nô ở
Tây Âu
1.1. Lệ nông thời hậu kỳ đế chế La Mã - Tiền thân của nông nô thời trung đại.
1.1.1 Khủng hoảng của chế độ nô lệ trong đế quốc Tây La Mã
Từ thế kỷ thứ II sau công nguyên trở đi, lãnh thổ của Tây đế quốc La Mã
không thể mở rộng thêm đợc nữa, không những thế lại còn bị đe doạ, La Mã phải

quay về lo phòng thủ để đối phó với các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và các cuộc
tấn công của các tộc ngời Giéc man. Một nguồn lợi lớn của đế quốc là của cải và
nô lệ, nhờ những cuộc chiến tranh xâm lợc và cớp bóc thì nay không còn nữa .
Giai cấp chủ nô ngày càng sống xa xỉ, do đó bọn chúng và nhà nớc La Mã càng
phải ra sức bóc lột nô lệ và các tầng lớp nông dân bị thống trị. ách bóc lột nặng
nề, hành vi tham nhũng của bọn thống trị, cùng các cuộc nội chiến giành nhau
quyền lợi giữa các tớng lĩnh luôn luôn xẩy ra, đã phá hoại nghiêm trọng lực lợng
sản xuất của xã hội. Dân số giảm xuống một cách ghê gớm, cảnh nghèo khổ lan
tràn khắp mọi nơi. Đế quốc La Mã bớc vào thời kì khủng hoảng toàn diện. Mọi
liên hệ kinh tế giữa các miền bị phá hoại nghiêm trọng. C dân ở các thành phố ấy
rời bỏ về nông thôn để sống và làm nông nghiệp. Kinh tế hàng hoá tiền tệ đã từng
phát triển trớc đây nay nhờng chỗ cho nền kinh tế lạc hậu hơn nó nền kinh tế
tự túc, tự cấp. Quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ bấy lâu nay đóng vai trò tích
cực, tạo nên sự phồn vinh của đế quốc La Mã, đến nay tỏ ra lỗi thời, mất hết tác
dụng, không thúc đẩy mà thậm chí còn trở thành lực lợng kìm hãm đối với sự
phát triển sản xuất .
Tình trạng đó xuất phát từ việc sử dụng đông đảo nô lệ để kinh doanh trực
tiếp không còn có lợi nữa. Không những thế, còn gặp nhiều khó khăn, nguồn nô
lệ ngày càng cạn giá nô lệ lại rất đắt. Hơn nữa, trong suốt bao nhiêu thế kỷ đã
qua giai cấp nô lệ bị áp bức và bóc lột bởi bọn chủ nô và bị chúng đối xử quá tàn
tệ, mặt khác quý tộc chủ nô dùng nô lệ để cày cấy, nhng không hề quan tâm đến
việc cải tiến phơng pháp canh tác. Chúng chiếm đoạt toàn bộ thành quả lao động
của nô lệ, nhng không đảm bảo công cụ, t liệu sinh hoạt tối thiểu cho họ. Trên
thực tế, dù mâu thuẫn với bọn chủ nô và họ cũng có đấu tranh với chủ nô để biểu
thị ý nguyện của mình nhng sau đấy thì họ vẫn phải chấp nhận chế độ xã hội đ-

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


10


ơng thời, chấp nhận thân phận hẩm hiu, nhiều thiệt thòi của mình . Do đó quan
hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ mới tồn tại lâu dài nh thế.
Nhng từ thế kỷ III trở đi, thì tình hình không phải nh thế nữa. Tình trạng
ngợc đãi ngời lao động, xem họ nh loài trâu ngựa hay dùng roi vọt để cỡng bức
họ làm việc đều không thể nâng cao năng suất lên đợc, thậm chí năng suất lao
động thời kì này bị giảm sút một cách ghê gớm. Ngời nô lệ giờ đây đã chán ngán
với kiếp sống khổ sở của mình, vì thế trong mỗi con ngời của họ đã không thể có
tinh thần tự giác và hứng thú sản xuất. Lao động của ngời nô lệ lúc này cũng chỉ
đủ nuôi sống chính bản thân họ, không còn tạo ra sản phẩm d thừa nh trớc đây
nữa. Bọn chủ nô vì thế cũng không thể bóc lột họ, dù là rất ít. Côlumen, một nhà
văn La Mã đã viết nh sau : nô lệ làm cho năng suất lao động giảm sút nghiêm
trọng. Họ bị cỡng bách làm việc nh thân trâu ngựa và sống một cuộc đời khổ ải
không khác gì loài vật. Họ cày cấy bừa bãi, khi gieo hạt, họ cố ý gieo lung tung,
làm lãng phí rất nhiều hạt giống, họ gặt lúa đem về sân nhà chủ mà không chú ý
xem lúa đã chính cha. Thậm chí trong khi gánh lúa về nhà chủ, họ tìm cách thu
giấu lúa đi hoặc cố ý làm rơi vãi lúa ở dọc đờng.
Vì những lí do trên, với nô lệ, chủ nô không những không bóc lột đợc mà
còn phải quản lí và luôn luôn lo sợ những hiện tợng chống đối dới đủ mọi hình
thức khác nhau của họ. Bài toán đặt ra lúc này cho cả chủ nô và nô lệ là làm thế
nào đây để cả chủ lẫn tớ có thể thoát ra khỏi tình trạng bế tắc này? Chế độ lệ
nông đã ra đời trong hoàn cảnh lịch sử ấy và cũng chính là lời giải đáp cho câu
hỏi đã đợc nêu ra trong bài toán nói trên.
1.1.2 Chế độ lệ nông thời hậu kì đế chế La Mã.
Để đối phó với nguy cơ phá sản do sự khủng hoảng của quan hệ sản xuất
chiếm hữu nô lệ gây ra, bọn chủ nô đã chia trang viên của chúng thành hai phần :
Phần nhỏ (chừng 1/3 hoăc 1/4 diện tích trang viên) đợc khai thác dựa trên
lao dịch không đợc trả công của những nông dân lệ thuộc. Phần đất này do địa
chủ trực tiếp quản lí, thu hoạch của nó thuộc về chủ.
Đại bộ phận còn lại của trang viên đợc chia ra thành nhiều mảnh nhỏ để

đem phát canh cho những nông dân tự do hoặc đôi lúc cho cả nô lệ nữa.
Vào thời kì suy vong của đế quốc La Mã, ngày càng có nhiều nô lệ đợc
cấp nh vậy, hoặc đợc bọn chủ nô giải phóng rồi cho lĩnh canh một phần đất.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


11

Những ngời lĩnh canh đất có nghĩa vụ phải nộp cho chủ một khoản tiền
hàng năm. Sau này khoản tiền đó đợc thay thế bằng một khoản tô hiện vật .
Ngoài ra ngời nông dân lĩnh canh còn phải tới làm cho chủ một số ngày lao dịch
không đợc trả công: có nơi từ một đến hai ngày trong một tuần lễ; có nơi từ 6 đến
12 ngày trang một năm. Ngời ta gọi mối quan hệ đó là chế độ lệ nông. Những
ngời lĩnh canh ruộng đất của lãnh chủ đợc gọi bằng một tên chung là lệ nông.
Theo Ănghen: lệ nông ấy là tiền thân của nông nô thời trung đại.{7,488}.
Thực ra, ngay từ thế kỷ thứ II, ngời ta đã có cách nhìn mới về ngời nô lệ.
Ngời nô lệ dần dần đợc xã hội xem là con ngời bằng xơng bằng thịt chứ không
phải là công cụ biết nói nữa. Để bảo vệ nguồn nhân lực, các hoàng đế Adrien
(117-138) và Antôni (138-161), đã ban hành các sắc lệnh cấm chủ nô không có
quyền giết hại lệ nông mà chỉ có quyền truy bắt và trừng trị những lệ nông trốn
khỏi trang viên của chủ, lệ nông không đợc quyền rời bỏ ruộng đất của chủ để đi
nơi khác. Pháp luật đã cột chặt họ vào ruộng đất. Khi chủ bán ruộng đất đi thì
đồng thời bán theo cả gia đình ngời lệ nông canh tác trên mảnh đất ấy. Để bảo vệ
nguồn nhân lực đang khan hiếm, bọn chủ nô ngăn cấm các cuộc hôn nhân giữa
những ngời lệ nông không cùng một chủ. Thậm chí những cuộc hôn nhân đó
không đợc coi là hoàn toàn hợp lệ mà chỉ đợc coi là một trờng hợp cùng ăn ở
chung với nhau mà thôi, cũng nh hôn nhân giữa những ngời nô lệ vậy. Ngoài
nghĩa vụ đối với chủ, lệ nông còn phải nộp thuế và làm lao dịch cho nhà nớc.
Cả lệ nông và nô lệ đợc cấp đất đều là những ngời trực tiếp sản xuất của xã

hội. Tuy không có quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất chính là ruộng đất,nhng lệ
nông có quyền chiếm hữu cha truyền con nối mảnh đất mà họ lĩnh canh của chủ.
Trên thực tế những nô lệ đợc cấp đất cũng đợc hởng quyền đó (dù không đợc
pháp luật thừa nhận). Bởi vì ở thời kì này và sang cả thời kì trung cổ, nguồn nhân
lực trở nên khan hiếm, nếu không có ngời canh tác, đất sẽ trở nên vô giá trị, nói
đúng hơn là chủ đất rất cần đến sức lao động của lệ nông để tránh đất bỏ hoang,
cần ngời canh tác sản xuất, ngợc lại lệ nông lại cần công cụ, ruộng đất và súc vật.
Do đó, chủ đất vẫn để cho anh ta có quyền chiếm hữu, không dám đuổi gia đình
anh ta ra khỏi mảnh đất đó, nghĩa là cả hai bên đều cần đến nhau để cùng tồn tại.
Lệ nông cũng có một số tài sản riêng, đợc tự do kinh doanh trên phần đất
của mình, và đợc quyền sử dụng số thu hoạch trên phần đất đó sau khi đã nộp đủ

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


12

các khoản tô thuế cho chủ. Bởi điều mà chủ nô quan tâm là cuối vụ anh ta phải
nộp 1/3 thu hoạch cho họ. Vì vậy nếu tăng năng suất lao động lên cao thì phần
sản phẩm mà anh ta đợc quyền hởng sẽ nhiều lên, đời sống gia đình anh ta sẽ khá
giả hơn.
Nh vậy, lệ nông không khác nô lệ là mấy, chỉ là biến hình của nô lệ. Họ
vẫn bị gắn chặt vào ruộng đất, không đợc kết hôn với ngời tự do. Ngoài ra họ
cũng không đợc gia nhập quân đội nếu chủ không cho phép, họ chỉ đợc chiếm
hữu mà không có quyền sở hữu tài sản, không đợc bán sản phẩm thừa. Nhng
những gì mà lệ nông đợc hởng thực sự đã đảm bảo mức sống tơng đối dễ chịu
hơn so với cuộc đời nô lệ. Chính điểm này là nguyên nhân khiến cho chế độ
phong kiến có thể tạo ra một năng suất lao động lớn hơn năng suất lao động dới
chế độ chiếm hữu nô lệ và số của cải của xã hội phong kiến cũng nhiều hơn so
với xã hội chiếm hữu nô lệ. Không những thế phơng thức quản lí của lãnh chủ

đối với ngời lệ nông và phơng thức phân chia sản phẩm giữa lãnh chúa với lệ
nông cũng tiến bộ hơn những phơng thức đợc tiến hành dới chế độ chiếm hữu nô
lệ La Mã.
Lệ nông đã ra đời và địa vị kinh tế xã hội của ngời trực tiếp sản xuất có sự
thay đổi. Bên cạnh việc nô lệ nhận lĩnh canh của chủ nô để sản xuất biến thành lệ
nông thì nhiều nông dân tự do đã tìm đến đại địa chủ để xin "bảo hộ. Muốn đ ợc
bảo hộ, những ngời nông dân phải đem ruộng đất của họ hiến cho tên địa chủ
đó và biến thành lệ nông của y.
Lợi dụng tình trạng hỗn loạn của xã hội và địa vị đặc quyền của mình, bọn
đại địa chủ đã tổ chức ra quân đội riêng để bảo vệ trang viên và giữ gìn trật tự an
ninh. Chúng có quyền xét xử, giam cầm nông dân. Thế lực của chúng ngày càng
mạnh có xu hớng thoát li khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ơng. Chúng ra
sức mở rộng chế độ bảo hộ để cớp đoạt tài sản của nông dân và nô dịch họ.
Chúng dần dần trở thành những ông vua nhỏ trong trang viên của chúng. Nếu gọi
lệ nông là tiền thân của nông nô thời trung cổ thì cũng có thể gọi tên đại địa chủ
này là tiền thân của những lãnh chuá phong kiến tơng lai.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


13

Nói tóm lại, từ thế kỷ thứ III, chế độ chiếm hữu nô lệ ở đế quốc La Mã bớc
vào giai đoạn khủng hoảng suy tàn. Từ trong lòng đế quốc La Mã đang suy tàn
ấy, một quan hệ sản xuất mới đã nảy sinh ngày càng lớn mạnh lên. Nó đẩy lùi
chế độ cũ và thay thế dần sang một thời kì lịch sử mới: Thời kì hình thành và phát
triển của chế độ phong kiến. Chế độ lệ nông chính là bớc quá độ của sự chuyển
biến lớn lao đó. Tuy nhiên sự chuyển biến ấy không diễn ra một cách bằng phẳng
mà nó là kết quả một quá trình lâu dài và bất khuất của quần chúng chống lại
những kẻ đã áp bức bóc lột họ .

1.2. Sự xuất hiện công xã Mác-cơ và quá trình nông nô hoá của ngời xã viên
công xã.
1.2.1. Sự thành lập các vơng quốcMan tộccủa ngời Giec man trên
lãnh thổ đế quốc Tây La Mã.
Từ nhiều thế kỷ trớc công nguyên, phía Đông đờng biên giới sông Ranh và
sông Đa-nuýp của đế quốc La Mã đã là địa bàn sinh hoạt của các bộ lạc ngời
Giec man: ngời Ia-ra-niêng, ngời Xlavơ, ngời Hungnô. Ngời La Mã gọi chung họ
bằng cái tên khinh miệt là man dân. Các tác giả cổ đại nh Xêda, Taxit và những
ngời khác đã để lại những tác phẩm miêu tả đời sống sinh hoạt và phong tục của
ngời Giec man cổ đại. Vào thời kì Xêda (thế kỷ I trớc công nguyên) ngời Giec
man còn ở trong tình trạng lang thang du mục, sống chủ yếu bằng nghề săn bắn,
chăn nuôi và nông nghiệp đốt rẫy.Từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ V, ngời Giec
man có những tiến bộ nhanh chóng hơn nữa. Nông nghiệp và thủ công nghiệp có
nhiều chuyển biến nhanh chóng. Chế độ sở hữu ruộng đất vẫn nằm trong tay tập
thể thị tộc , nhng việc sử dụng lại giao cho các gia đình cá thể chứ không phải là
cộng đồng gia tộc lớn nh trớc nữa. Chế độ công xã nguyên thuỷ của ngời Giec
man đang trong quá trình tan rã. Cùng với sự phát triển của kinh tế và sự gia tăng
dân số nhanh chóng, ngời Giec man đặt ra yêu cầu mở rộng thêm đất đai để sinh
sống.
Chính vì vậy , trên thực tế từ những thế kỷ II sang thế kỷ III, một số bộ lạc
ngời Giec man đã di c vào lãnh thổ đế quốc La Mã nh ngời Vi-xi-gôt (Tây-gôt),

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


14

ngời Ô-xtơ-rô-gốt (Đông-gốt), ngời Phrăng ... và nhận làm bạn đồng minh của
La Mã. Giữa họ và ngời La Mã đã từng có quan hệ trao đổi, mua bán và những
cuộc xung đột ở vùng biên giới. Nhiều nô lệ, lệ nông ở đế quốc La Mã có nguồn

gốc là các tù binh ngời Man tộc bị bắt trong các cuộc chiến tranh ở vùng biên
giới .
Lúc bấy giờ nhà nớc La Mã còn đủ sức mạnh để chế ngự đợc những man
dân đã vào sống trong lãnh thổ của mình và ngăn chặn đợc các cuộc xâm lăng từ
ngoài tới. Nhng rõ ràng, lãnh thổ La Mã không còn là khu vực đóng kín đối với
các bộ lạc ngời Giec man nữa. Giữa thế kỷ thứ IV các bộ lạc du mục Hung nô ào
ạt xông vào cớp phá tàn sát nhân dân khu vực Đông và Nam Âu, gây ra sự rối
loạn lớn khắp trong và ngoài đế quốc La Mã .
Cuộc di chuyển lớn của các tộc ngời Giec man đợc diễn ra đúng vào lúc đế
quốc La Mã đang suy sụp nghiêm trọng, trong tình trạng bần cùng hoá phổ
biến, công thơng nghiệp và nghệ thuật thụt lùi, số dân giảm sút, thành thị tiêu
điều, nông nghiệp sút kém..." {7,486-487. Nô lệ, lệ nông và dân nghèo trong đế
quốc La Mã từ lâu bị giai cấp chủ nô La Mã thống trị, bóc lột nặng nề đã đón chờ
những ngời "Man tộc" xâm nhập nh những vị cứu tinh của mình, họ đã chạy sang
phía ngời "Man tộc", một số tham gia vào quân đội của ngời "Man tộc", mở cửa
thành của ngời La Mã cho ngời "Man tộc" kéo vào, vì thế ngời "Man tộc" đã dễ
dàng đột nhập vào đế quốc La Mã và chiếm hết các vùng đất đai này đến vung
đất đai khác và lập ra những vơng quốc của họ. Vơng quốc "Man tộc" đợc thành
lập đầu tiên là vơng quốc Vi-si-gốt (Tây gốt ) năm 419 chiếm miền Nam xứ Gôlơ
và Tây Ban Nha. Tiếp đó là vơng quốc Văngđan chiếm Bắc Phi và các quần đảo
phía Tây Địa Trung Hải, vơng quốc Buốc-gông-đơ ở miền Đông Nam xứ Gô-lơ,
vơng quốc Phơrăng ở miền Đông Bắc xứ Gô-lơ, vơng quốc Ănggôlơ-xăc-xơn
chiếm bán đảo Britên ... Tất cả các vơng quốc "Man tộc" này đều thuộc tộc Giec
man. Và năm 476 lãnh tụ quân sự của ngời Giec man là Ô-đô-a-crô đã phế truất
hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La mã là Rô-mu-lut Au-gu-xtu-lut rồi tự xng làm vua, đồng thời cũng xoá bỏ bộ máy chính quyền tối cao của đế quốc Tây
La mã. Sự kiện này đánh dấu sự diệt vong hoàn toàn của đế quốc Tây La mã. Một

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu



15

giai đoạn lịch sử đã kết thúc và từ đây Tây Âu bớc sang một thời đại mới, thời đại
chế độ phong kiến.
1.2.2. Công xã Mác-cơ và quá trình nông nô hoá của ngời xã viên công xã
Vậy là đế quốc La Mã vốn thống nhất, hùng cờng và mạnh mẽ trớc đây
nay lại bị chinh phục bởi những ngời thờng bị nó khinh miệt. Khi đế quốc Tây La
Mã bị diệt vong và các vơng quốc "Man tộc" thành lập, thì cơ sở kinh tế xã hội ở
Tây Âu cũng thay đổi. Chế độ chiếm hữu nô lệ của đế quốc tây La Mã bị thủ tiêu
và chế độ công xã nguyên thuỷ của ngời Giec man cũng bị tan rã. Một tổ chức
kinh tế xã hội mới đợc thành lập trên cơ sở những mầm mống quan hệ sản xuất
mới đợc kết hợp với trình độ , kinh nghiệm của ngời ngoại tộc.
Cuộc xâm nhập của ngời "Man tộc" đã tiêu diệt hoàn toàn các điền trang
của chủ nô La Mã sử dụng sức lao động nô lệ, lệ nông và phá huỷ hầu hết các đô
thị hoạt động công thơng nghiệp. Tất cả hoạt động kinh tế ở các vơng quốc "Man
tộc" đều tập trung ở nông thôn, lấy trồng trọt và chăn nuôi làm cơ sở, thủ công
nghiệp chỉ là nghề phụ trong nền kinh tế.
Sau khi xâm nhập vào đế quốc La Mã, ngời "Man tộc" chiếm đoạt ruộng
đất của ngời La Mã. Với những công cụ lao động và phơng pháp canh tác đã có ít
nhiều cải tiến. Các gia đình cá thể cày cấy riêng rẽ, sản phẩm thu đợc có thể đủ
nuôi sống gia đình họ. Vì thế, ruộng đất cày cấy chiếm đoạt đợc của địa chủ chủ
nô La Mã, ngời Giec Man đem phân chia cho các gia đình cá thể . Trong thời
gian di c và chiến tranh lâu dài, các thành viên thị tộc của các thị tộc khác nhau
của ngời Giec man thờng bị xáo trộn, họ sống lẫn lộn với nhau không theo quan
hệ huyết thống nữa mà theo quan hệ láng giềng. Những ngời này sống với nhau
trong các làng xóm lập thành các công xã nông thôn Mác-cơ. Nh thế có nghĩa
là chế độ công xã nguyên thuỷ của ngời Giéc-man đợc xây dựng trên cơ sở huyết
thống đã bị tan rã. Lúc này, một bộ phận của ngời La Mã tự do, những ngời nô lệ
và lệ nông đợc giải phóng cũng tham gia vào tổ chức công xã nông thôn. Mỗi
một gia đình trong công xã nông thôn đợc chia phần ruộng để cày cấy đợc gọi là

đất phần. Nhng các gia đình này không có quyền sở hữu hoàn toàn với mảnh

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


16

đất phần này: họ không thể mang bán đổi chác hay ban tặng cho ngời khác.
Sau mùa màng những ruộng đất cày cấy này lại để làm bãi chăn nuôi công cộng.
Tất cả mọi dân c trong làng đều nuôi chung gia súc tại bãi cỏ đó. Rừng rú, đồng
cỏ, đất hoang, nguồn nớc là sở hữu công cộng. Những thành viên công xã đợc tự
do đẵn gỗ, săn thú, đánh cá, tát nớc tại những đất đai công cộng đó. Những ngời
nông dân dới chế độ phong kiến không thể nào sống hoàn toàn riêng rẻ mà cần
phải hợp tác tơng trợ nhau trong sản xuất, cho nên đã tổ chức ra công xã nông
thôn vừa có tính chất cá thể, vừa có tính chất tập thể nh trên. Những ngời nông
dân công xã phải nộp thuế và làm nghĩa vụ binh dịch, lực dịch cho vua "Man
tộc". Tuy nhiên giâi cấp thống trị "Man tộc" thu thuế của nông dân công xã
không đến nỗi nặng nề nh giai cấp thống trị La Mã đối với bình dân La Mã trớc
kia.
Do sự tiếp xúc thờng xuyên với ngời La Mã, mà những ngời La Mã này
vẫn giữ chế độ t hữu và mua bán ruộng đất, nên chế độ t hữu ruộng đất của ngời
"Man tộc" cũng dần dần xuất hiện. Trong bộ tộc Xa-liêng của ngời Phơ-răng
đã có dấu vết của sự nhợng bán ruộng đất nhng đến cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII
ruộng đất bắt đầu trở thành tài sản riêng của ngời đợc phân phối, có thể đem mua
bán, đổi chác, ban tặng hay di chúc cho ngời khác. Tài sản ruộng đất đợc tự do
nhợng lại hay mua bán, nh thế gọi là alơ hay đất tự do. Sự xuất hiện của
ruộng đất alơ không tránh khỏi làm cho công xã tan rã hơn nữa, và sự phân hoá
giai cấp trong xã hội thêm sâu sắc. Ph. Ăng ghen nhận xét rằng: Alơ có nghĩa là
không tạo ra khả năng, mà còn tạo ra tính tất yếu sự chuyển biến thành cái trái
ngợc với quyền bình đẳng nguyên thuỷ trong chiếm hữu ruộng đất. Từ khi xuất

hiện alơ tài sản ruộng đất có thể đợc tự do, ruộng đất biến thành hàng hoá thì từ
khi đó, sự xuất hiện chế độ chiếm hữu ruộng đất lớn chỉ còn là vấn đề thời gian
mà thôi. {2,16}.
Trên thực tế, chế độ ruông đất phong kiến đã đợc hình thành, đó là kết quả
của quá trình phong kiến hoá, tức là quá trình giai cấp địa chủ thế tục cũng nh
giáo hội tìm cách để chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và biến nông dân công
xã tự do và các tầng lớp nhân dân lao động thành nông dân phụ thuộc hay nông

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


17

nô. Cũng trong quá trính đó, xã hội dần dần phân hoá thành hai giai cấp chính:
lãnh chúa và nông nô. Lãnh chúa là những kẻ thống trị và sở hữu ruộng đất trong
tay, còn nông nô là ngời bị bóc lột, bị lệ thuộc chặt chẽ vào lãnh chúa.
Bấy giờ, Phơrăng vốn là một bộ tộc đông đúc và phát triển, họ đã xây dựng
nên quốc gia hùng mạnh nhất trong các vơng quốc "Man tộc". ở đó quá trình
phong kiến hoá diễn ra là điển hình nhất và thể hiện rõ nét nhất.
Dới triều đại Mêrôvanhgiêng của vơng quốc Phơrăng, việc ban cấp ruộng
đất cho quý tộc, quan lại và giáo hội cơ đốc giáo ngày càng nhiều. Thế lực của
quý tộc (quan lại) mạnh hay yếu là căn cứ vào số lợng ruộng và số lợng ngời thần
thuộc của chúng. Bọn quý tộc chủ ruộng đất lúc này không thoả mãn với số
ruộng đất và ngời thần thuộc đợc cấp, luôn tìm cách mở rộng những thái cấp,
phong kiến của chúng ở các địa phơng tìm cách khống chế nông dân công xã ở
bên cạnh. Thờng thờng chúng tổ chức các cuộc đột kích và dùng nhiều thủ đoạn
khác nh xử án nông dân , đẩy nông dân ra mặt trận ... làm cho họ phải phá sản,
kiệt quệ, cuối cùng phải nhờng lại ruộng đất cho quý tộc . Trong công xã nông
thôn , sự phân hoá giai cấp cũng dần dần xuất hiện. Những xã viên giàu có lợi
dụng những khó khăn, thiếu thốn của nông dân nghèo, cho những ngời này vay

mợn gia súc, thóc giống, lơng thực và bắt họ lao động trên ruộng đất của chúng
để trừ nợ. Nếu ngời nghèo không thể trả nợ đúng hạn, chúng sẽ tớc đoạt ruộng
đất của họ. Nh thế là những thành viên công xã giàu có cũng trở thành chủ sở
hữu ruộng đất lớn. Nhiều ngời nông dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của
nhà vua, của bọn thân binh và quan toà của nhà vua, đã đành phải từ bỏ thân phận
tự do của mình nhận sự bảo hộ của những tên quý tộc lớn hoặc giáo hội ở bên
cạnh (bằng cách giao quyền sở hữu ruộng đất của mình cho tên quý tộc đó, rồi
nhận lĩnh canh lại ruộng đất đó và phải nộp tô thuế, làm một số nghĩa vụ khác
cho tên quý tộc đó). Nh vậy quý tộc lớn càng có thêm ruộng đất và nông dân phụ
thuộc, trong khi đó số nông dân nộp tô thuế, đi phu, đi lính cho nhà nớc giảm đi.
Kết quả là thế lực của đại quý tộc ngày càng tăng mà quyền lực của nhà nớc ngày
càng giảm sút.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


18

Đến thế kỷ VIII, trong chính sách ban cấp ruộng đất có một sự thay đổi
quan trọng. Sự thay đổi gắn liền với việc tổ chức lại lực lợng quân đội. Lúc đó vơng quốc Phơrăng đang bị ngời Arập ở Tây Ban Nha đe doạ, nên Sác lơ Mác-ten
đã tiến hành một cuộc cải cách chính trị - quân sự quan trọng, gọi là cải cách Bênê-phi-xi-um, có nghĩa là vật ban cấp (có thể dịch là thái ấp). Khác với chính
sách phong tặng ruộng đất trớc kia, chính sách ruộng đất của Sác lơ Mác-ten là
chính sách ban cấp kèm theo điều kiện phục vụ quân sự, đất phong chỉ đợc sử
dụng suốt đời chứ không đợc truyền cho con cháu. Nếu bồi thần (ngời đợc phong
đất) không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quân sự thì ruộng đất sẽ bị thu hồi .
Việc thực hiện chế độ phân phong này càng làm cho nông nô phá sản
nhiều hơn. Từ nay nông dân công xã đã chịu sự thống trị và điều khiển trực tiếp
của quý tộc đợc nhà vua phong cấp, nghĩa vụ của nông dân không những không
giảm nhẹ mà còn tăng thêm và nông dân không những phải tham gia đóng góp
vào những cuộc chiến tranh do nhà vua tổ chức và điều động bồi thần cùa nhà

vua (tức là chúa của nông dân) tham gia mà còn phải phục dịch không thời hạn
cho bọn quý tộc địa phơng tham lam, tàn bạo của mình. Vì thế quá trình mất đất
và nông nô hoá của nông dân từ thời kì này trở về sau càng tăng tiến hơn trớc.
Với lối phân phong này, khởi đầu các đất phong cha phải là sở hữu có thể
thừa kế. Theo quy định, nếu tôn chủ (ngời phong đất) chết thì ruộng đất phải trả
lại cho ngời kế thừa của tôn chủ. Sau đó bồi thần muốn nhận lại thái ấp thì phải
làm lễ phân phong lại. Nếu bồi thần chết mà con của ngời này đã đến tuổi trởng
thành và muốn kế thừa thái ấp của cha cũng phải làm lễ phân phong lại. Nh theo
một xu thế tất nhiên, bao giờ con cháu của ngời thần thuộc cũng muốn kế thừa
địa vị và đất phong của cha ông. Và con cháu của tôn chủ cũng không mấy khi
thay đổi tập quán phong lại đó. Bởi nghi thức phong lại này có ý nghĩa nh một
bản giao kèo mới, nhằm khẳng định quyền hạn và nghĩa vụ của tôn chủ và bồi
thần với mảnh đất đem phong (tất nhiên quyền lực của chủ là chủ yếu). Hơn nữa,
trong mỗi lần phong lại thì bồi thần phải nộp cho tôn chủ một khoản lễ vật gọi là
thuế kế thừa. Khoản thuế này thay đổi tuỳ theo từng nơi và từng lúc, có khi là
một con ngựa chiến với đầy đủ vũ khí và quân trang, có khi bằng toàn bộ thu

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


19

hoạch trong một năm của lãnh địa hoặc một số tiền tơng ứng. Nh vậy là trên thực
tế đất phong đã dần dần biến thành một sở hữu thừa kế thực sự.
Đến nửa thế kỷ IX, tuy bồi thần vẫn phải làm nghĩa vụ quân sự nhng đất
phong biến thành những lãnh địa có thể truyền cho con cháu, chỉ không đợc mua
bán , chuyển nhợng mà thôi. Lãnh địa Bê-nê-phi-xi-um không có quyền thừa kế
đã chuyển thành lãnh địa Phê ô-đum, cha truyền con nối, cũng có thể gọi là Phiép (Fief) hoặc Phê ốt (Fêod). Với hình thức lãnh địa này, thế lực của các lãnh
chúa không ngừng phát triển và chế độ ruộng đất phong kiến Tây Âu đã đợc hình
thành.

Ngoài ra, giáo hội cơ đốc giáo cũng góp một phần quan trọng vào việc thúc
đẩy quan hệ phong kiến ở vơng quốc Phơrăng phát triển. Đứng đầu giáo hội cơ
đốc giáo ở Tây Âu là giáo hoàng La Mã. Từ giáo hoàng, giám mục và các tu viện
đều chiếm hữu rất nhiều ruộng đất và cả những ngời lao động sản xuất phụ thuộc:
Bọn vua chúa và quý tộc đã hiến rất nhiều ruộng đất và nông nô cho giám mục và
tu viện trởng để bọn tăng lữ cao cấp này cầu nguyện chúa trời tha thứ cho chúng
những tội ác mà chúng đã gây ra, nhằm củng cố thế lực của chúng. Còn những
ngời nông dân lao động vô học vì mê tín đã ngây thơ tin tởng vào những lễ bái,
những lời cầu nguyện và những lời dụ dỗ, đe doạ của cha xứ, tu sĩ, đã mang cúng
những tài sản cuối cùng của họ cho nhà thờ và tu viện. Giám mục và tu viện trởng còn có rất nhiều ruộng đất bỏ hoang, chúng dùng mu kế và bạo lực cỡng bức
nông dân quanh vùng khai khẩn ruộng đất cho chúng. Nhiều ngời nông dân nhận
sự bảo hộ của giáo hội và trở thành nông nô.
Do thi hành chế độ phân phong ruộng đất của Sác lơ Mác- ten cho đến Sáclơ-ma-nhơ cùng với việc chiếm đoạt ruộng đất của những kẻ giàu có đã dẫn đến
sự hình thành giai cấp phong kiến đông đảo. Đây là giai cấp ít đợc học văn hoá
nhng lại có tinh thần thợng võ cao. Họ lấy việc chiến đấu làm nghề nghiệp, lấy
săn bắn, thi võ làm trò tiêu khiển lấy việc đấu kiếm làm biện pháp giải quyết xích
mích, mâu thuẫn. Chính giai cấp phong kiến ấy là cơ sở của chính quyền nhà vua,
để bên trong thì đàn áp các thế lực chống đối, bên ngoài thì gây chiến tranh xâm
lợc mở rộng lãnh thổ.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


20

Cùng với việc hình thành giai cấp địa chủ phong kiến là sự nông nô hoá
của những thành viên trong công xã nông thôn Mác-cơ. Đến thế kỷ thứ VII công
xã Mác-cơ tan rã, phần lớn thành viên công xã biến thành những ngời nông dân
tự do có mảnh ruộng đất riêng của mình. Ngoài những ngời nông dân Phơrăng tự
do, lúc bấy giờ còn có những ngời lao động nông nghiệp làm việc trong các trang

viên của địa chủ Rôma cũ. Về thân phận họ không thuần nhất mà bao gồm nhiều
loại nh lệ nông, nông dân nửa tự do, nô lệ. Trong ba loại này, lệ nông là tầng lớp
đông đảo nhất đợc nhận một phần đất do chủ giao cho. Họ có nghĩa vụ phải nộp
tô, nộp thuế thân, phải làm lao dịch, không đợc rời bỏ ruộng đất. Nô lệ làm việc
trong các trang viên đợc chia làm hai loại: Loại thứ nhất gồm những ngời đầy tớ
làm các công việc hầu hạ trong nhà lãnh chúa và những ngời làm nghề thủ công
nh thợ làm bánh mì, thợ đóng xe, thợ kim hoàn ... làm việc trong các xởng của
lãnh chúa. Họ bị coi là tài sản của chủ và có thể bị mua bán; loại thứ hai là nô lệ
đợc cấp ruộng đất, họ phải nộp địa tô cho chủ, số sản phẩm còn lại thuộc quyền
sở hữu của họ. Thế là về danh nghĩa họ vẫn là nô lệ nhng thực chất họ đã biến
thành nông nô. Còn nông dân nửa tự do là những ngời có địa vị cao hơn nô lệ nhng lại thấp hơn lệ nông. Họ cũng đợc giao cho mảnh đất để canh tác và truyền
mảnh đất đó từ đời này sang đời khác. Cùng với sự phát triển của phơng thức bóc
lột phong kiến và sự khác biệt giữa ba loại lực lợng lao động nông nghiệp ấy
càng ít đi. Họ biến dần thành một tầng lớp có thân phận giống nhau, đó là tầng
lớp nông nô.
Còn nông dân tự do vào đầu thế kỷ VII là tầng lớp đông đảo nhất trong giai
cấp nông dân, nhng tình hình ấy không duy trì đợc lâu. Do các nguyên nhân nh
thiên tai mất mùa, gia súc chết không canh tác đợc, phải nộp thuế khoá nặng nề,
phải rời ruộng đồng quê hơng để đi làm nghĩa vụ binh dịch... Rất nhiều nông dân
bị phá sản, phải bán ruộng đất của mình. Sau khi không còn t liệu sản xuất nữa,
nông dân chỉ còn cách là lĩnh canh ruộng đất của lãnh chủ để làm ăn và do đó
biến thành nông dân lệ thuộc .
Những nông dân cha mất ruộng đất thì vì không chịu nổi sự hạch sách của
các quan lại và sự o ép của các lãnh chúa, nên phải đem ruộng đất của mình hiến

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


21


cho các địa chủ thế tục hoặc giáo hội để nhờ họ che chở, rồi xin nhận lại mảnh
đất ấy để cày cấy. Nhiều khi để khuyến khích hiện tợng này, ngoài việc giao lại
mảnh đất nông dân đã hiến, các lãnh chúa thờng cấp thêm cho nông dân một
mảnh đất phụ nữa. Sau khi hiến ruộng đất rồi nhận lại mảnh đất đó để cày cấy,
ngời nông dân không những đã mất quyền sở hữu trên đất đai của mình mà bản
thân mình cũng không còn là ngời tự do nữa. Họ đã biến thành một loại nông dân
lệ thuộc tơng tự nh nông dân nửa tự do và lệ nông và đến thời con cháu họ thì
hoàn toàn biến thành nông nô.
Nh vậy là, cũng nh c dân lao động bản địa đến đây phần lớn nông dân tự
do ngời Phơrăng đã biến thành nông nô. Tầng lớp này mang những đặc điểm gì?
Chơng 2 của khoá luận sẽ làm sáng tỏ điều đó.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


22

Chơng 2: Đặc điểm chủ yếu về đời sống của tầng lớp
nông nô ở Tây Âu thời trung đại
Xã hội loài ngời từ khi có giai cấp và nhà nớc là xã hội có sự phân chia
giữa kẻ giàu và ngời nghèo, kẻ thống trị và ngời bị trị. Trong xã hội có giai cấp
đầu tiên - xã hội chiếm hữu nô lệ, thống trị xã hội là giai cấp chủ nô, chúng có
quyền sở hữu hoàn toàn đối với giai cấp bị trị-nô lệ. Suốt hàng ngàn năm, tình
cảnh nô lệ vẫn nh lúc đầu, vẫn cảnh sống nhọc nhằn mà họ thờng chịu và bên
cạnh họ những công cụ sản xuất thô sơ nặng nề mà suốt thời kì cổ đại hầu nh
không biến đổi hay có chăng chỉ biến đổi rất ít. Tuy nhiên từ thế kỷ thứ III đến
thế kỷ thứ V trong lòng xã hội chiếm hữu nô lệ mầm mống quan hệ sản xuất
phong kiến đã nảy sinh. Quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ giờ đây đã mâu thuẫn
sâu sắc với lực lợng sản xuất mới. Sự ra đời của tầng lớp lệ nông là hệ quả của
mối mâu thuẫn không điều hoà đợc ấy. Và chính tầng lớp này đã góp phần to lớn

vào sự tan rã của phơng thức sản xuất chiếm hữu nô lệ .
ở Tây Âu, chế độ phong kiến ra đời là sản phẩm của sự tan rã chế độ
chiếm hữu nô lệ của đế quốc La Mã với sự xâm nhập của bộ tộc Giec man. Trong
xã hội đó thay thế cho giai cấp chủ nô, kẻ thống trị xã hội là quý tộc phong kiến
(hai bộ phận: quý tộc tăng lữ và quý tộc vũ sĩ). Bất cứ giai cấp thống trị nào trong
xã hội có phân chia giai cấp cũng đều độc chiếm nguồn t liệu sản xuất cơ bản để
bóc lột giai cấp bị trị. ở đây, giai cấp quý tộc phong kiến chiếm hữu t liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội: ruộng đất và ngời sản xuất chủ yếu- nông nô.
Một vấn đề đặt ra là tại sao những ngời nông dân công xã Mác-cơ, canh
tác tự do đất đai lại có thể biến thành ngời lệ thuộc lãnh chúa phong kiến dới
hình thức nông nô?
Quá trình phong kiến hoá diễn ra (điển hình ở vơng quốc Phrăng - mục 1.2
.2) đã biến tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội thành hai giai cấp cơ bản
trong xã hội: Lãnh chúa và nông nô. Đó là quá trình tròng vào cổ những ngời
nông dân công xã một sự lệ thuộc hoàn toàn mới. Nhng ngời nông nô không chỉ
xuất thân từ nông dân công xã mà họ còn có nguồn gốc, có thể là những lệ nông
hay những ngời nô lệ của xã hội chiếm hữu nô lệ cũ. Dù xuất thân từ giai cấp
Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


23

nào, cuối cùng theo cơn lốc của qúa trình phong kiến hoá của xã hội phong kiến
Tây Âu thời sơ kì trung đại đã trở thành một giai cấp duy nhất - ngời sản xuất
chủ yếu của xã hội phong kiến - giai cấp nông nô.
Thời sơ kì và đầu trung kì, lực lợng sản xuất còn thấp, việc sản xuất và trao
đổi hàng hoá còn rất hạn hữu và kinh tế hàng hoá hầu nh không diễn ra. Ngời sản
xuất chủ yếu thời kì này là nông nô. T liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất. Lãnh
chúa phong kiến chiếm đoạt ruộng đất đó bằng bạo lực để nắm quyền sở hữu
ruộng đất. Ruộng đất đó, địa chủ giao cho nông nô sản xuất. Ngời nông nô trong

thực tế là ngời chiếm hữu đất (sử dụng suốt đời và thừa kế cho con cháu). Vì thế
lãnh chúa phải thực hiện cỡng bức siêu kinh tế đối với ngời nông dân, phải lệ
thuộc ngời nông dân bằng cách gắn họ vào ruộng đất. Ngời nông nô không
những phải sản xuất ra đủ sản phẩm để nuôi sống mình và gia đình mà còn phải
có sản phẩm nộp cho lãnh chúa (dới hình thức địa tô phong kiến).
Phơng thức bóc lột mới này đã nới rộng tình cảnh ngời sản xuất nông
nô - hơn đối với nô lệ, phù hợp với hoàn cảnh xã hội sau khi chế độ nô lệ bị giải
thể. Tuy nhiên sự lệ thuộc là không thể tránh khỏi. Các Mác đã phân tích sự lệ
thuộc của nông dân thời trung đại nh sau: Vào thời trung đại mù tối Châu Âu
chúng ta không thấy con ngời độc lập, mà thấy tất cả mọi ngời đều lệ thuộc lẫn
nhau, nông nô và lãnh chúa, ch hầu với tên chủ phong kiến, ngời thờng tục và
thầy tu. Sự lệ thuộc đó của bản thân con ngời vừa đặc trng cho quan hệ xã hội của
đời sống vật chất, vừa đặc trng cho tất cả các lĩnh vực khác của đời sống dựa trên
sự lệ thuộc đó. Và chính vì xã hội dựa trên sự lệ thuộc đó của bản thân con ng ời,
nên tất cả các quan hệ xã hội đều là quan hệ giữa ngời với ngời . Do đó các thứ
lao động khác nhau và sản phẩm của các thứ lao động ấy đều không mang một
bộ mặt h ảo nào khác với tính hiện thực của mình. Những lao động đó biểu hiện
dới hình thức công dịch thuế má và nộp tô hiện vật, ở đây hình thái kinh tế tự
nhiên của lao động, tính riêng bệt của lao động chứ không phải tính chung, tính
trừu tợng nh trong sản xuất hàng hoá, cũng đồng thời là hình thái xã hội của họ.
{4,112-113}.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


24

Trong xã hội phong kiến, nông nô đã lệ thuộc vào lãnh chúa nh thế nào?
Những đặc điểm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội sẽ làm sáng tỏ mối quan hệ đó.
2.1 Đặc điểm về đời sống kinh tế.

2.1.1. Tính chất tự cung, tự cấp và phụ thuộc vào lãnh địa phong kiến
của ngời nông nô.
Đặc điểm của nền kinh tế tầng lớp nông nô ở Tây Âu là nền kinh tế mang
tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc và chịu sự phụ thuộc vào lãnh địa phong kiến.
Đây cũng chính là cơ sở cho chế độ nông nô ra đời và tồn tại.
Trong thời kì thống trị của chế độ phong kiến nông nô ở Tây Âu nền
kinh tế gồm hai bộ phận: kinh tế của lãnh địa phong kiến và kinh tế cá thể của
nông dân. Giữa nền sản xuất lãnh địa (của chủ) và nền sản xuất của nông dân có
sự tách rời nhau. Tuy nhiên nông nô lại là lực lợng sản xuất chính trên cả hai bộ
phận đó. Tính chất tự cung, tự cấp và sự phụ thuộc của nông nô gần nh tác động
qua lại lẫn nhau.
Trong từng hộ gia đình, ngời nông nô đã tự sản xuất ra bánh mì, sợi, tơ lụa,
quần áo nhằm phục vụ cho tiêu dùng trong đời sống sinh hoạt. Đó là những
sản phẩm lao động của ngời nông nô chứ không phải là sản phẩm hàng hoá.
Những công việc tạo ra sản phẩm đó của nông nô là: Cày ruộng, chăn nuôi, kéo
sợi may vátất cả đều ở hình thái tự nhiên. Phải nói rằng, mọi thứ cần dùng cho
cuộc sống của mình, ngời nông nô đều tự sản xuất ra trên đất phần của họ.
Tính chất tự nhiên của nền kinh tế còn biểu hiện rõ nét ở sự đa dạng trong
nghĩa vụ lao dịch mà họ phải gánh vác. Chẳng hạn nh nông nô phải cày ruộng
cho chủ, gieo hạt, bừa, cuốc cỏ cho đất, gieo mạ, cắt cỏ, thu rạ, bó lúa Nông nô
không chỉ thực hiện lao dịch trong nông nghiệp mà cả trong thủ công nghiệp nữa.
Ngời nông nô -thợ thủ công hàng tuần phải thực hiện làm mới và sửa chữa những
công cụ sản xuất của lãnh địa, làm đồ gông cùm cho chúa phong kiến. Bằng mọi
cách quý tộc phong kiến cố gắng sản xuất đợc mọi thứ cần dùng trong lãnh địa
mà không cần mua bán, đổi chác với bên ngoài.

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


25


Các sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp mà nông nô đem nộp cho
lãnh chúa dới hình thức địa tô cũng thể hiện tính chất tự nhiên của nền kinh tế.
Một số giáo chủ mỗi năm thu đợc 5787 con gà mái, 3865 quả trứng, vì mỗi hộ
nông nô phải nộp cho chúng ít nhất một con gà, 15 quả trứng. Địa tô hiện vật
[xem mục 2.1.3] mà ngời nông nô nộp cho chủ của mình có nến, bột mì, vải,
thùng, đinh, ván gỗ, sắtthậm chí ngay ngời quản lý lãnh địa (thờng đợc lấy từ
nông nô) còn phải nộp đai sắt, ngời trởng khu làm vụ phải nộp xà phòng, nến mật
ong, đại bàng, ngỗng Ngoài ra các loại thuế mà ngời nông nô nộp cho lãnh
chúa phong kiến, từ thuế thân, thuế cới xin, thuế kế thừa tài sản, thuế xử án
đều đợc tính bằng hiện vật. Ngay cả những khoản phạt nông nô vì tội gì đó nh
tội có cối xay tay, có lò bánh riêng cũng phải nộp phạt bằng hiện vật. Chẳng hạn
ngời nào vi phạm độc quyền nớng bánh mì của lãnh chúa thì bị tịch thu bánh mì,
vi phạm độc quyền xay bột thì không những tịch thu bột mà tịch thu cả con lừa
chở bột.
Ngay cả trong thời kì thống trị của địa tô tiền (xem mục 2.1.3) thì nền kinh
tế của tầng lớp nông nô cũng mang tính chất tự nhiên. Một bộ phận lớn sản phẩm
do nông nô làm ra không chạy ra thị trờng. Số sản phẩm này một mặt dùng làm t
liệu tái sản xuất mặt khác dùng làm t liệu sinh hoạt trực tiếp nên sẽ không biến
thành tiền. Nh vậy, cả hai lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống kinh tế: nhu cầu
sản xuất và nhu cầu cá nhân của những ngời sản xuất ở nông thôn đều nằm trong
khuôn khổ kinh tế tự nhiên. Ăng ghen đã đánh giá : Trong nền kinh tế kiểu sơ
kì trung đại, tiền bạc rất ít có tác dụng. Tất cả những thứ hắn cần dùng lãnh chúa
phong kiến đều lấy ở nông nô hoặc dới hình thức lao dịch hoặc dới hình thức
thành phẩm. Đàn bò kéo và dệt sợi lanh, len và may quần áo, đàn ông làm công
việc đồng áng, trẻ con giữ gia súc cho chúa, thu nhặt cho cháu những quả rừng,
những tổ chim, ổ rơm cho súc vật. Ngoài ra toàn gia đình còn phải nộp lúa mì,
trái cây, trứng ,bơ, pho mát, gà vịtgia súc non, gì gì nữa không kể xiết đợc.
Phàm thống trị phong kiến là tự túc, tự cấp ngay cả đạm phụ chiến tranh vẫn nộp
bằng hiện vật, buôn bán, trao đổi không có, tiền bạc là một vật thừa.{6,97-98}.

Cũng vì tính chất tự cung, tự cấp trong nền kinh tế của nông nô ở Tây Âu
thời sơ kì và trung kì trung đại nền kinh tế hàng hoá phát triển vô cùng yếu ớt và

Tìm hiểu tầng lớp nông nô trong xã hội phong kiến Tây Âu


×