Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Tác dụng của tư vấn và điều trị dự phòng lên các chỉ tiêu lý, sinh hóa ở bệnh nhân hen phế quản tại bệnh viện hữu nghị đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (765.86 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
------------------------

TÁC DỤNG CỦA TƯ VẤN VÀ ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG LÊN CÁC CHỈ
TIÊU SINH LÝ, SINH HÓA Ở BỆNH NHÂN HEN PHẾ QUẢN TẠI
BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN
CHUYÊN NGÀNH: SINH HỌC THỰC NGHIỆM
Mã số:

60.42.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người thực hiện:

HOÀNG THỊ THU HÀ

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.BSCKII. NGUYỄN VĂN HƯƠNG

VINH - 2009

i


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành được luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình về tất cả mọi mặt của các cơ quan, đơn vị, các thầy cô giáo, gia đình bạn
bè và đồng nghiệp.
Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới TS.BSCKII.
Nguyễn Văn Hương – Phó giám đốc Bệnh Viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ


An. Người Thầy đã tận tình hướng dẫn, động viên, trực tiếp giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình để tôi có thể hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn: Ban giám hiệu, Phòng đào tạo khoa sau đại
học, các Bộ môn trường Đại Học Vinh đã tạo điều kiện cho tôi học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đội ngũ y, bác sỹ Khoa khám bệnh Bệnh
Viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An, cùng sự hợp tác của các bệnh nhân đã tạo
điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Cảm ơn sự chia sẻ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình. Những người đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin cản ơn những lời nhận xét, góp ý cho những sai sót, khiếm khuyết
còn có trong luận văn.

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GINA:

Global Initiative for Asthma Chương trình khởi động toàn cầu
hòng chống hen phế quản

HATT:

Huyết áp tâm thu


HATr:

Huyết áp tâm trương

HPQ:

Hen phế quản

PEF:

Peak Expiratory Flow- Lưu lượng đỉnh

WHO:

World Health Organization - Tổ chức y tế thế giới

iv


DANH MỤC BẢNG

v


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
HPQ (Hen phế quản) là tình trạng viêm mạn tính của phế quản, tăng

phản ứng của đường thở, gây nên phù và hẹp đường thở. Kết quả gây nên
hiện tượng khó thở, nếu nhẹ chỉ ảnh hưởng nhỏ đến cuộc sống, nhưng trong
nhiều trường hợp có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân nếu không được xử lí
kịp thời. Trong những năm gần đây, hen là nguyên nhân gây tử vong chỉ đứng
sau ung thư [1], [4]. Hàng năm trên thế giới có khoảng 250.000 người tử vong
do hen, và tỷ lệ người mắc bệnh hen tăng lên mỗi năm. Hen là gánh nặng cho
xã hội. Theo WHO (Tổ chức y tế thế giới) bệnh hen gây phí tổn cho loài
người lớn hơn chi phí cho lao và HIV cộng lại. Mỗi năm, trung bình một bệnh
nhân hen làm thiệt hại cho gia đình và xã hội 484 USD, và ở Việt Nam con số
này là 301 USD. Nghệ An là một trong các tỉnh có tỉ lệ bệnh nhân hen khá
cao, đặc biệt là tỉnh có tỉ lệ tử vong do hen cao nhất trong cả nước (16,72%)
[19], và là một trong 7 tỉnh được chọn để triển khai Đề tài khoa học công
nghệ cấp Bộ về nghiên cứu thực trạng HPQ tại Việt Nam.
HPQ là bệnh hoàn toàn có thể kiểm soát được, nhưng theo thông tin từ
hội thảo “Tiếp cận mới trong chẩn đoán và điều trị hen theo GINA 2005” do
Hội hen dị ứng và miễn dịch lâm sàng Việt Nam tổ chức ngày 18/2/2006 cho
biết là có chưa đến 10% bệnh nhân hen được điều trị dự phòng và mới chỉ có
5% bệnh nhân hen được kiểm soát tốt. Hầu hết các bệnh nhân thiếu kiến thức
về hen, và không có điều trị dự phòng lâu dài. Nguy cơ tử vong giảm 85% và
các chi phí do hen có thể giảm đi một nửa nếu bệnh được phát hiện điều trị và
dự phòng đúng cách [9].

vi


Cùng với điều trị bằng thuốc, để tăng cường sự hiểu biết và thực hành
kiểm soát hen cho cán bộ y tế, người bệnh và cả cộng đồng một cách có hiệu
quả, nhiều hội thảo khoa học với các chủ đề “Hen và kiểm soát hen”, “Bạn có
thể kiểm soát hen của chính mình”, ... đã được tổ chức. Từ năm 2004 đến nay,
Bộ Y tế đã giao cho bệnh viện Bạch Mai triển khai dự án “Tư vấn phòng

chống hen phế quản” ở một số tỉnh phía Bắc trong đó có Nghệ An, nhờ vậy
đã cải thiện rõ trình độ hiểu biết của nhân viên y tế và nhân dân về HPQ, giúp
cho người bệnh kiểm soát tốt hơn tình trạng hen của mình, đưa lại kết quả hết
sức khả quan.
Cùng với các triệu chứng lâm sàng, thì các chỉ số sinh lý, sinh hóa là cơ sở
để đánh giá mức độ của bệnh, giúp cho việc chẩn đoán, theo dõi, điều trị bệnh
hiệu quả hơn. Với mong muốn góp phần nâng cao ý thức cộng đồng về tầm quan
trọng trong điều trị kiểm soát hen chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tác
dụng của tư vấn và điều trị dự phòng lên các chỉ tiêu sinh lí, sinh hóa ở bệnh
nhân hen phế quản tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An”.
2. Mục tiêu đề tài
2.1 Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa ở bệnh nhân HPQ đang
được tư vấn và điều trị dự phòng tại khoa khám bệnh BVHNĐKNA
2.2 Đánh giá hiệu quả của việc kiểm soát hen ngoại trú tại khoa khám
bệnh BVHNĐKNA
3. Nội dung nghiên cứu
3.1 Mô tả một số chỉ tiêu sinh lí, sinh hóa, triệu chứng lâm sàng ở bệnh
nhân HPQ đến khám tại BVHNĐKNA để phân độ HPQ theo bậc theo
GINA.
3.2 Tiến hành các nội dung tư vấn, dánh giá trị số PEF và hướng dẫn điều
trị ngoại trú bệnh nhân HPQ theo GINA.
3.3 Đánh giá các chỉ số sinh lí, sinh hóa, trị số PEF, các triệu chứng lâm
sàng sau mỗi lần tái khám.
3.4 Đánh giá hiệu quả của việc điều trị kiểm soát hen ngoại trú theo tiêu
chí GINA tại khoa khám bệnh BVHNĐKNA

vii


viii



Chương 1: TỔNG QUAN
1.1 Đại cương giải phẫu phế quản và chức năng sinh lý hô hấp.
1.1.1 Giải phẫu phế quản
Phế quản gồm hai nhánh: phế quản trái và phế quản phải, nối tiếp với
khí quản, đường kính 9-10mm, được cấu tạo từ các vòng sụn. Bên trong lót
một lớp biểu bì có lông và tuyến nhầy để giữ lại bụi và vi khuẩn rồi tống ra
ngoài.[34]
- Phế quản chính phải: gồm 10 phế quản phân thuỳ chia thành 3 nhánh
lớn: phế quản thuỳ trên, phế quản thuỳ giữa, phế quản thuỳ dưới. Tương ứng
với phổi phải có 3 thuỳ là: thuỳ trên, thuỳ giữa và thuỳ dưới.
+ Phế quản thuỳ trên lại tách thành 3 phế quản phân thuỳ: đinh, sau,
trước, ứng với 3 phân thuỳ cùng tên của thuỳ trên phổi phải.
+ Phế quản thuỳ giữa chia thành 2 phế quản phân thuỳ: ngoài, trong,
ứng với phân thuỳ ngoài và phân thuỳ trong của thuỳ dưới phổi phải.
+ Phế quản thuỳ dưới tách thành 5 phế quản phân thuỳ: đinh của thuỳ
dưới, trong, trước, ngoài, sau. Tương ứng với 5 phân thuỳ: trên, đáy trong,
đáy trước, đáy ngoài, đáy sau của thuỳ dưới phổi phải.
- Phế quản chính trái: cũng gồm 10 phế quản phân thuỳ, chia thành 2
nhánh lớn là phế quản thuỳ trên và phế quản thuỳ dưới ứng với phổi trái có 2
thuỳ: thuỳ trên và thuỳ dưới.
Lớp lót bên trong của phế quản còn được gọi là lớp niêm mạc, nó chứa:
(1) tuyến nhầy (tiết ra đủ chất nhầy để giúp bôi trơn đường thở); (2) các tế bào
viêm như tế bào mast, tế bào lympho, bạch cầu ái toan. Các tế bào này giúp
bảo vệ niêm mạc của phế quản đối với vi khuẩn, tác nhân dị ứng, chất kích
thích khi được hít vào bên trong, và các tế bào này có thể làm cho mô phế

ix



quản bị sưng phù. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng các các tế bào viêm này đóng
vai trò rất quan trọng trong phản ứng dị ứng.
1.1.2 Sinh lý hô hấp
Hô hấp là một trong những hoạt động sống quan trọng nhất của cơ
thể. Đó là quá trình trao đổi khí liên tục giữa cơ thể với môi trường xung
quanh. Cơ thể chỉ tồn tại và phát triển được khi được cung cấp đầy đủ
các chất dinh dưỡng và O 2 , đồng thời thải ra ngoài các sản phẩm của quá
trình phân huỷ mà trước hết là khí CO 2 . Ngoài ra, hoạt động hô hấp cũng
góp phần điều hoà độ PH của cơ thể bằng cách thay đổi nồng độ khí
CO2_hoà tan trong dịch ngoại bào
Không khí đi qua mũi, miệng để vào thanh quản rồi vào khí quản. Sau
đó để vào phổi được không khí sẽ phải đi qua một trong hai phế quản chính.
Phế quản tiếp tục phân nhánh trong phổi thành những ống nhỏ và nhỏ hơn
nữa gọi là các tiểu phế quản. Không khí hít vào sẽ đi qua các hệ thống các khí
đạo (đường thở) này để đến hàng triệu các túi khí nhỏ trong phổi được gọi là
các phế nang. O2 từ phế nang vào máu thông qua hệ thống mạch máu rất nhỏ
gọi là mao mạch, tương tự CO2 từ dòng máu vào phế nang và từ đó sẽ được
thở ra ngoài.
Các phế quản bình thường cho phép không khí đi vào và đi ra
phổi thật nhanh chóng. Giúp đảm bảo nồng độ O 2 và CO 2 ổn định trong
máu. Thành phế quản được bao quanh bởi lớp cơ trơn có thể co và dãn
một cách tự động khi chúng ta thở. Sự co thắt và dãn nở của các phế
quản được điều khiển bởi hai hệ thần kinh khác nhau, cùng hoạt động
nhịp nhàng để đường thở luôn mở.

x


Hình 1.1: Phế quản bình thường và phế quản bị viêm

* Lưu lượng đỉnh (l/phút)
- Là chỉ số đánh giá sự tắc nghẽn đường dẫn khí thì thở ra bằng cách
cố gắng thở ra thật nhanh, thật mạnh tối đa trong một lần thở ra.
- Lưu lượng đỉnh kế (peak flow meter): Là một dụng cụ khá đơn giản,
dễ sử dụng để đo chỉ số lưu lượng đỉnh.
Lưu lượng đỉnh có thể sụt giảm nhiều giờ hoặc thậm chí là vài ngày
trước khi có triệu chứng báo động của một cơn hen cấp. Vì vậy, việc đo lưu
lượng đỉnh mỗi ngày có thể giúp chúng ta:
- Đánh giá được sự biến đổi trong ngày của chức năng phổi, đặc biệt
trên những người thường có cơn hen về đêm.
- Đánh giá hiệu quả việc điều trị dự phòng mỗi ngày, có thể phải tăng
thuốc dự phòng hoặc giảm nếu được.
- Nhận biết những diễn tiến xấu hơn của hen (cơn hen cấp), giúp chúng
ta sử dụng thuốc sớm để ngăn chặn được cơn hen cấp và tránh chuyển sang
giai đoạn nghiêm trọng hơn. Hoặc giúp người bệnh hen biết được khi nào cần
phải nhập viện cấp cứu.
- Xác định được các yếu tố gây khởi phát cơn hen, đặc biệt trong hen
nghề nghiệp.

xi


Bảng 1.1: Chỉ số PEF bình thường ở nam giới [45]
Chiều cao (cm)

Tuổi
152

165


178

191

203

20

554

575

594

611

626

25

580

603

622

640

656


30

594

617

637

655

672

35

599

622

643

661

677

40

597

620


641

659

675

45

591

613

633

651

668

50

580

602

622

640

656


55

566

588

608

625

640

60

551

572

591

607

622

65

533

554


572

588

603

70

515

535

552

568

582

75

496

515

532

547

560


Bảng 1.2: Chỉ số PEF bình thường ở nữ giới [45]
Chiều cao (cm)

Tuổi
140

152

165

178

191

20

444

460

474

486

497

25

455


471

485

497

509

xii


30

458

475

489

502

513

35

458

474

488


501

512

40

453

469

483

496

507

45

446

462

476

488

499

50


437

453

466

478

489

55

427

442

455

467

477

60

415

430

443


454

464

65

403

417

430

441

451

70

390

404

416

427

436

75


377

391

402

413

422

xiii


1.1.3 Sơ lược các chỉ số sinh lý, sinh hoá bình thường của người Việt Nam
1.1.3.1 Chỉ số sinh lý
a. Huyết áp
Huyết áp (HA) là áp lực tác động của dòng máu lên thành động mạch.
HA phụ thuộc vào lực bơm máu của tim, thể tích máu được bơm, kích thước
cũng như độ đàn hồi của thành động mạch.
HA liên tục thay đổi tuỳ theo hoạt động, nhiệt độ, chế độ ăn, cảm xúc,
tư thế, và tình trạng sử dụng thuốc. HA là tiêu chí để đánh giá chức năng toàn
diện của tim mạch. Có hai giá trị: HA tâm thu: là trị số HA động mạch trong
chu kì tim ứng với lúc tâm thu cao nhất; HA tâm trương: là trị số HA động
mạch trong chu kì tim ứng với tâm trương thấp nhất [7]
Thường thì người già có HA cao hơn người trẻ từ 10-20mmHg. Khi
tuổi quá cao, động mạch bị lão hoá, xơ vữa, giảm tính đàn hồi gây nên chứng
HA tâm thu đơn thuần [14]
b. Nhịp thở
Mức độ hô hấp là số nhịp thở trong một phút. Nó tăng khi bị sốt hay bị

một chứng bệnh nào đó [27]. Nhịp thở phụ thuộc vào độ tuổi, hoạt động, tâm
trạng…[34]
Bảng 1.3: Chỉ số hô hấp bình thường
Độ tuổi
1 tuổi
1-6 tuổi
≥ 7 tuổi

Chỉ số hô hấp (lần/phút)
40-60
18-26
12-24

c. Nhiệt độ
Nhiệt độ cơ thể của người trưởng thành bình thường dao động trong
khoảng từ 36-370C. Nhiệt độ có thể chênh lệch một chút theo giới (nam hơi
thấp hơn nữ), theo độ tuổi (trẻ em hơi cao hơn người lớn). Một số các yếu tố

xiv


có thể ảnh hưởng đến thân nhiệt như: bệnh lý, hoạt động cơ bắp, chu kì kinh
nguyệt (ở phụ nữ), nhịp sinh học…
d. Nhịp tim (tần số tim)
Chức năng của tim là đưa máu có chứa oxy và chất dinh dưỡng đến tất
cả các tế bào của cơ thể. Trong một phút, trái tim của người trưởng thành,
khỏe mạnh, đập khoảng 70 lần, mỗi lần đẩy ra 150ml. Loạn nhịp tim có thể là
tim co bóp quá nhanh, quá chậm hoặc không đều nhau. Đối với những bệnh
nhân mắc bệnh tim, có thể lên đến 150 lần/phút, thậm chí hơn 200 lần/phút
1.1.3.2 Các chỉ số sinh hóa và huyết học

a. Chỉ số sinh hoá
của protid. Ure là chất thải chính của sự tiêu hóa chất đạm, số lượng
trung bình của ure trong máu là từ 8-25mg/100cc. Trên mức độ này là có hại
cho cơ thể.
+ Creatinin là một chất hoá học được thoái hoá từ chuyển hoá của cơ.
Creatinine được sản xuất từ creatine, một phân tử rất quan trọng trong việc
tạo năng lượng của cơ. Gần 2% creatine trong cơ thể được biến đổi thành
creatinine mỗi ngày. Creatinine được vận chuyển trong máu đến thận. Thận sẽ
lọc creatinine và thải nó ra ngoài theo nước tiểu [14].
+ Glucose là nguồn cung cấp năng lượng chính cho tế bào của cơ thể.
Nhiều tế bào (ví dụ tế bào não và tế bào hồng cầu), hoàn toàn phụ thuộc vào
glucose máu như là nguồn năng lượng chính. Mặt khác, não đòi hỏi nồng độ
glucose trong máu ổn định để duy trì chức năng bình thường của não. Nồng
độ glucose trong máu thấp hơn 30 mg/dl hoặc trên 300 mg/dl có thể gây ra lú
lẫn hoặc hôn mê.
+ Acid uric là sản phẩm cuối cùng của chuyển hoá purine (purine là
thành phần cấu tạo của RNA và DNA), hầu hết acid uric trong cơ thể được

xv


bài tiết qua thận. Sự sản xuất aid uric quá mức xảy ra khi có sự phá huỷ tế bào
hàng loạt hay thận không còn khả năng bài tiết aci uric. Sự dư thừa acid uric
là nguyên nhân gây nên bệnh gout.
+ Cholesteron là chất béo được tìm thấy trong máu chúng ta, chúng
được sản xuất hàng ngày trong gan (nguồn gốc nội sinh), hoặc từ việc ăn
uống các chất mỡ động vật (nguồn gốc ngoại sinh). Cholesteron được lấy ra
khỏi cơ thể chúng ta bởi gan dưới dạng mật. Cholesteron cùng với các chất
béo khác tham gia cấu tạo nên màng tế bào. Cholesteron là thủ phạm chính
gây nên các bệnh về tim mạch.

+ Do tính chất không hoà tan trong máu nên cholesteron lưu chuyển
khắp cơ thể cần có sự trợ giúp của các chất chuyên chở là các lipoprotein,
gồm lipoprotein có tỉ trọng thấp (LDL-Low Density Lipoprotein) và
lipoprotein có tỉ trọng cao (HDL-High Density Lipoprotein). Hai loại này chỉ
phân biệt được bởi sự khác nhau về tỉ trọng. LDL có nhiệm vụ chuyên chở
cholesteron từ gan đi khắp các mô và tế bào trong cơ thể, còn HDL lại phân
phát lại lượng cholesteron không dùng trở về gan, phân huỷ sau cùng thành
các muối mật được thải trừ bằng đường tiêu hoá.
+ Tryglycerit là những hợp chất hữu cơ cung cấp năng lượng cần thiết
cho sự chuyển hoá của cơ thể, là dạng chất béo thông thường nhất mà chúng
ta tiêu thụ. Nồng độ tryglycerit cao là yếu tố gây nên xơ vữa động mạch và sự
tạo thành các mảng mỡ làm hẹp thành động mạch có thể dẫn tới đột quỵ.
+ Bình thường nồng độ AST < 40 U/L và nồng độ ALT< 49 U/L.
Nhưng nồng độ men gan này sẽ tăng cao trong trường hợp gan bị tổn thương.
Nồng độ men gan tăng thường tỉ lệ thuận với mức độ viêm nhiễm của gan.
Tuy nhiên đó chỉ là những gợi ý ban đầu vì vẫn có những trường hợp viêm
gan rất nặng nhưng nồng độ men gan lại tăng rất ít. Trong một số trường hợp
việc gia tăng nồng độ men gan lại không liên quan gì đến gan.[8], [25], [24].

xvi


b. Chỉ số huyết học
Máu là môi trường trong của cơ thể đảm bảo cho việc duy trì sự
sống ở mức tế bào và mô. Máu đem dưỡng khí và chất dinh dưỡng đến tất
cả mọi nơi trong cơ thể, đảm bảo cân bằng nước, chất khoáng, lượng kiềm
toan, tham gia điều hoà thân nhiệt và bảo vệ cơ thể, máu chuyên chở các
chất cặn bã đến thận, phổi, da để thải ra ngoài [32]. Thành phần hóa học
của máu phản ánh tình trạng sinh lý của cơ thể. Do vậy, các xét nghiệm
hóa sinh đóng vai trò hết sức quan trọng trên lâm sàng, giúp cho việc chẩn

đoán và tiên lượng bệnh [16], [29].
Máu được cấu tạo bởi hai thành phần chính là: thành phần hữu
hình (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) và huyết tương. Thành phần hữu hình
chiếm đến 40% thể tích máu, huyết tương chiếm 60% thể tích. Trong các
tế bào máu thì hồng cầu chiếm số lượng chủ yếu, bạch cầu và tiểu cầu
chiếm tỷ lệ thấp [6], [18].
Công thức máu là xét nghiệm quan trọng, cung cấp cho người thầy
thuốc những thông tin hữu ích về tình trạng bệnh nhân hoặc người được xét
nghiệm. Nó có tính chất gợi ý, định hướng nguyên nhân gây bệnh. Các trị số
của công thức máu thay đổi theo trạng thái sinh lý, hoặc theo mức độ hoạt
động thể chất của cơ thể.
Một xét nghiệm công thức máu thông thường ở Việt Nam sẽ cho biết
các thông số sau: dòng hồng cầu, dòng bạch cầu, dòng tiểu cầu.
Dòng hồng cầu:
Hồng cầu là thành phần hữu hình chủ yếu của máu, hồng cầu có hình
đĩa tròn lõm hai mặt, chức năng chủ yếu là vận chuyển khí.
Số lượng hồng cầu: ký hiệu là RBC (red blood cell) hay ở một số tờ kết quả
xét nghiệm của Việt Nam thì được ghi là HC, là số lượng hồng cầu có trong
một đơn vị máu (thường là lít hay mm³). Đơn vị tính: Tera/lít (T/l = 1012/l).

xvii


Nồng độ hemoglobin trong máu: thường được ký hiệu là HGB hay Hb (đơn vị
tính bằng g/l hay g/dl).
Dòng bạch cầu.
Bạch cầu là các tế bào có nhân, hình dạng và kích thước rất khác
nhau tùy từng loại. Bạch cầu không phải chỉ lưu thông trong máu, mà nó
còn có mặt ở nhiều nơi trong cơ thể: bạch huyết, dịch não tủy, hạch bạch
huyết...Bạch cầu giúp cơ thể chống lại các bệnh truyền nhiễm và các vật

thể lạ trong máu; là một thành phần của hệ miễn dịch bao gồm bạch cầu
trung tính, bạch cầu ưa acid, bạch cầu ưa base, tế bào Lympho và bạch
cầu đơn nhân [33].
Số lượng bạch cầu: là số lượng bạch cầu có trong 1 đơn vị máu, kí hiệu
WBC (wite blood cell). Số lượng bạch cầu tăng cao trong các bệnh nhiễm
khuẩn cấp tính và đặc biệt cao trong các bệnh bạch huyết cấp và mãn tính.
Dòng tiểu cầu
Tiểu cầu là những mảnh vỡ của tế bào có nhân khổng lồ của tuỷ xương,
tiểu cầu nhỏ, không nhân, hình dáng không ổn định.
Chức năng chính của tiểu cầu là giải phóng chất trômbôplastin để gây
đông máu. Tiểu cầu còn có đặc tính ngưng lại thành cục khi gặp vật thô ráp và
vật lạ, nhờ đó góp phần đóng các vết thương. Khi vỡ, tiểu cầu giải phóng
serotonin gây co mạch để cầm máu [40], [23].
1.2 HPQ và hậu quả của nó đối với con người.
1.2.1 Định nghĩa HPQ
HPQ được định nghĩa theo nhiều cách, tùy từng thời điểm và phụ thuộc
vào các tác giả khác nhau.
Theo Laenec (1819) đã mô tả đờm “hạt trai” và gọi là HPQ để phân
biệt với các bệnh khác của phế quản cũng gây nên khó thở.

xviii


Theo WHO (1974) định nghĩa: “Hen phế quản là bệnh có những cơn
khó thở do nhiều nguyên nhân và do gắng sức kèm theo dấu hiệu lâm sàng tắc
nghẽn phế quản”.
Đến năm 1975 Hiệp hội lồng ngực và Hội các thầy thuốc về hô hấp của
Mỹ định nghĩa: “Hen phế quản là bệnh đặc trưng bởi tình trạng tăng hoạt tính
của đường hô hấp đối với các kích thích khác nhau, biểu hiện bằng sự kéo dài
thời kì thở ra. Tình trạng này thay đổi tự nhiên hoặc do tác dụng của điều

trị”[12].
Năm 1984 Charpin J (Pháp) cho rằng: “Hen phế quản là một hội chứng
có những cơn khó thở rít kịch phát thường xảy ra về đêm”.
Theo Chương trình quốc gia giáo dục học Mỹ (1985-1991): Hen phế
quản là bệnh có 3 quá trình: thắt nghẽn phế quản hồi phục ngẫu nhiên
hoặc do điều trị, viêm phế quản và tăng tính phản ứng phế quản do nhiều
yếu tố kích thích.
Theo viện quốc gia tim phổi- huyết học Hoa Kỳ và tổ chức Y tế thế
giới (2002) định nghĩa: “ Hen phế quản là bệnh lí viêm mãn tính đường hô
hấp với sự tham gia của nhiều tế bào và thành phần tế bào. Viêm mãn tính
gây tăng tính đáp ứng của đường thở dẫn đến những cơn khò khè, khó thở,
tức ngực và ho tái phát, nhất là vào buổi tối hoặc sáng sớm. Những đợt này
thường có tắc nghẽn đường thở lan tỏa nhưng không hằng định. Sự tắc nghẽn
này tự phục hồi hoặc biến đi do điều trị” [20], [41], [42].
Đến năm 2006 GINA định nghĩa: “Hen là một bệnh viêm mãn tính
đường thở với sự tham gia của nhiều loại tế bào và thành phần tế bào. Tình
trạng viêm nói trên là tăng tính đáp ứng của đường thở gây nên hiện ra các
đợt khò khè, ho, nặng ngực và khó thở lặp đi lặp lại, xảy ra nặng hơn vào ban
đêm hoặc sáng sớm. Tắc nghẽn đường thở lan tỏa, biến đổi theo đợt và
thường phục hồi tự nhiên hoặc do điều trị [5],[44]

xix


Dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng cơ chế bệnh sinh của
HPQ có thể mô tả tóm tắt bằng sự tương tác của 3 quá trình bệnh lý cơ bản:
viêm mãn tính đường thở, tăng đáp ứng của phế quản và co thắt, phù nề phế
quản, trong đó viêm mãn tính đường thở là trung tâm [9].
* HPQ ảnh hưởng đến sự hô hấp như thế nào?
HPQ làm hẹp đường thở, và ảnh hưởng đến việc di chuyển không khí

vào và ra phổi. HPQ chỉ ảnh hưởng đến phế quản mà không ảnh hưởng đến
phế nang và mô phổi. Hiện tượng chích hẹp phế quản là do ba yếu tố chính:
viêm, co thắt phế quản và phản ứng quá mức.


Viêm: Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hẹp lòng phế quản là

hiện tượng viêm. Phế quản sẽ bị đỏ, kích thích, phù. Phản ứng viêm xuất hiện
là để đáp ứng đối với sự hiện diện của các tác nhân dị ứng hoặc chất kích
thích. Phản ứng viêm là do tác động của các hóa chất trung gian như
histamine, leukotrienes, và các chất khác. Các mô bị viêm sẽ tiết ra quá mức
các chất nhầy vào trong lòng phế quản. Các chất nhầy sẽ kết hợp với nhau để
tạo thành những nút nhầy có thể làm nghẹt các phế quản nhỏ (tiểu phế quản).
Các tế bào viêm sẽ đến tích tụ và làm tổn thương mô tế bào. Các tế bào bị tổn
thương sau đó sẽ bị bong tróc vào bên trong và góp phần gây nên hiện tượng
hẹp đường thở.


Co thắt phế quản: Cơ bao bọc xung quanh phế quản bị co thắt trong

cơn HPQ. Hiện tượng co thắt các cơ ở đường thở được gọi là co thắt phế
quản. Hiện tượng co thắt phế quản làm cho đường thở càng bị hẹp hơn. Các
hóa chất trung gian và dây thần kinh đã làm cho các cơ này co thắt lại.


Phản ứng quá mức (quá mẫn cảm): Ở bệnh nhân bị HPQ, đường thở

bị co thắt và viêm mạn tính trở nên nhạy cảm hơn, phản ứng mạnh hơn đối
với các tác nhân gây dị ứng, chất kích thích, nhiễm trùng. Việc tiếp xúc với
các tác nhân này có thể làm cho đường thở bị viêm và hẹp nhiều hơn.


xx


Sự phối hợp của các yếu tố trên gây nên hiện tượng khó thở thì thở ra.
Kết quả là không khí cần phải được thở ra thật mạnh để có thể đi qua chổ hẹp,
do đó tạo nên tiếng khò khè hay tiếng rít. Người bị HPQ thường bị ho để có
thể tống các nút nhầy trong phế quản ra ngoài. Sự suy giảm lưu thông không
khí làm cho ít O2 đi vào trong máu, và nếu nặng thì có thể khí CO 2 sẽ tích tụ
nguy hiểm trong máu.
Điều trị HPQ gồm 3 khâu cơ bản: phát hiện và loại trừ hoặc tránh tiếp
xúc với tác nhân gây dị ứng (dị nguyên) và khống chế các yếu tố thuận lợi
phát sinh cơn hen; khống chế và dần dần loại bỏ quá trình viêm mạn tính tại
đường dẫn khí thấp (các tiểu phế quản); lập lại sự lưu thông của đường dẫn
khí bằng cách giải quyết các hậu quả viêm phù nề, xuất tiết dịch quánh và co
thắt hệ thống phế quản nhỏ.
1.2.2 Phân loại HPQ
Từ năm 1921 HPQ đã được phân thành 2 nhóm lớn: HPQ nội sinh và
HPQ ngoại sinh bởi Rackeman. Đến nay đã có rất nhiều cách phân loại, tuy
nhiên cách phân loại theo trường phái Nga (ADO 1986) [17] là khá phổ biến
và được nhiều nước áp dụng. Đây là cách phân loại theo nguyên nhân gây
bệnh:
- HPQ không dị ứng:
+ Di truyền
+ Gắng sức
+ Aspirin và SAID
+ Rối loạn nội tiết
+ Rối loạn tâm thần
- HPQ dị ứng:
+ Không nhiễm trùng (bụi nhà, phấn hoa)

+ Nhiễm trùng (vi khuẩn, vi rút)

xxi


Năm 1995, một sáng kiến phối hợp được thực hiện bởi các chuyên gia
quốc tế về HPQ phát động bởi Viện Quốc Gia về Tim Mạch, Hô Hấp và
Huyết Học Hoa Kì và tổ chức Y tế Thế Giới, tổ chức GINA ra đời. Từ đây
một cách phân loại hen mới được đề cập dựa trên mức độ của cơn hen, được
điều chỉnh qua các năm 2000, 2002, 2004, 2006 [10], [41], [42], [44]. Đây là
cách phân loại được áp dụng nhiều trong quản lí và điều trị hen.
Bảng 1.4: Phân loại hen theo mức độ nặng nhẹ ( theo GINA 2006) [9]

Bậc hen

Bậc 1 (nhẹ,

Triệu chứng
ban ngày

dẳng)

Bậc 3 (vừa, dai
dẳng)

chứng
ban đêm

lần/tháng


H àng ngày

>2

PEF,

hưởng đến

FEV1

hoạt động

hạn hoạt
động thể lực

hưởng đến

lần/tháng hoạt động thể
lực
Ảnh hưởng

>1
lần/tuần

Thường
Bậc 4 (nặng)

hen ảnh

Dao

động
PEF

>80%
giá trị

<20



%

thuyết

Có thể ảnh

>1lần/tuần
<1lần/ngày

Mức độ cơn

Không giới

≤2

<1lần/tuần

cách quãng)

Bậc 2 (Nhẹ, dai


Triệu

hoạt động thể
lực
Giới hạn hoạt

xuyên, liên

>80%

2030%

60-

>30

80%

%

<60%

>30

động thể lực
%
tục
Ngoài ra, để giúp kiểm soát hen hiệu quả hơn GINA 2006 đưa ra cách


phân loại theo mức độ kiểm soát hen như sau:
Bảng 1.5: Phân loại theo mức độ kiểm soát hen (3 bậc) [44]
Đặc điểm

Đã được kiểm

Kiểm soát một

xxii

Chưa được


Triệu chứng ban

soát
Không (hoặc ít

phần
≥ 2 lần/tuần

ngày
Triệu chứng

nhất)

thức giấc ban

Không




Không

≥ 2 lần/tuần

Không



đêm
Sử dụng thuốc
cắt cơn
Giới hạn hoạt
động
Chức năng phổi
PEF hoặc FEV1
Cơn hen cấp tính

Bình thường
hoặc gần như

kì tuần nào

< 80% giá trị
dự tính

bình thường
Không


kiểm soát
≥ 3 lần trong bất

≥ 1 lần/năm

1 lần trong bất kì
tuần nào

1.2.3 Những yếu tố gây kịch phát cơn hen [11].
Để kiểm soát tốt bệnh HPQ, thì trước tiên người bệnh cần tránh và hạn
chế tiếp xúc với các yếu tố gây kích phát cơn hen (các yếu tố này được gọi là
các yếu tố gây cơn hoặc các yếu tố kịch phát). Dưới đây là các yếu tố có thể
gây ra các cơn hen cho bệnh nhân, tuỳ thuộc vào từng người bệnh mà các yếu
tố này có thể khác nhau.

xxiii


1.2.3.1 Khói thuốc lá, thuốc lào
Các loại khói thuốc có thể gây kích thích co thắt phế quản người bệnh
một cách nhanh chóng và gây nên khó thở.
Bản thân người bệnh HPQ hút hoặc hít phải khói thuốc do người xung
quanh hút, cũng đều có thể kích phát gây ra cơn hen.
1.2.3.2 Khói bếp
Các loại khói bếp than, khói lò gạch, lò sưởi, thậm chí cả bếp củi, rơm
rạ, lá cây, thì khi người bệnh hít phải các loại khói này đều có thể gây ra các
cơn HPQ. Ngoài ra, người bệnh cũng nên tránh các loại khói ô tô, xe máy…
1.2.3.3 Vật nuôi
Các loại vật nuôi trong nhà như: chó, mèo, gà, chim…thường rải ra môi
trường xung quanh chúng rất nhiều các dị nguyên có bản chất là protein,

những dị nguyên này có thể gây ra các cơn khó thở cho người bệnh khi tiếp
xúc với chúng. Các dị nguyên này có thể có từ: lông, nước bọt, phân… của
chúng.
1.2.3.4 Gián
Gián có thể gây ra các cơn hen do chúng rải ra môi trường các dị
nguyên có thể gây nên những cơn hen. Vì vậy, để hạn chế sự phát triển của
chúng cần giữ môi trường sạch sẽ.
1.2.3.5 Thức ăn
Một số các loại thức ăn có thể gây ra các cơn khó thở cho người bệnh
như: tôm, cua, lạc, các chất phụ gia thực phẩm… Các thức ăn này thường đã
từng gây dị ứng hoặc là những thức ăn mà người bệnh chưa từng ăn hoặc tiếp
xúc. Các chất phụ gia thực phẩm như: sulfites, metabisulfites, sulfur
dioxide…được sử dụng trong các loại thực phẩm hoặc các loại đồ uống như:
rượu, bia, hoa quả khô… đều có thể gây ra các cơn HPQ.

xxiv


1.2.3.6 Bụi nhà
Trong thành phần bụi nhà thường có chứa các con bụi nhỏ mà mắt
thường không nhìn thấy được. Chúng thường sống trong khăn trải, chăn, gối,
rèm cửa…chúng sản sinh ra các dị nguyên bản chất là protein gây kích thích
mạnh đường hô hấp.
1.2.3.7 Phấn hoa, nấm mốc
Đây là nguồn dị nguyên rất phổ biến trong môi trường, phấn hoa có thể
từ các loại cây trồng, hoa trồng hoặc hoa dại. Vào mùa hoa nở, phấn hoa phát
tán vào không khí, người bệnh hít phải có thể gây ra các cơn HPQ. Ngoài ra
các loại nấm mốc cũng có thể là yếu tố gây kích phát cơn hen.
1.2.3.8 Các chất kích thích khác
Tất cả các chất phun xịt có mùi hắc đều có thể là tác nhân kích phát gây

ra các cơn HPQ như: nước hoa, thuốc xịt phòng, thuốc diệt gián, muỗi…
Ngoài ra các mùi hắc từ những chất như dầu thơm, hoa khô, long não… đều
có thể gây ra cơn hen cho người bệnh.
1.2.3.9 Thời tiết
Bệnh nhân HPQ thường xuất hiện cơn hen khi thời tiết thay đổi, khi khi
hậu quá nóng hoặc quá lạnh.
1.2.3.10 Yếu tố tiếp xúc nghề nghiệp
Hen nghề nghiệp xảy ra khi tiếp xúc với các tác nhân tại nơi làm việc,
hậu quả là một số trường hợp có thể tiến triển thành bệnh HPQ. Sau khi tiếp
xúc với các tác nhân có thể gây ra các đợt bùng phát của HPQ. Khoảng 5%
hen ở người trưởng thành có liên quan đến các yếu tố nghề nghiệp. Những
người có cơ địa dị ứng thường dễ tiến triển thành bệnh hen nghề nghiệp hơn.
Những yếu tố nghề nghiệp có thể gây ra tình trạng viêm đường thở, tăng phản
ứng của phế quản và gây ra các triệu chứng của bệnh.

xxv


×