Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
Khoa luật
ĐặNG THị KIM PHụNG
Tìm hiểu các chính sách biển của Việt nam trong
tiến trình hội nhập quốc tế
và phát triển bền VữNG
khóa luận tốt nghiệp đại học
chuyên ngành: LUậT KINH Tế QuốC Tế
Vinh - 2011
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
Khoa luật
Tìm hiểu chính sách biển của Việt nam
trong tiến trình hội nhập quốc tế
và phát triển bền VữNG
1
khóa luận tốt nghiệp đại học
chuyên ngành: LUậT KINH Tế QuốC Tế
Giáo viên hớng dẫn: Trần Thị Vân Trà
Sinh viên thực hiện : Đặng Thị Kim Phụng
Lớp
: 48B1 Luật
Vinh - 2011
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS
Đoàn Minh Duệ cùng tập thể cán bộ giảng dạy Khoa Luật đã hết sức tạo điều
kiện để em có thể hoàn thành khóa luận của mình. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm
ơn chân thành nhất đến giảng viên Trần Thị Vân Trà là người trực tiếp hướng
dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Trong quá trình nghiên cứu, do trình
độ và khả năng có hạn nên khóa luận này không thể tránh khỏi những sai lầm,
thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để hoàn thiện khóa
luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5/2011
Tác giả
Đặng Thị Kim Phụng
3
MỤC LỤC
Phần mở đầu..............................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...................................................................................
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài...........................................................................
4. Giới hạn của đề tài.................................................................................................
5. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài.......................................................
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..................................................................
7. Bố cục của đề tài ...................................................................................................
Chương 1: Tổng quan về luật biển quốc tế, công ước luật biển 1982 và phân
định biển trong luật quốc tế
1.1. Khái quát chung về Luật biển quốc tế..............................................................
1.1.1. Khái niệm luật biển quốc tế.............................................................................
1.1.2. Mối quan hệ giữa luật biển quốc tế và luật quốc tế.........................................
1.1.3. Các nguyên tắc của luật biển quốc tế..............................................................
1.2. Khái quát công ước luật biển 1982.................................................................12
1.2.1. Khái quát công ước luật biển 1982................................................................12
1.2.2. Các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng................................................13
1.3. Phân định biển trong luật biển quốc tế..........................................................25
1.3.1. Khái niệm phân định biển..............................................................................25
1.3.2. Các phương pháp phân định biển..................................................................26
1.3.3. Các trường hợp phân định biển.....................................................................27
4
Chương 2: Thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia láng
giềng
2.1. Một vài nét cơ bản về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên biển Việt Nam...............................................................................................32
2.1.1.Vị trí địa lý ......................................................................................................32
2.1.2. Điều kiện tự nhiên...........................................................................................33
2.1.3. Tài nguyên thiên nhiên....................................................................................34
2.2. Vai trò của biển Đông đối với sự phát triển của Việt Nam............................36
2.3. Thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng..........37
2.3.1. Các vùng biển đã được xác định của Việt Nam ...........................................37
2.3.2. Thực tiễn việc phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng...39
Chương 3: Đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phân định
biển của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững
3.1. Đánh giá về chính sách phân định biển của Việt Nam.................................58
3.2. Kiến nghị..........................................................................................................61
Kết luận....................................................................................................................63
Tài liệu tham khảo...................................................................................................64
5
A.
1.
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Biển có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển và sinh tồn của nhân
loại, là kho nước vô tận, là kho tài nguyên, kho thực phẩm vô cùng quý giá, là môi
trường nuôi sống con người trong quá khứ, hiện tại và cả trong tương lai. Biển là tài
sản quý giá của mỗi quốc gia. Nhiều nhà khoa học đã nói đến “lục địa xanh” này và
họ cho rằng nền kinh tế tương lai của loài người trước hết là nền kinh tế gắn với
biển, bởi vì đất liền đang bị khai thác kiệt quệ tài nguyên, biển có thể mở lối thoát
cho con người thoát khỏi tình trạng bế tắc về nguyên nhiên liệu cho sự phát triển.
Chính vì thế mà ngày nay tất cả các quốc gia có biển (cũng như các quốc gia không
có biển) cũng đều chú ý đến việc nghiên cứu và khai thác các nguồn lợi từ biển
trong quá trình phát triển đất nước.
Biển Đông có diện tích khoảng 3,4 triệu km 2, là một bộ phận nhỏ của Thái
Bình Dương nhưng lại có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi qua lại của tuyến
đường giao thông huyết mạch đối với nhiều nước. Biển Đông cũng là nơi có nguồn
tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú cả về số lượng và chủng loại.
Việt Nam nằm ở rìa biển Đông, là mặt tiền quan trọng để nước ta thông ra
với Thái Bình Dương và mở cửa ra nước ngoài. Nước ta là một quốc gia biển với
diện tích biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền (khoảng 1 triệu km 2), đường bờ biển
dài 3260 km bao lấy lãnh thổ cả ba hướng Bắc, Đông, Nam, trung bình cứ khoảng
100 km2 đất liền lại có 1 km2 bờ biển. Từ bao đời nay, biển đã gắn bó mật thiết với
mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc ta, ảnh hưởng lớn đến mọi miền của
tổ quốc, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Với vị trí địa - chính trị như vậy, Việt Nam đã có nhiều chính
sách để phát huy tiềm năng của biển Đông và đưa nó trở thành lợi thế trong việc
6
phát triển đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của biển trong tương lai, tôi đã
mạnh dạn chọn đề tài “Tìm hiểu các chính sách biển của Việt nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế và phát triển bền vững” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Biển Đông có một tầm quan trọng đáng kể nên đã được nhiều người quan
tâm nghiên cứu trong cũng như ngoài nước. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc
gia quan tâm nhiều nhất đến việc nghiên cứu trong khu vực này, ngoài ra cũng có
nhiều quốc gia khác tham gia nghiên cứu biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Nga…
Hàng loạt công trình nghiên cứu về biển Đông được công bố như ở Việt Nam có:
“Toàn tập thiên nam chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá, “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn,
“Việt sử cương giám khảo lược” của Nguyễn Thông…, hay có thể kể đến đề tài
“Hợp đồng nghiên cứu khoa học về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa” của Tiến sỹ Nguyễn Quang Ngọc. Một số nghiên cứu của
các nhà khoa học phương Tây như “Lesouverainet sur les Archipels et Spratlay” của
bà M.C. Gendreau, Chủ tịch hội luật gia Châu Âu về vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa… Đặc biệt, về vấn đề biển Đông, đã có rất nhiều cuộc hội thảo khoa
học trong nước cũng như quốc tế bàn về vấn đề tranh chấp trên biển Đông.
Chính những công trình nghiên cứu kể trên sẽ là nguồn tài liệu tham khảo để
tôi nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu các chính sách biển của Việt Nam trong tiến trình
hội nhập quốc tế và phát triển bền vững” được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.
3.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu về đề tài này là :
- Tìm hiểu về các chính sách biển mà Việt Nam đã đạt được trong quá trình
phát triển đất nước.
- Đánh giá về các chính sách đó của Việt Nam trong tiến trình phát triển đất nước.
7
-
Đưa ra một số kiến nghị giúp hoàn thiện thêm các chính sách biển của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững.
Nhiệm vụ của đề tài này là tìm hiểu về các quá trình thảo luận, thông qua và
thực hiện các chủ trương, chính sách, các hiệp định, các văn bản pháp luật của Việt
Nam về biển để từ đó tổng kết và thực hiện được mục đích của đề tài này.
4.
Giới hạn của đề tài
Chính sách biển thì rộng, ở đây chúng ta có thể kể ra một số chính sách biển
như: chính sách về bảo vệ chủ quyền và an ninh Việt Nam trên biển, chính sách về
khai thác thủy sản, dầu khí trên các vùng biển Việt Nam, chính sách về nghiên cứu
khoa học biển, chính sách về du lịch biển đảo, chính sách về giao thông vận tải
biển, chính sách về bảo vệ môi trường biển, chính sách phân định biển của Việt
Nam… Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài này, do thời gian tìm hiểu, trình độ
hiểu biết và kinh nghiệm có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu về các chính sách phân định
biển của Việt Nam.
5.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài
Mỗi vấn đề được đưa ra lại có đối tượng nghiên cứu riêng của nó, ở đề tài
này, đối tượng nghiên cứu của nó là các chính sách phân định biển, các hiệp định
liên quan đến phân định biển được Việt Nam ký kết với các quốc gia láng giềng.
Phương pháp nghiên cứu của mỗi đề tài là khác nhau. Mỗi vấn đề có một
phương pháp nghiên cứu riêng nhưng cũng có thể phải kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau mới nghiên cứu được hết một vấn đề. Trong đề tài nghiên cứu của mình,
tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, để đánh giá
một cách toàn diện nhất về vấn đề đó. Phương pháp sưu tầm cũng là một phương
pháp quan trọng giúp tôi có thể sưu tầm được những tài liệu liên quan đến việc
nghiên cứu của mình. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác như: so sánh, đối chiếu, logic, tổng kết thực tiễn…
8
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận: đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến các
chính sách biển của Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: đề tài cung cấp những tài liệu, những thông tin cần thiết
về các chính sách biển của Việt Nam, từ đó giúp Nhà nước ta có thể đưa ra những
chính sách về biển đúng đắn nhất để đưa đất nước hội nhập quốc tế và phát triển
bền vững.
7.
Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài còn có phần nội dung gồm 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về luật biển quốc tế, công ước luật biển 1982
và phân định biển trong luật biển quốc tế
1.1. Khái quát chung về Luật biển quốc tế
1.1.1.
Khái niệm Luật biển quốc tế
1.1.2.
Mối quan hệ giữa Luật biển quốc tế và Luật quốc tế
1.1.3.
Các nguyên tắc của Luật biển quốc tế
1.2. Khái quát Công ước luật biển 1982
1.2.1.
Khái quát về Công ước luật biển 1982
1.2.2.
Các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng
1.3. Phân định biển trong luật biển quốc tế
1.3.1.
Khái niệm phân định biển
1.3.2.
Các phương pháp phân định biển
1.3.3.
Các trường hợp phân định biển
9
Chương 2: Thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia
láng giềng.
2.1. Một vài nét cơ bản về vị trí địa lý ,điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên của biển Đông
2.2. Vai trò của biển đối với sự phát triển của Việt Nam
2.3. Thực tiễn phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng
2.3.1.
Các vùng biển đã được xác định của Việt Nam
2.3.2.
Thực tiễn việc phân định biển giữa Việt Nam và các quốc gia
láng giềng
Chương 3: Đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách phân định
biển của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững
3.1. Đánh giá về chính sách phân định biển của Việt Nam
3.2. Kiến nghị
10
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ, CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM
1982 VÀ PHÂN ĐỊNH BIỂN TRONG LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
1.1.
Khái quát chung về Luật biển quốc tế
1.1.1. Khái niệm Luật biển quốc tế
Luật biển quốc tế chính là một ngành luật của Luật quốc tế, xuất
hiện từ xa xưa và có vai trò quan trọng trong đời sống quan hệ quốc tế. Lúc đầu khi
mới hình thành, Luật biển quốc tế chỉ tồn tại dưới dạng những tập quán được một số
ít quốc gia thừa nhận và vận dụng. Về sau, trải qua thời gian dài hợp tác và đấu
tranh giữa các quốc gia, Luật biển quốc tế ngày càng phát triển và hoàn thiện tạo
nên môi trường pháp lý cho cộng đồng quốc tế trong việc quản lý, khai thác và sử
dụng biển có hiệu quả.
Luật biển quốc tế là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ trong việc sử
dụng và quản lý không gian biển. Ở khía cạnh này, Luật biển quốc tế quy định
quyền hạn và nghĩa vụ của các quốc gia (có biển hoặc không có biển), điều chỉnh
các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế ở
những vùng biển khác nhau với chế độ pháp lý khác nhau. Mặt khác, Luật biển
quốc tế cũng là một ngành luật mang tính chức năng. Các chức năng này phát triển
và thay đổi cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế trong lĩnh vực biển. Một thời
gian dài, các chức năng này gắn liền với việc thực thi chủ quyền trên một vùng biển
hẹp như: chiến tranh và xung đột vũ trang, đăng ký quốc tịch cho tàu thuyền,… Dần
dần, các thẩm quyền Nhà nước được mở rộng ra phía biển và được bổ sung thêm
những chức năng mang tính cộng đồng như: bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu
khoa học biển, khai thác tài nguyên biển,…
11
Như vậy, có thể khái quát lại: Luật biển quốc tế là tổng thể các nguyên tắc
và các quy phạm pháp lý quốc tế được thiết lập bởi các chủ thể của Luật quốc tế
là quốc gia trên cơ sở thỏa thuận xây dựng nên hoặc thông qua thực tiễn có tính
tập quán nhằm điều chỉnh quy chế pháp lý các vùng biển và các hoạt động sử
dụng, khai thác, bảo vệ môi trường biển cũng như quan hệ hợp tác của các quốc
gia trong các lĩnh vực này.
1.1.2. Mối quan hệ giữa Luật biển quốc tế và Luật quốc tế
Luật biển là một bộ phận của Luật quốc tế, do vậy, nó có quan hệ mật
thiết với các ngành luật và chế định khác của Luật quốc tế. Trước hết, Luật biển có
quan hệ với các nguyên tắc cơ bản của Luật biển quốc tế. Đây là mối quan hệ giữa
các nguyên tắc cơ bản của một hệ thống pháp luật với một bộ phận, một ngành luật
trong hệ thống đó. Mối quan hệ này thể hiện ở chỗ, các quy định của Luật biển quốc
tế phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp và không trái với các nguyên tắc cơ bản
của Luật quốc tế, ví dụ như nguyên tắc công bằng, nguyên tắc đất thống trị biển
trong Luật biển quốc tế phải phù hợp với nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền quốc
gia trong Luật quốc tế,…Trong quan hệ với các ngành khác của Luật quốc tế, Luật
biển cũng có mối quan hệ mật thiết với các ngành luật khác như Luật quốc tế về
biên giới lãnh thổ, Luật hàng không quốc tế, Luật quốc tế về môi trường.
1.1.2.1. Luật biển với Luật quốc tế về biên giới và lãnh thổ quốc gia
Luật quốc tế về biên giới và lãnh thổ quốc gia là một ngành luật của Luật
quốc tế, bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp lý quốc tế điều chỉnh các quan
hệ giữa các chủ thể của Luật quốc tế (quốc gia) liên quan đến lãnh thổ và biên giới
quốc gia.
Mối quan hệ giữa Luật biển quốc tế với Luật quốc tế về biên giới và lãnh
thổ quốc gia là mối quan hệ giữa luật về cái chung (lãnh thổ, biên giới) và luật về
cái riêng, cái bộ phận (biển). Như chúng ta đã biết, lãnh thổ quốc gia được xác định
bao gồm bốn bộ phận là vùng đất, vùng lòng đất, vùng trời và vùng nước trong đó
12
biển là một bộ phận của vùng nước. Do đó, những quy chế của biển phải được xây
dựng trên cơ sở những nguyên tắc tổng quát của lãnh thổ quốc gia nói chung. Chẳng
hạn, khi xây dựng quy chế pháp lý cho vùng nội thủy và lãnh hải, các quốc gia phải
dựa trên cơ sở các quy chế pháp lý về lãnh thổ và quốc gia. Ngược lại, Luật biển
quốc tế cũng có những tác động trở lại đối với Luật quốc tế về biên giới lãnh thổ
quốc gia. Điều này thể hiện rõ trong việc Luật biển quốc tế quy định về vấn đề xác
định ranh giới trên biển của lãnh thổ quốc gia với ranh giới trên biển của một quốc
gia khác hoặc xác định ranh giới ngoài của vùng lãnh hải. Mặt khác, việc áp dụng
các quy chế pháp lý khác nhau cho các vùng biển khác nhau của vùng lãnh thổ quốc
gia trên biển phải được xác định dựa trên cơ sở của Luật biển quốc tế.
Ngoài ra, Luật biển quốc tế và Luật quốc tế về biên giới lãnh thổ quốc gia tuy
điều chỉnh các quan hệ khác nhau trong các lĩnh vực của đời sống quốc tế nhưng
chúng đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế nói chung.
1.1.2.2. Luật biển với Luật hàng không quốc tế
Luật hàng không quốc tế là một ngành luật độc lập của Luật quốc tế, bao
gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp lý quốc tế điều chỉnh các quan hệ pháp lý
quốc tế phát sinh giữa các chủ thể của Luật quốc tế trong việc sử dụng và quản lý
không phận phục vụ cho hàng không dân dụng.
Vùng biển và vùng trời là hai bộ phận của lãnh thổ quốc gia, do vậy, mối
quan hệ giữa Luật biển quốc tế và Luật hàng không quốc tế là quan hệ giữa hai bộ
phận, hai cái riêng trong một tổng thể một cái chung, thống nhất là Luật quốc tế.
Vùng biển là một trong những căn cứ quan trọng để xác định vùng trời trên biển, và
như vậy quy chế pháp lý của vùng trời ít nhiều bị ảnh hưởng bởi quy chế pháp lý
vùng biển. Mỗi vùng trời nằm trên mỗi vùng biển khác nhau có quy chế pháp lý
khác nhau. Nếu như vùng trời nằm trên lãnh hải và vùng nội thuỷ thì được xác định
là vùng không phận quốc gia và chịu sự điều chỉnh của quy chế pháp lý lãnh thổ
quốc gia, ngược lại, nếu vùng trời nằm trên các vùng biển bên ngoài lãnh hải như
13
vùng đặc quyền kinh tế hay biển cả thì sẽ thuộc vùng không phận quốc tế. Như vậy,
có thể nói vùng biển là một yếu tố quan trọng và quyết định đến ranh giới vùng trời
giữa các quốc gia với nhau, giữa vùng không phận quốc gia và vùng không phận
quốc tế.
1.1.2.3.
Luật biển với Luật môi trường quốc tế
Luật môi trường quốc tế là tổng hợp các nguyên tắc và quy phạm pháp lý
quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các chủ thể của Luật quốc tế phát sinh liên quan
đến sử dụng và bảo vệ môi trường.
Môi trường bao gồm tất cả các yếu tố tồn tại xung quanh cuộc sống của
con người, trong đó có biển, do vậy bảo vệ môi trường biển cũng chính là góp phần
vào bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó thì việc bảo vệ môi trường biển lại phụ thuộc
rất lớn vào việc khai thác, sử dụng và bảo tồn tài nguyên biển. Chính vì vậy, Luật
biển quốc tế dành nhiều quy định cho vấn đề bảo vệ môi trường biển và đây cũng
chính là một bộ phận của Luật quốc tế về môi trường. Ngược lại, Luật quốc tế lại có
tác động đến sự hình thành và phát triển các quy định của Luật biển trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường biển.
1.1.3. Các nguyên tắc của luật biển quốc tế
Là một ngành của Luật quốc tế, Luật biển hình thành và phát triển dựa trên
những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế nói chung: bình đẳng về chủ quyền giữa
các quốc gia; cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực; giải quyết hoà bình
các tranh chấp quốc tế; không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia; các
quốc gia có nghĩa vụ hợp tác; dân tộc tự quyết; và tự nguyện thực hiện cam kết
quốc tế. Tuy nhiên, biển là một lĩnh vực có đặc điểm đặc thù cho nên Luật biển
cũng có những nguyên tắc riêng, đặc trưng của mình.
14
1.1.3.1.
Nguyên tắc tự do biển cả
Đây là nguyên tắc cơ bản và hình thành từ rất sớm. Theo đó, biển cả được để
ngỏ cho tất cả các quốc gia (có biển và không có biển) được khai thác, sử dụng và
quản lý biển cả mà không quốc gia nào có quyền áp đặt một cách hợp pháp một bộ
phận của biển cả thuộc chủ quyền của mình. Điều này được ghi nhận trong Điều 87
Công ước luật biển 1982 quy định các quốc gia được thực hiện quyền tự do biển cả
trong nhiều lĩnh vực khác nhau: tự do hàng hải; tự do hàng không, tự do đặt các dây
cáp hoặc ống dẫn ngầm, tự do xây dựng các đảo nhân tạo, tự do đánh bắt hải sản, tự
do nghiên cứu khoa học.
Nguyên tắc tự do biển cả không chỉ được áp dụng riêng cho biển cả mà trong
các vùng biển đặc thù, các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của
quốc gia, nguyên tắc này vẫn được thể hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các quốc gia khác và của cộng đồng quốc tế.. Vì thế, đây là một nguyên tắc
quan trọng đảm bảo sự công bằng giữa các quốc gia, dù quốc gia đó có biển hay
không có biển.
1.1.3.2.
Nguyên tắc đất thống trị biển
Lãnh thổ quốc gia gồm bốn bộ phận chính là vùng đất, vùng trời, vùng lòng
đất và vùng nước. Vùng đất là cơ sở để xác định các bộ phận khác, trong đó có vùng
biển. Chủ quyền của các quốc gia quần đảo trên các đảo của mình là cơ sở để cộng
đồng quốc tế chấp nhận việc mở rộng chủ quyền đó ra vùng nước quần đảo, bất kể
chiều sâu và khoảng cách xa bờ của chúng như thế nào. Việc mở rộng quyền lực của
quốc gia ra hướng biển được quyết định bởi các nhân tố chính trị và khoa học kỹ
thuật, tuy nhiên nó cũng không thể tách rời cơ sở pháp lý quốc tế và được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Theo nguyên tắc này, một quốc gia ven biển được mở rộng chủ
quyền quốc gia ra hướng biển trên cơ sở vùng đất của mình.
15
Tuy nhiên, các quốc gia cũng không được lạm dụng nguyên tắc đất thống trị
biển để mở rộng chủ quyền quốc gia của mình một cách tự do hoặc đơn phương đưa
ra những yêu sách không phù hợp với luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế.
1.1.3.3.
Nguyên tắc di sản chung của loài người
Khái niệm di sản chung của loài người xác định khối tài sản chung không thể phân
chia, thuộc sự sở hữu của cộng đồng quốc tế, thay mặt cho tất cả các quốc gia.
Đây là một nguyên tắc có tính chất đặc thù của Luật biển và dùng để áp dụng
cho vùng đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài
phán của quốc gia - Vùng. Nguyên tắc này hình thành đã mang lại ý nghĩa lớn đối
với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và các quốc gia không có
biển. Nếu như trước đây, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển này chỉ do các
quốc gia có nền kinh tế công nghiệp phát triển khai thác và sử dụng thì ngay sau
Công ước luật biển 1982 ra đời và có hiệu lực, nó đã tạo điều kiện cho các quốc gia
đang phát triển tham gia vào việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên của
Vùng.
Việc hình thành nên nguyên tắc di sản chung của loài người có ý nghĩa
cực kì quan trọng trong việc hình thành chế độ pháp lý về khai thác và quản lý tài
nguyên thiên nhiên ở đáy Vùng. Nội dung chính của các nguyên tắc này là: Vùng và
tài nguyên của Vùng không phải là đối tượng của việc chiếm hữu; Vùng được sử
dụng vào mục đích hòa bình; Mọi hoạt động trong vùng được tiến hành vì lợi ích
của toàn thể loài người, việc thăm dò và khai thác tài nguyên của vùng được tiến
hành thông qua Cơ quan quyền lực quốc tế.
1.1.3.4.
Nguyên tắc công bằng
Đây là một nguyên tắc cơ bản trong Luật biển quốc tế và được thể hiện ở một số
khía cạnh nhất định sau: Thừa nhận quyền của các quốc gia không có biển hoặc bất
lợi về mặt địa ý được sử dụng biển cả như các quốc gia có biển ở phạm vi mà Luật
biển cho phép và nghĩa vụ không làm phương hại đến quyền sử dụng biển cả của
các quốc gia khác; Không được đặt biển cả và vùng dưới chủ quyền riêng biệt của
16
bất kỳ quốc gia nào; Vùng - di sản chung của loài người, được để ngỏ cho tất cả các
quốc gia dù quốc gia có biển hay không có biển để sử dụng vào mục đích hoàn toàn
hòa bình và không phân biêt đối xử. Mọi hoạt động trong vùng được tiến hành là vì
lợi ích của toàn thể nhân loại không phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia;
Trong phân định biển, áp dụng nguyên tắc công bằng không có nghĩa là sửa chữa lại
tự nhiên mà là đảm bảo cho các quốc gia ven biển được hưởng một vùng biển đúng
và công bằng có tính đến hoàn cảnh hữu quan của quốc gia.
1.2.
Khái quát công ước luật biển 1982
1.2.1.
Khái quát về công ước luật biển 1982
Công ước 1982 của Liên Hợp Quốc về Luật biển (hay còn gọi là Công ước
Luật biển 1982 hoặc Công ước 1982 về luật biển) được thông qua tại hội nghị quốc
tế lần thứ ba về biển, là một văn kiện toàn diện về biển. Trước hết, Công ước luật
biển 1982 bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh quy
chế pháp lý các vùng biển. Bên cạnh đó, công ước này không chỉ quy định quyền và
nghĩa vụ của các quốc gia có biển mà nó còn quy định quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia không có biển trong việc sử dụng, khai thác, bảo vệ môi trường biển, do
vậy, nó rất được các quốc gia quan tâm, kể cả quốc gia không có biển. Các quy định
trong Công ước luật biển 1982 bao gồm các điều ước quốc tế mà các quốc gia thỏa
thuận với nhau và các tập quán quốc tế được các quốc gia thừa nhận và pháp điển
nó thành điều luật và quy định trong Công ước. Chính điều này đã giải thích tại sao
Công ước luật biển 1982 khi mới ra đời cho dù thời gian đầu nó chưa có hiệu lực
nhưng vẫn được các quốc gia viện dẫn và áp dụng một cách rộng rãi dưới góc độ là
tập quán quốc tế.
Công ước luật biển năm 1982 là tổng thể các quy phạm pháp lý quốc tế được
các chủ thể của Luật biển quốc tế thừa nhận, xây dựng nhằm điều chỉnh các hoạt
động liên quan đến biển như: cách xác định vùng biển, chế độ pháp lý của các vùng
biển, khai thác và quản lý tài nguyên sinh vật và không sinh vật, các quy định về
17
hàng hải và hàng không, bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh
trật tự trên biển, đấu tranh chống các loại tội phạm trên biển, vấn đề phân định biển
và giải quyết tranh chấp quốc tế liên quan đến biển.
Công ước luật biển 1982 được coi là một bản hiến pháp về biển của cộng
đồng quốc tế và là một trong những thành tựu có ý nghĩa trong lĩnh vực Luật quốc
tế của thế kỷ XX. Với 320 điều khoản chứa đựng trong 17 phần và 9 phụ lục, Công
ước luật biển 1982 được nhiều chuyên gia đánh giá là công ước tương đối bình đẳng
và tiến bộ, thể hiện quá trình đấu tranh và nhượng bộ giữa hai trường phái: tự do
biển cả và chủ quyền quốc gia. Công ước luật biển 1982 vừa là cơ sở pháp lý quan
trọng giúp các quốc gia trong việc quản lý, khai thác và sử dụng biển có hiệu quả và
bảo vệ tài nguyên biển vừa là cơ sở pháp lý cho các quốc gia giải quyết tranh chấp
phát sinh liên quan đến biển.
Công ước luật biển 1982 có hiệu lực kể từ ngày 16/11/1994, tức là sau 12
tháng kể từ ngày nước thứ 60 - Guyana phê chuẩn Công ước vào ngày 16/11/1993.
Và đến tháng 11/1996, Công ước luật biển 1982 đã có 108 nước phê chuẩn [3].
Đến nay, Công ước luật biển 1982 đã có 158 nước phê chuẩn và hiệp định
1994 thay đổi nội dung phần XI của công ước cũng đã có hiệu lực vào ngày
28/7/1995 và trở thành bộ phận hữu cơ của công ước [17].
1.2.2. Các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng
Công ước luật biển 1982 đã định ra khung pháp lý cho các quốc gia trong việc
xác định các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng; xác định ranh giới, biên giới trên
biển giữa các quốc gia. Theo Công ước luật biển 1982 thì mỗi quốc gia ven biển có
năm vùng biển, gồm: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và vùng thềm lục địa. Ngoài năm vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền
của quốc gia ven biển thì Công ước luật biển 1982 còn quy định các vùng biển mà ở đó
tất cả các quốc gia đều có quyền sử dụng và khai thác, đó là biển cả và Vùng với điều
18
kiện là không làm phương hại hoặc đe dọa làm phương hại đến các nước khác, vì mục
đích hòa bình và bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
1.2.2.1.
Nội thủy
Nội thủy là vùng nước nằm phía trong của đường cơ sở tính chiều rộng lãnh
hải. Vùng nước nội thủy bao gồm các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, các cửa
sông, các vịnh, các vùng nước nằm kẹp giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải.
Việc xác định đường cơ sở của quốc gia ven biển phải tuân thủ đúng các quy
định của Công ước về cách xác định đường cơ sở. Có hai phương pháp xác định
đường cơ sở cho quốc gia ven biển, là phương pháp đường cơ sở thông thường và
phương pháp đường cơ sở thẳng. Theo đó, đường cơ sở thông thường được xác định
như tại Điều 5 Công ước luật biển 1982: “là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ
biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính
thức công nhận”. Và cách xác định đường cơ sở thẳng như quy định tại Điều 7 “ở
nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và
chạy dọc theo bờ biển hay nơi bờ biển cực kỳ không ổn định, phương pháp đường
cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải… Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc
gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển
cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế”. Đồng thời nếu việc xác định đường cơ sở sai
so với các quy định về việc xác định đường cơ sở quy định tại Công ước thì tàu
thuyền nước ngoài vẫn có quyền đi qua không gây hại trên vùng nước đó (khoản 2
Điều 8 Công ước luật biển 1982).
Trong vùng nước nội thủy các quốc gia được thực hiện chủ quyền hoàn
toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Chủ quyền này không chỉ được thực hiện tại vùng nước
mà còn bao trùm lên cả vùng trời bên trên, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
bên dưới vùng nội thủy. Đặc trưng cho tính chất chủ quyền tuyệt đối này thể hiện ở
19
chỗ mọi sự ra vào nội thủy của tàu thuyền hay phương tiện bay trên vùng trời nội
thủy đều phải xin phép. Các thủ tục xin phép cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động
tại nội thủy của mỗi quốc gia được điều chỉnh bởi quy định của Luật biển quốc tế và
pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, chủ quyền này chỉ được áp dụng đối với tàu thuyền,
phương tiện bay nước ngoài chứ không áp dụng với cá nhân, pháp nhân nước ngoài
trên các tàu thuyền, phương tiện bay đó. Tức là, các tàu thuyền thương mại vào các
cảng biển quốc tế trên cơ sở tự do thông thương và nguyên tắc có đi có lại, tàu
thuyền nhà nước dùng vào mục đích phi thương mại và tàu thuyền quân sự thì phải
xin phép. Khi hoạt động trong nội thủy nếu tàu thuyền nước ngoài có sự vi phạm,
quốc gia ven biển chỉ có quyền thực hiện quyền tài phán dân sự (xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bồi thường thiệt hại) đối với tàu thuyền đó chứ không được thực
hiện quyền tài phán dân sự và hình sự đối với các cá nhân, pháp nhân, người nước
ngoài trên tàu thuyền đó.
Đối với tàu thuyền được hưởng quyền miễn trừ như tàu
thuyền nhà nước dùng vào mục đích phi thương mại và tàu thuyền nước ngoài vi
phạm, quốc gia ven biển có quyền buộc tàu đó rời khỏi vùng nội thủy của mình và
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước mà tàu đó mang cờ trừng trị các vi phạm
đó. Quốc gia mà tàu đó mang cờ phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại do hành vi
vi phạm của tàu thuyền đó gây ra. Quốc gia ven biển chỉ được thực hiện quyền tài
phán dân sự và hình sự trên tàu thuyền nước ngoài khi: chủ tàu, thuyền trưởng yêu
cầu; cơ quan lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu can thiệp hoặc khi sự vi
phạm hoặc hậu quả của sự vi phạm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng
của quốc gia ven biển (Điều 25 và Điều 218 Công ước luật biển 1982).
Ngoài ra, một vùng nước hoặc vịnh lịch sử là các vùng biển, không phải là nội thủy
nhưng do tính chất lịch sử của mình mà chúng được hưởng quy chế nội thủy khi:
- Quốc gia ven biển phải thực hiện một cách thực sự chủ quyền của mình trên đó.
20
- Việc sử dụng vùng biển trên phải được thực hiện một cách liên tục, hòa bình và
lâu dài.
- Có sự công nhận của cộng đồng quốc tế bằng sự chấp nhận công khai hoặc sự
im lặng không phản đối của các quốc gia quan tâm, nhất là các quốc gia láng giềng
và có quyền lợi tại vùng biển này.
1.2.2.2.
Lãnh hải
Lãnh hải là vùng biển nằm giữa vùng nước nội thủy và các vùng biển thuộc
quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, rộng không quá 12 hải lý tính từ
đường cơ sở, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của
lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển.
Chủ quyền của quốc gia trên lãnh hải cũng như vùng trời trên lãnh hải,
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của vùng biển này được mở rộng một cách hoàn
toàn và riêng biệt nhưng không phải là tuyệt đối như trên vùng nước nội thủy bởi
phải thừa nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài. Tuy nhiên,
đối với các phương tiện bay trong vùng trời bên trên lãnh hải không tồn tại quyền
qua lại không gây hại.
Là một vùng biển khác thuộc lãnh thổ của quốc gia ven biển, lãnh hải cũng
có một quy chế pháp lý riêng. Tại lãnh hải, các tàu thuyền của các quốc gia, có biển
hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại. Đi qua lãnh hải
bao gồm cả việc đi qua lãnh hải mà không vào nội thủy, hoặc đi qua lãnh hải để vào
nội thủy hoặc cảng và rời khỏi nội thủy ra biển. Các tàu thuyền nước ngoài khi đi
qua lãnh hải không phải xin phép hoặc thông báo trước cho quốc gia ven biển. Việc
đi qua không gây hại được hiểu là việc đi qua nhưng không làm phương hại đến hòa
bình, an ninh hay lợi ích của quốc gia ven biển - tức là không được thực hiện một số
hành động quy định tại điều 19 Công ước luật biển 1982 như: đe dọa hoặc dùng vũ
lực chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia ven biển, tuyên truyền nhằm
làm hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia ven biển, luyện tập hay diễn tập dưới bất
21
kỳ kiểu loại vũ khí nào,… Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả
neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải
hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc cạn hoặc vì mục đích cứu giúp
người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn (Điều 18 Công
ước luật biển 1982).
Tại lãnh hải, quyền đi qua không gây hại tồn tại đồng thời với chủ quyền
của quốc gia ven biển trong lãnh hải nhưng không làm mất đi chủ quyền đó. Quốc
gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng
giao thông dành cho tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình phù hợp với
Công ước luật biển 1982 và Luật quốc tế. Ngoài ra, khi tàu thuyền nước ngoài đi
vào lãnh hải của quốc gia ven biển phải tuân thủ và tôn trọng luật pháp và quy định
của quốc gia ven biển về: an toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, bảo
vệ các thiết bị và các hệ thống đảm bảo hàng hải và các thiết bị hay công trình khác,
bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn,…
Quốc gia ven biển có quyền thực hiện quyền tài phán hình sự đối với tàu
thuyền nước ngoài trong lãnh hải của mình nếu: hậu quả của vụ vi phạm đó mở
rộng đến các quốc gia ven biển; vụ vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất
nước hay trật tự trong lãnh hải; nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao
hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của
các nhà đương cục địa phương; nếu các biện pháp này là cần thiêt để trấn áp việc
buôn lậu chất ma túy hay chất kích thích khác.
Cũng theo Công ước luật biển 1982 thì quốc gia ven biển cũng không được
bắt một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình
của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự đối với một người trên con tàu đó
(khoản 1 Điều 28), nhưng quốc gia này lại có quyền áp dụng mọi biện pháp trừng
phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối
với tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi
22
đã rời nội thủy (khoản 3 Điều 28). Tại lãnh hải, quốc gia ven biển được vận dụng
quyền truy đuổi ra ngoài ranh giới lãnh hải.
Tàu thuyền quân sự nước ngoài khi đi trong lãnh hải được hưởng quyền
miễn trừ về thẩm quyền tài phán dân sự nhưng không được hưởng quyền miễn trừ
pháp lý và cũng phải tôn trọng luật lệ của quốc gia ven biển liên quan đến quyền
qua lại không gây hại [5].
1.2.2.3.
Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải
và được mở rộng không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải. Tại đây, quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt và
hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia. Quốc
gia ven biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết nhằm: ngăn ngừa và trừng trị
những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế, hay nhập cư
trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình (Điều 33 Công ước luật biển 1982).
Tại vùng tiếp giáp lãnh hải, các quốc gia ven biển có thẩm quyền đối với
các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy biển của vùng này. Theo quy
định tại Điều 303 Công ước luật biển 1982 về các hiện vật khảo cổ và lịch sử được
phát hiện ở biển thì: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo
cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển, các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy;
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng Điều 33 (vùng tiếp giáp),
quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở
điều đó mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và quy định của
quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu ở Điều
33”.
23
1.2.2.4.
Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng (quy định trong Phần V - vùng đặc quyền
kinh tế của Công ước luật biển 1982) theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc
gia ven biển, và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích
hợp của Công ước luật biển 1982 điều chỉnh. Vùng biển này có chiều rộng tối đa là
200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Các quốc gia ven
biển muốn thiết lập vùng đặc quyền kinh tế thì phải ra tuyên bố để xác lập vùng đặc
quyền kinh tế của mình.
Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển đặc thù có quy chế pháp lý riêng và khác
so với các vùng biển khác, trong đó thể hiện sự công bằng giữa “các quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển” với “các quyền và các quyền tự do của các quốc gia khác”.
Tại Điều 56 Công ước luật biển 1982 quy định về các quyền, quyền tài phán và các
nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế:
- Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò việc khai thác, bảo tồn và quản lý
các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên
đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về các hoạt động khác
nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng
lượng từ nước, hải lưu và gió.
- Quyền tài phán theo đúng những quy định của Công ước về việc: lắp đặt và sử
dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học trên biển;
bảo vệ và giữ gìn môi trường biển cũng như các quyền khác do Công ước luật biển
1982 quy định.
Tính đặc quyền của quốc gia ven biển thể hiện trong việc quốc gia ven biển có
toàn quyền đánh giá nguồn tiềm năng đối với tài nguyên sinh vật, thi hành các biện
pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc khai thác, duy trì các nguồn
lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác
24
quá mức. Quốc gia ven biển có quyền tự mình ấn định tổng khối lượng khai thác tài
nguyên sinh vật tại vùng đặc quyền kinh tế và tự đánh giá khả năng khai thác thực tế
của mình. Nếu tổng khối lượng cho phép đánh bắt lớn hơn khả năng khai thác của
quốc gia ven biển thì quốc gia này có nghĩa vụ tạo điều kiện cho các quốc gia khác,
thông qua điều ước hoặc thỏa thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho
phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các quốc gia không có biển và bị bất lợi về địa lý
(Điều 61, Điều 62 Công ước luật biển 1982). Việc khai thác này không được làm
phương hại đến việc khai thác và quản lý tài nguyên sinh vật của quốc gia ven biển
và các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế. Riêng đối với tài nguyên không
sinh vật thì quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép các quốc gia khác khai thác
đặt dưới sự giám sát của mình.
Để có thể thực hiện có hiệu quả chủ quyền của mình đối với tài nguyên trong
vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho
phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các đảo nhân tạo; các thiết bị
và công trình vào mục đích khác nhau, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan,
thuế khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và ở trên phần
thềm lục địa phải được tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển và không
được gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành
trong việc thi hành các quyền và quyền tài phán mà Công ước đã trù định.
Công ước luật biển 1982 cũng công nhận cho quốc gia ven biển quyền tài
phán về bảo vệ và giữ gìn môi trường biển chống lại các ô nhiễm bắt nguồn từ
nhiều nguồn khác nhau.
Mặt khác, trong trường hợp Công ước luật biển không quy định rõ các
quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế cho các quốc gia ven biển
hay quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của một hay nhiều quốc gia khác
thì sự xung đột này phải được giải quyết trên cơ cở công bằng và có chú ý đến tất cả
25