Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Thế giới nghệ thuật thơ lâm thị mỹ dạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.71 KB, 100 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Ngô thị thuỳ linh

Thế giới nghệ thuật thơ lâm thị mỹ dạ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số:
60.22.32

Tóm tắt luận văn thạc sĩ ngữ văn

Vinh 2008
Lời cảm ơn

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Đăng
Điệp, ngời đã tận tình hớng dẫn tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các GS, PGS, TS Khoa Ngữ văn, Khoa Sau Đại
học - Trờng Đại học Vinh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Ngời viết cũng nhận đợc sự quan tâm, giúp đỡ của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Xin gửi tới nữ sỹ lời cảm ơn chân thành.
Xin cảm ơn gia đình và ngời thân, cảm ơn sự động viên, khích lệ của bạn bè
và đồng nghiệp .
Vinh, tháng 12 năm 2008


2
Tác giả


Ngô Thị Thuỳ Linh

Mục lục

Trang

Mở đầu................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ... ..............................................................................................2
3. Phạm vi t liệu..................................................................................................7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................7
5. Phơng pháp nghiên cứu...................................................................................7
6. Đóng góp của luận văn......................................................................................8
7. Cấu trúc của luận văn................ .......................................................................8
Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật của Lâm Thị Mỹ Dạ.................................9
1.1. Lâm Thị Mỹ Dạ qua hai chặng đờng sáng tạo.............................................9
1.1.1. Từ cái nhìn trữ tình đầy chất lãng mạn trớc 1975.....................................9
1.1.2. ......đến cái nhìn thế sự đầy màu sắc hớng nội ........................................14
1.2. Quan niệm về thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ........................................................22
1.2.1. Thơ là lãnh địa tinh thần của cái đẹp.........................................................24
1.2.2. Thơ là bản tự thuật tâm trạng của nhà thơ..............................................27
Chơng 2: Thế giới hình tợng trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ..........................29
2.1. Hình tợng không gian.................................................................................30
2.1.1. Một không gian xanh.................................................................................31


3
2.1.2. Một không gian giàu hình ảnh...................................................................36
2.1.2.1. Hình ảnh lá .............................................................................................37
2.1.2.2. Hình ảnh hoa...........................................................................................44

2.1.2.3. Hình ảnh trái tim.....................................................................................50
2.2. Hình tợng thời gian.....................................................................................57
2.2.1. Thời gian thiên nhiên .................................................................................58
2.2.2. Thời gian lịch sử ........................................................................................59
2.2.3. Thời gian tâm lý .........................................................................................61
2.3. Hình tợng đời sống.......................................................................................63
2.3.1. Tổ quốc.......................................................................................................63
2.3.2. Gia đình......................................................................................................70
Chơng 3: Nghệ thuật tổ chức ngôn từ, giọng điệu thơ Lâm Thị Mỹ Dạ..... 75
3.1. Linh hoạt trong sử dụng các thể thơ ..............................................................75
3.1.1. Thể thơ .......................................................................................................75
3.1.2. Thơ lục bát ................................................................................................76
3.1.3. Thơ 5 chữ ...................................................................................................81
3.1.4. Thơ tự do ...................................................................................................85
3.2. Phong phú và đa dạng trong sử dụng từ ngữ hình ảnh ..................................89
3.2.1. Từ ngữ thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu hình ảnh ................................................89
3.2.2. Hình ảnh thơ mềm mại, gợi cảm ...............................................................93
3.3. Trong trẻo, dịu dàng, đằm thắm trong giọng điệu .......................................97
3.3.1. Giọng điệu trong trẻo, hồn nhiên..............................................................100
3.3.2. Giọng thơ ngọt ngào, đằm thắm................................................................107
Kết luận ........................................................................................................111
Tài liệu tham khảo.................................................................................114


4

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Là một trong những gơng mặt nữ tiêu biểu của nền thơ trữ tình Việt Nam
hiện đại, tuy số lợng tác phẩm cha thật dồi dào nhng Lâm Thị Mỹ Dạ đợc đánh giá

là một nhà thơ độc đáo. Thành công đến với chị từ rất sớm: 14 tuổi đợc giải thởng
thơ báo Quảng Bình; giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 - 1973 với
chùm thơ Khoảng trời - hố bom, Gặt đêm, Tin ở bàn tay, Đờng thủ đô. Năm 1983,
tập Bài thơ không năm tháng đã đem lại cho chị giải thởng của Hội Nhà văn Việt
Nam. Lâm Thị Mỹ Dạ tiếp tục khẳng định đợc vị trí của mình khi nhận giải A của
Uỷ ban toàn quốc Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam 1999. Đặc biệt,
ngày 13.02.2007 Chủ tịch nớc CHXHCN Việt Nam đã ký quyết định tặng giải thởng Nhà nớc về Văn học Nghệ thuật cho nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Đây là những
thành quả xứng đáng cho một ngời luôn trăn trở và giành trọn tâm huyết đời mình
cho thơ.
Bên cạnh việc thu hút đợc sự quan tâm của bạn đọc trong nớc với các thi
phẩm xuất sắc nh: Anh đừng khen em, Chuyện cũ tuổi thơ, Khoảng trời - hố bom,
Chuyện cổ nớc mình, Trắng trong... trong những năm gần đây, Lâm Thị Mỹ Dạ
còn đợc bàn bè thế giới biết đến, nhất là khi tập Cốm non (Green rice) của chị đợc
dịch sang tiếng Anh. Tác phẩm của chị cũng đợc đa vào dạy - học trong nhà trờng,
đợc phổ nhạc và trở thành đối tợng khám phá của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
trong và ngoài nớc.
1.2. Cho đến nay, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã đợc bàn luận từ nhiều góc độ khác nhau:
t tởng nghệ thuật, thể loại, tác phẩm, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật...
Tuy vậy, phần lớn đó đều là những bài viết nhỏ lẻ mà cha có một công trình khoa
học nào thật công phu nghiên cứu một cách toàn diện về sáng tác của nữ thi sĩ này.
Do đó, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cần đợc nghiên cứu một cách quy mô kỹ lỡng hơn.
Đây cũng là lý do để chúng tôi lựa chọn tiếp cận thơ chị từ góc độ thế giới nghệ
thuật thơ. Hy vọng những kết quả nghiên cứu trong luận văn này sẽ góp phần hữu
hiệu vào việc dạy - học, nghiên cứu, phê bình và thởng thức thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
2. Lịch sử vấn đề
Đến nay, thơ Lâm Thị Mĩ Dạ đã đợc nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn
học chú ý và đánh giá cao. Theo sự quan sát của chúng tôi, có hai hớng nghiên
cứu chính sau đây:



5
2.1. Hớng phân tích, bình giảng: Chủ yếu đây là những bài viết nghiêng về cảm
thụ, trình bày những cảm nhận của nhà nghiên cứu về những bài thơ cụ thể của
nhà thơ. Về bài Khoảng trời - hố bom, Hoài Thanh trong Chuyện thơ, Nxb Tác
phẩm mới, 1978, nhận xét: Chính những nét mới ấy, tơi mát, dịu dàng, thuỳ mị
đã khiến cho bài thơ một sức gợi cảm rất sâu(...). Có thể xem đó là một tợng đài
liệt sỹ bằng thơ. Bằng thơ và đẹp nh thơ [73; 224] . Nhà lí luận Trần Đình Sử cho
rằng, nếu muốn kể lại một tấm gơng anh hùng quên mình vì nớc thì chỉ cần khổ
đầu của bài Khoảng trời - hố bom là đủ [24; 848]. Tác giả Đinh Quang Tốn trên
báo điện tử Công An nhân dân ra ngày 05.10.2007 đánh giá: Bài thơ Khoảng trời
- hố bom của chị nh trở thành biểu tợng cho chất thơ, cho cái đẹp của cuộc sống
chiến đấu vô cùng gian nan khốc liệt dới bom đạn giặc Mỹ [72]. Về bài thơ này
còn có một số bài viết khác đáng chú ý nh bài viết của Lại Thị Minh Đức, Lê Thị
Ngọc Chi trong Cuộc thi viết về văn học cách mạng Việt Nam, của Tạ Đức Hiền
đợc Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn trong cuốn Anh Thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Vân Đài,
Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn [66; 193- 217]; của tác giả Hồ Thế Hà trong
Tìm trong trang viết [27; 47-50]. Bài Chuyện cổ nớc mình cũng thu hút đợc khá
nhiều nhà phê bình, trong đó đáng chú ý nhất là bài viết Một cách lý giải sức sống
của dân tộc từ phiá truyền thống của Trần Hoà Bình. Theo tác giả: Ngôn ngữ thơ
mộc mạc trong nhịp thơ lục bát, lại tựa vào những tích truyện dân gian đã đem lại
một phong vị đồng dao cho những dòng thơ. ý tứ sâu sắc mà tiếp nhận của ngời
đọc cứ thoải mái nh không !() Nhà thơ - con ngời của thế hệ sau - không chỉ
biết tiếp nhận món gia tài tinh thần của ông cha mình, mà còn biết nhân lên những
giá trị gia tài đó trong đời sống hiện tại [66; 132].
Ngoài ra, có thể kể đến việc phê bình, thẩm định một số bài thơ khác của
Lâm Thị Mỹ Dạ nh bài viết của tác giả Hồ Thế Hà về Anh đừng khen em, Đề tặng
một giấc mơ trong tuyển tập Thơ Huế với lời bình, Nxb Thuận Hoá, 2006. Gần
đây, trên các webside điện tử, các diễn đàn, các tờ báo điện tử đăng nhiều bài viết,
lời bình về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Tiêu biểu nh bài viết của tác giả Nguyễn Thu
Thuỷ trên Tuổi trẻ Online với bài Cảm nhận thơ: Tháng giêng. Theo Nguyễn Thu

Thủy: Bài thơ nữ tính một cách kỳ lạ, vừa hồn nhiên lại vừa từng trải, nh một đôi
mắt trong veo đợc đặt trên khuôn mặt ngời đàn bà. Khuôn mặt ghi những dấu ấn
của thời gian [78]. Nhà thơ Fred Marchant trong bài viết về Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
ở Mỹ của tác giả Ngô Minh cũng cho rằng thơ Mỹ Dạ đang là sứ giả hoà bình


6
[52]. Cũng theo Ngô Minh trong bài viết này, nhà thơ Fred Marchant nhận xét bài
thơ Cốm non miêu tả cái khoảnh khắc sự vật biến mất mà trí tởng tợng của chị
bắt đợc. Thơ của chị là bản chúc th của ngời đàn bà về những nguy hiểm mà họ
đối mặt. Đó là cốt lõi của ẩn dụ của Dạ đối với nỗi buồn không tên [52].
Nh vậy, nét nổi bật trong hớng này là các bài viết đi vào khai thác những
bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho hồn thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Tuy khác nhau về cách tiếp
cận nhng các bài viết đều có sự thống nhất khi khẳng định vẻ đẹp dịu dàng, nữ
tính trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là sản phẩm của một hồn thơ trong trẻo, hồn nhiên
và hết sức tinh tế.
2.2. Hớng khái quát những đặc sắc của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ qua các tập
thơ tiêu biểu. Ngay từ năm 1984, trong bài viết Nét riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ,
tác giả Hồng Diệu đã có những nhận xét khá tinh tế về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ khi
ông cho rằng: Âm hởng chính trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ xuất phát từ những giai
điệu trầm, nhẹ, đằm thắm, không ồn ào. Thơ chị có những nét riêng, có bản sắc
riêng. Bản sắc riêng ấy là phong cách thơ chị [66;37-39].
Tác giả Bảo Hng cũng nhận thấy: Thơ của chị nhẹ nhõm, trong sáng, nếu
có buồn thì cũng buồn dìu dịu mà vui cũng không đến nỗi suồng sã, xô bồ. Chị
nghiêng về phía những cảm xúc tinh tế, tơ mỏng với tấm lòng hồn hậu nhìn ai
cũng thấy yêu thơng [81;180]. Khá thống nhất với những nhận xét trên, nhà thơ
Trúc Thông cũng rất chính xác khi cho rằng: Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là một hơi thở
nhẹ, và có những khi đằm thắm, không hoang dại, chói nồngthơ Mỹ Dạ gọn
xinh, trong mát [81;187] .
Cùng thế hệ với Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà phê bình Vũ Quần Phơng trong lời

giới thiệu tập Lâm Thị Mỹ Dạ - thơ với tuổi thơ, đã viết: Thơ mang những nét bản
sắc tâm hồn ngời viết, rõ nhất là tính phụ nữ, nét dịu dàng của cảm xúc, cách khai
thác chọn lọc tìm chất thơ trong đời sống [64;33].
Trên Tạp chí Văn học số 3, 2003, trong bài viết khá công phu Khuynh hớng
hiện đại trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, tác giả Hồ Thế Hà, cho rằng: Thơ chị kết hợp
đợc chất thực cuộc sống và ngôn ngữ đa dạng, tạo ra những dồn ép, biến ảo, chồng
chéo về hình ảnh, sự việc nh huyền thoại, cổ tích nhng không hề có dấu vết của sự
làm dáng. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hồn nhiên, tuân thủ cảm xúc và trái - tim - thi - sỹ
- nhạy - cảm mà thành (). Sức hấp dẫn và giá trị của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nằm
trong đờng biên của cái tôi và cái ta, giấc mơ và hiện thực, sự tự chôn vùi và sự tự


7
nổ tung, giữa những gì đã qua và những gì sẽ đến; bên cạnh cái h ảo mong manh
ta bắt gặp cái biếc xanh bỡ ngỡ. Và vì vậy, đó là tiếng nói của sự va chạm, sinh
thành. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không xa rời thi pháp truyền thống nhng luôn phá và
thay để làm giàu có cái phần hiện đại cần thiết của thơ. Thơ chị tự nhiên cứ tởng
thốt ra là thành, không cần sửa chữa nhiều lắm nhng đó là cái tự nhiên của một
tâm hồn đã chín, của những tứ thơ câm lặng, lãng quên đợc đánh thức sau giấc
ngủ mặt trời, lúc mà cái tôi nghệ sỹ đợc lên ngôi cùng với những giấc mơ phát
sáng màu huyền thoại [28; 61- 63- 64].
Tác giả Linh Sơn trong bài viết Lâm Thị Mỹ Dạ - những vần thơ ám ảnh in
trên báo Giáo dục thời đại, số đặc biệt tháng mời, 2007, cho rằng: Lâm Thị Mỹ
Dạ đã nói thay cho tâm sự rất nhiều ngời, trớc hết cũng là ở sự thoát xác vợt lên sự
phù phiếm và ma sinh nhọc nhằn này, để thấy tình yêu không chỉ là cõi thực mà
còn là cõi mơ và khát vọng. Nhng hơn cả, độc giả nhận thấy sự ám ảnh trong thơ
chị không giống với nhà thơ nào khác, kể cả sự trong trẻo, nồng hậu, đau đáu và
đầy xót xa ấy cũng khác biệt [69;32].
Trên Tạp chí Nhà văn số 9, 2007, tác giả Lê Thị Hờng với bài Thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ - những giọt buồn, đã viết: Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ngày càng mở ra một thế

giới nội cảm đầy xáo động và luôn đan quyện, song hành những cảm xúc đối lập:
nồng nàn day dứt, tình yêu ngờ vực, tình yêu nỗi khổ, sự đam mê, niềm đau, nỗi
nhớ (). Những câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ cứ nhẹ tênh mà trĩu nặng (). Thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ không chao chát ồn ã, không trau chuốt du dơng. Cảm xúc thật và
hồn nhiên, trực cảm bén nhạy (). Giọng thơ thủ thỉ ấy quán xuyến suốt hành
trình thơ Mỹ Dạ, làm thành một chất giọng riêng (). Đến với thơ Mỹ Dạ, ngời
đọc không quên những tứ thơ lạ, đẹp, vút lên hồn nhiên trong trẻo mà đau đáu một
nỗi niềm [38;56-59].
Nhà thơ Ngô Văn Phú nhận xét: Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hay ở những chỗ bất
thần, ngơ ngác và những rung cảm đầy nữ tính (dẫn theo http://
www.cinet.gov.vn).
Đọc Hồn đầy hoa cúc dại của Lâm Thị Mỹ Dạ, tác giả Lê Huỳnh Lâm viết:
Ngôn ngữ của tập thơ là ngôn ngữ của hoa; âm hởng bình dị, tự nhiên nh gió. Tiết
nhịp khoan thai, dìu dặt. Một số bài có nhạc điệu rất rõ [42]. Tác giả Đinh Quang
Tốn trong bài

35 năm một cuộc thi thơ trên CAND.com cho rằng Cốm non, tập


8
thơ vừa đợc dịch sang tiếng Anh, mang hơng vị của thơ Việt, của nữ sĩ Việt
Nam [72]. Trên Tạp chí Văn chơng damau.org, tác giả Đinh Từ Bích Thuý, ngời
dịch tập Cốm non sang tiếng Anh cho rằng, thơ của chị phần nhiều phản ánh
giang sơn quen thuộc của phụ nữ khắp nơi, khai phá tình yêu, bổn phận làm mẹ,
và hành trình trăn trở vào thời đại trung niên của đời ngời đàn bà.
Tại cuộc hội thảo về tập thơ Cốm non trong trại viết văn mùa hè ở Boston,
Mỹ, đã thu hút đợc hàng chục nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học Mỹ tham gia. Nhà
thơ Fred Marchant đã đọc một bài phát biểu đánh giá rất cao về thơ Lâm Thị Mỹ
Dạ: Cốm non không chỉ giới thiệu cho ngời Mỹ về kinh nghiệm chiến đấu của
ngời phụ nữ Việt Nam trên 30 năm, qua cách nhìn của một nhà thơ còn nói về hậu

quả lâu dài của chiến tranh. Có những bài thơ không dễ gì yên lòng với một
khoảng lặng hay tự náu mình nh chị mong muốn. Có những bài thơ in dấu sự tởng
tợng phong phú, mối quan hệ huyền ảo với cảnh sắc Việt Nam. Chạy xuyên suốt
qua nguồn mạch u buồn, dờng nh nhiều thứ còn ở lại mãi trong tâm hồn nhà thơ
này. Nhà thơ Marilin Chin thì nhận xét: Đứng đằng sau hình thức dờng nh đơn
giản, là những tinh tế căng thẳng, giữa sự ẩn nhẫn của đạo Phật và mối lo lắng của
thời đại, giữa nỗi buồn lặng lẽ và niềm vui không che dấu. Những bài thơ hay nhất
trong tuyển tập mang âm hởng tơi tắn khác thờng đầy sắc thái và lớn lao đáng
kinh ngạc. Nhà thơ Jonh Balaban, ngời đã dịch thơ Hồ Xuân Hơng ra tiếng Anh
(xuất bản ở Mỹ) cho rằng: Bên ngoài vẻ thú vị của thơ ca Mỹ Dạ - có lẽ đó thực
sự là chuẩn mực của văn chơng ngời Việt. Riêng ngời dịch Cốm non, nữ nhà thơ
Martha Collins khẳng định: Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không khác các nhà thơ Mỹ đơng đại, nhng có lẽ trên một nền tảng văn hoá lâu đời hơn. Đó là sự khảo sát giới
hạn vai trò của ngời phụ nữ truyền thống, sức mạnh và sự cô đơn [dẫn theo 52].
Ngoài những bài viết của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, đến nay có
một số luận văn thạc sĩ về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ở các trờng Đại học.
Về cơ bản, các công trình trên đây đều đánh giá cao đóng góp của Lâm
Thị Mỹ Dạ cho thơ Việt Nam đơng đại, đồng thời khẳng định chị là một nhà thơ
có bản sắc độc đáo. Tuy vậy, vẫn cha có một công trình nào nghiên cứu về thơ chị
một cách công phu, toàn diện. Đặt vấn đề tìm hiểu Thế giới nghệ thuật thơ Lâm
Thị Mỹ Dạ, chúng tôi hy vọng sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn về thơ chị.
3. Phạm vi t liệu


9
Lâm Thị Mỹ Dạ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết cả văn xuôi. Các tác
phẩm văn xuôi của chị là các tập truyện dành cho thiếu nhi, gồm: Danh ca của
đất (1984), Nai con và dòng suối (1989), Nhạc sỹ phợng hoàng (1989). Gần đây
chị còn sáng tác nhạc. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là thơ Lâm Thị Mỹ Dạ
nên luận văn sẽ tập trung vào khảo sát các tập thơ sau:
- Trái tim sinh nở (in chung với ý Nhi), Nxb Văn học, 1974.

- Bài thơ không năm tháng, Nxb Tác phẩm mới, 1983.
- Hái tuổi em đầy tay, Nxb Đà Nẵng, 1989.
- Đề tặng một giấc mơ, Nxb Thanh niên, 1998.
- Hồn đầy hoa cúc dại, Nxb Thuận Hoá, 2007.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, luận văn có nhiệm vụ:
4.1. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của Lâm Thị Mỹ Dạ đã chi phối đến thơ chị
nh thế nào.
4.2. Khảo sát và xác định những đặc sắc trong thế giới hình tợng của thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ.
4.3. Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, chúng tôi sử dụng các phơng
pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phơng pháp hệ thống
Chúng tôi coi thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là một chỉnh thể nghệ
thuật toàn vẹn bộc lộ quan điểm thống nhất về thế giới và con ngời của nhà thơ.
5.2. Phơng pháp so sánh văn học
Luận văn sử dụng phơng pháp này để làm rõ những nét độc đáo trong thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ qua việc so sánh với các nhà thơ hiện đại và qua chính các chặng
đờng thơ của chị.
5.3. Phơng pháp thống kê, phân loại
Trên cơ sở khảo sát 178 bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, luận văn sẽ cố gắng chỉ
ra những đặc trng của các phơng diện nghệ thuật trong thơ của nữ sỹ.
5.4. Phơng pháp phân tích tác phẩm
Luận văn sử dụng phơng pháp này để soi rõ cho những nhận định mà ngời viết
đa ra.


10

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu Thế giới nghệ thuật thơ Lâm Thị
Mỹ Dạ một cách khá toàn diện, hệ thống nhằm giới thiệu một cách cơ bản và bản
chất nhất nghệ thuật thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Từ việc tìm hiểu quan niệm nghệ thuật
của Lâm Thị Mỹ Dạ đã chi phối đến việc sáng tạo hình tợng thơ, giọng điệu và
việc sử dụng ngôn từ trong thơ của nữ sỹ.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Th mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chơng:
Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật của Lâm Thị Mỹ Dạ
Chơng 2: Thế giới hình tợng thơ trong Lâm Thị Mỹ Dạ
Chơng 3: Nghệ thuật tổ chức ngôn từ, giọng điệu thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Chơng 1: Quan niệm nghệ thuật của
Lâm Thị Mỹ Dạ
1.1. Lâm Thị Mỹ Dạ qua hai chặng đờng sáng tạo
Nh các nhà thơ khác cùng thời, con đờng thơ Lâm Thị Mỹ Dạ gồm hai chặng
khá rõ nét. Chặng thứ nhất là trớc 1975 bao gồm các sáng tác viết trong thời kỳ
chống Mỹ cứu nớc. Chặng thứ hai bao gồm những bài viết từ ngày hoà bình lập lại
(từ 1975 đến nay). Giữa hai chặng sáng tác này của Lâm Thị Mỹ Dạ có nhiều nét
khác biệt khó rõ nét từ đề tài, cảm hứng, chủ đề cũng nh bút pháp nghệ thuật. Tuy
vậy, cũng cần nhận thấy rằng, sự phân chia này chỉ có tính chất tơng đối bởi giữa
các chặng đờng thơ, giữa các tập thơ có sự tiếp nối một cách tự nhiên mạch cảm
xúc.
1.1.1. Từ cái nhìn trữ tình đầy chất lãng mạn trớc 1975...
Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nớc, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hoà vào dàn đồng
ca của các nhà thơ cùng thời. Họ cất cao lời ca vẻ đẹp của đất nớc, của dân tộc,
cổ vũ chiến đấu trong cuộc chiến tranh cứu nớc vĩ đại của dân tộc. Trong hoàn
cảnh cả đất nớc có chung khuôn mặt ấy, các nhà thơ trẻ đến với thơ rất tự nhiên
với khát vọng của tuổi trẻ với t cách là nhà thơ - chiến sỹ. Với chiến tranh, họ là

ngời dấn thân nhập cuộc, cho nên tiếng nói thơ ca của họ là tiếng nói đích thực


11
của hiện thực với tất cả sự bề bộn, góc cạnh của nó. Số phận của các nhà thơ trẻ
đều ít nhiều gắn với cuộc chiến tranh bằng niềm tin Đờng ra trận mùa này đẹp
lắm (Phạm Tiến Duật).
Tuy vậy, mỗi nhà thơ lại có những cách cảm nhận và biểu hiện khác nhau
làm nên những gơng mặt thơ khác nhau. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đến với cuộc
chiến tranh trong t thế của một ngời lính đã sẵn sàng chiến đấu. Vì vậy, thơ Phạm
Tiến Duật mang âm hởng lạc quan, bình tĩnh của ngời trong cuộc làm chủ hoàn
cảnh. Hình tợng nhân vật trữ tình có đợc t thế bình thản, tự tin của ngời đã từng
trải bom đạn kẻ thù: Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật
bom rung kính vỡ rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thẳng. Còn Xuân Quỳnh không chỉ tiếp nhận cuộc chiến tranh nh một cách đơng
nhiên, hào hứng mà còn nh một trách nhiệm nặng nề phải gánh chịu, một sự thử
thách thật lớn lao. Vì vậy, thơ chị có sự cảm nhận sâu sắc, da diết về những giây
phút đời thờng không có đợc trong chiến tranh: Giặc đến phá nhà ta ta phải
đánh/ Thành phố này không có thờng dân.
Chiến tranh là một thử thách vô cùng nghiệt ngã đối với dân tộc ta. Nhng
chính trong trong hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, phẩm chất anh hùng của con ngời Việt
Nam hiện lên đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp ấy khiến Chế Lan Viên phải thốt
lên: Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn ngàn năm/ Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này
chăng. Sức mạnh bạo tàn của kẻ thù không huỷ diệt đợc sức sống bền bỉ và quả
cảm của con ngời, dân tộc Việt Nam: Chúng tôi không còn nhà cửa/ Chỉ có tấm
lòng và cây súng trong tay/ Uống nớc hố bom và đánh giặc đêm ngày/ Và khi ngủ
gối đầu lên bao đạn.
Với Lâm Thị Mỹ Dạ, vẻ đẹp của dân tộc ta là vẻ đẹp của thứ vàng mời
đã đợc thử lửa (Chữ dùng của Nguyễn Tuân). Trong chiến tranh khốc liệt vẫn
hiện lên t thế ung dung tự tại của con ngời và của một đất nớc với bề dày văn hoá,

là t thế của cái Đẹp, cái Thiện, của chính nghĩa. Lâm Thị Mỹ Dạ ngợi ca Tổ quốc,
Bác Hồ, ngợi ca những con ngời xả thân vì đất nớc bằng cái nhìn đầy lạc quan, tin
tởng vào tơng lai tơi sáng của dân tộc. Đó là vẻ đẹp của cảnh lao động trong chiến
tranh:
Đã hiện lên những vành nón trắng
Nh khoảng trời trẻ thơ mát êm
Nh cánh cò vỗ nhẹ trong đêm


12
Nón trắng tròn gợi về chân trời rộng
(Gặt đêm)
Bài thơ viết về hoàn cảnh lao động đầy bất thờng trong chiến tranh ác liệt. Những
cánh đồng bị rải bom nổ chậm Màu vàng bom bi lẫn trong màu vàng của lúa
thế nhng cảnh gặt đêm lại hiện lên đầy thơ mộng, đẹp lãng mạn bởi họ đang gặt
mùa vàng. Vẻ đẹp của lao động, của lòng can đảm, của tình yêu Tổ quốc, của
thiên nhiên, mùa màng cộng hởng, lan toả tạo nên bức tranh đẹp, mềm mại, thơ
mộng trữ tình.
Tuy vậy, cái nhìn của Lâm Thị Mỹ Dạ không phải là cái nhìn đơn giản,
một chiều. Chị nhìn rõ sự đau thơng, mất mát không gì bù đắp nổi do chiến tranh
gây ra. Quan trọng hơn, chị sự mất mát đó bằng đôi mắt lạc quan, tin tởng vào tơng lai của cách mạng. Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, Lâm Thị Mỹ Dạ thủ thỉ với
mọi ngời nghe câu chuyện hy sinh dũng cảm của cô thanh niên xung phong:
Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đờng
Lối mở đầu giống nh cổ tích, nhà thơ đa ngời đọc vào thế giới của huyền thoại.
Bởi, chỉ có những con ngời huyền thoại phi thờng gánh vác cả cuộc chiến tranh
thần thánh lên đôi vai của chính mình. ở trong thế giới ấy, có sự hoá thân kỳ diệu
của nhân vật.
Em nằm dới đất sâu
Nh khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm, tâm hồn em toả sáng

Những vì sao ngời chói, lung linh
(Khoảng trời - hố bom)
Cái chết không phải là sự mất đi, tan biến mà là sự thăng hoa, đi vào cõi bất tử, tan
vào đất nớc, quê hơng, hồi sinh trong lòng thiên nhiên, Tổ quốc. Cái chết ấy đợc
đặt trong sự vĩnh hằng, trờng tồn của đất nớc nên đó là sự hoá thân. Vì vậy, cái
chết ấy đợc đón nhận bằng sự thanh thản, nhẹ nhàng. Chính sự bất tử của từng con
ngời anh hùng hữu danh và lớp lớp những ngời anh hùng vô danh đã làm nên sự
bất tử của Tổ quốc. Đây cũng là cảm hứng chung của văn học giai đoạn này: Tổ
quốc bay lên bát ngát mùa xuân (Lê Anh Xuân), Những ngời chết cho mùa
xuân ở mãi (Giang Nam), Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh
hoa thơm (Vũ Cao)...


13
Giọng điệu ngợi ca của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ còn thể hiện rõ ở những bài ca
ngợi cảnh sắc quê hơng đất nớc, nh vẻ đẹp của những con đờng thủ đô.
Đờng đan bóng lá lung linh
Đờng nh sông rộng chở tình nắng ma
(Đờng ở thủ đô)
Là quê hơng trong Tháng năm: Đẹp nh câu hát từ lòng đất lên... Giọng điệu
ngợi ca cũng chính là chủ âm của văn học giai đoạn này. Trong cái nhìn mang
khuynh hớng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, con ngời chủ yếu sống với tơng lai. Do vậy, sự sống dù có rải trên nền bom đạn huỷ diệt thì vẫn mang một
màu hồng, màu xanh tơi mát, non tơ, hồn nhiên, sinh sôi nảy nở. Đó là biểu hiện
của sự bất diệt của tinh thần và t thế không thay đổi của con ngời mà Một triệu
tấn bom không thể nào làm xổ/ Một hạt cờm trên cổ chim tơ(Chế Lan Viên).
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không nghiêng về phía mạnh mẽ, quyết liệt mà nhẹ
nhàng, sâu lắng. Trong chiến tranh khốc liệt, mỗi nhà thơ thờng đi tìm cho mình
một miền bình yên để lấy lại sự thăng bằng, sự điềm tĩnh cần thiết để có đợc niềm
tin tất thắng vào tơng lai: Suốt thời chống Mỹ, lí ngựa ô hát đến mê ngời(Phạm
Ngọc Cảnh) ; còn nhà thơ Bằng Việt tìm về với Mảnh vờn khi nắng xế, nghe ong

rù rì kêu. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đi về phía những giá trị truyền thống của dân
tộc, tìm về thiên nhiên, quê hơng, tìm về ký ức nh một nhu cầu tất yếu. Những bài
nh Biển, Vầng trăng, Tháng năm, Hơng cau, Nghĩ về mẹ khá tiêu biểu.
Khi đi về miền ký ức tuổi thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ có những câu thơ thật đẹp:
Mẹ yêu con cho dòng sông biết hát
Cho những ngôi sao biết soi mặt đất cời
Nếu lòng mẹ là một khoảng trời xanh
Thì ngôi sao nhất là tình yêu của mẹ
(Nghĩ về mẹ)
Về với mẹ, con đợc trở về trong lời ru thuở bé để đợc tiếp thêm sức mạnh bớc
tiếp trên mỗi chặng đờng xa. Đó là nguồn động viên tinh thần to lớn mà mỗi
một ngời con tìm về với mẹ, quê hơng.
Có khi là sự tìm về với tiếng sáo trúc mộc mạc, giản dị mà thấm đẫm tình
quê hơng, tình yêu thơng của mẹ.
Sáo ngân hay tiếng quê hơng
Êm nh lời mẹ yêu thơng dặn dò


14
(Tiếng sáo trúc)
Tiếng sáo gọi dậy tiếng quê hơng, tiếng ru của mẹ. Vì vậy, thanh âm ấy cũng
chính là lời ru dịu hiền của mẹ, là tiếng vọng của quê hơng theo con trên mỗi
chặng đờng đờng hành quân, tăng thêm sức mạnh để giáp mặt quân thù.
Khi lại là sự tìm về với mảnh vờn thân thuộc:
Khóm cây ngày ấy mẹ trồng
Mới đó đã thành bóng mát
Bóng mát mỗi ngày mỗi lớn
Cái vờn mỗi ngày trẻ ra
(Bóng mát)
Mảnh vờn ấy gắn liền với kỷ niệm tuổi nhỏ, gắn với bàn tay mẹ, với những tình

cảm thân thuộc, ấm áp. Từ những hình ảnh thân thuộc đó, nhà thơ triết về tình mẹ
con, về cuộc sống tạo nên chiều sâu cho bài thơ.
Khi lại đắm mình trong Tiếng mùa xuân:
Trời lên xanh bỡ ngỡ
Đờng làng thơm bánh chng
Tiếng gà ai nhảy ổ
Xao xuyến cả một vùng
Tiếng gà đã gọi dậy, làm sáng bừng cả một vùng, đánh thức kỷ niệm, tình yêu
cuộc sống, trở thành tiếng gọi của mùa xuân. Đó cũng chính là tiếng gọi của sức
sống, của lòng yêu đời.
Với Lâm Thị Mỹ Dạ, ngời đọc nhận thấy quê hơng, mẹ luôn gắn bó, hòa
quyện, sóng đôi với nhau, gắn với những kỷ niệm một thời. Vì vậy, trở về với quê
hơng là trở về với mẹ, là tìm về với những kỷ niệm tuổi nhỏ. Mặt khác, từ những
hình ảnh thân thuộc gắn với những kỷ niệm ngọt ngào, nhà thơ triết lý về cuộc
sống tạo nên sự lắng đọng, sâu sắc cho những bài thơ của nữ thi sỹ. Điều này tạo
nên tính triết lý sâu sắc mà cũng rất tự nhiên trong thơ của chị.
Nhờ sự đằm sâu vào kỷ niệm, tuổi thơ, trở về với thiên nhiên mà cái tôi sử
thi lại có chiều sâu, sự phong phú về tâm hồn, tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn
không gì bẻ gãy. Điều đó cũng góp phần tạo nên sự sâu lắng, nét riêng trong thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ. Nguyễn Bá Thành đã có nhận xét rất chính xác: Thơ ca cách
mạng lấy hiện thực cách mạng làm đối tợng phản ánh, lấy phục vụ cách mạng làm
mục đích(). Đó là một nền thơ có tổ chức và chịu ảnh hởng lớn của t duy chính


15
trị [76;48]. Tuy vậy, trong cái chung của thơ ca cách mạng chúng ta vẫn nhận ra
nét duyên riêng của gơng mặt thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bởi giọng thơ trữ tình đằm
thắm rất nữ của chị.
1.1.2. đến cái nhìn thế sự đầy màu sắc hớng nội.
Nếu trớc 1975, văn học sống trong khuynh hớng lãng mạn và đậm tính sử thi

thì sau 1975, văn học vận động theo xu hớng dân chủ hoá, các nhà văn chuyển từ
hát giọng cao sang giọng trầm. Trớc 1975, do nhu cầu cổ vũ tinh thần cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giọng điệu các sáng tác thơ văn chủ yếu là ngợi
ca, cái nhìn của các nhà thơ chủ yếu là cái nhìn một chiều, đơn giản, lạc quan. Sau
1975, các nhà thơ chủ yếu nghiêng về suy nghĩ, phân tích, lý giải về vị trí, sự ứng
xử của mình và đánh giá đợc nó. Nhà thơ Thanh Thảo viết: Ngời ta không thể
chọn để đợc sinh ra/ Nh chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy.
Khẳng định mình là thành viên của cộng đồng, dân tộc nhng không hoà tan vào
cộng đồng ấy nhờ ý thức chính mình, về số phận thế hệ mình, các nhà thơ không
đơn giản mà nhiều suy nghĩ về cuộc sống, quê hơng, về lơng tâm, nghĩa vụ, sự hy
sinh.
Cùng với xu hớng đó, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ chuyển từ giọng điệu ngợi ca
sang suy t trầm lắng. Tiếp nối mạch cảm xúc tự nhiên, sau 1975 Lâm Thị Mỹ Dạ
cũng viết về chiến tranh. Tuy vậy, đó không còn là sự nhiệt thành ngợi ca sôi nổi
mà có sự lắng lại, nhìn từ phía mất mát do chiến tranh. Cùng với các sáng tác tr ớc
1975, đó nh một sự bổ sung, tạo nên cái nhìn đa diện, nhiều chiều về chiến tranh.
Nhà thơ Fred Marchant đã viết về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Không chỉ giới thiệu cho
ngời Mỹ về kinh nghiệm chiến đấu của ngời phụ nữ Việt Nam trên 30 năm, qua
cách nhìn của một nhà thơ nói về hậu quả lâu dài của chiến tranh [52].
Sau 1975, cái nhìn của Lâm Thị Mỹ Dạ chủ yếu hớng về những hậu quả,
những mất mát hy sinh của chiến tranh. Cùng với niềm kính phục trớc sự hy sinh
cao đẹp của những ngời con u tú của dân tộc là cái nhìn ở phía những hy sinh mất
mát không gì bù đắp nổi. Tiêu biểu là những bài nh Một cuộc đời âm vang, Cây
bàng. Trớc sự hy sinh của ngời anh hùng Trần Thị Trâm, trong lời ngợi ca, tri ân
của nhà thơ đầy xa xót khi đặt trong khung cảnh:
Tôi đứng trớc nghĩ trang liệt sỹ
Những nấm mộ xếp đều bên nhau


16

Đó là sự mất mát không gì bù đắp nổi do chiến tranh. Cuộc chiến còn để lại hậu
quả lâu dài với biết bao cảnh đời.
Ôi quê hơng ma nắng dãi dầu
Ngời mẹ già lắng chờ con gọi cửa
Năm lần hẹn cha một lần gặp gỡ
Niềm đợi chờ nh lửa cháy trong tim
(Một cuộc đời âm vang)
Ngay cả khi Máu xơng chị đất đai toả rạng thì ngời mẹ ấy còn Ngóng sao trời
ngời mẹ vẫn chờ con. Đó là sự ngã xuống của những ngời còn rất trẻ. Họ đều ở
độ tuổi mời tám đôi mơi mà Lúc ngã xuống tuổi vừa tròn mời tám (Cây bàng).
Dù mất mát, hy sinh nhng đó là sự hy sinh cao đẹp. Vì thế, cái chết của những ngời con u tú của quê hơng, đất nớc đã đi vào cõi bất tử cùng quê hơng, sông núi tạo
nên những sự hóa thân kỳ diệu. Dù âm điệu thơ có chùng xuống nhng chủ âm vẫn
mang tính chất bi tráng ở những dòng thơ này. Điều đó thể hiện một cái nhìn tinh
tế, nhiều chiều, đa diện và cũng rất sâu sắc của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Đó là gơng mặt Tổ quốc vơn lên bền vững tháng ngày từ đau thơng, mất
mát:
Tổ quốc nh cánh tay
Vết chém chồng lên nghìn lớp
(Tổ quốc)
Sự hy sinh, đau thơng của mỗi một ngời con đất Việt cũng chính là nỗi đau, vết
thơng của cơ thể Tổ quốc và nỗi đau chung của dân tộc cũng chính là nỗi đau của
mỗi một ngời con đất Việt. Chính vì nỗi đau đã tích tụ, dồn nén cùng với tinh thần
yêu nớc thơng nòi, lòng quả cảm vô song đã làm nên sức mạnh quật khởi để dân
tộc Việt Nam quét sạch quân thù làm nên đại thắng mùa xuân lịch sử. Phơng diện
này cho thấy ý thức trách nhiệm công dân cao cả của nhà thơ trớc vận mệnh lịch
sử của đất nớc. Với Lâm Thị Mỹ Dạ, ý thức ấy đã quyện cùng tình cảm một cách
sâu sắc, máu thịt trở thành suy nghĩ và tình cảm thờng trực. Vì thế, từ niềm tự hào
đến nỗi đau đều rất chân thành và cảm động tạo nên chiều sâu, sức ám ảnh lớn
trong những dòng thơ chị viết về quê hơng, đất nớc.
Chiến tranh để lại hậu quả lâu dài từ hai phía. Với Lâm Thị Mỹ Dạ, cái nhìn

nhân hậu của chị đợc thể hiện ngay cả với nạn nhân của cuộc chiến từ phía bên kia


17
chiến tuyến. Đó là cái nhìn mang tính nhân văn về những ngời lính Mỹ bị điều
động sang cuộc chiến ở Việt Nam và đã chết ở Việt Nam.
Xin hãy giở dới lần da chó sói
Trái tim nai thắm đỏ, thơ ngây!
(Khuôn mặt ẩn kín)
Đó còn là cái nhìn đầy thấu hiểu của trái tim ngời mẹ, Một trái tim/ Nặng hơn
quả đất! (Bức tờng đen). Điều này cho thấy cái nhìn đầy bao dung của một trái
tim nhân hậu, vị tha của nhà thơ. Nhà thơ đã mạnh dạn bớc qua hàng rào ngăn
cách để tha thứ, để thấu hiểu cho những nạn nhân chiến tranh nói chung. Thực tế,
chiến tranh luôn mang lại đau thơng, mất mát không thể bù đắp cho những ngời
dân của cả hai bên tham chiến. Với những bài thơ nh Bức tờng đen, Khuôn mặt ẩn
kín cho thấy cái nhìn mang tính nhân văn sâu sắc của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Đúng nh nhà thơ Fred Marchant đã nhận định, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trở thành sứ
giả của hoà bình. Đây là một hớng đi mới, một hớng tiếp cận mới thể hiện sự tìm
tòi, sáng tạo trong nghệ thuật nhng cao hơn cả là sự nhân hậu, nhạy cảm của một
trái tim giàu yêu thơng.
Nữ thi sỹ tiếp tục viết về quê hơng đất nớc với tình cảm gắn bó thiết tha. ở
chặng này, hình ảnh đất nớc hiện lên chủ yếu ở phơng diện những giá trị truyền
thống. Bởi truyền thống là điểm tựa và là yếu tố thuộc nội lực của cá tính sáng
tạo [71;163]. Những bài nh Chuyện cổ nớc mình, Tôi nghe đàn đá, Tiếng trống
đồng là rất tiêu biểu. Đây cũng là những bài thơ in đậm tài năng, phong cách sáng
tạo của chị. Qua những bài thơ này, chiều sâu tâm lý của con ngời đợc phát hiện
thông qua việc đề cao ý thức công dân, ý thức trách nhiệm trớc dân tộc và lịch sử.
Nhà thơ còn trực tiếp ca ngợi quê hơng đất nớc nh Bông súng trắng, Quê hơng, Tổ
quốc, Tiếng chim trên đồng lúa, Một ngày Đà Lạt Đó là một Tiếng chim trên
đồng lúa gọi dậy bao ký ức, khát vọng, mong ớc và trách nhiệm của công dân,

tuổi trẻ.
Đất nớc cha yên giặc
Bạn vẫn con xa quê
Trong trẻo trong nỗi nhớ vẫn một niềm mong ớc đến ngày hòa bình xanh mặt
ruộng đợc trở về, sum họp với niềm hạnh phúc đời thờng. Đó chính là khát khao
thầm kín mà cháy bỏng của biết bao ngời lính trẻ ra trận cũng nh những con ngời
từ phía hậu phơng. Đó cũng là động lực thôi thúc, cổ vũ tinh thần chiến đấu của


18
mỗi con ngời Việt Nam trong những năm chiến tranh để đi đến thắng lợi cuối
cùng.
Một Quê hơng còn vất vả gian lao bởi nắng rát mặt ngời, gió nam
nh thổi từ núi lửa, bởi mùa hạn cha qua đã lo mùa úng. Tuy vậy, quê hơng vẫn
vợt qua và rạng ngời gơng mặt trẻ trung, vẫn vững bền sức sống, thật hồn hậu
trong trẻo.
Đồng quê ơi, nắng gió sờn vai
Vẫn hồn hậu giọng cời trong trẻo
Đó cũng là vẻ đẹp của dân tộc đợc thể hiện bằng những nét rất riêng của Quê hơng. Chính vẻ đẹp riêng của mỗi một miền quê góp phần làm nên vẻ đẹp phong
phú, da dạng của đất nớc.
Càng về sau, Lâm Thị Mỹ Dạ càng khơi sâu vào cái tôi nội cảm bởi bản chất
thơ trữ tình là ý thức về cái tôi, về giá trị bản thân, về quyền sống, quyền làm ngời [62;97]. Với Lâm Thị Mỹ Dạ, dù có viết tiếp về quê hơng đất nớc hay viết về
chính mình thì những hình ảnh ấy chủ yếu hiện lên trong ký ức, hoài niệm, chập
chờn giữa thực và ảo. Ranh giới chập chờn giữa thực và ảo là một nét riêng trong
thơ Mỹ Dạ trong những sáng tác sau 1975. Có lẽ, vì vậy mà thơ chị có sự trong
trẻo khó lẫn. Tiêu biểu là Đề tặng một giấc mơ. Bài thơ là chùm các hình ảnh, sự
kiện diễn biến đứt nối làm thoả mãn những ớc mơ vô thức của con ngời. Nó có cội
nguồn từ những gì từng trải, sống qua và dự cảm của ngời đang mơ. Cho nên sự
bất ngờ mà vẫn hợp lý ở chỗ Chú bé là ai/ Chú bé là tôi/ Con chim là ai/ con
chim là tôi/ Giấc mơ là ai/ Giấc mơ là tôi. Đó là sự gặp gỡ của khát vọng ngời mà

trong thế giới tiềm thức, vô thức, nó mới đợc khôi phục một cách êm ái, dịu dàng,
bừng ngộ. Từ thế giới của giấc mơ ấy, tác giả nhìn ra cuộc đời đầy đam mê, tiếc
nuối. Đó là sự tiếc nuối, ám ảnh về thời gian. Thời gian chảy trôi cuốn theo tuổi
trẻ với bao đam mê, khát vọng và mộng mơ: Rồi cỏ sẽ xanh tên tuổi của chúng
ta/ Dòng sông sơng mù trôi mãi (Những tứ thơ quên lãng). Tác giả nhận ra rất rõ
bằng cảm giác của chính mình Đời ngời rồi qua mau, Đời ngời thoáng chốc
tan vào gió, Hạnh phúc mong manh hơng ổi bay và con ngời bị thời gian cuốn
đi. Điều quan trọng là con ngời phải biết mộng mơ. Chỉ có nh vậy, con ngời mới
khắc phục đợc cái hữu hạn của đời ngời nhất là sự ngắn ngủi của tuổi trẻ mà Lâm
Thị Mỹ Dạ đã nhiều lần nói tới bằng nhiều lối nói khác nhau.
Có một bông đào sau xuân mới nở


19
Có một bông đào muốn níu lại mùa xuân
(Sau xuân)
Hoặc là nói một cách trực tiếp hơn:
Hoa cho tôi thắm lại
Tuổi xuân mình đã phai
(Hoa Hà Nội)
Chính nhờ vào biện pháp tâm lý ấy mà ngời thơ tìm lại đợc thời gian đã
mất để cái khoảng đời vô t trong sáng/ Lại rộn ràng từ hoa cỏ mọc lên nh chị
đã từng tâm sự và tha thiết tìm về.
Với những đề tài quen thuộc, Lâm Thị Mỹ Dạ đã có những cách cảm, cách
nghĩ mới và giọng thơ cũng trở nên sâu lắng và tha thiết hơn. Từ tập thơ Hái tuổi
em đầy tay, có một số bài thơ của chị đã có sự đổi mới về thi pháp. Nhà thơ trở về
với chính mình, lấy mình làm đối tợng khám phá, tự vấn, đối thoại với chính
mình, tạo nên giọng thơ đầy trăn trở. Những bài nh Trái tim buốt nhức, Nói với
trái tim rất tiêu biểu cho khuynh hớng này. Đó là trái tim đầy trăn trở, trái tim rất
đời thờng với đầy đủ cung bậc tình cảm và sự phức tạp muôn đời vốn có của nó.

Buốt nhức vì giận hờn
vì yêu
vì nhớ
(Trái tim buốt nhức)
Bởi, trái tim với hình dáng đặc biệt của nó, trái tim mang dáng lỡi cày, suốt đời
không yên ổn. Nhng đó chính là cách tồn tại riêng của nó.
Để suốt đời cày lên
Cày lên
Đớn đau và hạnh phúc
(Nói với trái tim)
Sự đổi mới về thi pháp đợc thể hiện nổi bật từ tập Đề tặng một giấc mơ.
Từ tập thơ này, Lâm Thị Mỹ Dạ chủ yếu lấy bản thân mình làm đối tợng phản ánh
để nhìn ra cuộc đời. Đây cũng là xu hớng chung của các nhà thơ cùng thời. Tuy
vậy, giữa họ, ngời đọc vẫn nhận ra sự khác biệt rõ nét. Các nhân vật trữ tình của ý
Nhi là kiểu con ngời phức hợp về trạng thái tình cảm. Sự phức hợp đó thờng đợc
thể hiện qua các đối cực đầy mâu thuẫn của số phận: Trong nỗi chua chát của
tuyệt vọng/ Trong kiêu hãnh của sự khớc từ anh đơn độc. Hoặc là: Ngọt nh r-


20
ợu, đắng nh rợu/ Vui nh tiệc cới, buồn nh tiệc cới. Đó là sự thống nhất của các
mặt đối lập, tạo nên sự đa dạng, nhiều chiều và chiều sâu nội tâm của con ngời:
Cam chịu và cuồng nộ/ Mong mỏi và buồn nản/ Giản đơn và rối ren/ Lớn lao và
cạn hẹp
Nếu nh ở ý Nhi xuất hiện trạng thái nhiều con ngời trong một con ngời thì
ở Lâm Thị Mỹ Dạ là con ngời đầy cô đơn, tiếc nuối. Chị đã tự khơi vào mọi ngõ
ngách sâu kín của tâm hồn mình một cách đầy chân thật. Đó là nỗi ám ảnh, tiếc
nuối trớc sự trôi chảy của thời gian, là nỗi cô đơn vô tận trong khoảnh khắc đối
diện với bản thân mình, là niềm khát khao hớng tới một tình yêu tuyệt đích.
Từ Đề tặng một giấc mơ, Lâm Thị Mỹ Dạ khơi sâu vào cái tôi nội cảm của

mình. Chị nói nhiều đến nỗi buồn trớc sự chảy trôi của thời gian cuốn theo bao
đam mê, ớc vọng của tuổi trẻ. Vì vậy, khát vọng trở về với tuổi trẻ, níu giữ thời
gian cũng là khát vọng thờng trực.
Mẹ nh cửa sông nhớ về nguồn trong vắt
Biển kề bên sóng cứ muốn ngợc lên ngàn
(Mẹ ngày xa)
Gặp mình, tìm mình, tự vấn, tự thú, tự thoại về mình là tiếng nói khẩn thiết trong
thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Nỗi buồn, sự cô đơn khắc khoải ngày càng bàng bạc và trở
nên đậm đặc trong thơ chị.
Một mình lắng, một mình nghe
Ơ kìa cái cõi - đi - về gang tay
Một mình cho hết đêm nay
Ta ngồi với chúa ôm đầy nhân gian
(Một mình)
Tuy có hai nh sự xuất hiện của nhân vật thứ hai là chúa chỉ càng tô đậm, soi rõ
thêm sự cô độc của nhân vật trữ tình mà thôi. Có thể nói, nỗi cô đơn đã đợc đẩy
lên đến tận cùng. Nhiều khi, đó là nỗi cô độc đợc chia sẻ với một đối tợng khác
nh với Ngời tình h ảo, hoặc Với biển nhng vẫn hoàn toàn là sự cô đơn của nhân vật
trữ tình khi đối diện với biển mênh mông, nỗi đau càng trở nên mặn chát. Dù vậy,
đó là sự cô độc cao sang trớc biển đời giông bão. Nhiều khi, nỗi cô đơn trở thành
sự đơn độc không thể chia sẻ, giãi bày nhà thơ trở về với chính mình với tất cả sự
cay đắng: một mình khóc, cời một mình, ghét mình, rồi tự thơng bởi còn ai hiểu
ta bằng ta còn ai yêu ta bằng ta. Vẫn là một sự cô độc tuyệt đối.


21
Càng về sau, tính chất tự sự đợc tăng cờng, giọng thơ trở nên khắc khoải,
khẩn thiết hơn và thấm đợm màu sắc triết lý. Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm cuộc hành
trình trở về với chính mình đầy trăn trở và chân thật. Đằng sau những câu thơ là dự
cảm lớn về khát vọng vĩnh hằng, mang tính nhân văn sâu sắc. Đi cùng với sự cô

đơn là sự mong ớc có đôi, đi hết nỗi buồn, niềm vui sẽ bừng sáng trên khuôn mặt.
Hơn nữa, nỗi buồn trong thơ chị luôn dìu dịu, nhè nhẹ, là nỗi buồn sáng trong. ở
chị, nỗi buồn và nỗi cô đơn cũng là một lựa chọn nghệ thuật.
Sự chuyển biến trong con đờng thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ là một tất yếu
cùng với xu hớng vận động chung của văn học dân tộc. Dù vậy, ở mỗi chặng đờng
thơ ngời đọc luôn nhận ra nét riêng đáng yêu trong thơ chị bởi những khám phá
nghệ thuật đặc sắc, bởi thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không xa rời thi pháp truyền thống
nhng luôn phá và thay để làm giàu có cái phần hiện đại cần thiết của thơ [28;64].
Trải qua các chặng đờng thơ khác nhau nhng Lâm Thị Mỹ Dạ luôn nhất quán với
vẻ đẹp chung. Đó là vẻ đẹp ngọt ngào, đằm thắm, dịu dàng, đầy nữ tính.
1.2. Quan niệm về thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ
Những ngời sáng tác nghệ thuật bao giờ cũng dựa trên một tôn chỉ nghệ
thuật nhất định trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình. Có ngời phát biểu
trực tiếp quan niệm sáng tác của mình qua báo chí, diễn đàn nh Vũ Trọng Phụng.
Có ngời thể hiện quan điểm sáng tác của mình qua các sáng tác nghệ thuật của
mình nh Thế Lữ, Xuân Diệu, Nam Cao... Có những trờng hợp, nhà văn vừa phát
biểu trực tiếp vừa phát biểu gián tiếp nh trờng hợp của nhà thơ Chế Lan Viên. Hầu
hết, sáng tác của các nhà văn đều thống nhất với quan niệm nghệ thuật của họ.
Tuy nhiên, cũng có trờng hợp, sáng tác của họ hẳn lúc nào cũng trùng khít với
quan niệm sáng tác thậm chí còn đối lập với quan niệm do họ đa ra nh Nguyễn
Tuân. Dựa vào những phát biểu của Nguyễn Tuân, ngời ta có thể xếp ông vào trờng phái nghệ thuật vị nghệ thuật nhng trên thực tế, ông lại là ngời vị nhân
sinh trên cơ sở vị nghệ thuật. Thực chất, ở Nguyễn Tuân vẫn có sự thống nhất
giữa quan điểm sáng tác và thực tiễn sáng tác bởi những lời phát biểu của ông chỉ
là kiểu nói phẫn rất Nguyễn Tuân.
Với Lâm Thị Mỹ Dạ, ta nhận thấy chị là ngời luôn trăn trở về thơ, nhất là
trong một thời gian dài, thơ có vị trí rất quan trọng trong đời sống sinh hoạt, sản
xuất và chiến đấu trong suốt hai cuộc chiến tranh cứu nớc vĩ đại của đất nớc nhng
hiện nay bối cảnh văn hoá xã hội có nhiều thay đổi thì vai trò, vị trí của thơ có



22
phần mờ nhạt. Trong thực tế sáng tác của mình, chị là ngời đã giành trọn tâm hồn
mình cho thơ. Trớc cuộc sống xô bồ, hối hả, Lâm Thị Mỹ Dạ chạnh buồn trớc thực
cảnh Đời nặng thế mà thơ thì nhẹ quá. Nữ thi sỹ vẫn không tin rằng thơ có
ngày tận thế bởi, thơ chính là điểm tựa tinh thần cho mỗi con ngời tìm về sau
những cuộc mu sinh đầy vất vả.
Thơ xanh biếc quả địa cầu xanh biếc
Quay dịu dàng giữa vũ trụ tình yêu
(Tôi không tin thơ có ngày tận thế)
Sự trăn trở đó thể hiện rõ nét qua các chặng đờng sáng tác của mình. Càng về sau,
đặc biệt là từ tập Đề tặng một giấc mơ chị càng có nhiều bài thơ nói về thơ, thể
hiện sự không thôi trăn trở của một ngời đã giành trọn tâm hồn mình cho thơ.
Quan niệm sáng tác của Lâm Thị Mỹ Dạ vừa đợc phát biểu trực tiếp qua
diễn đàn, báo chí, vừa thể hiện khá hệ thống trong các bài thơ qua các chặng đờng
thơ của mình. Chúng tôi nhận thấy một số điểm nổi bật trong quan niệm sáng tác
của chị. Theo Lâm Thị Mỹ Dạ, thơ là bản tự thuật tâm trạng của nhà thơ và thơ
là lãnh địa tinh thần của cái đẹp cao sang, thánh thiện.

1.2.1. Thơ là lãnh địa tinh thần của cái đẹp
Đây là quan niệm chung của giới văn nghệ sỹ. Tuy vậy, biểu hiện của nó lại
vô cùng phong phú đa dạng trong thực tế. Có khi lãnh địa tinh thần ấy gắn bó, gần
gũi với tôn giáo nh trong thơ Tago, thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên kiểu thơ tôn giáo
của Tago cũng rất khác biệt với thơ tôn giáo Hàn Mặc Tử. Có khi thơ là lãnh địa
tinh thần của cái đẹp cất lên từ cuộc sống vốn phong phú, da dạng, bề bộn và đầy
phức tạp của nó. Đến với thơ là đến với hoạt động sáng tạo tinh thần hớng thiện,
hớng tới cái đẹp. Với Lâm Thị Mỹ Dạ, thơ là lãnh địa tinh thần của cái đẹp cao
sang, thánh thiện. Chị tâm sự: với tôi, thơ là cái đẹp, mãi mãi nh vậy. Không thể
lấy một bài thơ nào làm tiêu chuẩn chân lý cho thơ. Mỗi thi nhân đích thực đều có
sự lấp lánh riêng, không ai giống ai. Ngời có bản lĩnh thơ là ngời biết chấp nhận
sự thách đố của thời gian chứ không phải là sự thách đố nào khác. Đam mê thơ,

đam mê cái đẹp là sự thành công một nửa của ngời làm thơ [16].
Trong sáng tác của mình, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng trung thành với quan niệm
đó. Với chị, đến với thơ là đến với cái đẹp thanh cao, trong sáng không vụ lợi. Thơ


23
luôn là sự trong lành quá đỗi, là nơi để con ngời tìm về để thanh lọc tâm hồn. Đó
là vẻ đẹp của sự hồn nhiên, trong sáng, tĩnh tại. Và vì vậy, đó là chỗ nơng tựa tâm
hồn cho Lâm Thị Mỹ Dạ trong cuộc đời này.
Vì cái đẹp
Vì thơ
Ta sống
Nhà thơ Nguyện cầu đầy khẩn thiết: Tâm hồn ơi/ Đừng hóa thạch/ Xin đừng!.
Nhà thơ luôn hớng tới thơ nh một nhu cầu để chia sẻ, bộc lộ, giãi bày cõi lòng
mình. Hớng tới thơ cũng chính là hớng tới cõi cao sang, thánh thiện để giữ cho
lòng mình đợc thanh sạch, tránh khỏi mọi vớng bận của cuộc đời. Do đó, đến với
thơ cũng chính là trở về với mình đầy chân thật. Nhà thơ tự thú với thơ, với chính
mình để rồi giữ cho tâm hồn đợc trong sáng để có thể đến với thơ cho trọn con đờng cũng chính là cách để nhà thơ sống thật với chính mình.
Với Lâm Thị Mỹ Dạ, cái đẹp của thơ là cái đẹp đợc chng cất lên từ hiện
thực đa dạng, phức tạp, bề bộn của cuộc sống. Nhà thơ cho rằng: Cuộc sống đa
dạng, và mỗi ngời có quan niệm riêng về nó. Tôi yêu cuộc sống, dẫu số phận mình
không đợc suôn sẻ. Cuộc sống là rất đẹp, đẹp trong sự rực rỡ hạnh phúc và đau
khổ, cô đơn. Cuộc sống giàu có cho tôi nhiều cảm xúc trong sáng tạo. Yêu cuộc
sống để làm những gì cho cuộc sống đẹp, đó chính là quan niệm của tôi [17]. Từ
đó quan niệm đó về cuộc sống, Lâm Thị Mỹ Dạ đa ra ý kiến của mình về thơ:
Thơ không chỉ viết về tình yêu. Ngời ta có thể làm thơ về nỗi khổ, về bất hạnh.
Chỉ cần có một tấm lòng và một trái tim, và còn rung động trớc đời sống [55]. Vì
vậy, trớc thực trạng Đời nặng thế mà thơ thì nhẹ quá, Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn trọn
niềm tin vào sự bất diệt của thơ.
Nếu thế giới còn khổ đau cái đẹp

Thì thơ ca nh hạt cứ lên mầm
Thơ xanh biếc - quả địa cầu xanh biếc
Quay dịu dàng giữa vũ trụ tình yêu
(Tôi không tin thơ có ngày tận thế)
Với sứ mệnh cao cả đó, ngời làm thơ là: Bao thân phận thơ đi tìm cái đẹp/ Rong
ruổi qua mọi đắng cay vui buồn (Thân phận tơ trời). Đó là cái đẹp đợc vút lên từ
mọi đắng cay, vui buồn của cuộc sống. Do vậy, quan niệm thơ là lãnh địa tinh thần
cao sang của cái đẹp là không phải là quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật mà đó là


24
thuộc tính quan trọng cần thiết vốn có của thơ. Nói nh Hoài Thanh là nghệ thuật
trớc hết phải là nghệ thuật đã. Tuy vậy, Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn dành Những câu
thơ hay nhất/ Về hạnh phúc, tình yêu. Ước mong, khao khát ấy cũng thật dễ hiểu
đối với trái tim của một ngời phụ nữ luôn khao khát yêu thơng.
Cũng có lúc, Lâm Thị Mỹ Dạ đã rơi vào bế tắc trớc thực cảnh trớ trêu:
Thơ trên cao - tầm tay với chênh vênh (Bi kịch của riêng tôi). Theo chị, muốn
mở cánh cửa thi ca, ngời thơ trớc hết phải có tâm hồn trong sáng, thuần khiết.
Những lúc tâm hồn trở thành những ốc đảo cũng là lúc:
Tự thiêu chính mình
Giơ cao lá cờ trắng
Trớc thơ
(Lá cờ trắng)
Trong lâu đài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, cái đẹp ấy chính là nỗi buồn cao
sang khắc khoải mà ấm áp. Chị tâm sự: Nỗi buồn hầu nh có sẵn trong tâm trạng
thơ tôi, nh một định mệnh. Tôi rất ngạc nhiên trớc những ai sống trên đời mà
không biết buồn. Nỗi buồn theo tôi là rất đáng trân trọng (). Nỗi buồn là ngôi
nhà ở đời của nhà thơ [15]. Với chị, nỗi buồn không đơn thuần là trạng thái tâm
lý, cảm xúc mà mang tính quan niệm, tính thẩm mỹ, trở thành tiêu chuẩn của cái
đẹp trong thơ. Tuy nhiên, đây không phải là quan niệm mới mà các nhà thơ Việt

Nam đã nói nhiều về nỗi buồn nhng nỗi buồn nh một quan niệm thẩm mỹ thì phải
đến thời đại thơ mới. Tất nhiên ở thơ mới là nỗi buồn thế hệ nh nhà thơ Huy Cận
đã từng tâm sự còn là nỗi buồn mang tính quan niệm. Thớc đo cái đẹp của thơ mới
chính là cái buồn. Cái đẹp là cái buồn, càng buồn càng đẹp. Nỗi buồn ấy vừa có
nguyên nhân xã hội vừa có nguyên nhân cá nhân ngời nghệ sỹ vừa có nguồn gốc
từ chính quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ mới.
Với Lâm Thị Mỹ Dạ, nỗi buồn có nguồn gốc từ chính miền quê, tuổi thơ
không êm đềm và cả quãng đời của một ngời phụ nữ xinh đẹp nhng đa đoan. Nỗi
buồn ấy đã đeo đẳng quan niệm về thơ và đi vào sáng tác của nữ thi sỹ. Chị đã
từng bộc bạch: Miền quê của thơ tôi là nỗi buồn. Thơ của tôi đợc cấy trồng trên
nỗi buồn dằng dặc có từ kiếp nào [55]. Tác giả Ngô Minh cũng nhận thấy: Nỗi
đau trờng cửu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là hệ quả của việc Mỹ Dạ đã sống với thơ
bằng trái tim tổn thơng không thành sẹo [53]. Tuy vậy, thơ Mỹ Dạ không đơn
thuần là nỗi đau cá nhân mà giá trị nhân văn là ở chỗ nỗi đau buồn ấy không bị


25
biến thành rên xiết mà chị luôn tìm đợc cho mình những điểm tựa nâng đỡ tinh
thần để vợt qua, lấy lại cân bằng. Đó là nỗi buồn mang tính nhân bản sâu sắc.
Những lúc rơi vào bi quan, tuyệt vọng chị tìm đến với thiên nhiên, trở về với ký
ức, tuổi thơ. Có lẽ, vì vậy mà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ dù đợc cấy trên nỗi buồn dằng
dặc nhng vẫn nhẹ nhàng, trong sáng. Đó là nỗi buồn sáng trong hay là nỗi
buồn biếc xanh nh cách gọi quen thuộc của chị.
1.2.2. Thơ là bản tự thuật tâm trạng của nhà thơ
Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã từng nói: Ngời thơ phong vận nh thơ ấy. Lâm Thị
Mỹ Dạ cũng bộc bạch đầy chân thành và nhiệt huyết: Muốn có thơ hay phải sống
thật với chính mình [17]. Để sống thật, sống hết mình cho thơ, chị tâm sự: Cái
khổ của ngời làm vợ, làm mẹ là cái khổ của thân xác đồng hành cùng hạnh phúc,
là cái khổ, niềm hạnh phúc có thể san sẻ đợc. Còn cái khổ cũng nh hạnh phúc của
ngời làm thơ là tự biết mình, không ai chia, không ai gánh, tìm kiếm, trăn trở, dằn

vặt nên đã có lúc tôi đã giơ cao lá cờ trắng đầu hàng thơ [16].
Đọc thơ Lâm Thị Mỹ Dạ chính là ngời đọc đang đợc tiếp xúc với chân dung
tinh thần của nhà thơ. Nhà thơ Ngô Minh đã cho rằng: Nhờ trực cảm mạnh, thơ
Mỹ Dạ là thơ thốt lên sự buốt nhói của con tim, chứ không phải là chuyện đời lựa
mà viết nh nhiều ngời khác. Thơ ấy luôn chân thật mà mới mẻ, xúc động lòng
ngời. Tác giả viết thêm: Cái trực cảm thơ ấy do số phận và sự từng trải của nhà
thơ tạo nên, không thể học ở sách vở hay trờng lớp mà có đợc [53]. Tuy vậy, bản
tự thuật ấy không có nghĩa là sao chép, mô phỏng hiện thực cuộc sống, tâm trạng
một cách dễ dãi. Chị thú nhận: Tôi đã từng đốt 45 bài thơ đầu đời vì sợ sáo mòn.
Chị cho rằng: Muốn có thơ hay là phải sống thật với chính mình và nói thêm
Thơ là cái mới mẻ trong cái bình thờng, nhìn thấy nó đã khó, mà diễn tả đợc nó
càng khó. Ngời ta chỉ đạt đến thơ nh một quả trứng nóng bức tới mức tự nó phải
tách vỏ nở ra đời sống - một đời sống sinh động, có hình hài. Nếu vội vã bóc lớp
vỏ đi khi cha đến độ thì sẽ chẳng bao giờ đạt đến thơ mà chỉ có những ngôn từ
chết. Vì vậy, có đợc một bài thơ hay vô cùng khó [17].
Từ đời thơ của mình, Lâm Thị Mỹ Dạ hiểu rõ những ngời phụ nữ làm thơ là
những Thân phận tơ trời với trăm cái khổ để òa vỡ Cảm xúc thơ - Nức nở phận
mây, tơ. Lao động nghệ thuật yêu cầu khắt khe, nghiêm túc. Lâm Thị Mỹ Dạ
cũng ý thức thờng trực về sự khắt khe đó trong sáng tạo thơ ca.
Đi cuối đất cùng trời mới tìm ra ngôn ngữ


×