Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Thiết kế bài giảng điện tử theo hướng tích cực háo hoạt động nhận thức cho học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.56 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
—&–

NGUYỄN TUẤN KIỆT

THIẾT KẾ BÀI GIẢNG ĐIỆN TỬ THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CHO
HỌC SINH THCS

LUẬN VĂN THẠC SỸ GIÁO DỤC HỌC

VINH – 2011


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho
phép sử dụng và chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào khác.

NGUYỄN TUẤN KIỆT


3

LỜI CẢM ƠN
Tác giả trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, khoa đào tạo Sau đại học, khoa Vật lí
Trường Đại học Vinh, Ban giám hiệu trường THCS Tân Khánh Đông, Thị xã Sa Đéc,


Tỉnh Đồng Tháp, đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian học tập, triển
khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cán bộ hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Mai Văn Trinh đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, đồng nghiệp
và bè bạn đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và triển khai thực hiện
đề tài.

Vinh, tháng 03 năm 2011
Tác giả,

NGUYỄN TUẤN KIỆT


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGĐT

:

Bài giảng điện tử

CNTT

:

Công nghệ thông tin


CNTT&TT

:

Công nghệ thông tin và truyền thông

DHVL

:

Dạy học vật lý

ĐC

:

Đối chứng

GV

:

Giáo viên

HĐH

:

Hiện đại hóa


HS

:

Học sinh

HS THCS

:

Học sinh trung học cơ sở

LLDH

:

Lý luận dạy học



:

Mục đích

MVT

:

Máy vi tính


ND

:

Nội dung

PP

:

Phương pháp

PPDH

:

Phương pháp dạy học

PTDH

:

Phương tiện dạy học

QTDH

:

Quá trình dạy học


SGK

:

Sách giáo khoa

TN

:

Thực nghiệm

THCS

:

Trung học cơ sở

TNSP

:

Thực nghiệm sư phạm

TTC

:

Tính tích cực


TTCNT

:

Tính tích cực nhận thức

VL

:

Vật lý


5

MỤC LỤC
HS..................................................................................................................................................................75

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước nhất là chỉ thị 58-CT/UW
của Bộ Chính Trị ngày 07 tháng 10 năm 2000 về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục
vụ sự nghiệp Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa đã chỉ rõ trọng tâm của ngành giáo dục
là đào tạo nguồn nhân lực về CNTT và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác giáo
dục và đào tạo, đây là nhiệm vụ mà Thủ tướng Chính phủ đã giao cho ngành giáo dục
giai

đoạn

2001




2005

thông

qua

quyết

định

số

81/2001/QĐ-TTg

Đất nước ta đang trong quá trình CNH – HĐH, để thực hiện được mục tiêu giáo dục
là đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, nền giáo dục nước nhà đang trong quá trình đổi mới nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Việc sử
dụng CNTT vào việc hỗ trợ cho giáo viên trong việc sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực đang được quan tâm hàng đầu, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo xác
định là năm ứng dụng CNTT trong dạy học để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy
thực hiện được mục tiêu của ngành.
Đối với môn vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, từ những hiện tượng, sự vật
trong cuộc sống, thí nghiệm ….từ đó người giáo viên giúp cho học sinh tìm thấy, tích lũy
những kiến thức vào kho tàng kiến thức của mình từ đó dần dần hình thành và phát triển
nhân cách của mình. Từ đó ta thấy việc hướng học sinh vào việc quan sát các hiện tượng,
sự vật trong cuộc sống, thực hiện được các thí nghiệm …. quyết định sự thành công của

việc giảng dạy. Tuy nhiên, không phải hiện tượng nào học sinh cũng quan sát thấy được,
thí nghiệm nào cũng thực hiện được …từ đó ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức của học
sinh.
Chương “Quang học” VL lớp 7 THCS là một điển hình các khó khăn tôi gặp phải,
chương này có một vị trí quan trọng trong chương trình VL THCS.


6

Xuất phát từ thực tiễn dạy học trên để khắc phục các khó khăn trên, thực hiện tốt
việc giảng dạy chương “Quang học” này tôi quyết định nghiên cứu đề tài "Thiết kế
BGĐT theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức cho học sinh THCS"
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thiết kế một số BGĐT chương “Quang học” VL lớp 7 theo hướng tích cực hoá
hoạt động nhận thức của học sinh và sử dụng chúng nhằm nâng cao chất lượng dạy học
VL trường THCS.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
 Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp dạy học tích cực.
Dạy học vật lý ở trường THCS
Hoạt động dạy và học vật lý ở trường THCS với việc sử dụng BGĐT trong dạy
học.
 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu ND và PPDH chương “Quang học” trong chương trình VL
lớp 7 và tiến thành TNSP ở trường THCS Tân Khánh Đông, Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng
Tháp.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu thiết kế BGĐT theo hướng tích hóa hoạt động nhận thức của học sinh
THCS và sử dụng một cách hợp lí trong dạy học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy
học VL nói chung, chương “Quang học” VL lớp 7 nói riêng.

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các tài liệu đề cập đến các biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh.
Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc sử dụng MVT trong DHVL ở trường phổ
thông.
Nghiên cứu chương trình, SGK, chuẩn kiến thức kỹ năng chương “Quang học”
VL lớp 7 THCS.
Tìm hiểu thực trạng sử dụng MVT trong DHVL ở trường THCS.


7

Soạn thảo các BGĐT cho một số bài học cụ thể ở chương “Quang học” VL lớp 7
THCS.
Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính hiệu quả của QTDHVL nhờ sự hỗ
trợ của MVT với BGĐT.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các tài liệu lý luận về những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại.
Nghiên cứu các tài liệu về lí luận dạy học, phương pháp dạy học tích cực hóa
hoạt động nhận thức học sinh,...
Nghiên cứu các tài liệu dạy học nhằm tăng cường tính tích cực trong hoạt động
nhận thức của học sinh.
Nghiên cứu cơ sở lí luận của BGĐT trong dạy học vật lý.
Nghiên cứu chương trình, SGK, sách bài tập và sách tham khảo để phân tích cấu
trúc logic, nội dung kiến thức của chương “Quang học” ở vật lý 7.
6.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tổ chức TNSP có đối chứng nhằm kiểm tra đánh giá hiệu quả của việc sử dụng
BGĐT đã thiết kế vào dạy học.
6.3. Phương pháp thống kê toán học

Xử lý kết quả TNSP bằng thống kê toán học. Qua đó kiểm tra giả thuyết khoa học
đã đặt ra.
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
7.1. Về mặt lí luận
Tổng quan cơ sở lí luận trong việc thiết kế và sử dụng BGĐT hỗ trợ dạy học
chương “Quang học” VL lớp 7 THCS theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của
học sinh.
7.2. Về mặt thực tiễn
Tập hợp kho tài nguyên gồm các thí nghiệm mô phỏng nhằm trực quan hóa
chuyển động các hành tinh quanh mặt trời, giải thích các hiện tượng vật lí trong tự
nhiên.


8

Xây dựng được 3 BGĐT gồm 1 bài truyền thụ kiến thức mới, 1 bài Tổng kết
chương “Quang học” VL lớp 7 THCS và 1 bài ngoại khóa “Tìm hiểu về hiện tượng
nhật thực và nguyệt thực”.
Luận văn sẽ là tài liệu bổ ích giúp GV có thể vận dụng để thiết kế BGĐT, khai
thác khả năng hỗ trợ của nó trong dạy học vật lý ở trường THCS và có thể vận dụng
dạy học cho các bộ môn khác.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG (gồm 3 chương)
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương II: Thiết kế BGĐT chương “Quang học” VL lớp 7 theo hướng tích cực
hóa hoạt động nhận thức của học THCS.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm.
KẾT LUẬN



9

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học được triển khai mạnh mẽ ở nhiều
nước trên thế giới. Ở các nước phát triển như Mỹ, Đức, Hàn Quốc …các công ty sản
xuất thiết bị dạy học về ứng dụng CNTT đã sản xuất nhiều sách điện tử, các PTDH hiện
đại được điều khiển bởi MVT, hệ thống trường học được trang bị phòng học đa chức
năng với mạng máy tính, máy chiếu khuếch đại,…..đã đánh dấu một cuộc cách mạng
mới trong công nghệ dạy học. Đưa QTDH từ hình thức dạy học truyền thống thành dạy
học trên mạng, biến Internet với các Website thành môi trường học tập và thư viện cho
giáo viên và học sinh truy cập.
Theo báo cáo tổng kết của UNESCO (2004), việc triển khai tích hợp CNTT vào
trường học thông qua các dự án thí điểm như trường học thông minh tại một số nước
Châu Á (Malaysia, Philipines, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,….) đã đem lại kết quả
bước đầu rất khả quan, giúp phát triển tư duy học sinh.
Ở Việt Nam, đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
thành quả bước đầu của quá trình công nghiệp hóa đã tạo tiền đề cho việc ứng dụng các
thành tựu của CNTT trong quá trình giáo dục và đào tạo.Việc ứng dụng CNTT hỗ trợ
trong dạy học ở nước ta trong những năm qua đã đem lại kết quả rất khả quan.
Xác định tầm quan trọng của việc ứng dụng CNTT và Internet đối với việc dạy
học, trong những năm gần đây nền Giáo dục nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm đặc biệt trong việc đổi mới nội dung chương trình SGK phổ thông. Bên cạnh nhiều
dự án thay SGK, đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy, đổi mới


10


giáo dục phổ thông, hàng năm nhà nước còn đầu tư một lượng ngân sách lớn cho việc
trang bị cơ sở vật chất sư phạm – thiết bị dạy học phục vụ dạy học. Trong những thiết
bị dạy học hiện nay, ngoài các loại hình thiết bị dạy học truyền thống như tranh ảnh
giáo khoa, bản đồ giáo khoa …..thì MVT là một loại phương tiện dạy học hiện đại
không thể thiếu ở mỗi trường phổ thông. Hiện nay rất nhiều trường đã có phòng máy
riêng, được kết nối Internet phục vụ cho việc giảng dạy và nhiều trường đã có trang
Web riêng của trường.
Sự phát triển CNTT đã hỗ trợ đáng kể cho việc đổi mới phương pháp dạy học,
sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, các phần mềm ngày càng nhiều đã được sử
dụng trong việc xây dựng các bài giảng. Trong các thiết bị dạy học hiện nay, ngoài các
thiết bị dạy học truyền thống như tranh ảnh giáo khoa, bản đồ giáo khoa, mô hình mẫu
vật,… thì MVT là một loại phương tiện kỹ thuật DH hiện đại không thể thiếu ở mỗi
trường phổ thông. Các dự án phát triển giáo dục về ứng dụng CNTT trong dạy học nói
chung và dạy học vật lý nói riêng đang được Bộ Giáo Dục và Đào tạo triển khai trên
toàn quốc, năm 2008-2009 Bộ giáo dục xác định là năm ứng dụng CNTT trong dạy học
và đến nay cuộc phát động nói trên bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể.
Một trong các hình thức ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học là việc sử dụng
các BGĐT, theo các chuyên gia UNESCO Pari, chuyên gia UNESCO Bangkok thì
BGĐT đã được thiết kế và sử dụng từ 10 năm trước đây ở các trường từ bậc TH,
THCS, THPT của một số nước Châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Ở Việt
Nam vấn đề ứng dụng CNTT trong DH đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
của các tác giả: Mai Văn Trinh, Nguyễn Quang Lạc, Phan Gia Anh Vũ, Nguyễn Xuân
Thành, Trần Huy Hoàng, Phan Thị Kim Dung, Lê Thị Thúy Vinh, Nguyễn Ngọc Lê
Nam, Nguyễn Thị Hoàng Vinh, Lê Văn Đủ,..v.v..đã công bố. Ở Việt Nam ta thì BGĐT
chỉ được thiết kế và sử dụng ở một vài trường phổ thông từ những năm 2003 trở lại
đây. Hiện nay việc sử dụng BGĐT này đã trở nên rất phổ biến ở hầu hết các trường từ
bậc TH, THCS đến THPT. Tuy nhiên việc khai thác sử dụng MVT trong dạy học ở các
trường phổ thông là rất khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất và trình độ
giáo viên.



11

Việc sử dụng MVT trong dạy học bằng BGĐT đã chứng tỏ những ưu việt của
nó, so với phương tiện dạy học chỉ có bảng đen, phấn trắng và tranh giáo khoa…..thì
việc thiết kế nội dung bài giảng trên MVT với sự hỗ trợ của hệ thống DH đa phương
tiện là một bước đột phá lớn. BGĐT ngoài việc hỗ trợ cho GV, giải phóng bớt sức lao
động ở trên lớp của GV, còn đem đến cho HS nhiều thông tin hơn, hấp dẫn hơn qua các
kênh thông tin đa dạng và phong phú: nội dung văn bản, âm thanh, hình ảnh tĩnh, động,
các đoạn Video Clip sống động. Đặc biệt ở một số nội dung kiến thức người ta có thể
xây dựng các mô hình mô phỏng để minh họa hoặc chứng minh định luật, đã biến quá
trình HS nhận thức các kiến thức trừu tượng thành quá trình HS lĩnh hội kiến thức mới
một cách hào hứng, tích cực. Như vậy BGĐT đã đáp ứng những yêu cầu cơ bản của
quá trình dạy học tạo ra môi trường dạy học có tính tương tác mạnh giúp học sinh hứng
thú, tích cực hoạt động hơn trong việc tiếp thu và lĩnh hội kiến thức.
Hiện nay việc phát triển rộng rãi của Internet, BGĐT đã được nhiều giáo viên
biết đến và ứng dụng ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc xây dựng BGĐT và vận dụng
BGĐT trong dạy học như thế nào có hiệu quả đó là điều không phải giáo viên nào cũng
biết và vận dụng tốt, nếu lạm dụng BGĐT quá mức thì lúc đó lại có tác dụng trái ngược
không đem lại hiệu quả. Việc nghiên cứu và sử dụng BGĐT đạt hiệu quả cao sẽ góp
phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm
trung tâm từ đó nâng cao chất lượng dạy học nói chung mà ngành và xã hội đang đặt ra.
1.1.2. Định hướng đổi mới PPDH VL ở trường THCS [10, tr 55]
Đổi mới PPDH các môn học nói chung và vật lý nói riêng ở trường THCS xuất
phát từ các quan niệm sau:
Mục tiêu của giáo dục, trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình thành và
phát triển nhân cách của HS. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho các em những
tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được, mà phải góp phần tích
cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo. HS càng được

tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì các phẩm chất và năng lực
của cá nhân càng sớm được hình thành phát triển và hoàn thiện. Tính năng động, sáng
tạo – là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, phải được hình thành
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.


12

Trước đây, trong việc giảng dạy các môn học người GV chỉ chú trọng truyền đạt
các tri thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập và nghiên cứu mang
tính đặc thù của môn học đó. Ngày nay, cùng với tri thức khoa học của môn học, GV
phải làm cho HS nắm vững và sử dụng được các phương pháp của bộ môn. Điều này có
ý nghĩa to lớn với nhiệm vụ học tập trước mắt và cả trong tương lai (học tập suốt đời).
Việc đổi mới PPDH phải góp phần thực hiện sự phân hóa trong dạy học. Năng lực
của HS trong một lớp học không hoàn toàn giống nhau, việc phân hóa, tiến tới cá nhân
hóa trong dạy học là xu hướng tất yếu để đảm bảo sự phát triển tối ưu cho mỗi HS.
Mỗi môn học có đặc trưng riêng, vật lý học là môn khoa học thực nghiệm. Đổi
mới phương pháp phải xuất phát từ đặc trưng này của bộ môn. Để tạo điều kiện cho
việc vận dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống, phát triển năng lực cần
thiết cho HS, cần phối hợp nhiều hình thức tổ chức học tập ngoài lớp học, kết hợp với
việc sử dụng các PPDH hiện đại như dạy học giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy
học theo nhóm, dạy học theo dự án, dạy học theo hợp đồng…. và đặc biệt là việc sử
dụng các PPDH hiện đại trên với sự hỗ trợ của CNTT trong dạy học qua đó từng bước
nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tóm lại, dạy học không chỉ là “dạy chữ” mà phải qua “dạy chữ” mà “dạy người”.
Tất nhiên hình thành và phát triển nhân cách không chỉ có nhà trường. Trong nhà
trường cũng không chỉ có hoạt động dạy học, tuy nhiên dạy học là hoạt động chủ yếu.
1.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lý
1.2.1. Tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh
1.2.1.1. Tính tích cực (TTC) [27]

TTC là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống và xã hội. Để tồn tại
và phát triển con người luôn tìm tòi, khám phá, cải biến môi trường để phục vụ cho con
người.
TTC có mặt tự phát và mặt tự giác.
+ Mặt tự phát của TTC là những yếu tố tìm ẩn bên trong , bẩm sinh, thể hiện ở
tính tò mò, hiếu kỳ linh hoạt trong đời sống hàng ngày.


13

+ Mặt tự giác của TTC là trạng thái tâm lí. TTC có mục đích và đối tượng rõ rệt,
do đó hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. TTC tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính
phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học…..
TTC nhận thức phát sinh không phải chỉ từ nhu cầu nhận thức mà cả từ những
nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức, thẩm mĩ, nhu cầu giao lưu văn hóa ….
Hạt nhân cơ bản của TTC nhận thức là hoạt động tư duy của cá nhân được tạo nên
do sự thúc đẩy của hệ thống nhu cầu đa dạng.
1.2.1.2. TTC trong học tập [4]
Học tập là hoạt chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Thông qua quá trình học tập con người
nhận thức được, lĩnh hội được những tri thức loài người đã tích lũy được, đồng thời có
thể nghiên cứu và tìm ra những tri thức mới cho khoa học.
TTC trong học tập về thực chất là TTC nhận thức. Đặc trưng ở khác vọng hiểu
biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Trong hoạt động
học tập nó diễn ra ở nhiều phương diện khác nhau: tri giác tài liệu, thông hiểu tài liệu,
ghi nhớ, luyện tập, vận dụng… và được thể hiện ở nhiều hình thức đa dạng phong phú.
Quá trình nhận thức của loài người là quá trình nghiên cứu, tìm kiếm khám phá
thế giới khách quan. Do đó, trong học tập, người học phải tích cực, chủ động khám phá
những điều chưa biết đối với bản thân. TTC nhận thức trong học tập có liên quan đến
động cơ học tập. Động cơ học tập đúng đắn sẽ tạo ra hứng thú. Hứng thú là cơ sở, tiền
đề của tính tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực.

TTC trong học tập thể hiện ở các hoạt động khác nhau như hăng hái phát biểu ý
kiến, tích cực trình bày các vấn đề được nêu, hay thắc mắc, không thỏa mãn với các câu
trả lời của mọi người, kể cả câu trả lời của bản thân, chịu khó tư duy trước vấn đề khó..
TTC học tập được phân chia các cấp độ từ thấp đến cao:
+ TTC bắt chước, tái hiện: Cố gắng hành động theo mẫu đã có sẵn nhưng thay đổi một
chút thì không thực hiện được.
+ TTC tìm tòi: Độc lập trong tư duy khi giải quyết vấn đề. Tìm kiếm các cách giải
quyết khác nhau của cùng một vấn đề……
+ TTC sáng tạo: Tìm ra cách giải quyết mới, hay, độc đáo ……..


14

TTC nhận thức tuy nảy sinh trong quá trình học tập nhưng nó lại là hậu quả của
nhiều nguyên nhân. Nhìn chung, TTC nhận thức phụ thuộc vào các nguyên nhân sau
đây: Hứng thú, nhu cầu, động cơ, năng lực, ý chí, sức khỏe, môi trường….Trong những
nhân tố trên có những nhân tố hình thành ngay, nhưng cũng có những nhân tố chỉ được
hình thành trong một quá trình lâu dài dưới ảnh hưởng của rất nhiều tác động. Vì vậy,
việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh đòi hỏi một kế hoạch lâu dài và
toàn diện của giáo viên trong khi dạy học.
1.2.1.3. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy-học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt
động nhận thức của người học; nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
học sao cho trong quá trình học tập, người học được hoạt động nhiều hơn, thảo luận
cùng nhau nhiều hơn và quan trọng hơn là được suy nghĩ nhiều hơn. Với PPDH tích
cực người dạy đóng vai trò chủ đạo, người học đóng vai trò chủ động chiếm lĩnh kiến
thức.
Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực.
a. Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy-học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động dạy,

đồng thời là chủ thể của hoạt động học được cuốn vào các hoạt động học tập do thầy
giáo tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá ra những điều mình chưa rõ chứ
không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được thầy giáo sắp đặt.
Người học được đặt vào tình huống có vấn đề hoặc tự đặt vấn đề theo cách nghĩ
của mình và giải quyết vấn đề. Từ đó, người học không chỉ nắm được kiến thức kỹ
năng mới mà còn nắm được phương pháp “làm ra” kiến thức, kỹ năng đó; được bộc lộ
và phát huy tiềm năng sáng tạo. Theo cách này, thầy giáo không chỉ đơn giản truyền đạt
tri thức mà còn hướng dẫn hành động.
b. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Triết lý giáo dục của thế kỷ 21 là “học suốt đời; học để biết; học để làm; học để
cùng sống với nhau và học để làm người”. Vì vậy, phải biết cách tự học để tự bồi
dưỡng cho mình tri thức mới. Phương pháp dạy-học tích cực xem việc rèn luyện
phương pháp tự học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy


15

học mà còn là một mục tiêu dạy học. Giáo viên phải rèn luyện cho học sinh có được
phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học trong quá trình dạy học của mình.
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều
tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về
cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành
một chuỗi công tác độc lập.
Áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn.
Việc sử dụng các phương tiện CNTT trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa
hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng củ mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh
nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến mỗi cá nhân

được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.
Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp
hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động hợp tác trong nhóm
nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải
quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân
để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện
tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình
bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống
học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động
xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên
quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải
chuẩn bị cho học sinh.
d. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.


16

Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực
trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích
cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh
cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh
được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là
năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học
sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con người
năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh giá không thể

dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học mà phải khuyến
khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kỹ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một
công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh
hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai
trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội
dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của
chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn.
Nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều
so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người
gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng,
tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có
trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh
mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

Ta có thể so sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học tích cực
như sau:
Dạy học truyền thống
Các mô hình dạy học mới (DHTC)
Quan niệm Học là quá trình tiếp thu và lĩnhHọc là quá trình kiến tạo; học sinh tìm


17

Dạy học truyền thống
Các mô hình dạy học mới (DHTC)
hội, qua đó hình thành kiếntòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai
thức, kĩ năng, tư tưởng, tìnhthác và xử lý thông tin,… tự hình thành

Bản chất

cảm.
hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Truyền thụ tri thức, truyền thụTổ chức hoạt động nhận thức cho học
và chứng minh chân lí của giáo sinh. Dạy học sinh cách tìm ra chân lí.

Mục tiêu

viên.
Chú trọng cung cấp tri thức, kĩChú trọng hình thành các năng lực (sáng
năng, kĩ xảo. Học để đối phó với tạo, hợp tác,…) dạy phương pháp và kĩ
thi cử. Sau khi thi xong nhữngthuật lao động khoa học, dạy cách học.
điều đã học thường bị bỏ quênHọc để đáp ứng những yêu cầu của cuộc
hoặc ít dùng đến.

sống hiện tại và tương lai. Những điều đã
học cần thiết, bổ ích cho bản thân học

Nội dung

Từ SGK + giáo viên

sinh và cho sự phát triển xã hội.
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK, GV,
các tài liệu khoa học phù hợp, thí nghiệm,
bảo tàng, thực tế…gắn với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu cầu
của HS.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và môi

trường địa phương.
- Những vấn đề học sinh quan tâm.

Phương

Các phương pháp diễn giảng,Các phương pháp tìm tòi, điều tra, giải

pháp

truyền thụ kiến thức một chiều. quyết vấn đề, dạy học tương tác.

Hình thức Cố định: Giới hạn trong 4 bứcCơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở phòng
tổ chức

tường của lớp học, giáo viên đối thí nghiệm, ở hiện trường, trong thực
diện với cả lớp.

tế…, học cá nhân, học đôi bạn, học theo
cả nhóm, cả lớp đối diện với giáo viên.


18

(tham khảo từ trang web />1.2.2. Tích cực hóa hoạt động nhận thức
Theo tác giả Thái Duy Tuyên “Tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động của
thầy giáo và của các nhà giáo dục nói chung, nhằm biến người học từ thụ động thành
chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao
hiệu quả học tập”[27,tr269]
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một trong những nhiệm vụ
của thầy giáo trong nhà trường và đây cũng là một trong những biện pháp nâng cao

chất lượng dạy học. Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu hướng đổi mới dạy
học hiện nay thì việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một vấn đề được
đặc biệt quan tâm. Nhiều nhà vật lý học trên thế giới đang hướng tới việc tìm kiếm con
đường tối ưu nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, nhiều công trình
luận án tiến sĩ cũng đã và đang đề cập đến lĩnh vực này. Tất cả đều hướng tới việc thay
đổi vai trò người dạy và người học nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học để
đáp ứng được yêu cầu dạy học trong giai đoạn phát triển mới. Trong đó học sinh
chuyển từ vai trò là người thu nhận thông tin sang vai trò chủ động, tích cực tham gia
tìm kiếm kiến thức. Còn thầy giáo chuyển từ người truyền thông tin sang vai trò người
tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tự mình khám phá kiến thức mới.
Quá trình tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh sẽ góp phần làm cho
mối quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả hơn. Tích
cực hoá vừa là biện pháp thực hiện nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó góp phần rèn luyện
cho học sinh những phẩm chất của người lao động mới: tự chủ, năng động, sáng tạo.
Đó là một trong những mục tiêu mà nhà trường phải hướng tới.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là biện pháp phát hiện những
quan niệm sai lệch của học sinh qua đó thầy giáo có biện pháp để khắc phục những
quan niệm đó. Vì thế việc khắc phục những quan niệm của học sinh có vai trò quan
trọng trong nhà trường nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
Những dấu hiệu quan trọng của sự tích cực trong hoạt động nhận thức: [4, tr 15]


19

+ HS khát khao tự nguyện tham gia trả lời các câu hỏi của giáo viên. Bổ sung các câu
trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình trước một vấn đề được nêu ra.
+ HS hay thắc mắc, đòi hỏi được giải thích cặn kẽ những vấn đề giáo viên trình bày
chưa đủ rõ.
+ HS chủ động vận dụng linh hoạt những kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức các
vấn đề mới.

+ HS mong muốn đóng góp với thầy, với bạn những thông tin mới lấy từ những nguồn
khác nhau, có khi vượt ra ngoài phạm vi bài học, môn học.
1.2.3. Các biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức [27, tr 275]
Khi bàn về phương pháp giáo dục J.Piaget đã rất nhấn mạnh đến vai trò hoạt
động của học sinh. Ông nói: “Trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự và giáo dục
không thể thành công nếu không sử dụng và không thực sự kéo dài tính hoạt động
đó”[29]
Phát huy TTCNT không phải là vấn đề mới. Từ thời cổ đại các nhà sư phạm tiền
bối như Khổng Từ, Aristot…..đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy
TTC, chủ động của HS học và đã nêu lên nhiều biện pháp phát huy TTCNT
Như vậy có thể nói sự hoạt động của trẻ trong quá trình giáo dục và giáo dưỡng
là yếu tố không thể thiếu được và theo chúng tôi để kéo dài hoạt động đó thì việc tích
cực hoá được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Điều này cũng cần phải
được quán triệt trong tiến trình khắc phục quan niệm của học sinh trong dạy học vật lý.
Gần đây, tư tưởng dạy học tích cực đã là một chủ trương qua trọng của ngành giáo dục
nước ta, đã được tuyên truyền rộng rãi trên các báo và tạp chí khoa học chuyên ngành.
Các biện pháp nâng cao TTC nhận thức của HS trong giờ lên lớp được phản ánh trong
các công trình xưa và nay có thể tóm tắt như sau:
1. Nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu.
2. Nội dung DH phải mới, nhưng không quá xa lạ với HS mà cái mới phải liên hệ, phát
triển cái cũ và có khả năng áp dụng trong tương lai. Kiến thức phải có tính thực tiễn,
gần gũi với sinh hoạt, suy nghĩ hàng ngày, thỏa mãn nhu cầu nhận thức của HS.


20

3. Phải dùng các PP đa dạng: nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, so sánh, tổ chức thảo
luận, semina và phối hợp chúng với nhau.
4. Kiến thức phải được trình bày trong dạng động, phát triển và mâu thuẫn với nhau,
tập trung vào những vấn đề then chốt, có lúc diễn ra một cách đột ngột, bất ngờ.

5. Sử dụng các PTDH hiện đại.
6. Sử dụng các hình thức tổ chức DH khác nhau: cá nhân, nhóm, tập thể, tham quan,
làm việc trong vườn trường, phòng thí nghiệm.
7. Luyện tập, vận dụng kiến thức vào thực tiễn trong các tình huống mới.
8. Thường xuyên kiểm tra đánh giá, khen thưởng và kỹ luật kịp thời, đúng mức.
9. Kích thích TTC qua thái độ, cách ứng xử giữa GV và HS.
10. Phát triển kinh nghiệm sống của HS trong học tập qua các phương tiện thông tin đại
chúng và các hoạt động xã hội.
11. Tạo không khí đạo đức lành mạnh trong lớp, trong trường, tôn vinh sự học nói
chung và biểu dương những HS có thành tích học tập tốt.
12. Có sự động viên, khen thưởng từ phía gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, những biện pháp trên không phải lúc nào cũng có giá trị như nhau. Tùy
từng trường hợp, từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà người giáo viên xác định những
biện pháp nào là quan chủ đạo. Đối với giáo viên đứng lớp cần phối hợp các biện pháp
trên một cách linh hoạt và phối hợp chặt chẽ với các hoạt động giáo dục khác trong nhà
trường, với gia đình và xã hội để việc giáo dục tính cực nhận thức học sinh được hoàn
thiện và bền vững
1.2.4. Tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh THCS
1.2.4.1. Đặc điểm của HS THCS, học sinh lớp 7 [9]
Đặc điểm sinh lí
Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi thiếu niên, giai đoạn phát triển trẻ từ 11 đến
14 tuổi.
Đây là lứa tuổi của các em không còn là trẻ con nữa, nhưng chưa hẳn là người
lớn. Cơ thể các em có sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt.
Các em rất hiếu động, mạnh mẽ trong các phong trào vui chơi, giải trí.


21

Sự phát triển năng lực của các em dường như vượt trước sự phát triển đạo đức

và trí tuệ.
Đặc điểm tâm lí
Các em thường không mạnh dạng khi giao tiếp với thầy cô.
Tâm lí hay rụt rè, e ngại, ít trao đổi với thầy cô, bạn bè về những gì chưa rõ.
Năng lực tư duy của các em còn hạn chế, ý kiến phát biểu còn vụn về không trọn
vẹn, chậm chạp không nhạy bén.
Chưa ý thức được việc học tập là cần thiết cho bản thân
Trẻ muốn được khẳng định về thể chất và năng lực mình, muốn làm những việc
có ý nghĩa. Vì vậy trẻ muốn được tích cực hoạt động và ham hiểu biết.
Một đặc điểm tâm lí quan trọng của HS THCS là việc nhu cầu, hứng thú động
lực học tập của các em chưa hình thành một cách rõ ràng, việc duy trì sự tập trung, hứng
thú trong học tập cũng chưa được duy trì một cách bền vững, lâu dài.
Còn mang nặng tâm lí trẻ con, mất tập trung trong học tập, khả năng ghi nhớ
không lâu.
Trình độ kiến thức của HS
Có sự hụt hẳn so với cấp học dưới vì lượng kiến thức các em phải học tăng đột
biến.
Tính toán còn rời rạc, không logic, không cẩn thận, có nhiều sai sót dẫn đến kết
quả không chính xác.
Khả năng lập luận khi tính toán, trình bày vấn đề không vững chắc, chặt chẽ...
Tóm lại: Trong những giai đoạn phát triển của con người lứa tuổi thiếu niên có
một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, nhiều biến
động nhất nhưng cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng
thành sau này. Sự phát triển tâm lí của thiếu niên có chịu ảnh hưởng của thời kỳ phát
dục. Nhưng cái ảnh hưởng quyết định nhất đối với sự phát triển tâm lý chính là những
mối quan hệ xung quanh, đặc biệt là những mối quan hệ giữa thiếu niên và người lớn.
Trong giai đoạn này nếu các em đước định hướng một cách đúng đắn, kích thích các
em hình thành động lực học tập bên trong có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển
nhân cách của trẻ.



22

Học sinh lớp 7 cũng ở lứa tuổi thiếu niên, là một bộ phận của lứa tuổi HS THCS
do đó cũng có những đặc điểm tâm, sinh lí lứa như trên.
1.2.4.2. Biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh THCS
Dựa vào những đặc điểm trên có thể đề xuất biện pháp tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS THCS như sau: [29]
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh có liên quan đến nhiều vấn đề,
trong đó các yếu tố như động cơ, hứng thú học tập, năng lực, ý chí của cá nhân, không
khí dạy học………. đóng vai trò rất quan trọng. Các yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau
và có ảnh hưởng tới việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong học tập.
Trong đó có nhiều yếu tố là kết quả của một quá trình hình thành lâu dài và thường
xuyên, không phải là kết quả của một giờ học mà là kết quả của cả một giai đoạn, là kết
quả của sự phối hợp nhiều người, nhiều lĩnh vực và cả xã hội. Đối với HS THCS một
yếu tố có ý nghĩa quyết định trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS là
phương pháp của người thầy tổ chức hoạt động dạy học.
Để có thể tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học tập
chúng ta cần phải chú ý đến một số biện pháp chẳng hạn như: Tạo ra và duy trì không
khí dạy học trong lớp; xây dựng động cơ hứng thú học tập cho học sinh; giải phóng sự
lo sợ học sinh…… Bởi chúng ta không thể tích cực hoá trong khi học sinh vẫn mang
tâm lý lo sợ, khi các em không có động cơ và hứng thú học tập và đặt biệt là thiếu
không khí dạy học. Do đó với vai trò cuả mình, thầy giáo phải là người góp phần quan
trọng trong việc tạo ra những điều kiện tốt nhất để cho học sinh học tập, rèn luyện và
phát triển. Sau đây chúng ta đi vào một số biện pháp cụ thể:
+ Tạo ra và duy trì không khí dạy học trong lớp nhằm tạo ra môi trường thuận
lợi cho việc học tập và phát triển của trẻ.
Trong môi trường đó học sinh dễ dàng bộc lộ những hiểu biết của mình và sẵn
sàng tham gia tích cực vào quá trình dạy học, vì khi đó tâm lý các em rất thoải mái.
+ Khởi động tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh.

Trước mỗi tiết học tư duy của học sinh ở trạng thái nghỉ ngơi. Vì vậy, Trước hết
thầy giáo phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh ngay từ khâu đề xuất vấn
đề học tập nhằm vạch ra trước mắt học sinh lý do của việc học và giúp các em xác định
được nhiệm vụ học tập. Đây là bước khởi động tư duy nhằm đưa học sinh vào trạng


23

thái sẵn sàng học tập, lôi kéo học sinh vào không khí dạy học. Khởi động tư duy chỉ là
bước mở đầu, điều quan trọng hơn là phải tạo ra và duy trì không khí dạy học trong
suốt giờ học. Học sinh càng hứng thú học tập bao nhiêu, thì việc thu nhận kiến thức của
các em càng chủ động tích cực bấy nhiêu. Muốn vậy cần phải chú ý đến việc tạo các
tình huống có vấn đề nhằm gây sự xung đột tâm lý của học sinh. Điều này rất cần thiết
và cũng rất khó khăn, nó đòi hỏi sự cố gắng, nổ lực và năng lực sư phạm của thầy giáo.
Ngoài ra cũng cần chú ý tới logic của bài giảng. Một bài giảng gồm các mắt xích nối
với nhau chặt chẽ, phần trước là tiền đề cho việc nghiên cứu phần sau, phần sau bổ
xung làm rõ phần trước. Có như vậy thì nhịp độ hoạt động, hứng thú học tập và quá
trình nhận thức của học sinh mới tiến triển theo một mạch liên tục không bị ngắt quãng.
+ Khai thác và phối hợp các phương pháp dạy học một cách có hiệu quả, đặc
biệt chú trọng tới các phương pháp dạy học tích cực. Việc tích cực hoá hoạt động nhận
thức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức và điều khiển quá trình dạy học
của thầy giáo. Bởi vậy, trong tiến trình dạy học, thầy giáo cần phải lựa chọn và sử dụng
các phương pháp dạy học hiệu quả, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực như:
Phương pháp nêu vấn đề; Phương pháp phát triển hệ thống câu hỏi; Phương pháp thực
nghiệm…..có như vậy mới khuyến khích tính tích cực sáng tạo của học sinh trong học
tập.
+ Sử dụng các phương tiện dạy học để hỗ trợ cho các phương pháp dạy học tích
cực trên, đặc biệt là các phương tiện kỹ thuật hiện đại như: Cassette, đầu đĩa CD, máy
vi tính, máy overhead, bộ cảm biến … Đây là biện pháp quan trọng, hỗ trợ tối đa cho
giáo viên trong hoạt động giảng dạy nhằm nâng cao tính tích cực của học sinh và giúp

cho nhà trường đưa chất lượng dạy học lên tầm cao mới
+ Tổ chức cho học sinh hoạt động. Thầy giáo và học sinh là những chủ thể của
quá trình dạy học, vì thế tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh phải do chính
những chủ đề này quyết định. Trong việc xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng chủ thể
có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho chủ thể định hướng hoạt động của mình. Trong
giờ học thầy giáo không được làm thay học sinh, mà phải đóng vai trò là người tổ chức
quá trình học tập của học sinh, hướng dẫn học sinh đi tìm kiếm kiến thức mới. Còn học
sinh phải chuyển từ vai trò thụ động sang chủ động tham gia tích cực và sáng tạo vào
quá trình học tập tránh tình trạng ngồi chờ và ghi chép một cách máy móc. Muốn vậy,


24

cần phải tăng cường hơn nữa việc tổ chức cho học sinh thảo luận và làm việc theo
nhóm.
+ Trong quá trình học tập của HS phải thường xuyên kiểm tra đánh giá, động
viên khen thưởng và kỹ luật kịp thời, đúng mức từ phía gia đình và xã hội.
1.2.5. Vai trò của CNTT trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS
Với sự bùng nổ của CNTT thông hiện nay, việc ứng dụng CNTT vào quá trình
dạy học là một xu hướng tất yếu của các trường học trên thế giới và ở Việt Nam nói
riêng. Việc ứng dụng CNTT vào dạy học sẽ nâng cao tính tích cực tự lực nhận thức của
học sinh vì khi “thầy dạy bằng đa phương tiện, trò học bằng đa giác quan” thì vai trò
của người thầy lúc chỉ giữ chức năng định hướng, tư vấn còn người học tùy vào năng
lực mà có sự chủ động trong việc nhận thức để chiếm lĩnh kiến thức mới, đạt được mục
đích mình mong muốn.
Trong quá trình dạy học, ứng dụng CNTT là quá trình ứng dụng ICTs vào hoạt
động dạy học một cách hợp lí. Trong đó sử dụng các loại hình thiết bị dạy học: Máy
chiếu, băng hình, phần mềm dạy học, BGĐT, website dạy học…Ở đó diễn ra mối tương
tác đa chiều:
+ Tương tác hai chiều giữa giáo viện – học sinh.

+ Tương tác hai chiều giữa phương tiện – học sinh.
+ Tương tác hai chiều giữa giáo viên – phương tiện.
Chiều thứ ba bao gồm: những tác động qua lại giữa giáo viên và mối quan hệ học
sinh – phương tiện, giữa học sinh và mối quan hệ giáo viên – phương tiện, giữa phương
tiện và mối quan hệ giáo viên – học sinh.
Cơ sở của việc cải tiến PPDH là sự lựa chọn nội dung bài học thích hợp, sau đó là
việc nghiên cứu áp dụng những phương pháp và phương tiện thích hợp để dạy và học.
- Sử dụng đa phương tiện trong dạy học mang lại cho chúng ta nguồn thông tin
phong phú và sinh động, bài giảng trở nên trực quan hơn, giảm bớt tính trừu tượng, bài
giảng sống động hơn, thu hút sự tập trung, niềm sai mê hứng thú của người học, làm
cho người học dễ hiểu và nhớ lâu.


25

- Đa phương tiện góp phần chống dạy chay và học chay trong điều kiện cơ sở vật
chất và trang thiết bị phòng thí nghiệm, phòng thực hành còn thiếu thốn và lạc hậu như
hiện nay.
- Đa phương tiện giúp người thầy có thể truyền đạt bằng nhiều con đường khác
nhau những lượng thông tin cần thiết cho viện tiếp thu bài học của học sinh. Việc tiếp
thu kiến thức có hiệu quả cao khi học sinh nhận được lượng tin từ nhiều tri giác khác
nhau và trong hoạt động riêng của mình, tổng hợp và chọn lọc những nguồn tin đó.
- CNTT còn hỗ trợ cho GV có thể tiến hành các thí nghiệm mô phỏng mà chúng
ta không thể nào tiến hành thực được, góp phần đáng kể vào việc tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học.
- Ứng dụng CNTT trong dạy học tạo được cơ sở cho sự tích cực nhận thức của HS
thông qua việc sử dụng các PTDH hiện đại tác động trực tiếp đến các giác quan (thính
giác, thị giác…) vì chúng đem lại các nguồn cảm thụ mạnh, phong phú và do đó HS đạt
được nhận thức và tư duy cao qua các hình ảnh, thí nghiệm sinh động, trực quan.
Ngày nay, ứng dụng CNTT trong môi trường dạy học đa phương tiện đã trở

thành một yếu tố quan trọng, là một công cụ hữu hiệu để đổi mới PPDH, hỗ trợ cho quá
trình dạy học của người giáo viên từng bước thúc đẩy sự tích cực ở học sinh và dần dần
từng bước nâng cao chất lượng dạy học. Nó làm tăng tính tích cực, chủ động của người
học trong qua trình tư duy lĩnh hội tri thức mới. [8, tr 92]
Có thể thấy được hoạt động nhận thức của người học đã được tích cực hóa khi
học tập dưới môi trường học tập hiện đại qua bảng so sánh sau đây: [8, tr 218]
Môi trường học tập truyền thống

Môi trường học tập hiện đại (CNTT )

1. Truyền thụ lấy người dạy làm trung tâm.

1. Học tập lấy người học làm trung tâm.

2. Kích thích đơn giác quan.

2. Kích thích đa giác quan.

3. Hướng phát triển một chiều.

3. Hướng phát triển đa chiều.

4. Đơn phương tiện, đơn năng.

4. Đa phương tiện, đa năng.

5. Làm việc riêng lẻ, cá thể.

5. Làm việc hợp tác, tương tác.


6. Truyền tải thông tin.

6. Trao đổi thông tin.

7. Học tập thụ động.

7. Học tập tích cực, tìm tòi khám phá.

8. Học sự kiện, học trên những sự kiện có 8. Học dựa trên tư duy, sáng tạo bằng việc


×