Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo cho học sinh trong dạy học hóa học phần phi kim ở trường trung học phổ thông luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 171 trang )

bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học vinh

------ ------

PHAN Sỹ TUệ

RèN LUYệN NĂNG LựC Độc lập, sáng tạo cho học sinh
trong dạy học hoá học phần phi kim ở trờng trung học
phổ thông

Chuyên ngành: Lý luận và phơng pháp

giảng dạy hóa học
mã số: 60.14.10

LI CM N

vinh - 2012

hon thnh lun vn ny, tụi xin by t lũng bit n sõu sc n :
- Thy giỏo PGS.TS Lờ Vn Nm ó giao ti, tn tỡnh hng dn, dnh
nhiu thi gian c bn tho, b sung v to mi iu kin thun li nht cho tụi
nghiờn cu v hon thnh lun vn.
- Thy giỏo PGS.TS Cao C Giỏc v thy giỏo PGS.TS Nguyn Xuõn
Trng ó dnh nhiu thi gian c v vit nhn xột cho lun vn.


2
- Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Hoá học cùng các thầy
giáo, cô giáo thuộc Bộ môn Lí luận và phương pháp dạy học hoá học khoa Hoá học


trường ĐH Vinh đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
- Ban giám hiệu, tập thể giáo viên và học sinh các trường THPT-DTNT Con
Cuông; THPT-DTNT Mường Quạ; THPT Anh Sơn 1 đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thực nghiệm sư phạm để hoàn thành luận văn.
Sau cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến gia đình, bạn bè và những
người thân đã luôn luôn quan tâm, động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và
hoàn thành luận văn này !

Tp Vinh, tháng 10 năm 2012
Tác giả
Phan Sỹ Tuệ

MỤC LỤC
1.3.1.2. Kết quả điều tra...................................................................................................34
2.1.2. Biện pháp 2 : Tìm những cách hình thành và phát triển năng lực sáng tạo phù
hợp với bộ môn................................................................................................................39
2.1.2.1. Tạo động cơ, hứng thú hoạt động nhận thức sáng tạo, tạo tình huống có vấn đề
nhằm phát huy cao độ trí tuệ của HS vào hoạt động sáng tạo........................................39
2.1.2.2. Cung cấp các phương tiện hoạt động nhận thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo sử
dụng các phương tiện hoạt động nhận thức đó...............................................................42
2.1.2.3. Sử dụng PP DH phức hợp để rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo cho HS [45]
..........................................................................................................................................48


3
2.1.3. Biện pháp : Sử dụng bài tập hoá học như là một phương tiện để phát triển năng
lực độc lập, sáng tạo cho HS...........................................................................................50
Trong dạy học hoá học, bài tập hoá học (BTHH) đã được coi là một trong những
phương pháp dạy học có hiệu quả cao. Nhiều kết quả nghiên cứu và thực tiễn dạy học
cho thấy: BTHH giữ vai trò quan trọng trong mọi khâu, mọi loại bài dạy hoá học. Tính

tích cực của phương pháp này còn được nâng cao hơn khi BTHH được sử dụng như là
nguồn kiến thức để phát triển năng lực độc lập, sáng tạo cho HS. Với tính hiệu quả đa
dạng như vậy, có thể sử dụng BTHH trong dạy học hoá học để thực hiện các mục đích
dạy học sau :.....................................................................................................................50
2.1.4. Biện pháp 4 : Kiểm tra, động viên kịp thời và biểu dương, đánh giá cao những
biểu hiện sáng tạo của học sinh.......................................................................................53
2.1.5. Biện pháp 5 : Cho học sinh làm các bài tập lớn, tập cho học sinh nghiên cứu
khoa học...........................................................................................................................54
3.2.1. Lập kế hoạch thực nghiệm.....................................................................................93
3.2.2. Lựa chọn mẫu thực nghiệm và mẫu đối chứng.....................................................93
3.4.4. Phân tích kết quả thực nghiệm sư phạm...............................................................99

KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


4
STT

Các chữ viết tắt

Các chữ viết đủ

1

BT

Bài tập

2


DH

Dạy học

3

Dd hoặc dd

Dung dịch

4

ĐC

Đối chứng

5

ĐT

Đối tượng

6

GD-ĐT

Giáo dục – Đào tạo

7


GV

Giáo viên

8

HS

Học sinh

9

KT-ĐG

Kiểm tra - đánh giá

10

l

Loãng

11

LL

Lí luận

12


Nxb

Nhà xuất bản

13

PP

Phương pháp

14

PTHH

Phương trình hoá học

15

PTPƯ

Phương trình phản ứng

16

r

rắn

17


SGK

Sách giáo khoa

18

STT

Số thứ tự

19

t0

Nhiệt độ

20

TN

Thực nghiệm

21

THPT

Trung học phổ thông

22


TNKQ

Trắc nghiệm khách quan

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với cộng
đồng quốc tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục là


5
trọng tâm của sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là con người. Công cuộc đổi mới này đòi hỏi nhà trường
phải tạo ra những con người lao động năng động, sáng tạo làm chủ đất nước, tạo nguồn
nhân lực cho một xã hội phát triển.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4, khoá VII đã xác định: phải khuyến
khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Định hướng này đã được pháp chế hoá trong luật Giáo dục điều 24.2, trong
Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học,
đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh
phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho
học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo và năng lực tự
đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức,
tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay… Chính vì thế trong thời gian gần đây Bộ Giáo dục
và Đào tạo khuyến khích giáo viên sử dụng các PPDH tích cực nhằm hoạt động hoá
người học.

Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ quan trọng của giáo dục
là rèn luyện tư duy cho học sinh ở mọi bộ môn, trong đó có bộ môn hoá học. Hoá học
là môn khoa học thực nghiệm và lý thuyết, vì thế bên cạnh việc nắm vững lý thuyết,
người học cần phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi vấn đề thông qua hoạt động
thực nghiệm, thực hành, giải bài tập.
Để thực hiện được yêu cầu rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo của HS cần đổi
mới PPDH các bài lên lớp và sử dụng bài tập hoá học trong hoạt động dạy và học ở
trường phổ thông. Bài tập hoá học đóng vai trò vừa là nội dung vừa là phương tiện để
chuyển tải kiến thức, rèn luyện tư duy và kỹ năng thực hành bộ môn một cách hiệu quả
nhất. Bài tập hoá học không chỉ củng cố nâng cao kiến thức, vận dụng kiến thức mà


6
còn là phương tiện để tìm tòi, hình thành kiến thức mới. Rèn luyện tính tích cực, trí
thông minh sáng tạo cho HS, giúp các em có hứng thú học tập, chính điều này đã làm
cho bài tập hoá học ở phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc dạy và học hoá
học, đặc biệt là sử dụng hệ thống bài tập để rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo cho
học sinh trong quá trình dạy học.
Qua quá trình giảng dạy ở trường THPT tôi thấy thực trạng đó là một lượng
không nhỏ HS học tập còn thụ động và ít sáng tạo. Nguyên nhân một phần là do GV và
nhà trường rất ít chú ý kiểm tra, đánh giá năng lực độc lập, sáng tạo của học sinh ;
Phương pháp dạy học chậm đổi mới.
Với mong muốn tìm hiểu và sử dụng hiệu quả các bài lên lớp, trong đó có các
bài tập hoá học nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở THPT, tôi đã lựa chọn đề tài:
“Rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo cho học sinh trong dạy học hóa học phần phi
kim ở trường trung học phổ thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo và kĩ năng vận
dụng kiến thức cho học sinh trong dạy học hóa học phần phi kim ở trường THPT, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học hoá học trong giai đoạn hiện nay.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận và thực tiễn về vấn đề rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo
cho học sinh trong dạy học hóa học ở trường THPT.
+ Tầm quan trọng chiến lược của việc rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo của
học sinh trong dạy học hóa học.
+ Nghiên cứu thực trạng về vấn đề rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo của
học sinh trong dạy học hóa học ở trường THPT thuộc tỉnh Nghệ An.
- Nghiên cứu các biện pháp rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo và kỹ năng vận
dụng kiến thức của học sinh nói chung và học sinh các trường THPT thuộc tỉnh Nghệ
An nói riêng.


7
+ Đề xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo của học
sinh thuộc tỉnh Nghệ An, chú ý vào những vấn đề lí thuyết cơ sở hoá học vô cơ, cụ thể
là phần phi kim, chú ý vào các bài học nghiên cứu tài liệu mới và hoàn thiện kiến thức.
+ Tuyển chọn, xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập tự luận và TNKQ phần
phi kim theo chương trình hoá học lớp 10, 11.
- Kiểm tra khảo sát hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp được đề xuất.
Xử lý kết quả thực nghiệm bằng toán học thống kê.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu : Quá trình dạy học hóa học ở trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu : Các biện pháp rèn luyện năng lực độc lập sáng tạo và kĩ
năng vận dụng kiến thức cho học sinh trong dạy học hóa học phần phi kim ở trường
THPT, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học hoá học trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị của Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo
có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các tài liệu về lý luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và các tài

liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và bài tập hoá học THPT, đặc biệt là
chương trình hoá học lớp 10, 11 phần phi kim.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
a. Điều tra, thăm dò, trao đổi ý kiến với các giáo viên dạy hoá học THPT về nội
dung, hình thức diễn đạt, số lượng câu hỏi tự luận và TNKQ của mỗi bài học và sử
dụng trong quá trình dạy học.
b. Phương pháp hội thảo chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm
c. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Đánh giá hiệu quả sử dụng các biện pháp được đề xuất để rèn luyện năng lực
độc lập, sáng tạo cho HS trong học tập.
5.3. Các phương pháp xử lý kết quả thực nghiệm bằng toán học thống kê.


8
6. Giả thuyết khoa học
Trong dạy học hoá học, nếu chọn được những biện pháp phù hợp và áp dụng
những biện pháp rèn luyện tích cực, chúng ta có thể rèn luyện được năng lực độc lập,
sáng tạo cho HS, từ đó nâng cao chất lượng học tập hoá học lên cao hơn.
7. Đóng góp mới của đề tài
- Đề xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo cho HS
trong dạy học hóa học ở trường THPT.
- Xây dựng và sưu tầm :
+ Các bài soạn theo hướng hoạt động hoá người học với các lớp có nhiều đối
tượng HS nhận thức khác nhau, kết hợp giữa bài học trên lớp với việc chia nhóm để
giúp đỡ HS.
+ Hệ thống các bài tập cơ bản, thực tiễn nhằm nâng cao hứng thú học tập,
củng cố kiến thức và rèn luyện kĩ năng, rèn luyện năng lực độc lập, sáng tạo cho HS
lớp 10, 11 THPT.
+ Sử dụng hệ thống các bài soạn và bài tập để góp phần làm tăng tỉ lệ HS khá,

giỏi trong học tập môn hoá học ở trường THPT.

Chương 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI


9
1.1. Phương pháp dạy học, những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay [8]; [31]; [33]
1.1.1. Phương pháp dạy học
1.1.1.1. Định nghĩa phương pháp dạy học
Theo GS Nguyễn Ngọc Quang thì : “Phương pháp dạy học là cách thức làm việc
của thầy và trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm
cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt được mục đích dạy học” [33].
Từ định nghĩa trên, ta thấy phương pháp dạy học gồm PP dạy và PP học.
Nếu xét riêng hoạt động dạy thì GV là chủ thể của hoạt động này, còn nội dung
và HS là hai đối tượng của hoạt động đó.
Nếu xét riêng hoạt động học của HS thì họ là chủ thể của hoạt động và nội dung
trí dục là đối tượng để chiếm lĩnh, còn dạy là nhân tố ảnh hưởng.
Từ đó, HS vừa là đối tượng của dạy, vừa là chủ thể của sự lĩnh hội, của quá trình
chiếm lĩnh nội dung.
Vậy : Dạy học là một hoạt động, nó tuân theo những quy luật chung của mọi
hoạt động. Nhưng nó là hoạt động đặc thù, trong đó HS vừa là đối tượng của dạy vừa
là chủ thể sáng tạo của việc chiếm lĩnh nội dung dạy học.
1.1.1.2. Phương pháp dạy học hoá học
PPDH hoá học có thể hiểu là cách thức hoạt động cộng tác có mục đích giữa
thầy và trò, trong đó có sự thống nhất của hai quá trình (điều khiển của thầy và tự điều
khiển của trò) nhằm làm cho trò chiếm lĩnh khái niệm hoá học.
1.1.1.3. Cấu trúc và chức năng của phương pháp dạy học hoá học

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HOÁ HỌC


Phương pháp dạy

Phương pháp học

PP truyền thụ

PP lĩnh hội

PP điều khiển

PP tự điều khiển


10

Sơ đồ cấu trúc PPDH hoá học
Như vậy, PPDH hoá học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, với tư
cách là hai phân hệ độc lập, nhưng thường xuyên tương tác chặt chẽ với nhau tạo ra hệ
toàn vẹn PPDH hoá học.
a. Chức năng của phương pháp dạy học hoá học
PP dạy có hai chức năng tương tác và thống nhất với nhau là truyền thụ và điều
khiển, do đó, nội dung trí dục được truyền đạt tới HS.
PP học có hai chức năng tương tác và thống nhất với nhau là lĩnh hội nội dung trí
dục do thầy truyền đạt và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh khái niệm của bản thân, do
đó, nó là sự thống nhất của PP lĩnh hội và PP tự điều khiển sự lĩnh hội của bản thân.
b. Các tiêu chuẩn đánh giá tính hiệu nghiệm của phương pháp dạy học
Có các quan điểm khác nhau về đánh giá tính hiệu nghiệm của PP nói chung, PP
DH nói riêng. Theo GS Nguyễn Ngọc Quang, căn cứ vào bốn qui luật cơ bản chi phối
PP có thể tìm được bốn tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm của nó, trong đó phải nhấn

mạnh đến hai tiêu chuẩn vô cùng quan trọng, đó là :
+ Tiêu chuẩn số một về tính hiệu nghiệm của PP là tính chân thực và tính đúng
đắn: chủ thể phải hiểu, phải có kiến thức chân thực về đối tượng, từ đó mới lựa chọn
được các thao tác đúng đắn để tác động lên đối tượng, nhằm tìm hiểu, chiếm lĩnh và cải
biến đối tượng.
+ Tiêu chuẩn số hai về tính hiệu nghiệm của PP là : trong mọi trường hợp cần
chọn được PP phù hợp với mục đích và nội dung, thống nhất với mục đích và nội dung.


11
Có thể nói về tiêu chuẩn đánh giá tính hiệu nghiệm của PPDH theo cách khác:
PPDH hiệu nghiệm là cách thức tổ chức quá trình dạy học sao cho đảm bảo đồng thời
những phép biện chứng sau:
- Giữa dạy và học.
- Giữa truyền thụ và điều khiển trong dạy.
- Giữa lĩnh hội và tự điều khiển trong học.
1.1.1.4. Tính chất đặc thù của phương pháp dạy học hoá học
PPDH hoá học là hình chiếu độc đáo của PP nhận thức hoá học trên mặt phẳng
tâm lí học của HS. Nói cách khác, PP nhận thức hóa học đã được chuyển hoá, xử lí sư
phạm thành PPDH hoá học, tức là sử dụng những biện pháp sư phạm làm cho HS dễ
tiếp thu và sử dụng.
PPDH hoá học là sự kết hợp giữa tư duy lý thuyết với thực nghiệm khoa học.
Từ các định luật hoá học, các học thuyết và các tiên đoán khoa học được vận dụng biện
chứng với nhau giải quyết những vấn đề do môn học đặt ra.
Từ đặc thù của môn hoá học là môn khoa học thực nghiệm kết hợp với tư duy lý
thuyết do đó PP học tập hóa học có lập luận trên cơ sở thí nghiệm - trực quan. Nên
PPDH hoá học có một số đặc trưng sau:
+ Ở lớp 8 và lớp 9 khi bắt đầu học hoá học, việc dạy học phải xuất phát từ trực
quan sinh động tới những khái niệm trừu tượng của hoá học .
+ Các lớp 10, 11, 12 khi vốn khái niệm đã phong phú thì HS có thể vận dụng

những khái niệm như một công cụ để tư duy.
+ Trong PPDH hoá học việc sử dụng mối liên hệ nhân quả giữa cấu tạo và tính
chất như một PPDH cơ bản trong môn hoá học .
Đối tượng của hoá học là những chất cấu tạo bởi phân tử, nguyên tử, ion…
Chúng đều là những hạt vi mô không quan sát được bằng mắt thường. Do đó, chúng ta
buộc phải dùng đến mô hình mô phỏng, thí nghiệm để lý giải những hiện tượng đó.
Tóm lại, PPDH hoá học chính là sự chuyển hoá của PP nhận thức hoá học thông
qua lăng kính của các quy luật tâm lý, lý luận dạy học.
1.1.2. Những xu hướng đổi mới phương pháp dạy học [8]; [11]; [18]; [21]


12
Luật giáo dục năm 2005 đã chỉ rõ : “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
HS”.
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện đổi mới chương trình và SGK phổ thông mà
trọng tâm là đổi mới PPDH. Chỉ có đổi mới căn bản PP dạy và học thì mới có thể tạo
được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo lớp người năng động, sáng
tạo.
Có thể nói, cốt lõi của đổi mới PPDH là hướng tới hoạt động học tập chủ động,
chống lại thói quen học tập thụ động.
Tuy nhiên, đổi mới PPDH không có nghĩa là gạt bỏ các PPDH truyền thống mà
phải vận dụng một cách có hiệu quả các PPDH hiện có theo quan điểm DH tích cực kết
hợp với PPDH hiện đại. Có nhiều xu hướng đổi mới PP dạy học. Sau đây là các xu
hướng chủ yếu:
1.1.2.1. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm (hoặc dạy học hướng vào người học)
Đây là một quan điểm được đánh giá là tích cực vì hướng việc dạy học chú
trọng đến người học để tìm ra những PPDH có hiệu quả. Quan điểm này đã chú trọng

đến các vấn đề :
a. Về mục tiêu dạy học :
+ Chuẩn bị cho HS thích ứng với đời sống xã hội.
+ Tôn trọng nhu cầu, hứng thú, khả năng và lợi ích của HS.
b. Về nội dung : Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng thực hành, vận dụng
kiến thức, năng lực giải quyết vấn đề học tập và thực tiễn, hướng vào sự chuẩn bị thiết
thực cho học sinh hoà nhập với xã hội.
c. Về phương pháp :
+ Coi trọng rèn luyện cho HS PP tự học, tự khám phá và giải quyết vấn đề, phát
huy sự tìm tòi, tư duy độc lập sáng tạo của HS thông qua các hoạt động học tập. HS
chủ động tham gia các hoạt động học tập.


13
+ GV là người tổ chức, điều khiển động viên, huy động tối đa vốn hiểu biết,
kinh nghiệm của từng HS trong việc tiếp thu kiến thức và xây dựng bài học.
+ Giáo án được thiết kế theo nhiều phương án, được GV linh hoạt điều chỉnh
theo diễn biến của tiết học với sự tham gia tích cực của HS, thực hiện giờ học phân hóa
theo trình độ, năng lực của HS, tạo điều kiện cho sự phát triển cá nhân.
d. Về hình thức tổ chức : Không khí lớp học thân mật tự chủ, bố trí lớp học linh
hoạt phù hợp với hoạt động học tập và đặc điểm của từng tiết học. Giáo án bài dạy cấu
trúc linh hoạt có sự phân hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển năng khiếu của
cá nhân.
e. Về kiểm tra đánh giá :
+ GV đánh giá khách quan, HS tham gia vào quá trình nhận xét đánh giá kết quả
học tập của mình (tự đánh giá), đánh giá nhận xét lẫn nhau.
+ Nội dung kiểm tra chú ý đến các mức độ: tái hiện, vận dụng, suy luận, sáng
tạo, chú ý mức độ đạt được các mục tiêu của từng giai đoạn học tập, chú trọng mặt
chưa đạt được so với mục tiêu.
Dạy học lấy HS làm trung tâm đặt vị trí của người học vừa là chủ thể vừa là

mục đích cuối cùng của quá trình dạy học, phát huy tối đa tiềm năng của người học. Do
vậy, vai trò tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo của người học được phát huy. Người
GV đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, động viên các hoạt động độc lập của HS,
đánh thức các tiềm năng của mỗi HS, giúp họ chuẩn bị tham gia vào cuộc sống.
Như vậy, bản chất của việc dạy học lấy HS làm trung tâm là đặt người học vào
vị trí trung tâm của quá trình dạy học, chú trọng đến những phẩm chất, năng lực riêng
của mỗi người, họ vừa là chủ thể vừa là mục đích cuối cùng của quá trình dạy học .
1.1.2.2. Dạy học theo hướng hoạt động hoá người học
a. Bản chất
Là tổ chức cho người học được học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự
giác tích cực sáng tạo, trong đó việc xây dựng phong cách học tập sáng tạo là cốt lõi
của việc đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và phương pháp dạy học nói riêng.


14
Vì vậy, phải chuẩn bị rèn luyện một cách có hệ thống cho HS từ khi còn nhỏ để
mỗi cá nhân phải tìm được con đường riêng, sáng tạo ra một phương pháp mới phù hợp
với hoàn cảnh riêng của mình. Do đó, việc xây dựng phong cách "học tập sáng tạo" là
cốt lõi của việc đổi mới PPDH.
b. Học tập và sáng tạo
Ngày nay, học tập và sáng tạo không phải là hai hoạt động tách biệt mà là hai
mặt của một quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau. Học không phải chỉ là tiếp thu thụ
động kinh nghiệm đã có sẵn của nhân loại mà chính là “sáng tạo lại” cho bản thân
mình. Ngay trong bài học đầu tiên của một môn khoa học đã phải đặt HS vào vị trí của
người nghiên cứu, khám phá. Ngược lại chính nhờ cách học nghiên cứu khám phá đó
mà HS nắm vững kiến thức, biết sử dụng kiến thức một cách linh hoạt rồi lại tiếp tục
sáng tạo ra cái mới. Hầu như mọi người đều thấy sự cần thiết phải chấm dứt tình trạng
học tập thụ động máy móc hiện nay và thay thế vào đó một cách học thông minh sáng
tạo, bởi vậy, chỉ nên để một kiểu học tập tồn tại trong nhà trường, đó là “học tập sáng
tạo” và coi xây dựng phong cách “học tập sáng tạo” là cốt lõi của việc đổi mới PPDH.

Tâm lí học và Lí luận dạy học hiện đại khẳng định: Con đường có hiệu quả nhất
để làm cho HS nắm vững kiến thức và phát triển được năng lực sáng tạo là phải đưa
HS vào vị trí của chủ thể hoạt động nhận thức, thông qua hoạt động tự lực của bản
thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo và hình thành quan điểm
đạo đức.
c. Vai trò mới của giáo viên
Sự xác lập vị trí chủ thể của người học không hề làm suy giảm mà ngược lại còn
nâng cao vai trò, trách nhiệm của người thầy. Trong khi khẳng định vai trò của người
GV không suy giảm, cần phải thấy tính chất của vai trò này đã thay đổi: người GV
không phải là nguồn phát thông tin duy nhất, không phải là người làm mọi việc cụ thể
ở trên lớp. Trách nhiệm của GV bây giờ là ở chổ khác, làm chủ yếu các việc sau:
- Thiết kế: Lập kế hoạch, chuẩn bị kế hoạch dạy học cả về các mặt: mục đích,
nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức.


15
- Ủy thác, tạo động cơ : Biến ý đồ dạy học của GV thành nhiệm vụ học tập tự
nguyện tự giác của HS, là chuyển giao cho trò không phải những tri thức dưới dạng có
sẵn mà là những tình huống để trò hoạt động và thích nghi.
- Điều khiển : Điều khiển và tổ chức cho HS hoạt động theo cá nhân hay nhóm,
kể cả điều khiển về mặt tâm lý, bao gồm sự động viên, trợ giúp và đánh giá.
- Thể chế hóa : Xác nhận những kiến thức mới phát hiện, đồng nhất hoá những
kiến thức riêng lẻ mang màu sắc cá thể, phụ thuộc hoàn cảnh và thời gian của từng học
sinh thành tri thức khoa học của xã hội, tuân thủ chương trình và định vị tri thức mới
trong hệ thống tri thức đã có, hướng dẫn vận dụng và ghi nhớ hoặc giải phóng khỏi trí
nhớ nếu không còn cần thiết.
Người GV phải tạo ra những điều kiện tốt nhất cho HS hoạt động sáng tạo có
kết quả. HS phải tự lực hoạt động để tái tạo ra những kiến thức và năng lực mà loài
người đã tích luỹ được để biến chúng thành của mình. Tuy nhiên HS không đủ thời
gian và không có khả năng hoàn toàn tự lực thực hiện điều đó như một nhà khoa học.

Cần phải có sự giúp đỡ, hướng dẫn của GV để HS có thể thực hiện được nhiệm vụ học
tập một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Vai trò của người GV lại càng
nặng nề, quan trọng và phức tạp hơn. Trước kia, người GV chỉ cần nắm vững nội dung
môn học để giảng dạy, minh họa rõ ràng mạch lạc là đủ, vì vậy, hễ có kiến thức là dạy
học được. Còn bây giờ, theo kiểu dạy học mới, người GV không những phải nắm vững
nội dung môn học, mà còn phải am hiểu sâu sắc HS; GV không trình bày những điều
mình đã biết, đã chuẩn bị mà là tổ chức hướng dẫn cho HS hoạt động sáng tạo để họ
đạt được những điều mà GV định đem lại cho họ hoặc là họ tự phát hiện thấy là cần
thiết và tin tưởng có thể đạt được.
1.1.2.3. Dạy học tích cực [4]; [19]; [22]; [24]; [25]
a. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
PPDH tích cực là khái niệm nói tới những PP giáo dục, dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Vì vậy, PPDH tích cực thực chất là
các PPDH hướng tới việc giúp HS học tập chủ động, tích cực sáng tạo, chống lại thói
quen học tập thụ động.


16
PPDH tích cực chú trọng đến hoạt động học, vai trò của người học theo các
quan điểm tiếp cận mới về hoạt động dạy học như : "lấy người học làm trung tâm",
"hoạt động hoá người học", "kiến tạo theo mô hình tương tác"...
b. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
- Những PPDH có chú trọng đến việc tổ chức, chỉ đạo để người học trở thành
chủ thể hoạt động, tự khám phá những kiến thức mà mình chưa biết. Trong giờ học HS
được tổ chức, động viên tham gia vào các hoạt động học tập qua đó vừa nắm được kiến
thức, kĩ năng mới vừa nắm được phương pháp nhận thức, học tập. Trong PPDH tích
cực việc tổ chức để HS học được tri thức, kĩ năng, PP học tập luôn gắn quyện vào nhau
theo quá trình học kiến thức- hoạt động đến biết hoạt động và muốn hoạt động qua đó
mà phát triển nhân cách người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo.
- Những PPDH có chú trọng rèn luyện kĩ năng, PP và thói quen tự học, từ đó mà

tạo cho HS sự hứng thú, lòng ham muốn, khao khát học tập, khơi dậy những tiềm năng
vốn có trong mỗi HS để giúp họ dễ dàng thích ứng với cuộc sống của xã hội phát triển.
- Những PPDH có chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động học tập của từng
HS, hoạt động học tập hợp tác trong tập thể nhóm, lớp học, thông qua tương tác giữa
GV với HS, giữa HS với HS. Bằng sự trao đổi, tranh luận, thể hiện quan điểm của từng
cá nhân, sự đánh giá nhận xét những quan điểm của bạn mà HS nắm được kiến thức,
cách tư duy, sự phối hợp hoạt động trong một tập thể.
- Những PPDH có sự phối hợp sử dụng rộng rãi các phương tiện trực quan nhất
là các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn, máy vi tính, phần mềm dạy học... đáp ứng yêu
cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo năng lực và nhu cầu của mỗi HS, giúp các em
tiếp cận được với các phương tiện hiện đại trong xã hội phát triển.
- Những PPDH có sử dụng các PP kiểm tra, đánh giá đa dạng, khách quan, tạo
điều kiện để HS được tham gia tích cực vào hoạt động tự đánh giá và đánh giá lẫn
nhau. Nội dung, PP, hình thức kiểm tra đánh giá phải đa dạng, phong phú với sự trợ
giúp của các thiết bị kĩ thuật, máy tính và phần mềm kiểm tra để đảm bảo tính khách
quan, phản ánh trung thực tình trạng kiến thức của HS và quá trình đào tạo. Sự thay đổi


17
khâu đánh giá sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến việc đổi mới PPDH theo hướng dạy học
tích cực.
Những nét đặc trưng của PPDH tích cực đã thể hiện được quan điểm, xu hướng
đổi mới PPDH hóa học. Như vậy, khi sử dụng các PPDH trong DH hóa học chúng ta
cần khai thác những yếu tố tích cực của từng PPDH đồng thời cũng cần phối hợp các
PPDH với phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật, tính đặc thù của PPDH hóa học
để nâng cao tính hiệu quả của quá trình đổi mới PPDH hóa học.
c. Một số phương pháp dạy học tích cực
• Vấn đáp tìm tòi :
Là phương pháp trong đó GV đặt ra những câu hỏi để HS trả lời, hoặc có thể
tranh luận với nhau. Có 3 phương pháp vấn đáp :

+ Vấn đáp tái hiện
+ Vấn đáp giải thích- minh họa
+ Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại ơrixtic)
• Dạy học nêu vấn đề và giải quyết vấn đề
Khi dạy học theo phương pháp này, mỗi GV cần chú ý thực hiện bài giảng theo
cấu trúc sau :
Bước 1. Nêu vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức
+ Tạo tình huống có vấn đề.
+ Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh.
+ Phát biểu vấn đề cần giải thích.
Bước 2. Giải quyết vấn đề
+ Đề xuất cách giải quyết.
+ Lập kế hoạch giải quyết.
+ Thực hiện kế hoạch.
Bước 3. Kết luận
+ Thảo luận kết quả và đánh giá.
+ Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra.
+ Phát biểu kết luận.


18
+ Đề xuất vấn đề mới.
Trong dạy học nêu và giải quyết vấn đề gồm có 4 mức độ:
Mức độ 1 : HS giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV. GV đánh giá.
Mức độ 2 : HS giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của GV khi cần. GV cùng HS
đánh giá.
Mức độ 3 : HS phát hiện vấn đề nảy sinh, lựa chọn vấn đề và giải quyết. GV
cùng HS đánh giá.
Mức độ 4: HS tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc
cộng đồng, lựa chọn vấn đề và giải quyết. HS tự đánh giá, có ý kiến bổ sung của GV

khi kết thúc.
• Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ : Nhóm từ 4 đến 6 người
Cấu tạo của một tiết học theo nhóm có thể như sau :
+ Làm việc chung cả lớp :
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức ;
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ ;
- Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm ;
+ Làm việc theo nhóm :
- Phân công trong nhóm ;
- Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm ;
- Cử đại diện (hoặc phân công) trình bày kết quả làm việc theo nhóm.
+ Tổng kết trước lớp :
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả ;
- Thảo luận chung ;
- GV tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo, hoặc vấn đề tiếp theo trong bài.
• Dạy học theo dự án :
DH theo dự án là một hình thức DH, trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học
tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành, tự lực lập kế hoạch, tự
thực hiện và đánh giá kết quả.
Dạy học dự án có một số đặc điểm sau:


19
+ Định hướng vào HS :
- Chú ý đến hứng thú người học, tính tự lực cao ;
- Người học được cộng tác làm việc, lựa chọn nhiệm vụ phù hợp ;
+ Định hướng vào thực tiễn :
- Gắn liền với hoàn cảnh ;
- Có ý nghĩa thực tiễn xã hội ;
- Kết hợp giữa lí thuyết và thực hành ;

- Dự án mang nội dung tích hợp.
+ Định hướng vào sản phẩm : Các sản phẩm được tạo ra không giới hạn trong
những thu hoạch lí thuyết mà còn tạo ra sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn,
thực hành.
Trong DH hóa học ở trường THPT, tuỳ vào điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất,
khả năng của GV và đối tượng HS mà áp dụng PPDH cho phù hợp để đạt được chất
lượng và hiệu quả.
1.1.2.4. Sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học hóa học
a. Tầm quan trọng của việc sử dụng phương tiện kỹ thuật dạy học vào dạy
học hóa học
Hóa học là môn khoa học tự nhiên. Lý thuyết của nó tương đối trừu tượng, vì
vậy việc sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học là hết sức cần thiết.
- Phương tiện kỹ thuật dạy học là công cụ giúp người GV đạt được mục đích giờ
dạy.
- Phương tiện kỹ thuật dạy học giúp thực hiện tính đặc thù bộ môn, phát triển kỹ
năng quan sát, vận dụng kỹ năng thực hành, phát triển năng lực nhận thức, tư duy,
năng lực so sánh, khái quát hoá, tổng hợp hoá của học sinh.
- Phương tiện kỹ thuật dạy học giúp GV giới thiệu những phản ứng độc hại,
nguy hiểm; hỗ trợ GV trong việc hướng dẫn sử dụng các dụng cụ thí nghiệm, những
thao tác thực hành mẫu để học sinh có thể tự làm thí nghiệm.
- Phương tiện kỹ thuật dạy học giúp GV có thể kiểm tra, đánh giá với nhiều hình
thức, độ chính xác cao, tiết kiệm thời gian.


20
- Phương tiện kỹ thuật dạy học giúp cho giờ dạy sinh động hơn, tăng tính tò mò,
ham hiểu biết của HS, giúp HS hứng thú hơn đối với môn học và kết quả cao hơn trong
học tập.
Trong thực tế người ta khảo sát kết quả học tập của HS với nhiều PP khác nhau
đã cho thấy: nếu HS chỉ đọc thì kết quả nhớ 10%, nghe thì nhớ 20% , nhìn thì nhớ 30%

, được làm thì nhớ 50% và sử dụng đa phương tiện sẽ đạt 90%.
b. Một số phương tiện dạy học hiện đại dùng trong dạy học hoá học
Có rất nhiều phương tiện dạy học hiện đại được sử dụng trong dạy học hoá học.
Xét dưới góc độ “tính chất” có thể chia các phương tiện dạy học làm 2 nhóm :
• Nhóm truyền tin : gồm máy chiếu qua đầu, máy chiếu phim, máy ghi âm, máy
vi tính… Trong dạy học hoá học, các phương tiện thuộc nhóm truyền tin đã và đang
được sử dụng khá thông dụng, đó là :
+ Máy chiếu hắt và bản trong. Bản trong được sử dụng để mang thông tin gồm
những hình vẽ, sơ đồ các thiết bị sản xuất hoá chất, các tranh vẽ minh hoạ, các sơ đồ
tổng kết chương, mô tả quy trình tiến hành một thí nghiệm hoặc những bài tập để củng
cố cuối bài hay cuối chương ...
+ Máy chiếu đa năng cùng với máy vi tính có dùng các đĩa CD, VCD ... Giáo
viên có thể soạn bài trên powerpoint trong đó có kết hợp nhiều hình ảnh sinh động các
thí nghiệm độc hại, nguy hiểm; các quy trình sản xuất, các mô hình... sau đó ghi vào
đĩa CD, VCD rồi dùng máy chiếu để truyền tải thông tin.
+ Các phần mềm dạy học: Hiện nay, môn hoá học đã có những phần mềm dạy
học hỗ trợ người GV trong việc dạy học nhất là những phần lí thuyết khô khan, trừu
tượng.
Ví dụ : Để mô phỏng hình dạng phân tử các hợp chất hữu cơ ta có thể dùng phần
mềm ChemOffice để vẽ rồi dùng máy tính chiếu lên cho HS quan sát.
• Nhóm mang tin : gồm băng đĩa âm thanh, tranh bản đồ, mô hình, phương tiện
đa chức năng ...
Trên đây là một số phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại dùng trong dạy học
hoá học. Tuy nhiên, muốn bài giảng thành công ngoài việc sử dụng phương tiện kỹ


21
thuật dạy học hiện đại còn phải biết kết hợp các phương tiện dạy học và phải tuân thủ
theo đúng nguyên tắc: đúng lúc, đúng chỗ và đủ cường độ.
1.1.2.5. Phương pháp học tập hóa học của học sinh [7]; [10]; [36]

a. Tầm quan trọng của phương pháp học tập
Con người muốn tồn tại đều phải học, học suốt đời dựa trên bốn trụ cột: học để
biết, học để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người. Việc học ở nước ta
đang có những chuyển động mạnh mẽ, vừa phản ánh sự phù hợp với triết lí giáo dục
thế kỷ XXI, vừa phù hợp với những mục tiêu phát triển của đất nước mà một trong
những yếu tố mới được đề ra ở Đại hội IX của Đảng (4/2001) và chiến lược phát triển
giáo dục 2001-2010, là phải thực hiện "mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt
đời, cả nước trở thành một xã hội học tập". Vì thế, năng lực của con người phải được
nâng lên mạnh mẽ nhờ vào trước hết người học "biết cách học" và người dạy biết "dạy
cách học". Ý nghĩa của việc đổi mới PPDH ở nước ta rất to lớn, không chỉ cho giáo
dục nhà trường mà còn cho giáo dục xã hội. Điều cốt lõi là mọi người phải biết cách tự
học.
b. Vấn đề dạy cho học sinh phương pháp học tập
• Mục đích
Một GV khi thực hiện các giờ lên lớp hãy phấn đấu để trong mỗi tiết học bình
thường HS được :
- Hoạt động nhiều hơn ;
- Thực hành nhiều hơn ;
- Thảo luận nhiều hơn ;
- Suy nghĩ nhiều hơn.
Đối với môn hóa học- môn khoa học thực nghiệm có rất nhiều thực hành và thí
nghiệm, đó là một lợi thế lớn để thực hiện phương pháp tích cực.
• Hướng thực hiện
+ Trên cơ sở hướng dẫn HS xác định mục tiêu học tập của mình là :
Học để biết - Học để làm - Học để cùng sống với nhau - Học để làm người.


22
+ Muốn thế, mỗi GV cũng phải hiểu mà tìm cách xác định được mục tiêu của
các hoạt động, đó là :

- Hình thành kiến thức kĩ năng ;
- Xây dựng thái độ, niềm tin ;
- Rèn kĩ năng tư duy, năng lực ;
- Xử lí tình huống, giải quyết vấn đề.
+ Thông qua các dạng hoạt động :
- Trả lời câu hỏi, điền từ, điền bảng, điền tranh, lập bảng biểu ;
- Làm thí nghiệm, lí giải và thông báo kết quả, thảo luận, tranh cãi ;
- Giải bài toán nhận thức, bài toán tính huống, bài toán các hiện tượng thí
nghiệm, bài toán nhận biết..., nghiên cứu các điển hình.
+ Bằng những hình thức tổ chức hoạt động :
Cá nhân - Cặp hai người - Nhóm 4 đến 6 người - Xây dựng kim tự tháp - Bể cá Làm việc cả lớp - Trò chơi - Sắm vai - Mô phỏng
+ Học cách thu thập thông tin :
GV cần phải dạy cho HS cách thu thập thông tin và coi đây như là một hình
thức dạy PP tự học cho HS. Muốn thu thập tốt các thông tin, mỗi HS cần :
* Học cách nghe giảng, ghi bài trên lớp
- Tận dụng SGK, sách bài tập, đồng thời phải có vở ghi và vở làm bài. Kết hợp
cao nhất đồng thời thính giác, thị giác. Cố gắng để hiểu rõ vấn đề mấu chốt, trọng tâm
chi phối các vấn đề khác.
- Nhanh chóng xác định được thủ thuật nghe và ghi bài, phù hợp với mỗi môn
học, thậm chí đối với mỗi thầy cô giáo.
* Học cách học bài
- Học cách tự học : Chú ý cách học theo hướng thao tác tư duy từ thấp lên cao
theo sáu nấc thang nhận thức hoặc tư duy theo Bloom: nhận biết, thông hiểu, ứng dụng,
phân tích, tổng hợp, đánh giá. Chú ý học ứng dụng, học phân tích, học bình luận đánh
giá từng kiến thức, học tư duy trừu tượng, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo trong quan
hệ hệ thống của các kiến thức.


23
- Học cách trình bày diễn giải bằng lời những điều học được trước nhóm nhỏ

học tập hoặc trước tập thể lớp.
- Học cách tham khảo trí tuệ của bạn học và đồng nghiệp hoặc cách thuyết phục
các bạn học.
* Học cách đọc sách
- Trước hết phải rèn luyện lòng ham thích đọc sách ;
- Cần học cách chọn sách đọc: phù hợp với mục tiêu môn học, phù hợp với trình
độ người đọc, biết chọn sách để đào sâu và mở rộng một vấn đề ;
- Học cách đọc sách và ghi chép để lưu giữ thông tin, để bổ sung bài giảng và để
tự học nâng cao tri thức và năng lực.
* Học cách làm thí nghiệm, thực nghiệm
Học cách quan sát và làm thí nghiệm, quan sát các phương tiện trực quan và
hiện tượng trong cuộc sống thực tiễn.
+ Học cách xử lí thông tin
Để có thể tự rút ra kết luận cần thiết hoặc nhận xét, trả lời câu hỏi hay hệ thống
câu hỏi hướng dẫn, cần :
- Hỏi để hiểu rõ và hiểu sâu ;
- Cần rèn luyện thường xuyên thói quen nêu thắc mắc, nêu vấn đề thảo luận.
- Cần học cách tóm tắt tài liệu đọc được, làm tổng kết hệ thống hóa kiến thức
của một chương, một số chương hoặc cả học kì, cả năm học. Chú ý so sánh, khái quát
hóa. Tập phân tích, tổng hợp, bình luận, nêu chính kiến của bản thân.
+ Học cách lập kế hoạch cá nhân
Muốn đạt được những kết quả ngắn hạn, dài hạn, muốn có được mục tiêu phấn
đấu thì mỗi HS ngay từ khi trong ghế nhà trường cũng cần giúp đỡ để các em có thể tự
hoạch định kế hoạch riêng của mình và cố gắng thực hiện tốt các kế hoạch đó.
Nói tóm lại :
- Quyết định hiệu quả học là những gì HS làm chứ không phải những gì GV
làm;


24

- Hoạt động phải nhằm vào kĩ năng, năng lực bộ phận của mục tiêu hơn là chỉ
nhằm vào nội dung kiến thức ;
- Hoạt động trên lớp phải chuẩn bị cho hoạt động tự học sau bài học trên lớp.
c. Vai trò của GV trong bồi dưỡng năng lực tự học cho HS THPT
Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn : "Muốn học cái gì cho tốt thì sớm muộn cũng
phải đạt tới sự tự giác học tập, say sưa học tập. Đó là điều cơ bản đầu tiên. Nhưng tất
cả vấn đề là ở chỗ làm sao có được sự tự giác, sự say sưa" [35].
Vì vậy, người GV với PPDH khuyến khích sự phát triển nội lực của HS sẽ kích
thích quá trình lĩnh hội tri thức và phát triển trí tuệ. GV là nguồn khơi dậy thái độ say
sưa, hứng thú học tập để từ đó kích thích HS tự tìm tòi, tự chiếm lĩnh tri thức.
Với HS THPT, những năm đầu chưa có được khả năng để tổ chức tự học mà chỉ
tự học khi GV giao các bài tập, nhiệm vụ học tập. Do đó, GV cần thường xuyên giao
nhiệm vụ học tập cho HS và có biện pháp kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ
học tập. Các nhiệm vụ học tập phù hợp cho các em là trả lời câu hỏi theo nội dung bài
học, làm bài tập trong sách giáo khoa, vận dụng kiến thức đã học để giải thích một số
hiện tượng trong đời sống, xây dựng những bài toán từ những dữ kiện cho trước...
Nhiệm vụ học tập phải đa dạng, có độ phức tạp và khó khăn tăng dần. Bên cạnh đó,
GV cần phải dạy cho HS PP để học tập có hiệu quả như biết phán đoán theo ý nghĩa,
lập dàn bài để ôn tập và ghi nhớ... hay dạy các dạng bài tổng quát, sau đó, đặt ra các
trường hợp cụ thể để HS tự giải. Ở mức độ cao hơn, GV có thể tập dượt cho HS PP
nghiên cứu khoa học.
Để hình thành năng lực tự học cho HS, bên cạnh vai trò quan trọng của người
GV, thì việc tạo môi trường thuận lợi để các em tự học cũng có ảnh hưởng quan trọng
ở trường học. GV có thể thành lập các nhóm nhỏ học tập dựa trên các nhóm bạn bè của
các em. Việc trao đổi, tranh luận, giúp đỡ nhau trong học tập nhằm vượt qua những
khó khăn làm nảy nở các sáng kiến, phát triển lòng yêu thích học tập và củng cố niềm
tin vào bản thân các em.
Tóm lại, hình thành khả năng tự học cho HS THPT là phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi và cần thiết cho việc dạy học. Người GV giữ vai trò quyết định trong hoạt động



25
học tập của HS ở lứa tuổi này, vì vậy cần phải có những biện pháp dạy học thích hợp
hình thành năng lực tự học cho các em.
1.1.2.6. Bài tập hoá học [33]; [34]; [41]
a. Định nghĩa
Theo từ điển tiếng Việt : “Bài tập là yêu cầu của chương trình cho HS làm để
vận dụng những điều đã học và cần giải quyết vấn đề bằng phương pháp khoa học”.
Một số tài liệu lý luận dạy học thường dùng thuật ngữ “bài toán hoá học” để chỉ
những bài tập định lượng - đó là những bài tập có tính toán - khi HS cần thực hiện
những phép tính nhất định.
Theo các nhà lý luận dạy học Liên Xô (cũ), bài tập bao gồm cả câu hỏi và bài
toán, mà trong khi hoàn thành chúng, HS vừa nắm được vừa hoàn thiện một tri thức
hay một kỹ năng nào đó, bằng cách trả lời miệng, trả lời viết hoặc kèm theo thực
nghiệm.
Ở nước ta, trong sách giáo khoa hoặc sách tham khảo, thuật ngữ “bài tập” được
dùng theo quan điểm này.
b. Phân loại bài tập.
Hiện nay có nhiều cách phân loại bài tập hoá học dựa trên cơ sở khác nhau :
+ Dựa vào mức độ kiến thức (cơ bản, nâng cao)
+ Dựa vào tính chất bài tập (định tính, định lượng)
+ Dựa vào hình thái hoạt động của học sinh (lý thuyết, thực nghiệm)
+ Dựa vào mục đích dạy học (ôn tập, luyện tập, kiểm tra)
+ Dựa vào cách tiến hành trả lời (trắc nghiệm khách quan, tự luận)
+ Dựa vào kỹ năng, PP giải bài tập (lập công thức, hỗn hợp, tổng hợp chất, xác
định cấu trúc...)
+ Dựa vào loại kiến thức trong chương trình (dung dịch, điện hoá, động học,
nhiệt hoá học, phản ứng oxi hoá - khử...)
+ Dựa vào đặc điểm bài tập :
− Bài tập định tính (giải thích hiện tượng, nhận biết, điều chế, tách hỗn hợp...)

− Bài tập định lượng (có lượng dư, giải bằng trị số trung bình, giải bằng đồ thị...)


×