Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Đề cương ôn tập môn đầu tư công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.03 KB, 65 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN ĐẦU TƯ
CÔNG
1.Mục tiêu và nguyên tắc của Đầu tư Công,
phân tích cơ chế tác động của Đầu tư Công
tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tăng
trưởng và phát triển của các nước đang phát
triển?
2.Các chủ thể tham gia đầu tư công và những
hạn chế có thể có đối với hiệu quả thực hiện
đầu

công
tại
Việt
Nam?
3.Bản chất và nguồn vốn đầu tư công, thực tế
của Việt Nam và những cải tiến có thể được
đề cập để tăng hiệu quả sử dụng các nguồn
vốn đầu tư công tại Việt Nam?
4.Giám sát và quản lý hoạt động đầu tư công
tại Việt Nam và những cải tiến có thể có
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
công
tại
Việt
Nam?
5.Căn cứ lập và nội dung của Kế hoạch đầu tư
công
tại
Việt
Nam?




6.Phương hướng đổi mới và hoàn thiện hoạt
động đầu tư công tại Việt Nam?
7.Đánh giá hoạt động đầu tư công tại Việt
Nam? Phân tích vai trò của đầu tư công
trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
thời
gian
qua?
8.Phân tích mối quan hệ giữa đầu tư công và
nợ công? Liên hệ với thực tiễn Việt Nam?
9.Phân tích nội dung của chương trình mục
tiêu? Đầu tư theo các chương trình mục tiêu
phải đáp ứng những yêu cầu gì?
10. Trình tự và thủ tục quyết định và thực
hiện
dự
án
đầu

công?
11. Nội dung phân cấp quản lý đầu tư đối
với
nguồn
vốn
đầu

công?
12. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý hoạt

động đầu tư công, liên hệ thực tiễn Việt
Nam?
13. Chức năng, phương pháp và công cụ
quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam?


14. Trình tự lập kế hoạch đầu tư công tại
Việt
Nam?
Nhận
xét?
15. Trình bày quy trình và nguyên tắc phân
bổ nguồn vốn đầu tư công cho các chương
trình, dự án tại Việt Nam. Nhận xét?
NỘI DUNG VỀ ĐẤU THẦU SẼ ĐƯỢC TỔ
CHỨC
HỌC
RIÊNG
CÁCH
THỨC
TỔ
CHỨC
THI
(1) Hình thức thi: Thi tự luận, 90 phút
(2) Tổng số đề thi: 6, chọn 2.
(3) Số câu hỏi trong mỗi đề thi: 3 câu.
(4) Cơ cấu điểm của các câu trong đề thi: 3-34ĐỀ CƯƠNG ĐẦU TƯ CÔNG
Câu 1: MỤC TIÊU & NGUYÊN TẮC
Kn: đầu tư công là sd vốn Nhà nc ( NSNN, vốn TD của NN cho đầu tư và vốn đầu tư của
DNNN) để đầu tư vào các chương trình, dự án không vì mục tiêu lợi nhuận or không có khả

năng hoàn vốn trực tiếp.
Hoạt động đầu tư công bao gồm qtr lập, phê duyệt KH, Ctr, dự án đầu tư công, đến triển khai
thực hiện đầu tư và quản lý khai thác, sd các dự án đtc, đgia đtc.
Vốn NN bao gồm:




Vốn nhân sách NN chỉ đầu tư phát triển theo qđ của Luật NSNN
Vốn huy động của NN từ Trái phiếu cp
Trái phiếu chính quyền địa phương





Công trái quốc gia
Các khoản vốn khác trừ vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước.

Mục tiêu
Đầu tư công nhằm mục tiêu tạo mới, nâng cấp, củng cố năng lực hoạt động của nền kinh tế thông
qua gia tăng giá trị các tài sản công. Thông qua hoạt động đầu tư công, năng lực phục vụ của hệ
thống hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội dưới hình thức sở hữu toàn dân sẽ được cải thiện và gia
tăng. Hoạt động đầu tư công góp phần thực hiện một số mục tiêu xã hội trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của quốc gia, của ngành, của vùng cà các địa phương. Thông qua các chương
trình mục tiêu quốc gia, nhiều vấn đề xã hội, văn hóa, môi trường được giải quyết. Mục tiêu phát
triển và phát triển bền vững được đảm bảo. Về cơ bản, trong thời gian qua các khoản chi đầu tư
công đã mang lại hiệu quả trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là việc đầu tư các chương trình
mục tiêu quốc gia tại các vùng kinh tế khó khăn đã mang lại hiệu quả như Chương trình 135,

chwong trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch vệ sinh môi trường…đầu tư về hạ tầng giao thông,
trường lớp học, kiên cố hóa kênh mương, hỗ trợ sản xuất cho các hộ nghèo, cải thiện vệ sinh môi
trường…Chương trình trồng rừng, đã góp phần phủ xanh đồi núi trọc, tạo chuyển biến cơ bản
trong lao động và công ăn việc làm cho đồng bào dân tộc; tại hầu hết các địa phương đều có
trường hợp lớp học kiên cố thay thế các lớp học tranh tre nứa lá trước đây, giáo viên đã có nhà
công vụ phục vụ công tác giảng dạy, dạy chữ cho các em ở vùng sâu, vùng xa; phần lớn các hộ
nghèo, các bệnh nhân nghèo đều được khám chữa bệnh tại các bệnh viện, trung tâm y tế tuyến
huyện. Hoạt động đầu tư công còn góp phần điều tiết nền kinh tế thông qua việc tác động trực
tiếp đến việc tổng cầu của nền kinh tế. Thực tiễn cho thấy, đầu tư công mở rộng thông qua tăng
chi ngân sách, tín dụng đầu tư phát triển nhà nước và tín dụng đối với các đối tượng chính sách
cùng với hiệu quả đầu tư xã hội và đầu tư công chưa cao kéo theo chi phí sản xuất, kim 4 ngạch
nhập khẩu và tăng trưởng tín dụng tăng lên làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nên
kinh tế, mất cân đối cung- cầu ngoại tệ. Để duy trì tăng trưởng ở mức cao và bền vững, đảm bảo
được các cân đối kinh tế vĩ mô vấn đề cấp thiết phải được xử lý là nâng cao hiệu quả đầu tư công
và hiệu quả đầu tư toàn xã hội thông qua việc khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, giảm tương
đối đầu tư công và tăng đầu tư tư nhân; sửa đổi các cơ chế liên quan đến đầu tư nhất là đầu tư
công phù hợp với cơ chế thị trường.
Nguyên tắc
1.2.1.1. Thực hiên theo chƣơng trình, dự án đầu tƣ công phải phù hợp với chiến lƣợc,
quy hoạch phát triển, phù hợp kế hoạch đầu tƣ đã đƣợc duyệt.
Hoạt động đầu tư công có mục tiêu tạo lập năng lực sản xuất và năng lực phục vụ của nền kinh tế
và xã hội dựa trên nguồn lực của nhà nước. Vì vậy, hoạt động đầu tư công bắt buộc phải phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phù hợp vớ kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt. Việc
thực hiện các dự án đầu tư công chính là việc cụ thể hóa, thực hiện hóa các chiến lược, các kế


hoạch đầu tư đã được phê duyệt. Không những thế, nguồn vốn đầu tư công còn có ý nghĩa dẫn
dắt, định hướng các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, của ngành, của vùng và của từng địa phương.
1.2.1.2. Đầu tƣ công phải đƣợc đúng mục tiêu, đúng tiến độ, đảm bảo chất lƣợng, tiết
kiệm và có hiệu quả

Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng bởi vì các dự án đầu tư công thường được
triển khai để đáp ứng nhiều mục tiêu trong đó có cả các mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa… Tuy
nhiên, để có thể thực hiện được các mục tiêu khác thì hiệu quả kinh tế phải được đảm bảo. Chính
vì vậy các yêu cầu về tiến độ, chất lượng, tiết kiệm và hiệu quả cần phải được xem xét, đánh giá
một cách nghiêm túc. Bên cạnh đó, trước khi quyết định triển khai thực tài trợ phù hợp với năng
lực của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương trên cơ sở đã cân nhắc thỏa đáng các yếu
tố ưu tiên.
1.2.1.3. Hoạt động đầu tƣ công phải bảo đảm tính công khai, minh bạch: Quá trình chuyển
đổi nền kinh tế diễn ra càng sâu sắc thì yêu cầu về tính công khai, minh bạch sẽ càng cao. Công
khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công sẽ góp phần tăng tính cạnh tranh, tính công bằng
trong huy động và phân bố nguồn lực của nhà nước. Hơn nữa, công khai và minh bạch cũng là
điều kiện để có thể giám sát hoạt động đầu tư công được chặt chẽ và hiệu quả hơn. Đây cũng là
điều kiện để hạn chế sự thất thoát và lãng phí trong đầu tư và xây dựng từ nguồn vốn ngân sách.
1.2.1.4. Hoạt động đầu tƣ công phải thực hiện trên cơ sở thống nhất quản lý nhà nƣớc
với sự phân cấp quản lý phù hợp: Để có thể tạo ra các kết quả đầu tư với hệ thống năng lực
phục vụ được cải thiện đáp ứng yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế, tránh dàn trải và lãng
phí nguồn lực, đầu tư công cần phải được quản lý thống nhất. Nhà nước có thể quản lý thống
nhất hoạt động đầu tư công thông qua quy hoạch và kế hoạch phân bố nguồn lực. Tuy nhiên, để
phát huy năng lực và quyền chủ động của các ngành, các địa phương thì sự phân cấp trong đầu tư
công là sự cần thiết. Tuy nhiên, phân cấp trong đầu tư công cần tính đến điều kiện cụ thể và năng
lực của các ngành và các địa phương. Phân cấp đầu tư công cho các địa phương chỉ nên giới hạn
trong điều kiện năng lực ngân sách địa phương. Các dự án tài trợ từ ngân sách trung ương cần
phải được quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về đầu yư của Trung ương và theo quy định
của pháp luật về ngân sách nhà nước và quản lý, sử dụng tài sản công.
1.2.1.5. Phân định rõ quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan đến các hoạt
động đầu tư công.
Đây là nguyên tắc bắt buộc để hoạt động đầu tư công hiệu quả hơn. Do nguồn lực đầu tư công
thuộc sở hữu toàn dân nên sự phân định rõ quyên và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia có ý
nghĩa quan trọng nhằm gia tăng trách nhiệm giải trình và đảm bảo sự giám sát của toàn xã hội
đối với kết quả và hiệu quả đầu tư công.

1. 2.1.6. Đa dạng hóa các hình thức đầu tư công:
Nhà nước có thể có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trực tiếp
đầu tư hoặc góp vốn cùng nhà nước 6 đầu tư vào các dự án công; khuyến khích các nhà đầu tư
bỏ vốn để nhận quyền kinh doanh, khai thác thu lợi các dự án đầu tư công khi có điều kiện. Tuy


nhiên, nguồn lực đầu tư chủ yếu của các dự án đầu tư công vẫn phải là của nhà nước (Trung
ương hoặc địa phương)
PHÂN TÍCH CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA ĐTC TỚI MỤC TIÊU ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ,
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN????
Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lí thuyêt kinh tế, cả lí thuyết kinh tế kế
hoạch hoá tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố
quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
Tác động của đầu tư phát triển trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước :
Đối với một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó không chỉ
đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã hội mà còn tạo ra những cú hích cho sự
phát triển của nền kinh tế ở những nước đang phát triển thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nợ
nần và nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các nền kinh tế phát triển.
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
- Về mặt cầu:
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu
của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% -28% trong cơ cấu tổng cầu của
tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng
cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch
chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q 0 -Q1 và giá cả của các đầu vào của
đầu tư tăng từ P0-P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0-E1.
-Về mặt cung:
Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng
cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên( đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản
lượng tiềm năng tăng từ Q 0-Q1 và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P 0-P1. Sản lượng tăng, giá

cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản
xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế
xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã
hội.


Đầu tư tác động đến sự ổn định của nền kinh tế theo 2 mặt:
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng
cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng
một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của
mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng
hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào
đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời
sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt
ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có
liên quan tăng, sản xuất của các nghành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình
trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lâo động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác
động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư( như Việt Nam thời kì 1982-1989) cũng dẫn đến tác động 2 mặt, nhưng
theo chiều hướng ngược láio với tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh
tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính
sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định
của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con dường tất yếu có thể tăng trưởng
nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10% ) là tăng trưởng đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở
khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nghành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn
chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó
khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở các nước

nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.


Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, đưa những vùng kếm phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy
tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... những vùng có khả
năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước :
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát
triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các
chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới
và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai
đoạnthì Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công
nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu
không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh
ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước
ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ
không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức
trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi
nước.

Nếu ICOR không đổi, mức tăng trưởng của GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử
dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các
nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải
sử dụng lao động để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát

triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Số liệu thống kê trong những năm qua của
các nước và lãnh thổ về ICOR như sau:


CHỈ TIÊU ICOR CỦA CÁC NƯỚC
Các nước
Hồng Kông
Hàn Quốc
Singapo
Đài Loan
Nguồn : Bela Balassa, Policy Choices in the Newly Industrializing Contries . Working
papers of the Wold Bank WPS 432.1990,tr.5
Đầu tư tác động đến các cơ sở sản xuất kinh doanh:
Đối với mỗi doanh nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định dến cả sự ra đời, tồn tại và phát
triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở nào
cũng cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc
trên nền bệ, tiến hành công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với
sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo tạo ra. Các hoạt
động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang
tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kĩ thuật của các cơ sở này đã hao
mòn, hư hoảng. Để duy trì dc sự hoạt động bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa lớn
hoặc thay mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kĩ
thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới
thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi ( hoạt động không thể thu lợi nhuận cho bản thân mình) :
Để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kì các cơ sở vật chất- kĩ thuật
còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là
những hoạt động đầu tư.
Như vậy, hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng và tác động đến mọi đối tượng kinh tế của
xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của nền

kinh tế, tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, duy trì và phát triển cơ sở vật chất của nền kinh
tế.
Trong các động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, đầu tư đóng
một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các điểm sau: Đầu tư công góp phần quan trọng trong
việc duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; Đầu tư công góp phần phát triển các cơ sở hạ tầng;
Đầu tư công hỗ trợ tích cực cho công tác bảo đảm an sinh xã hội; Đầu tư góp phần vào việc ổn
định kinh tế vĩ mô. Cụ thể: Một là, thông qua đầu tư công, hệ thống cơ sở hạ tầng trong nước


tiếp tục được đầu tư và phát triển, tạo ra các tác động lan tỏa, góp phần cải thiện môi trường
đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, vốn đầu tư phát triển từ NSNN đã được tập trung
ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng, giao thông quan trọng, có ý nghĩa chiến lược
của đất nước.
Hai là, trong tổng đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư công đã góp phần giải
quyết kịp thời các nhu cầu đầu tư cho công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh
xã hội. NSNN đã được cơ cấu lại để tăng chi cho giáo dục – đào tạo, khoa học – công
nghệ, y tế, văn hóa, thông tin,… góp phần nâng cao nguồn lực con người, tạo nền tảng
cho phát triển bền vững. Đã chủ động bố trí NSNN để thực hiện các chương trình mục
tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, qua đó cung cấp thêm nguồn vốn cho phát triển
kinh tế - xã hội ở những vùng khó khăn.
Ba là, đầu tư công phát huy vai trò của mình trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ
mô. Đặc biệt trong bối cảnh tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2008 –
2010, chính sách tài khóa được nới lỏng thông qua các chính sách kích cầu đầu tư.
Nhờ đó, đầu tư công đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế tác động tiêu cực của
khủng hoảng kinh tế thế giới, hồi phục và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là trong
bối cảnh đầu tư của khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài suy giảm.

CÂU 2: CÁC CHỦ THỂ THAM GIA ĐẦU TƯ CÔNG VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CÓ THỂ CÓ
ĐỐI VỚI HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VN.
Chủ thể:

1.3.1. Chủ đầu tư Chủ đầu tư các dự án đầu tư công về mặt nguyên tắc chính là nhà nước. Tuy
nhiên để đảm bảo cho hoạt động đầu tư được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục trên cơ sở
xác định đúng trách nhiệm của người trực tiếp quản lý và sử dụng vốn. Nhà nước sẽ chỉ định chủ
đầu tư các dự án đầu tư công. Chủ đầu tư các dự án đầu tư công sẽ do người có thẩm quyền
quyết định đầu tư quyết định trước khi lập dự án đầu tư. Để được lựa chọn làm chủ đầu tư các dự
án đầu tư công, nhà đầu tư phải có đủ các điều kiện sau đây: có tư cách pháp nhân; có đủ điều
kiện để được giao quản lý sử dụng vốn nhà nước theo quy định của Chính phủ. Đối với các dự án
đầu tư công, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp
không được trực tiếp làm chủ đầu tư dự án đầu tư công mà phải giao cho đơn vị trực tiếp quản lý,
sử dụng khai thác dự án sau này làm chủ đầu tư dự án, trừ các dự án xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của cơ quan mình, và các trường hợp đặc thù khác di Thủ tướng Chính phủ quyết định. Đối


với cấp xã ở nơi không có điều kiện tổ chức các đơn vị trực tiếp quản lý sử dụng, khai thác dự án
thì Ủy ban nhân dân có thể làm chủ đầu tư do người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét,
quyết định. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét, quyết định việc thành lập tổ chức
hoặc đơn vị mới có đủ điều kiện theo quy định để giao làm chủ đầu tư trong trường hợp không
có đơn vị đủ điều kiện làm chủ đầu tư. Trường hợp có nhiều tổ chức, doanh nghiệp có đủ điều
kiện và khả năng làm chủ đầu tư thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét quyết định
lựa chọn chủ đầu tư và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. trường hợp trong thời gian
chuẩn bị đầu tư chưa xác định được tổ chức làm chủ đầu tư thì người có thẩm quyền quyết định
đầu tư giao cho một đơn vị chuẩn bị dự án, lựa chọn hoặc xây dựng phương pháp thành lập đơn
vị làm chủ đầu tư để trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét quyết định. Quyền
của chủ đầu tư trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư công bao gồm: tổ chức lập và trình
duyệt dự án đầu tư công theo quy định; được sử dụng các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện
dự án khi có nguồn vốn cân đối và được cấp có thẩm quyền cho phép; yêu cầu các cơ quan nhà
nước liên quan có thẩm quyền có ý kiến về dự án đầu tư công và cung cấp cho các tổ chức tư vấn
các thông tin có liên quan đến việc lập dự án và quản lý khai thác dự án sau khi đưa vào sử dụng;
tổ chức thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật – tổng dự toán, dự toán các hạng mục công trình;
tuyển chọn tư vấn lập dự án đầu tư công, quản lý dự án đầu tư công, tổ chức đấu thầu theo quy

định; đàm phán; ký kết; giám sát việc thực hiện, tổ chức nghiệm thu các hợp đồng và xử lý các
vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện đầu tư, tổ chức theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình
thực hiện dự án đầu tư công; kiến nghị với cơ quan nhà nước về cơ chế, chính sách và giải pháp
để đảm bảo tiến độ thực hiện, chất lượng dự án đầu tư công và giới hạn chi phí đầu tư được
duyệt; thay thế ban quản lý dự án, người đứng đầu ban quản lý dự án trong trường hợp ban quản
lý dự án, người đứng đầu ban quản lý dự án không hoàn thành trách nhiệm được giao; hủy bỏ
hợp đồng tư vấn quản lý dự án đầu tư công trong trường hợp tổ chức tư vấn quản lý dự án vi
phạm nghiêm trọng các quy định trong hợp đồng đã ký với chủ đầu tư. Trong hoạt động của các
dự án đầu tư công, chủ đầu tư có các nghĩa vụ sau: chịu trách nhiệm về cơ sở pháp lý và độ tin
cậy của các thông tin, tài liệu đã cung cấp cho tư vấn lập dự án đầu tư công và nội dung dự án
trình duyệt; tổ chức thực hiện các dự án đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng và quản lý sử dụng
các nguồn vốn đầu tư tiết kiệm, có hiệu quả, đôn đốc, kiểm tra và báo cáo tình hình thực hiện dự
án đầu tư công, thanh, quyết toán và tất toán tài khoản với cơ quan thanh toán theo quy định;
chịu trách nhiệm toàn diện trong quá trình quản lý dự án đầu tư công và hậu quả do việc triển
khai không đúng quyết định đầu tư, gây thất thoát, lãng phí; thu hồi và hoàn trả vốn đầu tư đối
với các dự án đầu tư công có yêu cầu thu hồi vốn theo quy định của pháp luật. Thủ trưởng cơ
quan, tổ chức làm chủ đầu tư chịu trách nhiệm về các hoạt động trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư công; chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới đối với các sai phạm của các đơn
vị, cá nhân liên quan đến quản lý dự án đầu tư công.
1.3.2. Đơn vị nhận ủy thác đầu tư công Để có thể hiểu vị thế của đơn vị nhận ủy thác đầu tư
công cần phải hiểu ủy thác đầu tư là gì. Ủy thác đầu tư được hiểu là việc người có thẩm quyền
quyết định đầu tư giao cho tổ chức hoặc cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
thay chủ đầu tư thực hiện toàn bộ hoặc một phần dự án đầu tư công. Đơn vị nhận ủy thác đầu tư


do người có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định, thay chủ đầu tư quản lý thực hiện đầu tư
dự án. Đơn vị nhận ủy thác đầu tư phải có các điều kiện để tự quản lý thực hiện dự án. Đơn vị
nhận ủy thác thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ đầu tư trong giai đoạn thực hiện
đầu tư; thực hiện việc quản lý dự án đầu tư công theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm
với chủ đầu tư theo hợp đồng đã được ký kết. Đối với trường hợp dự án của đầu tư công được

thực hiện theo phương thức ủy thác đầu tư
1.3.3. Ban quản lý dự án đầu tư công Ban quản lý dự án đầu tư công là đơn vị do chủ đầu tư
thành lập để làm nhiệm vụ quản lý thực hiện dự án trong quá trình đầu tư. Chủ đầu tư có thể
quyết định thành lập Ban quản lý dự án trực thuộc và giúp chủ đầu tư quản lý, điều hành quá
trình thực hiện dự án. Chủ đầu tư lựa chọn những người có năng lực chuyên môn, có chứng chỉ
về quản lý dự án đáp ứng yêu cầu quản lý dự án để thành lập Ban quản lý dự án đầu tư công. Tuy
nhiên, chủ đầu tư cũng có thể thuê tổ chức tư vấn làm nhiệm vụ quản lý dự án công. Trong
trường hợp đó, chủ đầu tư cần phải tuyển chọn tư vấn theo quy định của pháp luật về đấu thầu và
thông qua hợp đồng kinh tế. Chủ đầu tư có thể thuê tư vấn quản lý toàn bộ hoặc quản lý từng
phần của dự án. Ban quản lý dự án, tổ chức tư vấn thực hiện quản lý dự án đầu tư công phải có
đủ các điều kiện sau: có bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên môn có năng lực phù hợp với yêu cầu
quản lý dự án; các cá nhân trong Ban quản lý dự án đầu tư công phải có chứng chỉ nghề nghiệp
theo quy định của pháp luật; Ban quản lý dự án đầu tư công, sau khi có quyết định thành lập,
phải đăng ký hoạt động như một đơn vị sự nghiệp trực thuộc chủ đầu tư tại nơi chủ đầu tư đăng
ký hoạt động; tổ chức tư vấn được thuê quản lý dự án phải có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật.
Đối với các cơ quan chủ đầu tư của các ngành, các huyện có nhiều dự án đầu tư công chuyên
ngành thì có thể thành lập Ban quản lý dự án chuyên nghiệp để quản lý đồng thời một số dự án
theo từng chuyên ngành. Chi phí hoạt động của Ban quan lý dự án hoặc tổ chức tư vấn, mức chi
phí thực hiện theo quy định của Chính phủ. Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư công, ban
quản lý dự án có thầm quyền như sau: thay mặt chủ đầu tư giải quyết các vấn đề phát sinh hàng
ngày trong quá trình thực hiện dự án đầu tư công trong phạm vi nhiệm vụ và trách nhiệm được
chủ đầu tư quy định; có trách nhiệm báo cáo theo yêu cầu của chủ đầu tư; điều hành; theo dõi;
giám sát quá trình thực hiện dự án đầu tư công đảm bảo yêu cầu tiến độ, chi phí, chất lượng và
môi trường trong phạm vi nhiệm vụ được giao; kiến nghị chủ đầu tư giải quyết các vấn đề vượt
thẩm quyền.
Trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư công, ban quản lý dự án cũng có các nghĩa vụ sau:
thực hiện các thủ tục đầu tư, xây dựng theo quy định của pháp luật và theo yêu cầu của chủ đầu
tư, đảm bảo triển khai thực hiện dự án đầu tư công theo tiến độ, chất lượng và chi phí đầu tư
được phê duyệt; chuẩn bị và báo cáo chủ đầu tư về việc nghiệm thu, thanh toán, quyết toán; chịu

trách nhiệm về những sai xót và các hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra thất thoát lãng phí trong
quá trình quản lý thực hiện dự án đầu tư công. Trưởng ban quản lý dự án đầu tư công chịu trách
nhiệm đối với toàn bộ các hoạt động của ban quản lý dự án; chịu trách nhiệm cá nhân và trách
nhiệm liên đới đối với các sai phạm của các đơn vị, cá nhân liên quan đến quản lý dự án đầu tư


công. Ban quản lý dự án phải giải thể sau khi hoàn thành quyết toán vốn đầu tư dự án đầu tư
công.
1.3.4. Nhà thầu Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ năng lực thực hiện hoạt động đầu tư khi
tham gia quan hệ hợp đồng trong hoạt động đầu tư công. Ở mức độ khái quát, trong hoạt động
đầu tư công, có thể chia nhà thầu thành nhà thầu chính và nhà thầu phụ Nhà thầu chính là nhà
thầu ký hợp đồng nhận thầu trực tiếp với chủ đầu tư công để thực hiện phần việc chính của một
loại công việc của dự án đầu tư công. Nhà thầu phụ là nhà thầu ký hợp đồng với nhà thầu chính
hoặc tổng thầu xây dựng để thực hiện một phần công việc của nhà thầu chính hoặc tổng thầu xây
dựng. Nhà thầu thực hiện các dự án đầu tư công được lựa chọn theo quy định của pháp luật về
đấu thầu. Nhà thầu có trách nhiệm và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đấu thầu và hợp
đồng ký kết với chủ đầu tư.
1.3.5. Tổ chức tư vấn đầu tư Tổ chức tư vấn quản lý dự án là các tổ chức, cá nhân được chủ
đầu tư thuê để làm nhiệm vụ quản lý thực hiện dự án trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Tổ
chức tư vấn đầu tư thực hiện các dịch vụ tư vấn toàn bộ hoặc một phần các hoạt động đầu tư,
gồm: lập, thẩm định, giám sát, đánh giá quản lý dự án đầu tư và các dịch vụ tư vấn khác có liên
quan đến hoạt động đầu tư công. Việc lựa chọn tổ chức tư vấn đầu tư do chủ đầu tư quyết định
và được thực hiện theo quy định của pháp luật và đấu thầu. Các dự án đầu tư công có yêu cầu
thuê tư vấn nước ngoài phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Tư vấn trong nước được
phép liên danh, liên kết hoặc thuê tổ chức, chuyên gia tư vấn nước ngoài trong hoạt động tư vấn
đầu tư. Các dự án đầu tư công sử dụng vốn ODA được sử dụng tư vấn nước ngoài theo các hiệp
định đã ký kết với nhà tài trợ. Tổ chức tư vấn đầu tư hoạt động phải có đủ điều kiện sau: có tư
cách pháp nhân; có đủ điều kiện năng lực chuyên môn hoạt động phù hợp với lĩnh vực tư vấn đã
đăng ký hoạt động; có bảo hiểm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. Trong hoạt động đầu
tư công, tổ chức tư vấn đầu tư có các quyền sau: yêu cầu chủ đầu tư cung cấp thông tin, tài liệu,

văn bản pháp lý có liên quan đến nhiệm vụ được giao; được hưởng quyền sở hữu trí tuệ đối với
các sản phẩm tư vấn của mình; từ chối thực hiện các nhiệm vụ không đúng quy định của pháp
luật. Tổ chức tư vấn đầu tư cũng có các nghĩa vụ sau: thực hiện nhiệm vụ quy định trong hợp
đồng đã ký với chủ đầu tư; chịu trách nhiệm về cơ sở pháp lý và tính chuẩn xác của các thông
tin, tài liệu, số liệu, kết quả điều tra, khảo sát theo hợp đồng; bảo đảm tính khả thi của các giải
pháp kinh tế - kỹ thuật do tư vấn đề xuất trong hồ sơ dự án đầu tư công; chịu trách nhiệm trước
pháp luật và bồi thường về kinh tế nếu có sai sót trong sản phẩm tư vấn dẫn đến thiệt hại cho dự
án.
Những hạn chế thiếu sót có thể có:
1.2.2. Những hạn chế thiếu sót a) Chính sách khung pháp lý đầu tư công Trong những năm gần
đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm cải thiện môi
trường đầu tư ở Việt Nam nói chung và đầu tư công nói riêng. Một số Luật liên quan như: Luật
NSNN (2002), Luật Đầu tư (2005), Luật Doanh nghiệp (2003), Luật Xây dựng (2005), Luật Đấu
thầu (2005), Luật Đất đai (2003), Luật Phòng chống tham nhũng (2005), Luật Thực hành tiết


kiệm, chống lãng phí (2005), Luật Quản lý nợ công (2009), Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước (2008),… Bên cạnh đó, riêng đối với các hoạt động đầu tư công được điều chỉnh bằng các
Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định, Quyết định của Chính phủ và TTCP1 . Ngoài ra, còn có cả
hệ thống Thông tư, Chỉ thị hướng dẫn các nội dung cụ thể của các Bộ quản lý chuyên ngành như
KH&ĐT, Tài chính, Xây dựng,… Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật nói trên đã và
đang là cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư công nói
riêng, đồng thời việc thi hành những luật này đã mang lại một số kết quả nhất định. Tuy nhiên,
qua quá trình triển khai thực hiện cho thấy, một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu
tư công thời gian vừa qua là do hệ thống pháp luật về đầu tư công còn chưa hoàn chỉnh và chưa
đáp ứng với yêu cầu thực tế. Những vướng mắc trong khung pháp lý về đầu tư hiện nay, cụ thể
là: - Nhiều văn bản Luật điều chỉnh hoạt động đầu tư công chưa thật cụ thể, rõ ràng, đồng bộ và
đầy đủ2 . - Chưa có một văn bản Luật thống nhất điều chỉnh toàn bộ quá trình đầu tư công (một
văn bản Luật riêng) làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện và quản lý đầu tư sử dụng
nguồn vốn nhà nước (sử dụng nguồn vốn nhà nước không nhằm mục đích kinh doanh và sử dụng

cho cả mục đích kinh doanh). Hiện nay, có quá nhiều các quy định liên quan đến hoạt động đầu
tư công nằm ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, vì vậy sẽ có những khoảng trống
hoặc chồng lên nhau, và đồng thời gây khó khăn cho công tác tra cứu và thi hành. - Các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành chưa xác định rõ yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư
công, đối tượng và nội dung quản lý trong các khâu quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển
khai thực hiện dự án, quản lý sử dụng vốn, quản lý khai thác dự án,… Bên cạnh đó, việc phân
định trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý đầu tư công chưa được rõ
ràng, vì vậy khi có sai phạm rất khó xác định được chủ thể có liên quan đến sai phạm trong quá
trình quản lý. - Thiếu các chế tài cụ thể để đảm bảo việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong đầu
tư công, để khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, kém hiệu quả. b) Hạn chế trong cơ chế thực
hiện đầu tư công Cơ chế thực hiện đầu tư công ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại nhiều hạn chế.
Cụ thể: - Cơ chế phân bổ nguồn vốn của Việt Nam tuy đã theo xu hướng phân quyền như hầu hết
các quốc gia trên thế giới theo đuổi hiện nay nhưng lại không tạo ra được sự cân bằng giữa vốn
đầu tư công giải ngân với sự đóng góp vốn ở cấp địa phương. Cơ chế hiện tại cho phép các tỉnh
được phê duyệt các dự án đầu tư sau đó trình lên chính quyền trung ương để xin ngân sách.
Điều này vô hình chung khuyến khích các địa phương “vẽ” ra nhiều dự án để có thể xin được
càng nhiều ngân sách càng tốt. Hệ quả là đầu tư công liên tục tăng cao. - Quy hoạch trung ương
không được tốt cũng là nguyên nhân khiến cho các chính quyền địa phương dễ dàng xây dựng
các dự án đòi hỏi vốn từ trung ương. Các quy hoạch khu công nghiệp, cảng hàng không, cảng
biển,… đều theo hướng khuyến khích các địa phương phải có nhiều khu công nghiệp, có cảng
hàng không, cảng biển cho riêng mình.
- Việc thực thi các dự án của Việt Nam phần lớn là vẫn theo hình thức Nhà nước sở hữu 100%
vốn. Với các dự án có thời gian ngắn, đơn giản thì hình thức sở hữu này đem lại hiệu quả.
Nhưng với các dự án có thời gian dài hơn và phức tạp thì các nhà thầu dễ dàng qua mặt cơ quan
quản lý cũng như các cơ quan giám sát nhằm đẩy giá thành dự án lên cao. Tình trạng các dự án
đầu tư công của Việt Nam thường bị đội vốn lên rất nhiều lần là một minh chứng cho vấn đề


này. - Vốn ngân sách mà trung ương cấp cho địa phương thiếu cơ chế giám sát. Quốc hội giám
sát các dự án cấp quốc gia. Với các dự án cấp địa phương thì khâu giám sát thuộc về Hội đồng

nhân dân các cấp. Do các cơ quan phê duyệt, thực thi và giám sát đều trực thuộc địa phương
trong khi vốn cấp lại thuộc trung ương nên rất khó tránh khỏi việc các cấp này cấu kết với nhau
để “làm đẹp” kết quả dự án thay vì đảm bảo có được dự án có hiệu quả nhằm có thể xin được
nhiều ngân sách hơn cho các dự án trong tương lai. Việc thiếu cơ chế giám sát độc lập bên
ngoài khiến cho dự án đầu tư công ở các địa phương trở nên kém hiệu quả. - Cơ chế giám sát
hiện nay thiếu những bộ phận chuyên trách. Trên nguyên tắc, Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, hầu hết các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân
lại không phải là đại biểu chuyên trách và bản thân các địa biểu cũng không có các cơ quan trợ
giúp hữu hiệu. Vì lẽ đó, khả năng giám sát có phần không được trọn vẹn. Ngoài ra các hoạt
động giám sát cộng đồng còn yếu do các dự án đầu tư công vẫn còn thiếu công khai. Chưa có
quy định rõ ràng về quyền và trách nhiệm của cộng đồng trong việc tiếp cận thông tin để có thể
giám sát đối với các hoạt động đầu tư công một cách hiệu quả nhất. Hoạt động giám sát thiếu
hiệu quả được xem là một nguyên nhân quan trọng khiến cho các dự án trở nên kém hiệu quả. c)
Hạn chế trong phân cấp đầu tư Việc phân cấp đầu tư công được thực hiện mạnh mẽ ở Việt Nam
kể từ năm 2000. Về nguyên tắc, phân cấp quản lý đầu tư công được thực hiện đồng bộ với phân
cấp quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức bộ máy hành chính các cấp từ trung ương tới địa phương.
- Cấp trung ương: Quốc hội giữ vai trò quyết định phương án bổ sung ngân sách trung ương
cho từng Bộ, ngành và mức bổ sung ngân sách trung ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trên cơ sở văn bản trình của Chính phủ. Quốc hội quyết định các chương trình, dự
án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng đầu tư từ NSNN và điều chỉnh dự toán
NSNN khi cần thiết. - Cấp địa phương: Việc phân quyền trong việc quyết định dự án đầu tư và
phân bổ kế hoạch đầu tư phát triển đã được thực hiện mạnh mẽ kể từ năm 1997. Trước đó, tất cả
các dự án ở địa phương đều phải do các cơ quan Trung ương thẩm định và phê duyệt. Trong
giai đoạn 1997 – 2003, các địa phương được thẩm định và phê duyệt các dự án nhóm B và nhóm
C; đối với các dự án nhóm A thì cần phải có sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ. Từ năm
2006 tới nay, tất cả các dự án nhóm A, B, C đều thuộc thẩn quyền thẩm định và phê duyệt của
địa phương. Chính phủ chỉ phê duyệt cá dự án trọng điểm quốc gia do Quốc hộ quyết định chủ
trương. Trên cơ sở phân cấp của Trung ương, các tỉnh và thành phố sẽ phân cấp quyết định đầu
tư cho cấp huyện và xã trong một số lĩnh vực. Ủy ban nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm lập
dự toán và phân bổ ngân sách địa phương cho đầu tư công. Đặc thù của phân cấp đầu tư của

Việt Nam là phân cấp đồng bộ và phân cấp theo địa giới hành chính, nghĩa là phân cấp cùng
các chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với từng cấp quản lý nhà nước theo địa giới hành chính
mà chưa chú ý tới đặc thù về quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố tự nhiên của từng địa
phương, cũng như đặc thù về phạm vi, hiệu quả của một số dịch vụ công. Cùng với hệ thống
quản lý đầu tư còn nhiều bất cập, đầu tư theo phong trào đã diễn ra rầm rộ, dẫn đến vấn đề
“tỉnh hóa các cảng biển”, “tỉnh hóa khu công nghiệp”, “tỉnh hóa các khu kinh tế”, “tỉnh hóa
các trường đại học”... Hệ quả tất yếu của những vấn đề trên là áp lực đầu tư địa phương lớn, là
đầu tư dàn trải, manh mún và lãng phí. Phân cấp đồng loạt và đại trà: Nếu địa phương như là
đơn vị phân cấp thì các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam được chia ra thanh


3 nhóm: Nhóm một gồm Hà Nội và Hồ Chí Minh được hưởng chính sách phân cấp đặc biệt.
Nhóm hai gồm ba thành phố trực thuộc trung ương còn lại, bao gồm Hải Phòng, Đà Nẵng và
Cần Thơ với hướng chính sách phân cấp không rộng rãi như Nhóm một, nhưng thông thoáng
hơn so với Nhóm ba, bao gồm 58 tỉnh thành còn lại, được hướng chung một chính sách phân
cấp, bất chấp sự khác nhau hiển nhiên về quy mô, không gian tài khóa, nguồn lực, năng lực,…
của những địa phương này. Việc có một tấm áp phân cấp chung cho hầu hết tất cả các địa
phương là điều có thể hiểu được từ góc độ chính quyền trung ương, song điều này hạn chế hiệu
quả của chính sách phân cấp: “Một hệ thống phân cấp hiệu quả sẽ điều chỉnh mức độ tự quyết
của chính quyền mỗi tỉnh sao cho phù hợp với năng lực của chính quyền tỉnh đó. Tất nhiên, khi
không gian phân cấp của mỗi địa phương nào đó trở nên rộng rãi hơn thì cũng cần phải quy
định trách nhiệm giải trình chặt chẽ hơn và công tác điều hành của chính quyền địa phương đó
phải minh bạch hơn. Phân cấp không đồng bộ: Phân cấp ở Việt Nam không đồng bộ, cụ thể là
các nội dung khác nhau của phân cấp không song hành với nhau, và do vậy, không những không
tạo ra tác dụng cộng hưởng mà còn hạn chế hiệu quả của phân cấp. Chẳng hạn như phân cấp về
thẩm quyền quyết định đầu tư cho địa phương khá rộng, song phân cấp nguồn thu lại không
được điều chỉnh một cách tương ứng. Kết quả là trong khi không gian tự quyết được mở rộng thì
nguồn lực tài chính của địa phương vẫn như cũ. d) Hiệu quả đầu tư thấp Bên cạnh những thành
tích đã đạt được, hiệu quả đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước chưa cao. Do tình trạng đầu tư
dàn trải, sai đối tượng hay cùng lúc triển khai quá nhiều các dự án vượt quá khả năng cân đối

của nền kinh tế... nên rất nhiều công trình đầu tư dở dang, thời gian hoàn thành và đưa vào sử
dụng bị kéo dài.... dẫn đến tình trạng đầu tư công kém hiệu quả. Xét về tổng thể, hiệu quả đầu tư
của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua vẫn chưa xứng so với tiềm năng. Xét
về từng dự án, còn không ít dự án đầu tư có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả, không đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội, cá biệt có những dự án, nội dung đầu tư trùng
lắp, chồng chéo, hoặc gây cản trở, hoặc làm mất hiệu quả của các dự án đã được đầu tư trước
đó.
Hình 2: Hệ số ICOR của khu vực nhà nước so và ICOR của nền kinh tế Nguồn: Phó Thị Kim
Chi, Trần Thị Kim Dung, Đỗ Văn Lâm (2013), Hiệu quả đầu tư công Việt Nam nhìn từ các công
cụ định lượng Hiệu quả đầu tư tính theo hệ số ICOR của toàn nền kinh tế luôn cao hơn Hiệu quả
đầu tư của khu vực công. Điều này đồng nghĩa với việc lượng vốn đầu tư khu công bỏ ra cho
tăng trưởng luôn cao hơn con số tương ứng cần bỏ ra của đầu tư trong phạm vi toàn nền kinh tế.
Cụ thể, trong các giai đoạn kế hoạch KT-XH 5 năm, giai đoạn từ 1996-2000, vốn đầu tư công
cần cho một đơn vị tăng trưởng cao gấp 1,4 con số trung bình của toàn nền kinh tế, sau đó tiếp
tục tăng cao hơn trong 2 giai đoạn kế hoạch 5 năm tiếp theo (tương ứng là 1,4 và 1,5 cho giai
đoạn 2000-2005 và 2006- 2010 giai đoạn từ 2011 đến nay, tuy có giảm hơn nhưng vốn đầu tư
công cho tăng trưởng vẫn cao hơn 1,3 lần so với mức vốn đầu tư trung bình toàn nền kinh tế.
Đồng thời, hệ số tương quan giữa tăng trưởng đầu tư và tăng trưởng giá trị tăng thêm của đầu
tư sử dụng nguồn vốn nhà nước trong thời kỳ 2001 - 2010 là 1,6 lần, trong đó giai đoạn 2006 2010 là 1,9 lần, cao hơn so với giai đoạn 2001 - 2005 (1,5 lần), cho thấy mức tăng đầu tư để đạt
được 1% tăng trưởng giá trị tăng thêm của khu vực này giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước,


nếu không xét đến các yếu tố khác. e) Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý Hiện nay nguồn vốn đầu tư
công quá chú trọng vào lĩnh vực kinh tế. Tỷ trọng đầu tư cho kinh tế chiếm gần 80% và có xu
hướng tăng lên trong các giai đoạn, trong khi đầu tư vào lĩnh vực xã hội – con người chiếm tỷ lệ
khiêm tốn và đang có xu hướng giảm đi. Sự bất cập này thể hiện sự lấn át của kinh tế Nhà nước
với kinh tế tư nhân ở nhiều lĩnh vực tư nhân có thể tham gia mà chưa thể hiện được vai trò xã
hội và dịch vụ công cộng đúng với mục tiêu hàng đầu của đầu tư công là đầu tư ở những lĩnh
vực mà tư nhân không làm được hoặc không muốn làm nhưng lại giải quyết vấn đề công bằng và
an sinh xã hội.

Bảng 6: Tỷ lệ đầu tư cho các lĩnh vực kinh tế, xã hội (%)
Năm _______Kinh tế _____Xã hội _______Quản lý
1995 – 2000 _77,8 _______16,0_________ 6,2
2001 – 2005 _78,6 _______16,4 _________5,0
2006 – 2010 _75,3 _______15,7 _________9,0
2011 - 2012 _77,15 ______13,55 ________9,3
Bên cạnh đó, đầu tư công cho lĩnh vực quản lý nhà nước có xu hướng tăng lên, từ 6,2% của giai
đoạn 1995 – 2000 lên 9,3% giai đoạn 2011-2012, cho thấy công tác cải cách hành chính đạt
hiệu quả chưa cao.
1.3. Nguyên nhân của các yếu kém Sự yếu kém của nền kinh tế nói chung và đầu tư công nói
riêng là do các nguyên nhân sau:
Một là, việc ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác quản lý đầu tư
công, nhằm tạo cơ sở pháp lý trong điều hành và quản lý. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn còn
chồng chéo, chưa có sự thống nhất, chưa phù hợp với tình hình thực tế, dẫn đến việc áp dụng rất
khác nhau, gây khó khăn cho việc hoàn chỉnh các thủ tục để triển khai thực hiện.
Hai là, quyết định đầu tư công vượt quá khả năng của nền kinh tế dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo
dài. Việc phân bổ vốn đầu tư cho các dự án vẫn chưa hợp lý: Việc phân bổ vốn cho công trình
chưa tính đến công tác bồi thường, tái định cư đến khi khai triển đầu tư xây dựng bị vướng thì
mới bắt đầu tính đến; đa số các dự án đều vượt thời gian cân đối vốn theo quy định. Từ đó làm
ảnh hưởng đến tiến độ thi công, tiến độ giải ngân vốn đầu tư, đều kéo dài thời gian đầu tư của dự
án gây lãng phí và kém hiệu quả.
Ba là, quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch đầu tư không phát huy được tính vùng. Công tác quy
hoạch triển khai chưa kịp thời, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan.
Một số quy hoạch ngành, sản phẩm quan trọng còn chưa được tiến hành xây dựng hoặc đang
trong quá trình nghiên cứu; chất lượng một số dự án 20 quy hoạch chưa cao chưa có tầm nhìn xa,
một số công trình đề ra trong quy hoạch còn mang tính giải quyết tình thế.


Bốn là, phân cấp đầu tư không phù hợp năng lực. Hiện tồn tại một số bất cập trong phân cấp
quản lý đầu tư công. Việc phân cấp, phân quyền đầu tư cho các địa phương, cơ sở kinh tế mà

thiếu sự kiểm soát lại gây ra tình trạng đầu tư dàn trải trầm trọng hơn, đôi khi đầu tư không vì
mục đích kinh tế. Địa phương đua nhau xây dựng công nghiệp tràn lan (xây dựng nhà máy
đường, luyện cán thép, xi măng, cảng biển,...), phá vỡ quy hoạch và cơ cấu của nền kinh tế.
Năm là, cơ chế phối hợp giữa các địa phương còn yếu. Quan hệ giữa các địa phương với nhau
hiện nay mang tính cạnh tranh nhiều hơn là phối hợp. Mặc dù có tổn tại một số cơ chế điều phối
vùng, chẳng hạn như thông qua các Ban chỉ đạo vùng, song ban chỉ đạo này hoạt động trên cơ sở
kiệm nhiệm và bán thời gian. Hơn nữa nguồn lực về con người, tài chính, và tổ chức của các Ban
chỉ đạo đều rất hạn chế. Tất cả những điều này dẫn đến một hệ quả là việc phối hợp giữa các địa
phương với nhau hiện nay rất lỏng lẻo. Do cơ chế và lợi ích cục bộ địa phương, tỉnh nào cũng
muốn trở thành một thực thể kinh tế "hoàn chỉnh" nông - công nghiệp - dịch vụ, kèm theo là
trường đại học, bến cảng, sân bay, khu kinh tế... mặc dầu không hội đủ điều kiện. Công nghiệp
hóa đất nước không có nghĩa là tỉnh nào, huyện nào cũng công nghiệp hóa mà cần có sự phân
công lao động hợp lý phù hợp với lợi thế của từng vùng. Trong khi đó, sự liên kết và quy hoạch
vùng còn xa mới đáp ứng yêu cầu làm cho nguồn lực bị phân tán, trùng chéo, hiệu quả thấp, nền
kinh tế nước nhà đã yếu càng yếu thêm. Sở dĩ có tình trạng này một phần do sự lẫn lộn khái
niệm, một phần khác do tâm lý địa phương chủ nghĩa, căn bệnh nhiệm kỳ và nhất là cách đánh
giá thành tích, phân bổ ngân sách và vốn đầu tư từ trung ương đã thúc đẩy cuộc chạy đua về dự
án, công trình, tốc độ tăng trưởng "GDP tỉnh-thành”.
Sáu là, theo dõi, giám sát đầu tư không sát, kém hiệu lực, hiệu quả. Các cơ chế giám sát hiện nay
vừa tổn tại xung đột về lợi ích. Chủ đầu tư vừa thẩm định, giám sát và đánh giá hiệu quả. Bên
cạnh đó cũng tồn tại một cơ chế giám sát nữa ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng đó là thông
qua các cơ quan đại biểu dân cử. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, hiệu quả và hiệu lực của
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, chưa hình
thành được hệ thống thông tin chung về đầu tư công giữa các Bộ, ngành, địa phương để thống
nhất trong việc theo dõi, giám sát đầu tư công. Điều này dẫn đến sự không minh bạch, không
thuận tiện trong việc quá trình thực hiện đầu tư.
Bảy là, vận hành, duy tu bảo dưỡng đối với các công trình đầu tư cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn
NSNN không tương hợp với đầu tư. Chính sách đầu tư chỉ quan tâm đến các dự án đầu tư mới,
không quan tâm đến công tác bảo dưỡng, vận hành để khai thác có hiệu quả các dự án đầu tư
công. Các công trình được đầu tư luôn cần một lượng chi phí thường xuyên để vận hành và bảo

dưỡng. Thế nhưng thời gian qua, Việt Nam chưa chú trọng đúng mực cho chi vận hành và bảo
dưỡng. Ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát triển được soạn lập một cách
riêng rẽ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực công. Hậu quả là trong một số ngành, phần lớn
các công trình qui mô lớn không mang lại hiệu quả do thiếu duy tu, bảo dưỡng.


CÂU 3: BẢN CHẤT VÀ NGUỒN VỐN ĐTC, THỰC TẾ CỦA VN VÀ NHỮNG CẢI TIẾN
CÓ THỂ CÓ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐTC TẠI VN?
Bản chất đầu tư công
Vốn đầu tư là tiền đề cơ bản trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước ta thì tỷ lệ động viên vào NSNN chỉ ở mức dưới 25%
GDP, còn lại hơn 75% GDP được phân phối qua các thành phần kinh tế và các kênh đầu tư khác
nhau. Đó chính là những nguồn lực tài chính rất lớn và dồi dào, còn tiềm ẩn để thực hiện tái cơ
cấu nguồn vốn cho đầu tư công bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Phát biểu bế mạc Hội nghị
Trung ương 3 (khóa XI), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh yêu cầu “trong 5 năm
tới, cần tập trung vào 3 lĩnh vực quan trọng nhất: Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư
công; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại
và các tổ chức tài chính; tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế
và tổng công ty nhà nước”1. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã khẳng
định “Nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ngày càng lớn và đa dạng. Ngoài nguồn lực
của Nhà nước, đã và đang mở rộng sự tham gia của toàn xã hội”.
Nguồn vốn đầu tư công là toàn bộ nguồn gốc của vốn đầu tư phục vụ cho các hoạt động đầu tư
từ công sách nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án
không vì mục tiêu lợi nhuận và (hoặc) không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Bản chất của nguồn vốn đầu tư: Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần
tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và kinh tế học hiện
đại chứng minh. Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển
hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia
tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao

nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX,
khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội,
về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh
tế hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ
cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó



c là phần tiêu hao vật chất,
(v + m) là phần giá trị mới tạo ra.

Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải
đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là: (v + m) I >
CII Hay nói cách khác: (c + v + m) I > CII + CI Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được
tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu
vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất
tiếp theo.


Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo: (c+v+m) II < (v+m) I + (v+m) II Có nghĩa là toàn bộ
giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi
điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ
đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất,
gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời
phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư
liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực. Với phân tích
như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu
dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm cả ở trong sản xuất và
tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng
do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế. Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư

lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết
tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được
rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông
cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là: Thu nhập =
Tiêu dùng + Đầu tư Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dung
Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ
tính song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng.
Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và
tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho
các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất
mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi
là tiết kiệm không thể khác vơí phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư. Tuy
nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó, phần tiết kiệm của
nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm của chính phủ. Điểm cần lưu ý là
tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi
cùng một cá nhân hay doanh nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào
đó có tích luỹ nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh
nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đầy đủ. Khi đó thị trường vốn sẽ tham
gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa hoặc tạm thời dư thừa sang
cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở
một số điều kiện nhất định, theo quy trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào
đó từ các doanh nghiệp và các hộ gia đình - người có vốn dư thừa. Trong nền kinh tế mở, đẳng
thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ
của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển
sang cho nước khác để thực hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể nhỏ hơn
nhu cầu đầu tư, khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này,
mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai. CA = S – I Trong
đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)



Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ nền kinh tế và tài
khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó đầu tư nước
ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh
tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài
khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
2. nguồn vốn đầu tư công
Nguồn vốn đầu phát triển từ ngân sách nhà nước Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư
phát triển, bên cạnh chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trong nước và ngoài nước để phát
triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nướcta luôn có sự ưu tiên hàng đầu nguồn vốn NSNN dành
cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Căn cứ vào mục đích của các khoản chi thì nội dung chi đầu tư phát triển của NSNN bao gồm
chi đầu tư xây dựng cơ bản và các khoản chi không có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản. Trong
chi đầu tư phát triển thì chi đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
chiếm tỷ trọng lớn, có vai trò quan trọng và tác động trực tiếp mạnh mẽ tới tăng trưởng và phát
triển kinh tế bền vững.
Chi đầu tư xây dựng cơ bản là khoản chi lớn của NSNN, là yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trước hết, chi đầu tư phát triển từ NSNN nhằm để
tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất phục vụ và vật tư hàng hoá dự trữ cần thiết của
nền kinh tế.
Đồng thời, chi đầu tư phát triển từ NSNN còn có ý nghĩa là vốn mồi để thu hút các nguồn vốn
trong nước và ngoài nước vào đầu tư phát triển theo định hướng của Nhà nước trong từng thời
kỳ. Quy mô và tỷ trọng chi NSNN cho đầu tư phát triển trong từng thời kỳ phụ thuộc vào chủ
trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và khả năng nguồn vốn NSNN. Nhìn
chung các quốc gia luôn có sự ưu tiên NSNN cho chi đầu tư phát triển, nhất là các quốc gia đang
phát triển, cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Song cơ cấu chi đầu tư phát triển của NSNN lại không có
tính ổn định giữa các thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ trọng ưu tiên chi đầu tư phát triển của
NSNN từng lĩnh vực kinh tế - xã hội thường có sự
thay đổi lớn giữa các thời kỳ.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó

là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia
của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Chính phủ là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho
ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho chương trình, dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi
đầu tư của nhà nước. Trái phiếu Chính phủ (TPCP) được phát hành cho mục đích đầu tư phát


triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật Ngân
sách nhà nước. Trong các giai đoạn 2003 - 2010 và 2011 – 2015, Quốc hội đã ban hành một số
nghị quyết về việc sử dụng nguồn vốn TPCP đầu tư các công trình giao thông, thuỷ lợi, di dân tái
định cư các dự án thủy điện lớn, y tế, giáo dục cấp bách. Đây là nguồn vốn bổ sung, hỗ trợ đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng hàng năm của nhà nước bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước, có tính chất tập trung cao nhằm hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo mục
tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Các quy định về trái phiếu chính phủ được quy định tại Nghị định số 01/2011/NĐ-CP ngày
05 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được
Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương; - Thông tư số 17/2012/TT-BTC ngày
08 tháng 2 năm 2012 của Bộ Tài chính về hướng dẫn
phát hành trái phiếu Chính phủ tại thị trường trong nước; - Thông tư số 81/2012/TT-BTC ngày
22 tháng 5 năm 2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn về
phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tại thị trường trong nước; Việc phát hành trái phiếu
luôn đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng. Việc phát hành trái phiếu đã tuân thủ
các quy định của pháp luật liên quan, được quản lý, sử dụng
đúng mục đích, có hiệu quả và bố trí nguồn vốn trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Toàn bộ số tiền thu
được từ phát hành trái phiếu Chính phủ đều được tập trung vào ngân sách trung ương để sử dụng
theo đúng mục đích phát hành theo quy định của pháp luật.

Nguồn vốn hỗ trợ từnước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển
vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là
biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các
dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển
thường được các nước thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều
hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn
toàn giống nhau.
Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính như sau:
•Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn này bao
gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development assistance) và các hình
thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF;
•Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
•Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
•Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
•Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp
với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA
mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về
lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn
gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.


Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các điều kiện và
ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị
trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem
xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở
thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu
tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn,
vừa bảo tồn được những mục tiêu có tính nguyên tắc. Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội là

nguồn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu
đãi, được phân bổ theo công trình, dự án. Chính phủ lên danh sách các lĩnh vực kêu gọi vốn viện
trợ phát triển, hàng năm chính phủ họp với nhà tài trợ để kêu gọi tài trợ, các nhà tài trợ sẽ xác
định lĩnh vực cần viện trợ, xây dựng dự án và tài trợ theo dự án.
Ở nước ta, ODA là một trong những nguồn vốn quan trọng của Nhà nước, sử dụng cho những
mục tiêu ưu tiên trong phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những trọng tâm sử dụng vốn ODA
là để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Căn cứ vào nhu cầu vốn
đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề ra trong các chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đưa ra định hướng chiến
lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Năm lĩnh vực ưu
tiên thu hút và sử dụng ODA bao gồm: phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông
nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo); xây dựng hạ tầng kinh tế
theo hướng hiện đại; xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát
triển và một số lĩnh vực khác); bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và; tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công
nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy
nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội.
Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả
nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh
ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế),
nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng
để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh
tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
Nguồn vốn tính dụng đầu tư phát triển trong nước là các khoản vay của chính quyền địa
phương từ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với lãi suất ưu đãi hơn so với lãi suất
bình quân của thị trường, tuỳ từng trường hợp và dự án cụ thể.

Nguồn vốn từ khoản thu để lại cho đầu tư
Nguồn vốn từ khoản thu để lại cho đầu tư là nguồn được thiết lập từ các khoản thu trên địa
bàn của từng địa phương được để lại theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước hoặc theo
các quy định của Chính phủ. Các khoản thu được để lại ngân sách địa phương là (theo điều


32 Luật Ngân sách 2002):
a) Thuế nhà, đất;
b) Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí;
c) Thuế môn bài;
d) Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
e) Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính
của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương;
f) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước
ngoài trực tiếp cho địa phương;
g) Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào
ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật;
và một số nguồn thu khác theo quy định của pháp luật.
Tuỳ theo từng địa phương ở Việt Nam mà khoản thu này nhiều hay ít và sẽ được giữ lại để
cân đối cho các nhiệm vụ chi ngân sách địa phương, trong đó có hoạt động chi cho đầu tư
công. Các nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương theo quy định của Luật ngân sách 2002 là:
(1) Chi đầu tư phát triển:
a) Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý;
b) Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà
nước theo quy định của pháp luật;
c) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
(2) Chi thường xuyên:
a) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các hoạt động sự
nghiệp khác do địa phương quản lý;

b) Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);
c) Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội ở địa phương;
d) Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật;
đ) Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý;
e) Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
g) Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
h) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
(3) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư trường hợp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân
sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự
toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm
để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30%
vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh;
(4) Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh


(5) Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.
Nguồn vốn từ trái phiếu chính quyền địa phương Trái phiếu chính quyền địa phương là một
loại chứng khoán nợ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố đối với
người sở hữu trái phiếu theo mệnh giá và lãi suất danh nghĩa. Chủ thể phát hành là Ủy ban nhân
dân tỉnh/thành phố và đối tượng tham gia mua trái phiếu là các tổ chức và cá nhân Việt Nam, tổ
chức và cá nhân nước ngoài. Trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành cho mục đích
đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của
Luật Ngân sách nhà nước. Trong các giai đoạn 2003 - 2010 và 2011 - 2015 Quốc hội đã ban
hành một số nghị quyết về việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu địa phương đầu tư các công trình
giao thông, thuỷ lợi, di dân tái định cư các dự án thủy điện lớn, y tế, giáo dục cấp bách. Đây là
nguồn vốn bổ sung, hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng hàng năm của chính quyền địa phương

bên cạnh các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, có tính chất tập trung cao nhằm hỗ trợ
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở
từng giai đoạn, từng thời kỳ. Đối tượng tham gia Việc phát hành trái phiếu luôn đảm bảo nguyên
tắc công khai, minh bạch, công bằng. Việc phát hành trái phiếu đã tuân thủ các quy định của
pháp luật liên quan, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả và bố trí nguồn vốn trả
nợ đầy đủ, đúng hạn. Toàn bộ số tiền thu được từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương
đều được tập trung vào ngân sách địa phương để sử dụng theo đúng mục đích phát hành theo quy
định của pháp luật.
Các quy định về trái phiếu chính quyền địa phương được quy định tại Nghị định số 01/2011/NĐCP ngày 05 tháng 01 năm 2011 của Chính phủ về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương; - Thông tư số 17/2012/TT-BTC
ngày 08 tháng 2 năm 2012 của Bộ Tài chính về hướng dẫn phát hành trái phiếu Chính phủ tại thị
trường trong nước; - Thông tư số 81/2012/TT-BTC ngày 22 tháng 5 năm 2012 của Bộ Tài chính
hướng dẫn về phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tại thị trường trong nước;
Nguồn vốn vay khác
Các nguồn vốn vay khác có thể nói đến là nguồn vốn vốn vay từ kho bạc nhà nước, từ ngân
hàng chính sách… để phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế địa phương được đề cập theo
quy định của Luật đầu tư công, luật quản lý nợ công, luật ngân sách nhà nước và các quy
định khác của pháp luật.
- Những cải tiến có thể được đề cập để tăng hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư công tại Việt
Nam:
Thời gian tới cần phải thực hiện phân bổ đầu tư công theo khuôn khổ đầu tư trung hạn. Đổi mới tổ
chức bộ máy giám sát và thẩm định đầu tư theo hướng tổ chức các hội đồng chuyên môn tư vấn cho cơ
quan giám sát và thẩm định. Mở rộng chức năng giám sát thẩm định trên các tiêu chí hiệu quả đầu tư, tiết
kiệm hơn là chỉ tập trung giám sát tuân thủ quy trình đầu tư.
Ngoài ra, xu hướng đầu tư công từ các khoản vay nợ ngày càng cao, trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
ngày càng lớn. Đặc điểm của vốn vay trên thị trường quốc tế là nếu càng chậm trễ triển khai các dự án sử


×