Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở hà tĩnh thời kỳ 1939 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.1 KB, 97 trang )

bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học vinh



nguyễn thị thu hiền

phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc
ở hà tĩnh thời kỳ 1939 - 1945
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54

luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Vinh, 2006

Mục lục
Trang
Mở đầu.............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................ 2
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài...........................................
4. Nguồn t liệu, phơng pháp nghiên cứu......................................................... 6
5. Đóng góp của luận văn................................................................................. 7
6. Bố cục của luận văn ..................................................................................... 8

1


Chơng 1: Khái quát phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh


trớc năm 1939.................................................................................................... 9
1.1.
Hà Tĩnh - vị thế, tình hình kinh tế - xã hội........................................ 9
1.1.1.
Vị thế................................................................................................... 9
1.1.2.
Tình hình kinh tế - xã hội................................................................. 12
1.1.2.1
Kinh tế............................................................................................... 12
1.1.2.2
Xã hội................................................................................................ 17
1.2
Truyền thống yêu nớc ...................................................................... 20
1.3
Phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh dới sự lãnh đạo của Đảng
từ 1930 - 1939....................................................................................24
1.3.1.
Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931)...................................... 24
1.3.2.
Phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh trong những năm
1932 - 1939..........................................................................................29
Tiểu kết chơng 1................................................................................. 35
Chơng 2: Quá trình chuẩn bị lực lợng tiến tới khởi nghĩa giành
chính quyền ở Hà Tĩnh (từ tháng 11/1939 đến
trớc tháng 8/1945)........................................................................................... 37
2.1.
Tình hình Hà Tĩnh sau khi Chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ.................................................................... 37
2.1.1.
Bối cảnh kinh tế - xã hội.................................................................. 37

2.1.2.
Đấu tranh chống khủng bố củng cố cơ sở Đảng.............................. 42
2.2.
Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh thành lập với việc chuẩn bị lực
lợng khởi nghĩa giành chính quyền.................................................. 48
2.2.1.
Việt Minh liên tỉnh Nghệ - Tĩnh thành lập...................................... 48
2.2.2.
Tổ chức lực lợng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.............. 56
Tiểu kết chơng 2................................................................................ 60
Chơng 3: Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh
Tháng Tám 1945............................................................................................. 61
3.1.
Chủ trơng khởi nghĩa giành chính quyền của Việt Minh liên tỉnh
Nghệ - Tĩnh....................................................................................... 61
3.2.
Diễn biến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh............... 67
3.2.1.
Khởi nghĩa giành chính quyền ở Thị xã Hà Tĩnh............................ 67
3.2.2.
Khởi nghĩa giành chính quyền ở các phủ huyện............................. 71
3.3.
Một số nhận xét về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở Hà Tĩnh 1945................................................................................... 97

2


Tiểu kết chơng 3............................................................................... 101
Kết luận .........................................................................................................102

Tài liệu tham khảo........................................................................................106
Phụ lục .........................................................................................................116

lời cảm ơn
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Trần Văn Thức đã tận
tình hớng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Lịch sử,
Khoa sau Đại học trờng Đại học Vinh, Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh, Th
viện Quốc gia, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh, Phòng nghiên cứu
lịch sử Đảng, Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã nhiệt tình giúp đỡ,
ủng hộ và tạo điều kiện để cho tác giả hoàn thành luận văn.
Vì thời gian và khả năng có hạn nên chắc chắn rằng đề tài này sẽ
không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tác giả mong nhận đợc
sự đóng góp của Hội đồng khoa học và đồng nghiệp để luận văn đợc
hoàn thiện hơn
.
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hiền

3


Mở Đầu
1. Lý do chọn đề tài:

Cách mạng Tháng Tám 1945 là sự kiện vĩ đại trong lịch sử dựng n ớc
và giữ nớc của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng
Tám đợc tạo nên chính bởi sự tổng hợp thắng lợi của phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc ở tất cả các địa phơng trên toàn quốc, trong đó có

sự đóng góp đáng kể của nhân dân Hà Tĩnh.
Hà Tĩnh là vùng đất hẹp nằm ngang giữa chiều dài của đất n ớc, là
tỉnh có địa hình hiểm trở, phức tạp luôn đợc coi là vùng đất có vị trí quan
trọng mang tính chiến lợc về chính trị, quân sự. Đợc sự quan tâm, giúp đỡ
và chỉ đạo trực tiếp của Trung ơng Đảng, của Xứ uỷ Trung Kỳ, cùng với sự
nổ lực, cố gắng của Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh, từ trớc năm 1945
phong trào cách mạng ở đây đã phát triển sớm, vững chắc. Trong phong
trào cách mạng 1930 - 1931, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An đợc xem là trận
địa chính, mà Xô viết Nghệ Tĩnh là một mốc son chói lọi. Tuy nhiên, do
những điều kiện khách quan và chủ quan trong giai đoạn tiếp theo 1932 1939, những thành quả đã giành đợc ở thời kỳ đầu lại bị nhấn chìm. Trong
Cách mạng Tháng Tám, Hà Tĩnh là một trong bốn tỉnh của n ớc ta giành
chính quyền sớm nhất ở cấp tỉnh lỵ. Cùng với nhân dân cả n ớc, Hà Tĩnh đã
vợt qua bao khó khăn thử thách để tiến hành thắng lợi tổng khởi nghĩa vũ
trang, góp phần xứng đáng của mình tạo nên thắng lợi chung của Cách
mạng Tháng Tám 1945 trong phạm vi cả nớc.
Cuộc khởi nghĩa Tháng Tám ở Hà Tĩnh là một bộ phận khăng khít của
Cách mạng Tháng Tám trong cả nớc. So với các tỉnh khác trong phạm vi toàn
quốc, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939 - 1945
có những đặc điểm chung, đồng thời cũng có những nét riêng biệt. Điểm khác
biệt so với toàn quốc và nhiều địa phơng khác là ở chỗ trong hoàn cảnh cha
phục hồi đợc Đảng bộ, nhng Việt Minh liên tỉnh Nghệ Tĩnh ra đời (19/5/1945)
ở Nghệ An, đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt chủ trơng của Trung ơng Đảng và Mặt trận Việt Minh vào hoàn cảnh địa phơng. Việt Minh liên
tỉnh Nghệ Tĩnh đã tổ chức, tập hợp đợc mọi tầng lớp nhân dân ở Hà Tĩnh vì lợi
ích tối cao của dân tộc, chớp thời cơ phát động khởi nghĩa và tiến hành khởi

4


nghĩa giành chính quyền thắng lợi nhanh chóng, không đổ máu, góp phần vào
thắng lợi chung của toàn quốc.

Nghiên cứu phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Hà Tĩnh thời kỳ
1939 - 1945 một mặt để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về công tác
vận động, tổ chức, đấu tranh cách mạng, đợc Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh kế
thừa, phát triển, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), mặt khác góp phần tuyên truyền
giáo dục, khơi dậy niềm tự hào và phát huy truyền thống đấu tranh kiên cờng,
bất khuất của nhân dân Hà Tĩnh. Những bài học kinh nghiệm đó đến nay vẫn
còn nguyên giá trị, thể hiện trong công cuộc xây dựng bảo vệ và đổi mới đất
nớc trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn: "Phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939 -1945" làm đề tài Luận văn
Thạc sỹ khoa học lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:

Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, do đó nó đã thu hút đợc sự quan tâm tìm hiểu của nhiều ngời, cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về Cách mạng Tháng Tám trên phạm vi
cả nớc đã đợc công bố nh:
Tìm hiểu Cách mạng Tháng Tám của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung
ơng, NXB Sự thật, Hà Nội, 1967.
Cách mạng Tháng Tám Việt Nam của Trờng Chinh, NXB Sự thật, Hà
Nội, 1974.
Cách mạng Tháng Tám (1945) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ơng, NXB Sự thật, Hà Nội, 1980.
Cách mạng Tháng Tám 1945 - Những sự kiện lịch sử của Trần Hữu Đính
và Lê Trung Dũng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
Cách mạng Tháng Tám 1945 - Toàn cảnh của GS - TS Phan Ngọc Liên
(chủ biên), NXB Từ điển bách khoa Hà Nội, 2005.
Cách mạng Tháng Tám trong tiến trình lịch sử dân tộc, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005.
Cách mạng Tháng Tám - Một sự kiện lịch sử vĩ đại của thế kỷ XX, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

5


Tất cả các công trình nghiên cứu trên đây đều tập trung làm rõ các vấn đề
nh: Điều kiện lịch sử, quá trình chuẩn bị lực lợng, diễn biến, kết quả, tính
chất, đặc điểm, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm.v.v.... của Cách mạng
Tháng Tám Việt Nam. Trong số đó có một vài công trình đề cập tới diễn biến
của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh [85, 270 - 275].
Tìm hiểu phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1939- 1945 ở
Hà Tĩnh, từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu lịch sử Trung ơng,
Quân sự, địa phơng cũng nh các đồng chí đã từng trực tiếp tham gia hoạt động
cách mạng ở Hà Tĩnh, các cấp lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và những ngời say mê
nghiên cứu lịch sử.
Năm 1993, NXB Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn: "Lịch sử Đảng bộ Hà
Tĩnh (1930-1954)".
Năm 2000, Ban Thờng vụ Thị xã Hà Tĩnh xuất bản cuốn: "Lịch sử Đảng
bộ Thị xã Hà Tĩnh (1930- 2000)".
Đây là những cuốn sách dới góc độ lịch sử Đảng đã phản ánh sơ lợc quá
trình nhân dân Hà Tĩnh tiến hành đấu tranh phục hồi tổ chức Đảng, cơ sở của
quần chúng, chuẩn bị lực lợng cách mạng và tiến hành khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi dới sự lãnh đạo của Đảng.
Năm 1966, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh uỷ Hà Tĩnh xuất bản
cuốn: "Thời kỳ Cách mạng Tháng Tám (1939 - 1945)" gồm 74 trang, cuốn
sách đã trình bày một cách khái quát quá trình đấu tranh giành chính quyền
của tất cả các huyện, Thị của Hà Tĩnh, cũng nh công cuộc bảo vệ và củng cố
chính quyền cách mạng của nhân dân Hà Tĩnh.
Ngoài ra, một số công trình khác đã ít nhiều phác hoạ sơ lợc công cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Hà Tĩnh nh:

Năm 1991, Thị uỷ và UBND Thị xã Hà Tĩnh xuất bản cuốn: "Hà Tĩnh Thành Sen 160 năm", cuốn sách gồm 212 trang. Từ trang 119 đến trang 122
của cuốn sách đã đề cập đến quá trình đấu tranh giành chính quyền ở Thị xã
Hà Tĩnh.
Năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội xuất bản cuốn: "Lịch sử Hà
Tĩnh tập 1" do Đặng Duy Báu (chủ biên), Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà
Văn Tấn, Trơng Hữu Quýnh.v.v.... viết. Cuốn sách dày 500 trang, đã trình bày
về lịch sử vùng đất Hà Tĩnh từ thời tiền sử, sơ sử cho đến kỷ nguyên mới của
dân tộc- kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

6


Các huyện của Hà Tĩnh cũng đã biên soạn lịch sử của địa phơng mình
nh: "Lịch sử Đảng bộ huyện Cẩm Xuyên, tập 1 (1930 - 1945)", "Lịch sử Đảng
bộ huyện Thạch Hà, tập 1 (1930 - 1954)", "Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Thọ,
tập 1 (1930 - 1945)", "Lịch sử Đảng bộ huyện Nghi Xuân (1930 - 1945)",
"Lịch sử Đảng bộ huyện Hơng Sơn, tập 1 (1930 - 1945)"
Năm 1999, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Can Lộc xuất bản cuốn: "Hoạt
động của Đảng bộ nhân dân Can Lộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc và bớc đầu xây dựng xã hội mới 1930- 1975". Cuốn sách gồm 322
trang, có 4 phần và 10 chơng, trong đó ở chơng IV từ trang 72 đến trang 78
của cuốn sách đã đề cập đến Đảng bộ và phong trào cách mạng của nhân dân
Can Lộc trong thời kỳ 1939 -1945...
Các cuốn sách trên đều đợc biên soạn dới sự chỉ đạo của các cấp Đảng
uỷ, từ Tỉnh uỷ đến các Thành uỷ, Huyện uỷ. Nên nội dung của các cuốn sách
trên chỉ dừng lại ở việc tái hiện các sự kiện lịch sử có liên quan đến vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng của nhân dân Hà Tĩnh.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đây đã đề cập đến vấn đề
chuẩn bị lực lợng tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở Hà Tĩnh vào
thời kỳ 1939 - 1945, với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, do mục đích, nhiệm

vụ nghiên cứu khác nhau, vì vậy, cho đến nay vẫn cha có một công trình khoa
học nào nghiên cứu riêng, trình bày một cách toàn diện và có hệ thống về phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939 - 1945.
Chúng tôi đánh giá rất cao những công trình kể trên và coi đó là những t
liệu quý, giúp chúng tôi trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939 - 1945.
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài.

* Đối tợng nghiên cứu:
Đề tài luận văn nghiên cứu toàn bộ cuộc vận động cách mạng, chuẩn bị
về mọi mặt để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh nh: Xây dựng,
phát triển, củng cố các cơ sở cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang thời kỳ 1939- 1945 và công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền
ở Hà Tĩnh Tháng Tám năm 1945.
* Phạm vi nghiên cứu:
Giới hạn không gian là toàn bộ tỉnh Hà Tĩnh.

7


Giới hạn thời gian đợc tính từ Hội nghị Trung ơng Đảng lần thứ VI
(11/1939), đã đề ra chủ trơng chuyển hớng chiến lợc cách mạng Việt Nam,
cho đến khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh thắng lợi
(18/8/1945).
Tuy nhiên, để làm rõ lịch sử Hà Tĩnh giai đoạn này, tác giả có khái quát,
so sánh tình hình Hà Tĩnh thời kỳ trớc năm 1939 và thời kỳ sau đó để có cái
nhìn rõ hơn về lịch sử Hà Tĩnh giai đoạn này.
* Nhiệm vụ của đề tài:
Thông qua nguồn t liệu, luận văn phân tích một cách khoa học những yếu
tố thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự nhiên, xã hội, ảnh hởng đến quá trình

xây dựng lực lợng cách mạng ở Hà Tĩnh (1939 - 1945). Từ đó nêu bật vị trí
chiến lợc và truyền thống đấu tranh của nhân dân Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, luận
văn khôi phục lại một cách hệ thống phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939-1945. Từ đó rút ra những đặc điểm, ý nghĩa khởi
nghĩa, những bài học kinh nghiệm quý báu về sự chuẩn bị cho cách mạng, về
công tác xây dựng lực lợng và việc chớp thời cơ giành chính quyền.
4. Nguồn t liệu, phơng pháp nghiên cứu.

Thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa vào nguồn t liệu và tiến hành phơng
pháp nghiên cứu sau đây:
* Nguồn t liệu:
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về chiến tranh
nhân dân, khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh vũ trang cách mạng. Đây là cơ sở
lý luận mà chúng tôi vận dụng vào quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài.
Các văn kiện Đảng, những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong thời kỳ 1930 - 1945. Một số chỉ thị, nghị quyết của Xứ uỷ Trung Kỳ,
của Đảng bộ tỉnh và Đảng bộ các huyện của Hà Tĩnh có liên quan đến vấn đề
lực lợng cách mạng Hà Tĩnh (1939- 1945). Đây là nguồn t liệu quan trọng
giúp chúng tôi có thể tiếp cận với những quan điểm, đờng lối của Đảng trong
việc xây dựng và phát triển lực lợng cách mạng.
Các tài liệu lu trữ tại kho lu trữ Trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam, Bảo
tàng Xô viết Nghệ Tĩnh, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Hà Tĩnh, Ban tuyên
giáo tỉnh Hà Tĩnh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh, Viện lịch sử quân sự Việt
Nam.v.v... là nguồn t liệu quý báu giúp chúng tôi nghiên cứu những vấn đề đợc đặt ra trong đề tài.

8


Ngoài ra, những công trình nghiên cứu, những bài viết của một số nhà
nghiên cứu đăng trên các tạp chí nh: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Lịch

sử quân sự, các bản hồi ký của một số ngời đã trực tiếp tham gia lãnh đạo
Cách mạng Tháng Tám ở Hà Tĩnh, cũng là nguồn t liệu đợc chúng tôi chú
trọng tham khảo để làm sáng tỏ hơn nội dung vấn đề cần nghiên cứu.
Lời kể của các nhân chứng lịch sử - những ngời đã trực tiếp tham gia
hoạt động lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939-1945 cũng
là nguồn t liệu sống giúp cho việc nghiên cứu.
* Phơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phơng pháp lịch sử là chủ
yếu, kết hợp với phơng pháp lô gích, với các phơng pháp so sánh, đối chiếu,
phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
5. Đóng góp của luận văn.

Thực hiện luận văn này, chúng tôi cố gắng góp phần vào việc su tầm và
khai thác một số t liệu có giá trị, hệ thống hoá các nguồn tài liệu.
Luận văn khôi phục khách quan, toàn diện và có hệ thống về phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc ở Hà Tĩnh thời kỳ 1939 - 1945.
Luận văn nêu rõ đặc điểm cuộc vận động chuẩn bị khởi nghĩa, ý nghĩa
thắng lợi ở Hà Tĩnh trong Cách mạng Tháng Tám.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy và học
tập lịch sử địa phơng.
Bằng những sự kiện và nhân chứng cụ thể, luận văn góp phần vào việc
giáo dục truyền thống, tinh thần yêu quê hơng, đất nớc, lòng tự hào về các thế
hệ ông cha đã hy sinh biết bao xơng máu trong sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập dân tộc để lại các thế hệ tiếp nối hôm nay vững bớc tiến vào thế kỷ XXI.
6. Bố cục của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Khái quát phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh trớc năm 1939.
Chơng 2: Quá trình chuẩn bị lực lợng tiến tới khởi nghĩa giành chính

quyền ở Hà Tĩnh (từ 11/1939 đến trớc tháng 8/1945).
Chơng 3: Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Tĩnh Tháng Tám
1945.

9


Chơng 1
Khái quát phong trào cách mạng ở hà tĩnh
trớc năm 1939
1.1. Hà Tĩnh - vị thế, đặc điểm kinh tế - xã hội.

1.1.1. Vị thế:
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, tỉnh Hà Tĩnh nằm trong toạ
độ từ 17053'50" - 18045'40" vĩ độ Bắc và từ 105005'50" -106029'40" kinh độ
Đông. Phía Bắc giáp các huyện Nam Đàn, Hng Nguyên và Thành phố Vinh
của tỉnh Nghệ An, với chiều dài 85 km. Phía Nam giáp các huyện Tuyên Hoá,
Quảng Trạch của tỉnh Quảng Bình, với chiều dài 90 km. Phía Đông là Biển
Đông với đờng bờ biển dài 137 km. Phía Tây giáp với các tỉnh Khăm Muộn và
Bôlikhămxây của nớc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với đờng biên giới dài
143 km. Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên là 6.054 km2, dân số là 1,3 triệu ngời
[8, 12] chiếm khoảng 1,7% diện tích và 1,8% dân số cả nớc. Hà Tĩnh đứng thứ
20 về diện tích và thứ 22 về dân số trong 61 tỉnh, thành phố của cả nớc và
đứng thứ 3 trong các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, sau Thanh Hoá và Nghệ An.

10


Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quyết định hợp nhất 2 tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An thành tỉnh Nghệ

Tĩnh.
Tháng 9 năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh tách ra làm 2 tỉnh: tỉnh Nghệ An và
tỉnh Hà Tĩnh.
Hà Tĩnh có 2 thị xã, 9 huyện, với 242 xã, 6 phờng, 12 thị trấn [107, 217].
Hai thị xã của tỉnh là Hà Tĩnh và Hồng Lĩnh. Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm
kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật của tỉnh, nằm cách Hà Nội 350
km, có diện tích 30 km2, với dân số khoảng 80 nghìn ngời. Thị xã Hồng Lĩnh
mới đợc thành lập từ 02/3/1992 nằm ở nơi giao nhau của Quốc lộ 8 và Quốc lộ
1A, diện tích của thị xã là 58 km2, dân số khoảng 35 nghìn ngời. 9 huyện của
tỉnh Hà Tĩnh gồm 4 huyện miền núi (Hơng Sơn, Đức Thọ, Hơng Khê, Vũ
Quang) và 5 huyện miền biển (Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên,
Kỳ Anh). Trong số này, huyện có diện tích lớn nhất là Hơng Khê 1241 km2 và
huyện có diện tích nhỏ nhất là Nghi Xuân 218 km2.
Đất đai, sông núi, vùng biển Hà Tĩnh có một vị trí chiến lợc quan trọng.
Trong lịch sử, Hà Tĩnh đã từng là miền đất "phên dậu" của Tổ quốc. Ngày nay
địa thế Hà Tĩnh rất tiện lợi cho việc xây dựng khu vực phòng thủ trong xây
dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân.
Nằm ở phía đông dãy Trờng Sơn, Hà Tĩnh có địa hình hẹp và dốc,
nghiêng từ Tây sang Đông. Phía Tây là núi cao (độ cao trung bình là 1.500m),
kế tiếp là miền đồi bát úp, rồi đến dải đồng bằng nhỏ hẹp (độ cao trung bình
5m) và cuối cùng là bãi cát ven biển. Độ dốc lớn nên đất bị rửa trôi, bào mòn
mạnh. Đồng bằng nhỏ hẹp chạy dọc theo Quốc lộ 1A, thờng bị cắt ngang. Nh
vậy mọi con đờng xuyên dọc theo chiều dài đất nớc từ Bắc vào Nam đều phải
qua địa phận Hà Tĩnh.
Đất đai Hà Tĩnh phân bố không đều. Địa hình đồi núi chiếm 80% diện
tích của tỉnh, nối tiếp chạy dài, vây thành cụm, chắn ngang hoặc chia cắt vùng
đồng bằng, tạo thành những thung lũng hẹp, xen kẽ nhau.
Hệ thống làng xã liên hoàn kết hợp với các dãy núi "xâm thực" ra tận
mép biển cùng với các đảo Sơn Dơng, Hòn én, Hòn Bốc cách bờ biển không xa
đã tạo nên thế phòng thủ bờ biển vững chắc.

Vùng biển Hà Tĩnh rộng hơn 20.000 km 2 với nhiều đảo lớn nhỏ có vị trí
quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng an ninh. Bờ biển dài 137 km, phần lớn

11


là bằng phẳng, bờ biển Hà Tĩnh đi qua năm huyện (Nghi Xuân, Can Lộc,
Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh) với 157 xã, trong đó có 31 xã mép nớc. Bờ
biển có độ dốc thấp, phần lớn là bãi cát dài thoai thoải, đáy biển tơng đối bằng
phẳng, ven bờ nớc có độ sâu từ 4 đến 10 mét, dọc bờ biển có 4 cửa biển nh:
Cửa Hội (Nghi Xuân), Cửa Sót (Thạch Hà), Cửa Nhợng (Cẩm Xuyên), Cửa
Khẩu (Kỳ Anh) tạo thành nhiều vũng lõm, tàu có trọng tải lớn có thể vào, mở
ra nhiều triển vọng tốt đẹp cho sự giao lu quốc tế.
Khí hậu vùng biển Hà Tĩnh chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa nắng từ tháng 3
đến tháng 8 khí hậu khô ráo, ít mây mù, thuận tiện cho việc đánh bắt hải sản và
quan sát, phát hiện địch từ xa. Mùa ma từ tháng 9 năm trớc đến tháng 2 năm sau,
sơng mù dày đặc, có khi có bão lụt, các hoạt động quân sự gặp khó khăn.
Mạng lới sông ngòi Hà Tĩnh khá dày đặc. Sông ở Hà Tĩnh đợc chia thành
2 hệ: sông đào và sông tự nhiên, tất cả các sông đều chảy ra 4 cửa biển là Cửa
Hội, Cửa Sót, Cửa Nhợng và Cửa Khẩu, tạo nên mối giao lu từ miền ngợc đến
miền xuôi, từ Bắc vào Nam, từ thành thị đến các vùng xa xôi hẻo lánh, tạo
thành hệ thống đờng thuỷ rất tiện lợi. Hai con sông lớn ở Hà Tĩnh là sông
Ngàn Sâu và Ngàn Phố.
Đồng bằng Hà Tĩnh chiếm 20% diện tích, nhỏ hẹp, kém phì nhiêu, lại bị
xé lẻ ra từng mảnh nhỏ, ngăn cách nhau khá rõ rệt. Đồng bằng Hà Tĩnh nằm
rải rác theo các thung lũng và xen giữa các cụm đồi. Dải đồng bằng quan
trọng nhất của tỉnh nằm dọc theo lu vực sông La, từ miền hạ Đức Thọ kéo qua
Can Lộc tới giáp miền biển Thạch Hà, Cẩm Xuyên, rộng gần 1.000 km 2.
Ngoài ra, trong tỉnh còn có một số vùng đất bằng phẳng hẹp dọc theo thung
lũng các sông Ngàn Sâu (Hơng Khê), Ngàn Phố (Hơng Sơn) và nhiều vùng

đồng bằng nhỏ bị cắt đứt dọc theo bờ biển các huyện Nghi Xuân, Kỳ Anh...
Đồng bằng Hà Tĩnh tuy chỉ chiếm 1/5 tổng diện tích toàn tỉnh nhng lại là địa
bàn quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và trồng cây công nghiệp. Trong
hoà bình cũng nh lúc có chiến tranh vùng đồng bằng Hà Tĩnh tuy bị chia cắt
bởi sông suối và đồi núi, nhng đã tạo nên một hệ thống phòng ngự nhiều tầng,
nhiều lớp. Nhiều đồi núi thấp nằm xen kẽ với vùng đồng bằng là những cao
điểm độc lập lợi hại trong tác chiến.
Hà Tĩnh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa Bắc Trung Bộ nên có
một số đặc điểm chính nh: Nằm ở khu vực có lợng ma lớn nhất trong toàn
vùng. Mùa đông ở Hà Tĩnh vẫn còn lạnh do ảnh hởng của khối khí lạnh từ

12


phía Bắc tràn về. Hà Tĩnh chịu ảnh hởng mạnh của bão, mùa bão đến sớm ở
các vùng phía Nam từ tháng 8 đến tháng 11. Khí hậu ở Hà Tĩnh biến động
mạnh, thể hiện rõ trong chế độ nhiệt mùa đông và chế độ ma mùa hạ.
Nh vậy, trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc của dân tộc ta, Hà Tĩnh đã từng
là đất "phên dậu", là "then khoá" của các triều đại. Ngày nay, với địa thế tự
nhiên vốn có kết hợp với những thế mạnh truyền thống về chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, Hà Tĩnh có một vị thế hết sức quan trọng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xứng đáng là địa bàn chiến lợc.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội.
1.1.2.1. Kinh tế:
Từ đầu thế kỷ X, sau ngày đất nớc độc lập nhân dân Hà Tĩnh cùng nhân
dân cả nớc phấn khởi, tự hào ra sức xây dựng quê hơng. Các tầng lớp thống trị
kế tiếp nhau vừa củng cố nhà nớc, vừa huy động nhân dân đẩy mạnh sản xuất,
nâng cao dần cuộc sống về mọi mặt. Mặc dầu chịu nhiều hoạ ngoại xâm, nhng
nhân dân Hà Tĩnh vẫn hợp lực nhau lại đi khai phá đất đai, mở rộng nghề
nghiệp. Cho đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Hà tĩnh đã trở thành một

vùng đất đông dân, xóm làng trù phú. Diện tích ruộng đồng tăng lên, nghề
trồng lúa đợc tiến hành ở mọi nơi. Các nghề thủ công truyền thống cũng tiếp
tục phát triển phục vụ cho nhu cầu càng tăng lên của nhân dân. Sự phát triển
của nông nghiệp và thủ công nghiệp đã làm tăng nhu cầu buôn bán, trao đổi
sản phẩm giữa các vùng với nhau. Sự phát triển kinh tế và giao lu buôn bán
lớn nhất là từ thế kỷ XIII không chỉ góp phần quan trọng vào việc gắn bó
những c dân cùng quê hơng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
và thống nhất văn hóa. ở Hà Tĩnh giáo dục phát triển lớn nhất là ở các dòng
họ lớn, và chính ở trong các dòng họ là nơi cung cấp sức ngời và sức của cho
công cuộc kháng chiến và cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm của các dân tộc.
Kinh tế Hà Tĩnh thời Nguyễn có sự chuyển biến nhất là Gia Long và
Minh Mệnh cũng đề ra một số chính sách khuyến nông, kêu gọi nhân dân
phiêu tán trở về quê sản xuất, khuyến khích khẩn hoang dới nhiều hình thức
nh: khai hoang lập làng, di dân lập ấp, khai phá đất bồi ven biển. Chính sách
quân điền cũng đợc nghiên cứu sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình
mới. Ruộng đất công của làng xã cứ 3 năm quân cấp một lần cho c dân trong
cộng đồng theo thứ bậc: quan nhất phẩm đợc 15 phần, quan cửu phẩm đợc 8
phần, các loại thợ và lính đợc 7 phần, dân đinh đợc 5,5 đến 6,5 phần, trẻ mồ

13


côi, đàn bà goá phụ đợc 3 phần [82, 248 - 249]. Những chính sách đó đa lại
một số kết quả tích cực, nhng hậu quả và tác dụng tuỳ thuộc điều kiện cụ thể
của từng vùng.
Những năm đầu thế kỷ XIX, kinh tế Hà Tĩnh gặp rất nhiều khó khăn vì
dân phiêu bạt, xóm làng hoang vắng và ruộng đất bỏ hoang nhiều. Nhân dân
ra sức xây dựng lại cuộc sống, phục hồi kinh tế, nhng tình trạng nông nghiệp
không mấy khởi sắc. Thêm vào đó, chính sách tô thuế nặng nề, phép thu thuế
ngặt nghèo và phức tạp nh: thu thóc thuế, phép chiết nạp, đại nạp.v.v... cùng

chế độ lao dịch, binh dịch làm cho đời sống ngời nông dân vô cùng khốn khổ.
Sản xuất nông nghiệp có đợc phục hồi phần nào sau chiến tranh vì thế lại bị sa
sút.
Dới triều Nguyễn, nạn đi phu, đi lính nặng nề. Nhân dân Hà Tĩnh cũng
nh nhân dân các nơi khác, ngời khoẻ mạnh bị bắt đi lính, đồn thú xa xôi hoặc
vào tận kinh thành Huế xây dựng cung điện, vào tận Đồng Nai, Gia Định xây
phủ, đắp thành hay lên tận Cao Bằng, Lạng Sơn đổ máu trong những cuộc đàn
áp khởi nghĩa nông dân. Do nông nghiệp sa sút nên nhiều nghề thủ công phải
thu hẹp sản xuất. ở Hà Hoa nhiều trại dâu bỏ hoang. Nghề dệt chỉ còn lại
trong một số làng ở La Sơn (Đức Thọ), Thạch Hà.v.v... Nghề gốm chỉ tồn tại ở
Nghi Xuân, nhiều phờng thợ mộc, thợ nề không có việc phải đi làm nghề rừng
hoặc nghề khác. Những thợ rèn ở vùng Trung Lơng, Văn Chàng.v.v... phải bỏ
nhà đi các nơi khác làm ăn kiếm sống.
Dới triều Nguyễn do chính sách thuế sản vật quá nặng nề, nên một số
nghề thủ công truyền thống nổi tiếng ở Hà Tĩnh nh dệt lụa, vải, đúc đồng,
mộc, sa vào tình trạng thiếu nguyên liệu.
Nhìn chung, kinh tế công thơng nghiệp của Hà Tĩnh trong thời phong kiến
trải qua nhiều bớc thăng trầm. Tuy nhiên, trong thời gian phát triển cũng nh suy
giảm, ngời thợ thủ công vẫn luôn trau dồi tay nghề, tích luỹ kinh nghiệm và ngời
buôn bán vẫn cố gắng vợt qua mọi khó khăn để duy trì quan hệ giao lu hàng hoá
trong vùng.
Sau khi hoàn thành cơ bản việc xâm lợc vũ trang ở nớc ta, thực dân Pháp
đã tiến hành khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn. Hà Tĩnh - một tỉnh
có vị trí cách xa trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự của triều Nguyễn, nên
thực dân Pháp đặt chân đến Hà Tĩnh muộn hơn so với các tỉnh khác. Dới thời
thuộc Pháp, Hà Tĩnh có 5 phủ, 14 huyện, các phủ của Hà Tĩnh gồm: Trấn

14



Tĩnh, Trấn Định, Lạc Biên, Đức Thọ và Hà Thanh. Năm 1896, thực hiện âm
mu xâm chiếm nớc Lào, thực dân Pháp cắt ba phủ là Trấn Tĩnh, Trấn Định,
Lạc Biên nhập vào đất Lào. Tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1896 trở đi chỉ còn lại 2 phủ
Đức Thọ, Hà Thành và 6 huyện: Cẩm Xuyên, Can Lộc, Kỳ Anh, Hơng Sơn, Hơng Khê, Nghi Xuân [8, 46].
Về nông nghiệp, nhân dân nhiều nơi phiêu dạt trong chiến tranh dần dần
trở về quê cũ, ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Song
nhìn chung, sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, không phát triển lên đợc. Năm
1889, cả tỉnh Hà Tĩnh chỉ có 77.964 mẫu ruộng đất chịu thuế. Đến năm 1917
mới tăng lên 191.173 mẫu [82, 394]. Lợi dụng cơ hội đó, thực dân Pháp ra sức
dung túng cho bọn phong kiến tay sai, thả sức cớp đoạt ruộng đất nông dân
các nơi trên quy mô lớn. Địa chủ Trần Xu ở Can Lộc chiếm tới 1.000 mẫu
ruộng của nông dân [8 - 48]. ở Đỉnh Lụ có đến 41 gia đình không có cả mảnh
đất để làm nhà ở. Bọn thực dân Pháp cũng trắng trợn cớp đoạt ruộng đất của
nông dân để lập đồn điền. Tên t sản Xiđê (Cizet) chiếm trên 300 mẫu đất ven
biển huyện Nghi Xuân trồng phi lao thu lợi. Một số khác trắng trợn cớp đoạt
ruộng đất, rừng núi, bãi cỏ, đất hoang để lập đồn điền. Sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914 - 1918), nông nghiệp là một ngành đợc t bản đặc biệt chú
ý.
Do nạn chiếm hữu ruộng đất trầm trọng, đại bộ phận nông dân không có
ruộng hay thiếu ruộng nên phải lĩnh ruộng của bọn địa chủ về cày cấy, chịu
cảnh cuốc mớn làm thuê, có khi ngay trên mảnh ruộng cũ của mình đã bị cớp
đoạt.
Năm 1916 diện tích ruộng đất chịu thuế của Hà Tĩnh là 112.730 mẫu,
thuế phải đóng là 62.721 đồng 8 hào. Đến năm 1917, diện tích chịu thuế tăng
lên 191.173 mẫu, nhng thuế phải đóng lên tới 123.968 đồng 6 hào. Nh vậy là
ruộng đất chỉ tăng có 78.443 mẫu mà thuế phải tăng lên gấp đôi. Năm 1925,
chúng đã trắng trợn tăng đến 30% thuế ruộng đất để lấy tiền cho vua Khải
Định ăn mừng thọ 40 tuổi [8, 50]. Đó là cha kể tới nạn thu thuế khống ở xã
Bích Hội (Thạch Hội - Thạch Hà) có 986 mẫu 1 sào ruộng và đất, nhng phải
nộp thuế thờng xuyên là 1.174 mẫu 6 sào. Nh vậy diện tích phải nộp thuế

khống thờng xuyên là 188 mẫu.
Ngoài địa tô, ngời dân Hà Tĩnh phải đóng một khoản thuế khác là thuế
đinh (còn gọi là su hay thuế thân đánh vào đầu ngời nam). Năm 1897 thực dân

15


Pháp bắt đầu đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam, thuế thân đã
nhảy vọt từ 3 hào lên 2 đồng 3 hào, tăng gấp 12 lần.
Từ năm 1918 trở đi mỗi đinh nam phải đóng 2 đồng 9 hào. Nếu cộng các
khoản tiền công ích và t ích thì mức thuế lên tới 3 đồng 6 hào hơn giá 3 tạ lúa
thời đó [82, 399].
Dới thời thực dân Pháp thống trị, do chính sách hạn chế ngặt nghèo của
chúng nên ở Hà Tĩnh không có một chính sách sản xuất công nghiệp nào đáng
kể. Trong công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) và trong
cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) t bản Pháp không chú ý đến
Hà Tĩnh mà chỉ chú ý tới các vùng có điều kiện làm ăn dễ dàng hơn, lợi nhuận
nhanh hơn và lớn hơn. Hoạt động công nghiệp của thực dân Pháp đối với Hà
Tĩnh chủ yếu là vơ vét nguyên liệu sẵn có và xuất cảng nhân công. Trong khi
đó các ngành nghề thủ công của nhân dân trong tỉnh vốn có truyền thống lâu
dài đã không đợc t bản Pháp khuyến khích phát triển, mà còn bị chúng ra sức
kìm hãm, hạn chế nên ngày càng mai một dần.
Về thơng nghiệp, dới thời Pháp thuộc, ở Hà Tĩnh chủ yếu chỉ có trao đổi
và lu thông hàng hoá trong phạm vi tỉnh. Mạng lới chợ búa nông thôn phát
triển. Hầu hết các miền trong tỉnh đều có chợ, cả miền xuôi và miền ngợc. ở
đồng bằng trung bình từ hai đến ba xã có một chợ, ở miền núi số chợ ít hơn,
nhng vẫn đảm bảo nhu cầu mua bán, trao đổi của nhân dân địa phơng. Chợ ở
tỉnh lỵ lớn nhất tháng họp sáu phiên. Hai tháng một lần lại có phiên chợ trâu
bò, thu hút đông đảo khách hàng các nơi về mua bán náo nhiệt. Về mua bán
trao đổi ngoài tỉnh thì cũng chỉ giới hạn trong phạm vi một số mặt hàng nh nớc mắm, muối (bán ra các tỉnh Bắc Trung Kỳ và Bắc Kỳ); trâu bò (bán ra Vinh

và Quảng Bình); da thú, gỗ (bán ra Vinh và ra Bắc Kỳ); mây tre, cây thuốc,
cau, cà phê, trái cây, ngô, mật mía... Hàng hoá mua từ ngoài vào có ít chủ yếu
là thóc, gạo, chè, thuốc lào, dầu đốt, vải sợi, đồ gốm, xi măng, vôi... Để tạo
điều kiện cho thơng nghiệp phát triển có lợi cho chúng, t bản Pháp mở mang
các đờng giao thông đờng bộ nh đờng số 7 nối liền Hà Tĩnh với nớc Lào, các
tỉnh lộ đờng liên huyện. Năm 1926 thực dân Pháp mở đờng đất với cầu lớn chợ
Thơng (Đức Thọ) ngang qua sông La.

1.1.2.2. Xã hội.

16


Hà Tĩnh là tỉnh có c dân khá đông khoảng 1,3 triệu ngời, chủ yếu là ngời
Kinh. C dân phân bố không đều, theo truyền thống của cha ông "nhất cận
thuỷ, nhị cận sơn", nhân dân Hà Tĩnh sống tập trung ở vùng đồng bằng ven
biển, ven sông và các vùng bán sơn địa. Vùng đồng bằng dọc sông, ven biển
tuy diện tích chỉ có hơn 20% nhng chiếm tới 70% dân số toàn tỉnh. Hiện nay,
với chính sách điều chỉnh dân số của Đảng và Nhà nớc nhiều vùng c dân mới
đã đợc thành lập, nhng mật độ vẫn chênh lệch nên còn phải tiếp tục nghiên
cứu đa dân xuôi lên miền đồi núi, kể cả đa dân vào các khu kinh tế mới của
tỉnh bạn. ở Hà Tĩnh chỉ có một dân tộc ít ngời là dân tộc Chứt thuộc nhóm Mã
Liềng và Cọi, hiện có khoảng 200 ngời c trú ở địa phận hai xã Hơng Vĩnh và
Hơng Liên (Hơng Khê) [8, 13].
Về giáo dục, nhằm mục đích nô dịch và đồng hoá nhân dân ta, phơng
châm chung của thực dân Pháp trong cả nớc là thực hiện chính sách "ngu
dân", một mặt duy trì nền Hán học cũ với chế độ khoa cử phong kiến lỗi thời,
mặt khác thực dân Pháp chỉ mở nhỏ giọt tại các thành phố và tỉnh lỵ một số ít
trờng tiểu học Pháp - Việt để phục vụ kịp thời yêu cầu tổ chức bộ máy cai trị
và bóc lột kinh tế.

Năm 1920- 1921, toàn tỉnh có 45 lớp học gia đình, 9 trờng sơ học ở tỉnh và
các phủ huyện (mỗi trờng chỉ có từ 2 đến 4 lớp). Trong năm học 1938 - 1939 cả
tỉnh có 6 lớp học của trờng kiêm bị, 6 trờng tiểu học, 3 trờng sơ học, 16 trờng t,
61 lớp liên hơng và 167 lớp gia đình. Tổng số học sinh các cấp toàn tỉnh lúc đó là
10.725 ngời từ lớp vỡ lòng đến lớp thứ nhất (tơng đơng với cấp tiểu học bây giờ)
[8, 59]. Đây là năm học có số trờng lớp và học sinh cao nhất trớc thời Pháp
thuộc.
Về văn hoá - xã hội, suốt thời gian Pháp thuộc, Hà Tĩnh không có một tờ
báo riêng. Thực dân Pháp cho ra tờ "Thanh - Nghệ Tĩnh tân văn" chung cho cả
ba tỉnh Bắc Trung Kỳ (Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh) chuyên đăng thông
báo, chỉ thị của nhà nớc thực dân và triều đình Huế. ở Hà Tĩnh có hiệu sách
Thị xã bán sách báo tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Hán.v.v... Còn về lễ hội văn
hoá thì nhân dân Hà Tĩnh vẫn giữ gìn và phát huy. Thời kỳ thơ mới ở Hà Tĩnh
có 2 nhà thơ khá nổi tiếng.
Chính sách khai thác bóc lột của thực dân Pháp trong hai cuộc khai thác
thuộc địa trớc và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) làm cho xã
hội ở Hà Tĩnh có sự phân hoá ngày càng rõ rệt.

17


Giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ là hai giai cấp chủ yếu ở Hà Tĩnh.
Dới thời Pháp thuộc ở Hà Tĩnh đã dần dần xuất hiện một số thành phần xã hội
khác, tuy cha đông lắm nhng cũng đã có tác dụng nhất định đối với toàn xã hội
là tầng lớp tiểu t sản, t sản và bộ phân giai cấp công nhân đang hình thành.
ở Hà Tĩnh, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số trong các tầng lớp xã
hội, đồng thời cũng là đối tợng của chính sách bần cùng hoá của thực dân
Pháp, đã bị phân hoá mạnh nhất. Những ngời nông dân bị mất ruộng đất trở
thành những ngời vô sản ở nông thôn. Cuộc sống của họ bị đe doạ nghiêm
trọng. Vì vậy họ phải tìm kế sinh sống bằng nhiều con đờng khác nhau. Số

đông nông dân phải nhận ruộng đất cày cấy nộp tô trở thành ngời tá điền cho
địa chủ. Một số khác không nhận đợc ruộng của địa chủ, cũng không còn đất
ở, phải bỏ làng đi lang thang, làm thuê cuốc mớn ở các địa phơng. Còn một số
cũng khá đông đi vào các xí nghiệp, nhà máy của Pháp ở Vinh - Bến Thuỷ,
hay vào làm đồn điền trong tỉnh. Một số khác phải vào Nam Bộ để rồi bỏ xác
trong nhiều đồn điền cao su của thực dân Pháp.
Trong khi giai cấp nông dân bị bần cùng hoá và phân hoá mạnh mẽ thì
giai cấp địa chủ ở Hà Tĩnh lại phát triển nhanh chóng. Từ khi thực dân Pháp
tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1918), số địa chủ lớn
có từ 200 mẫu ruộng trở lên tăng lên nhiều [82, 409].
Một số địa chủ lớn ở Đông Thái (Đức Thọ), ở Sơn Hoà (Hơng Sơn), ở
Đại Lộc, Gia Hạnh (Can Lộc) trở thành những tên tay sai đắc lực cho thực dân
Pháp và đợc chúng ban thởng bằng sắc đủ loại để gây uy thế với nông dân.
Tầng lớp tiểu t sản ở Hà Tĩnh không đông lắm, bao gồm các giáo viên,
học sinh, công chức, thợ thủ công và một số tiểu thơng ở thị xã và các thị trấn
trong tỉnh. Họ phần nhiều cũng từ nông thôn ra, nên vốn có quan hệ chặt chẽ
với nông dân, có điều kiện thông cảm với hoàn cảnh cơ cực khổ sở của ngời
nông dân. Mặt khác ngoài xã hội họ cũng bị bọn thực dân chèn ép, ngợc đãi
cả về vật chất và tinh thần, cuộc sống của họ cũng bị đe doạ thờng xuyên. Do
đó họ căm thù sâu sắc bè lũ thực dân phong kiến. Bởi vậy khi có phong trào
cách mạng, những ngời tiểu t sản đều hăng hái tham gia và trong một chừng
mực nhất định họ đã phát huy tác dụng tích cực của mình.
T sản ở Hà Tĩnh chủ yếu là t sản thơng nghiệp, lực lợng phân tán, thế lực
yếu, cho nên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) tại Hà Tĩnh chỉ có
một vài cửa hiệu nhỏ nh Vạn Hơng, Đức Thịnh, Mai Hiến, Thọ Sơn...

18


Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp mở một số đồn điền

trong tỉnh và mở công trình làm đờng xe lửa Vinh - Đông Hà, ở Hà Tĩnh đã
dần dần xuất hiện một bộ phận công nhân. Bộ phận công nhân mới hình thành
này phần lớn bao gồm các phu làm đờng, một số phu khuân vác và làm công
cho thị xã, thị trấn... Ngoài ra còn phải kể đến một lực lợng khá đông nhiều
ngời nửa công nhân, nửa nông dân, hoặc là công nhân nhng vẫn sống với gia
đình trong vùng nông nghiệp ở Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc, Thạch Hà. Họ
là công nhân ở các công trờng, nhà máy, nhng đời sống lại gắn chặt với gia
đình ở nông thôn. Bộ phận công nhân Hà Tĩnh tuy còn ít, lại sống lẻ tẻ ở nhiều
vùng và mang nhiều tính chất nghề nghiệp khác nhau, nhng đều có đặc điểm
chung là từ nông dân chuyển sang, họ bị thực dân và phong kiến làm cho
"khuynh gia bại sản" nên vốn sẵn chí căm thù bè lũ thống trị bóc lột. Khi
chuyển sang sống và làm việc trong các đồn điền, các công xởng máy của
thực dân Pháp, tình cảnh quá khổ cực của công nhân đã không đợc cải thiện,
trái lại chính sách bóc lột càng tồi tệ hơn do đó ý thức đấu tranh càng đợc hun
đúc mạnh mẽ thêm để bùng nổ khi có thời cơ và điều kiện.
Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa
một bên là nhân dân lao động và một bên là thực dân Pháp và phong kiến tay
sai. Mâu thuẫn này sẽ bùng nổ kịch liệt và liên tục suốt trong quá trình thực
dân Pháp thống trị nhân dân ta nói chung và nhân dân Hà Tĩnh nói riêng.
1.2. Truyền thống yêu nớc.
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nớc và giữ nớc, cùng với những
truyền thống quý báu của dân tộc, nhân dân Hà Tĩnh đã xây dựng nên nhiều
truyền thống vẻ vang oanh liệt. Truyền thống nổi bật nhất là tinh thần yêu nớc
quật cờng, bất khuất, mu trí sáng tạo kiên quyết đấu tranh với mọi kẻ thù xâm
lợc nối tiếp nhau từ đời này qua đời khác.
Đầu thế kỷ XV, trong kháng chiến chống giặc Minh (1407 - 1427), Hà
Tĩnh là một trung tâm kháng chiến khá mạnh. Đặng Dung (quê ở Can Lộc) đã
cùng Nguyễn Cảnh Chân (quê ở Nam Đàn - Nghệ An) lấy huyện La Sơn (Đức
Thọ) làm căn cứ tập hợp lực lợng để quyết chiến với quân Minh. Tiếp đó năm
1419 là cuộc khởi nghĩa của binh lính huyện Nha Nghi (Nghi Xuân) do Phan

Liêu chỉ huy đốt phá châu huyện, bắt bọn quan lại nhà Minh. Năm 1425 vùng
Đỗ Gia (Hơng Sơn) đợc chọn là một trong những căn cứ chiến lợc của nghĩa
quân Lam Sơn.

19


Cuối thế kỷ XVIII, phong trào Tây Sơn do anh em Nguyễn Huệ lãnh đạo
đã lật nhào nền thống trị của thế lực phong kiến phản động, đập tan 29 vạn
quân Thanh xâm lợc, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Trong sự nghiệp vĩ đại
của ngời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, Hà Tĩnh là nơi có nhiều đóng góp về
sức ngời, sức của để nghĩa quân làm nên chiến thắng. Trong phong trào Tây
Sơn, lịch sử đã ghi nhận công lao to lớn của những ngời con u tú trên quê hơng
Hà Tĩnh nh: Nguyễn Thiếp, Phan Huy ích, Dơng Văn Tào, Hồ Phi Chấn....
Phát huy truyền thống đấu tranh yêu nớc chống áp bức, nhân dân Hà
Tĩnh lại tiếp tục cuộc đấu tranh bền bỉ chống triều Nguyễn ở thế kỷ XIX. Năm
1812 Nguyễn Tuấn cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở Đức Thọ và Hơng Sơn. Năm
1818 cuộc khởi nghĩa ở Sơn Lễ (Hơng Sơn) do Lê Hầu Tạo chỉ huy. Năm1923
khởi nghĩa do Lê Quang Chấn lãnh đạo đã lập đợc căn cứ tại Hơng Sơn. Cuối
năm 1833, một cuộc khởi nghĩa lớn lại nổ ra tại Thạch Hà, Kỳ Anh, Hơng
Sơn, Can Lộc mà thủ lĩnh là Phan Bô và Đinh Lợi. Đến năm 1836, sử sách
triều Nguyễn ghi thêm một cuộc nổi dậy khác ở Hà Tĩnh do Nguyễn Lộc cầm
đầu.
Từ khi thực dân Pháp tiến hành vũ trang xâm lợc nớc ta (1858). Triều
Nguyễn không có quyết tâm cao trong việc chống Pháp, nhng thực dân Pháp
đã vấp phải cuộc đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt của nhân dân ta nói chung và
nhân dân Hà Tĩnh nói riêng. Phan Huân, ngời Hà Tĩnh giữ chức ngự sử trong
triều đã khảng khái lên tiếng chỉ trích Tự Đức: "Thiên hạ là của thiên hạ,
không phải là của bệ hạ mà quyền giữ lấy một mình" [82, 346].
Đầu năm 1874, nhân dân và sĩ phu Hà Tĩnh phối hợp với phong trào đấu

tranh của nhân dân Nghệ An đã nổi dậy khởi nghĩa dới sự lãnh đạo của Trần
Quang Cán (quê Hơng Sơn) và Nguyễn Huy Điển (quê Thạch Hà) chống lại
thực dân Pháp và hành động đầu hàng của triều đình. Sử sách nhà Nguyễn gọi
là "Giặc cờ vàng".
Năm 1885, khi Chiếu Cần Vơng đợc vua Hàm Nghi ban bố kêu gọi nhân
dân đứng dậy đánh giặc cứu nớc ở Hà Tĩnh, ngời hởng ứng Chiếu Cần Vơng
đầu tiên là Lê Ninh (quê Đức Thọ) vốn giàu lòng yêu nớc nồng nàn, Lê Ninh
kiên quyết chống lại chủ trơng cầu hoà vô điều kiện của triều Nguyễn. Khởi
nghĩa Lê Ninh, lá cờ đầu trong phong trào chống xâm lợc ở Nghệ Tĩnh có một vị
trí cao trong lịch sử đấu tranh của nhân dân địa phơng. Tiếng xớng nghĩa do ông
hô vang trên đất Hồng Lam mãi mãi truyền tới đời sau.

20


Trong phong trào chống thực dân Pháp xâm lợc cuối thế kỷ XIX khởi
nghĩa Phan Đình Phùng kéo dài trên mời năm giữ vai trò trung tâm có tác
dụng thống nhất các phong trào về một mối, trở thành tiêu biểu nhất cho
phong trào Cần Vơng của cả nớc. Phan Đình Phùng (quê Đức Thọ) cùng với
Cao Thắng (quê Hơng Sơn) đã tổ chức lực lợng thành mời lăm quân thứ trên
cơ sở các đội quân khởi nghĩa đang hoạt động ở các phủ huyện, mỗi quân thứ
có từ 1.000 đến 2.000 quân do đô đốc hay lãnh binh trực tiếp chỉ huy. Để tiến
hành kháng chiến lâu dài, nghĩa quân ra sức tổ chức lực lợng, chuẩn bị cơ sở
vật chất và xây dựng căn cứ địa. Để khắc phục tình trạng thiếu thốn về vũ khí,
Cao Thắng đã tổ chức các tổ đi mua sắm vũ khí và lập xởng sản xuất. Cao
Thắng đã cùng Lê Phát và Lê Quyên (quê Đức Thọ) nghiên cứu, chế tạo thành
công loại súng trờng theo mẫu 1874 của Pháp. Sau khi thống nhất lực lợng
trên toàn tỉnh thanh thế nghĩa quân ngày càng mạnh. Từ các khu căn cứ, nghĩa
quân đánh trống ra các đồn binh và tổ chức phục kích địch. Hoạt động chống
càn cũng thu đợc nhiều thắng lợi. Song, sau khi Cao Thắng và Phan Đình

Phùng hy sinh, phong trào kháng chiến của nhân dân cũng gặp nhiều khó
khăn lớn. Khởi nghĩa Hơng Khê sau đó dần dần đi vào thoái trào.
Bớc sang những năm đầu thế kỷ XX, khi phong trào Cần Vơng vừa lắng
xuống thì một phong trào yêu nớc khác lại diễn ra sôi nổi. Đó là phong trào
Đông Du do Phan Bội Châu (quê Nghệ An) khởi xớng. Trong số ngời sáng lập
Hội Duy Tân và đề xớng phong trào Đông Du có ông Lê Võ (quê Đức Thọ).
Ông đẩy mạnh tuyên truyền vận động phong trào trong tỉnh nhất là trong hai
huyện Can Lộc và Đức Thọ. Các sĩ phu yêu nớc nh Mai Lão Bạng, Phan Trọng
Cúc, Kiều Văn Đoan (quê Đức Thọ) Nguyễn Quỳnh Lâm, Đinh Doãn Tế (quê
Hơng Sơn) hăng hái hởng ứng phong trào. Hoạt động của Hội Duy Tân và
phong trào Đông Du trong những năm 1904 đến 1911 cổ vũ phong trào yêu nớc phát triển ý thc đấu tranh giành lại độc lập cho tổ quốc trong nhân dân Hà
Tĩnh. Chính trong bối cảnh đó một phong trào chống thuế lan rộng. ở Hà
Tĩnh, những ngời lãnh đạo chủ chốt của cuộc đấu tranh đòi giảm su cao, thuế
nặng là Nguyễn Hàng Chi (Can Lộc), Trịnh Khắc Lập (Nghi Xuân), Lê Văn
Huân, Phạm Văn Tuyên (Đức Thọ), Nguyễn Duy Phơng (Hơng Khê) khi
những cuộc biểu tình chống thuế bị nhấn chìm trong bể máu (năm 1908) thì
một vụ binh biến trừng trị bọn quan lại ở Thị xã Hà Tĩnh nổ ra (năm 1910) do
Hồ Bá Phấn và Đinh Văn Truyền phụ trách.

21


Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhiều thanh niên, giáo viên và học
sinh Hà Tĩnh hăng hái tìm cách hoạt động cách mạng. Một số các nhà giáo,
trong đó có Trần Hậu Toàn, Lê Viết Lợng lập ra một nhóm hoạt động cách
mạng ở Hơng Khê lấy tên là nhóm "Bài Pháp". Nhóm "Bài Pháp" về sau có
những thay đổi, Trần Hậu Toàn cùng một số bạn bè thành lập một nhóm cách
mạng riêng, lấy tên là nhóm "Việt Nam độc lập". Khi nhóm "Việt Nam độc
lập" bắt liên lạc đợc với tổ chức "Hội Việt Nam cách mạng thanh niên" do
Nguyễn ái Quốc thành lập ở Quảng Châu (Trung Quốc) từ tháng 6 năm 1925.

Dần dần nhóm này trở thành một bộ phận của "Thanh niên" ở Hà Tĩnh. Tại
núi Con Mèo cạnh Núi Quyết (Bến Thuỷ - Vinh) tỉnh Nghệ An, ngày 19 tháng
7 năm 1925 một tổ chức cách mạng ra đời lấy tên là hội "Phục Việt" (phục h ng Việt Nam) [8, 66]. ở Hà Tĩnh đông đảo thanh niên tham gia hội "Phục
Việt" nh: Trần Phú, Nguyễn Sĩ Bác, Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Ngô
Đức Diễn, Nguyễn Đình Chuyên, Nguyễn Huy Lung, Lê Bá Cảnh, Nguyễn
Công Hoạch, Trần Tích Thiện, Nguyễn Thế Tự...
Ngày 14 tháng 7 năm 1928, tại Huế, Hội Phục Việt đã đổi tên thành Tân
Việt cách mạng Đảng (sau này quen gọi tắt là Đảng Tân Việt). Trên tất cả các
khu vực Bắc - Trung - Nam, Tân Việt cách mạng Đảng đều có cơ sở, nhng địa
bàn hoạt động chính lại ở các tỉnh miền Trung, chủ yếu thuộc 2 tỉnh Nghệ An,
Hà Tĩnh. ở Hà Tĩnh, hoạt động của Đảng bộ Tân Việt đã có tác động nâng cao
tinh thần yêu nớc, ý chí đấu tranh cách mạng cho quần chúng, nhất là các tầng
lớp thanh niên trong tỉnh, góp công lớn vào việc tuyên truyền vận động cách
mạng trong thời kỳ này. Nhiều đảng viên Tân Việt ở Hà Tĩnh sau đã trở thành
những đảng viên u tú của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tóm lại, trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, các thế hệ ngời dân Hà
Tĩnh luôn biết kế thừa tinh thần yêu nớc, khát vọng độc lập tự chủ, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh để bảo vệ quê hơng đất nớc.
1.3. Phong trào cách mạng ở Hà Tĩnh dới sự lãnh đạo của Đảng từ
1930 - 1939.
1.3.1. Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931.
Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện tạo bớc
ngoặt quan trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự kiện này thúc
đẩy nhanh chóng việc xây dựng tổ chức và phát triển lực lợng cộng sản ở Hà
Tĩnh. Cùng với sự ra đời của Chi bộ Cộng sản, các tổ chức quần chúng, đặc

22


biệt là tổ chức sinh hội ở các trờng học và tổ chức Nông hội ở các làng xã đã

đợc chuyển thành tổ chức quần chúng của Đảng Cộng sản. Tại bến đò Thợng
Trụ (xã Thiên Lộc, Can Lộc). Cuối tháng 3 năm 1930, đợc sự uỷ nhiệm của
Xứ uỷ Trung Kỳ, đồng chí Trần Hữu Thiều đã triệu tập hội nghị thành lập
Đảng bộ lâm thời Hà Tĩnh. Hội nghị chủ trơng xây dựng mạnh mẽ các tổ chức
quần chúng nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Hội nghị cử Ban
chấp hành lâm thời của Đảng bộ do đồng chí Trần Hữu Thiều làm bí th. Đảng
bộ Hà Tĩnh đợc thành lập là kết quả tất yếu của việc Nguyễn ái Quốc truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, mà phong trào yêu nớc của các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh đã lĩnh hội đợc. Từ đây các cuộc đấu tranh chống thực
dân phong kiến giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân Hà Tĩnh đã
có sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp bộ Đảng.
Sau ngày Đảng bộ ra đời và Tỉnh uỷ lâm thời đợc thành lập, công tác xây
dựng tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng đợc tiến hành một cách khẩn trơng. Dới sự lãnh đạo của Đảng, một phong trào cách mạng mới đã bùng lên
mạnh mẽ và rộng lớn thành cao trào 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ
Tĩnh.
ở Hà Tĩnh, cao trào cách mạng 1930 - 1931 đợc mở đầu bằng đợt đấu
tranh hởng ứng ngày Quốc tế lao động (1/5/1930), có thể nói đây là cuộc ra
quân chính trị đồng loạt đầu tiên do Tỉnh uỷ chủ trơng và đợc tổ chức thống
nhất trong toàn tỉnh. Ngày 1 tháng 5 năm 1930, cờ đỏ phất phới bay trên đỉnh
Rú Cờm, trên nóc nhà thờ trớc của huyện Nghi Xuân, ở cầu Đò Trai (Đức
Thọ), ở rú Nầm (Hơng Sơn), trớc toà sứ (Thị xã), ở đình Chợ Chùa, Cầu Trung
(Cẩm Xuyên), ở núi Bàn Độ (Kỳ Anh)... Truyền đơn cách mạng rải khắp nơi
nh ở Di Long (Hơng Sơn), Lạc Thiện (Đức Thọ), Lai Thạch, Phù Lu (Can
Lộc), Lạc Xuyên, Mỹ Duệ (Cẩm Xuyên),... Các cuộc tập trung quần chúng để
nghe diễn thuyết về ý nghĩa ngày Quốc tế lao động diễn ra ở Hậu Lộc, Tân Lộc
(Can Lộc), Thạch Mên, Thạch Bằng, Thạch Long (Thạch Hà), Cẩm Hoà (Cẩm
Xuyên). Sáng sớm ngày 1 tháng 5 năm 1930 quần chúng huyện Nghi Xuân vợt sông Lam sang Vinh phối hợp đấu tranh với công nhân Trờng Thi - Bến
Thuỷ, nông dân huyện Can Lộc mít tinh hô vang các khẩu hiệu đả đảo đế
quốc, phong kiến, nông dân huyện Thạch Hà tuần hành biểu dơng lực lợng.
Kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa yêu cầu về kinh tế và chính trị, hàng

loạt cuộc biểu tình liên tiếp bùng nổ. Ngày 26 tháng 5 năm 1930, tuyền đơn

23


cách mạng rải khắp các huyện trong tỉnh kết hợp với các cuộc biểu tình đòi
giảm su thuế. Tháng 7 năm 1930, nhiều cuộc mít tinh liên thôn, liên xã đợc tổ
chức. Các tổ chức quần chúng đợc củng cố và mở rộng. Lực lợng tự vệ đợc
xây dựng và phát triển nhanh chóng. Các đội tự vệ đỏ, xích vệ đỏ xuất hiện trở
thành nòng cốt của phong trào. Tự vệ đỏ bao gồm những thanh niên khoẻ
mạnh, gan dạ đợc trang bị những vũ khí thô sơ, lực lợng này có nhiệm vụ hỗ
trợ cho các cuộc biểu tình, bảo vệ các cuộc họp của lãnh đạo, giám sát bọn cờng hào, mật thám.
Để đa phong trào cách mạng tiến lên, Tỉnh uỷ lâm thời gửi thông báo cho
các cơ sở Đảng trong tỉnh quyết định phát động nhân dân đấu tranh nhân ngày
chống chiến tranh đế quốc (1-8-1930). Nội dung và hình thức đấu tranh của
các giới trong ngày 1-8 là: "Tại các đồn điền, các đội công nhân đờng sắt phải
bãi công hoặc đồng loạt nghỉ việc trong vài giờ. Trong các làng xóm, các cuộc
tập trung phải tổ chức để kéo đến những chỗ có cơ quan hành chính của chính
quyền thực dân và tổ chức biểu tình, biểu dơng lực lợng. Trong suốt đêm và
ngày 1-8, các làng, các xóm phải liên tục đánh trống, gõ mỏ. Trong khi biểu
tình, nếu bọn lính đến đàn áp, thì cần ra lệnh cho quần chúng tránh đi, tránh
xảy ra các cuộc xung đột đổ máu. Sau cuộc biểu tình các chi bộ cần tổ chức
mít tinh quần chúng để nói cho quần chúng rõ lý do đa đến thành công hay
thất bại [8, 82 - 83].
Đúng ngày 1-8, dới sự lãnh đạo thống nhất của các cấp bộ Đảng, nhân
dân các huyện đã mít tinh biểu dơng lực lợng. ở Can Lộc, nông dân dơng cao
cờ Đảng và biểu ngữ, kéo về huyện lỵ, buộc tri huyện phải cúi đầu nhận bản
yêu sách của quần chúng. Nội dung của bản yêu sách ghi:
"Lâu nay mất mùa, dân tình chúng tôi hết sức khổ sở, thuế nặng su cao
không thể chịu đựng đợc nữa. Vì vậy, chúng tôi yêu cầu mấy khoản sau:

1. Giảm thuế (thuế thân và thuế ruộng đất)
2. Bãi bỏ thuế chợ
3. Bãi bỏ thuế đò, thuế muối
4. Bỏ thuế ba tăng (tức thuế môn bài)
5. Bỏ thuế lợi tức
6. Bỏ lệ tuần canh
7. Bỏ các khoản cung đồn công t ích
8. Chia lại ruộng đất công cho mọi ngời

24


9. Cấm binh lính không đợc tàn hại dân làng
10. Bồi thờng cho nhân dân các khoản công t ích năm nay [82, 441 - 442].
ở Nghi Xuân, nông dân tuần hành qua các làng xã để uy hiếp bọn hào lý.
ở Hơng Khê, 800 công nhân đồn điền Bồ Xá (Lộc Yên) tập trung đấu tranh
chống bọn chủ đòi tăng lơng giảm giờ làm. ở Đức Thọ, hàng nghìn truyền
đơn đợc rải trên dọc đờng số 8 đoạn từ Linh Cảm đến Đò Trai.
Từ tháng 9 năm 1930 trở đi, làn sóng cách mạng đã dấy lên mạnh mẽ
khắp toàn tỉnh. Theo số liệu điều tra của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh uỷ
Hà Tĩnh thì tháng 9/1930 ở Hà Tĩnh có 20 cuộc đấu tranh quy mô lớn, trong
đó có 11 cuộc đấu tranh chính trị, 2 cuộc đấu tranh kinh tế, 4 cuộc đấu tranh
kết hợp cả kinh tế, chính trị, 3 cuộc trấn áp, tháng 5 -1931 có 22 cuộc đấu
tranh quy mô cấp tổng trở lên, trong đó có 15 cuộc đấu tranh chính trị, 3 cuộc
đấu tranh kinh tế, 4 cuộc trấn áp [8, 110]. Trớc sự phát triển mạnh mẽ của tình
hình, để đa phong trào cách mạng tiếp tục phát triển, cuối tháng 9 năm 1930,
tại làng Phù Việt (Thạch Việt, Thạch Hà), đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đợc
tổ chức. Tham dự Đại hội có 20 đại biểu của 8 huyện bộ thay mặt cho 376
đảng viên trong tỉnh. Đại hội chủ trơng tiếp tục phát động quần chúng vùng
lên mạnh mẽ, các cuộc đấu tranh cần có vũ trang, tổ chức tự vệ cần đợc phát

triển để hỗ trợ quần chúng đấu tranh và bảo vệ nhân dân. Đại hội đã bầu ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm các uỷ viên: Trần Hng (Đức Thọ), Trần Hoặc
(Can Lộc), Mai Kính (Thạch Hà), Võ Quế (Can Lộc), Nguyễn Thiếp, Tức
Nguyễn Châu, Tức Kim Đan (Thạch Hà), Hồ Tuy (Can Lộc), Trần Xu (Can
Lộc). Đồng chí Nguyễn Thiếp đợc cử làm Bí th Tỉnh uỷ [28, 8 - 9].
Đây là đại hội có ý nghĩa rất quan trọng để đa phong trào cách mạng ở
Hà Tĩnh tiến tới đỉnh cao, dẫn đến sự ra đời chính quyền Xô viết ở các làng xã
trong những tháng cuối năm 1930 đầu năm 1931.
Dới sự lãnh đạo của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ, phong trào đấu tranh
của quần chúng tiếp tục phát triển dẫn tới sự ra đời của Xô viết ở nhiều làng
xã. Trong những tháng cuối năm 1930, đầu năm 1931, toàn tỉnh có 170 làng
Xô viết. Trong đó, ở Can Lộc có 73 làng, Thạch Hà 46 làng, Đức Thọ 20 làng,
Hơng Khê 16 làng, Hơng Sơn 7 làng, Cẩm Xuyên 4 làng, Nghi Xuân 4 làng.
[82, 453].
Tuy còn sơ khai nhng các làng Xô viết đã đi thực hiện một số chính sách
tiến bộ trên mọi mặt đời sống xã hội.

25


×