Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghệ thuật trào phúng trong thơ nôm đường luật hồ xuân hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.02 KB, 55 trang )

Nghệ thuật trào phúng...

trang

Mục

lục

Lời nói đầu
A. Phần mở đầu
B. 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................... 3
2. Phạm vi giải quyết.............................................................................. 4
3. Phơng pháp nghiên cứu ................................................................... 5
4. Lịch sử vấn đề.................................................................................... 5
B. Phần nội dung
Chơng 1. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật............... 10
1.1. Giới thuyết về nghệ thuật trào phúng.............................................. 10
1.1.1. Khái niệm về Cái hài.................................................................... 10
1.1.2. Đôi nét về trào phúng và đối tợng của trào phúng ...................... 11
1.1.3. Mối quan hệ giữa trào phúng và trữ tình....................................... 13
1.2. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật .......................... 14
1.2.1. Tình hình chung về thơ Nôm Đờng luật ..................................... 14
1.2.2. Các tác giả tiêu biểu viết về đề tài trào phúng
trong thơ Nôm Đờng luật.................................................... 16
1.2.3. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật....................... 17
Chơng 2. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm
Đờng luật Hồ Xuân Hơng ................................................. 18
2.1. Những bài thơ trào phúng tiêu biểu của Hồ Xuân Hơng................ 18
2.2. Đặc điểm trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng. 20
2.2.1. Đối với tầng lớp Nho sĩ................................................................. 21
2.2.2. Đối với tầng lớp s, vãi (trí thức trong nhà chùa.)........................ 28


2.2.3. Đối với nhân vật phụ nữ................................................................ 33
2.2.4. Đối với tầng lớp trên (vua, quan, hiền nhân, quân tử)................... 38
2.3. Ngôn ngữ trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng..43
2.3.1. Ngôn ngữ văn hoá dân gian........................................................... 43
2.3.2. Các biện pháp tu từ trong thơ Nôm trào phúng
của Hồ Xuân Hơng........................................................... 48
C. Phần kết luận.......................................................................................52
D. Th mục tài liệu tham khảo ...............................................................55

1


Nghệ thuật trào phúng...

Lời nói đầu
Hồ Xuân Hơng sáng tác thơ Nôm không nhiều, thậm chí số lợng bài thơ
có thể xem là ít nhất trong các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Song từ trớc tới nay,
những học giả nghiên cứu thơ Nôm của Nữ sĩ không thể không đánh giá cao
một phong cách nghệ thuật và một hiệu quả thẩm mỹ độc đáo nh một hiện tợng độc nhất vô nhị này.
Thơ Nôm Đờng luật của Hồ Xuân Hơng đã đợc quan tâm nghiên cứu kể
cả những học giả trong và ngoài nớc. Với nhiều công trình nghiên cứu trên các
phơng diện nghệ thuật khác nhau. ở mỗi khía cạnh đều có những cách nhìn
nhận đánh giá rất sắc sảo. Nhng vẫn cha có sự thống nhất, thậm chí còn trái
ngợc nhau.
Gần một thế kỷ qua, việc nghiên cứu giới thiệu thơ Nôm Đờng luật Hồ
Xuân Hơng thờng trực gắn với những vấn đề bất khả giải hay thái độ kính
nhi viễn chi đối với tiểu sử và thơ văn của bà. Mặc dù vậy, càng ngày càng có
nhiều ngời muốn cắt nghĩa, giải thích hiện tợng lạ này một cách sâu sắc và
thấu đáo hơn thông qua nhiều cách tiếp cận mới mẻ đầy thú vị.
Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng là một

trong những vấn đề đợc nghiên cứu nhiều, bởi đây là một phơng diện khá nổi
bật trong thơ Nôm của bà. Ngời thì cho rằng thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân
Hơng là vũ khí để đả kích, châm biếm mọi đối tợng trong xã hội; có ngời lại
cho rằng thơ trào phúng của Hồ Xuân Hơng là để tạo ra tiếng cời (u mua) hài
hớc; có ngời lại cho rằng thơ trào phúng của Hồ Xuân Hơng là trào phúng để
trữ tình... Vậy vấn đề này sẽ đợc thống nhất nh thế nào? Luận văn của chúng
tôi sẽ phần nào giải quyết vấn đề trên.
Với mục đích tìm hiểu Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng
luật Hồ Xuân Hơng chúng tôi không chỉ thống nhất lại khái niệm cái hài,
trào phúng và trữ tình, ngoài ra còn chỉ ra những giá trị nhân văn cao cả biểu
hiện cụ thể của nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng. Từ đó, thấy đợc bản chất, mục đích của hiện tợng trào phúng thông qua
các đối tợng cụ thể.
Trong quá trình tìm tòi và suy nghĩ, em đã đợc sự quan tâm giúp đỡ của
các thầy, cô giáo trong khoa Ngữ văn, của các thầy, cô trong tổ Văn học Việt
Nam Trung đại. Đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hớng dẫn cùng sự
động viên, giúp đỡ của bạn bè.
2


Nghệ thuật trào phúng...
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy, các cô và toàn thể các
bạn.

A. Phần mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
Thơ Nôm Đờng luật là một trong những thể loại độc đáo vào bậc nhất
của văn học Việt Nam Trung đại. Dù đây là một thể loại Việt hoá một thể thơ
ngoại nhập (có nguồn gốc từ Trung Quốc) nhng trong quá trình phát triển nó
đã trở thành một thể loại ngang hàng với bất cứ thể loại nào của văn học dân
tộc. Có đợc những thành tựu ấy, ta không thể không nhắc tới sự đóng góp to

lớn của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hơng,
Nguyễn Công Trứ, bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xơng. Nhng
ngời đa thơ Nôm Đờng luật thực sự trở thành thể thơ có đóng góp quan trọng
vào di sản thi ca truyền thống phải kể đến Bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hơng.
Thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng đợc chú ý, su tầm từ đầu thế kỷ XX
đến nay đã hơn một thế kỷ. Nhiều công trình nghiên cứu, khảo luận, chuyên
luận, phê bình... và trong hàng loạt các tài liệu nghiên cứu ấy Hồ Xuân Hơng
đợc tôn vinh là Nhà thơ cách mạng, Ngọn hải đăng, Ngời lạ mặt, Nữ sĩ
bình dân, Thiên tài huê nguyệt, là Nhà thơ trào phúng bậc nhất [35;13].
Tuy vậy, hiện vẫn còn nhiều vấn đề lý thú đặt ra khi nghiên cứu thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng.
Điều đang còn mập mờ hiện nay là mặc dù trải qua một thời gian dài
nghiên cứu về thơ Nôm Hồ Xuân Hơng nhng vẫn còn nhiều câu hỏi cha đợc
giải đáp thoả đáng. Đó là: Hồ Xuân Hơng là nhà thơ trữ tình hay nhà thơ trào
phúng? Đối tơng trào phúng ở đây là những ai? Mức độ trào phúng nh thế
nào?... Vẫn đang cần lời giải đáp thoả đáng.
Hiện nay, từ các trờng Phổ thông đến các trờng Đại học (Nghành Văn
khoa, s phạm) đều có dạy và học thơ Hồ Xuân Hơng. Vì vậy, việc xác định và
tìm hiểu nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật của Hồ Xuân Hơng
là điều rất cần thiết.
3


Nghệ thuật trào phúng...
Kể từ khi giới nghiên cứu và phê bình Việt Nam đề cao và vận dụng lý
thuyết thi pháp học của M.Bakhtin (do một học giả ngời Nga N.I.Niculin vận
dụng) để nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hơng thì ngời ta thấy trong thơ của bà có
tiếng cời lỡng trị1- Đó là tiếng cời trào phúng và tiếng cời phát hiện (tiếng cời hớng ngoại). Riêng tiếng cời trào phúng, ông nói: Làm cho đối tợng trở
thành Lộn trái, đảo ngợc- lộn trái giữa thực và giả, giữa xấu và tốt, giữa cái
tự nhiên và cái bất tự nhiên.
Tuy vậy, nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng vẫn còn là một vấn đề khá trừu tợng, cha thể giải đáp một cách triệt để,

chính xác và thống nhất. Điều này làm cho chúng tôi băn khoăn, trăn trở và
quyết định đi sâu vào tìm hiểu, lý giải vấn đề này.
2. Phạm vi giải quyết.
Cho đến nay, về mặt văn bản thơ ca của Hồ Xuân Hơng gồm hai bộ
phận: Văn bản chữ Nôm và văn bản chữ Hán. Trong bộ phận văn bản chữ
Nôm có hai loại: Thơ Nôm truyền tụng và thơ Nôm trong tập thơ chữ Hán (Lu Hơng ký - tập thơ này đợc Trần Thanh Mại phát hiện giới thiệu vào tháng
10/1964. Theo từ điển thuật ngữ văn học tập 1, Nxb KHXH, HN.1983)
Theo Hoàng Xuân Hãn, cùng một số nhà nghiên cứu khác cho rằng:
Loại thơ Nôm truyền tụng là thơ viết thời gian khi thi sĩ còn trẻ, do đó nội
dung phản ánh mang đậm yếu tố đùa nghịch, trào lộng, chế giễu rất rõ. Còn
đối với thơ Nôm trong tập Lu Hơng ký đợc tác giả viết lúc đã luống tuổi,
từng trải nên giọng thơ không còn bông đùa nh trớc, mà rất nghiêm trang. Vì
vậy, chúng tôi chỉ tìm hiểu thơ Nôm Đờng luật đợc truyền tụng (lu truyền) hồi
nhà thơ còn trẻ trong phạm vi đề tài này.
Nội dung phản ánh trong thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng đa giọng
điệu, nhng chủ yếu là thơ trữ tình, còn thơ trào phúng thì số lợng không nhiều
lắm. Tuy vậy, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thông qua những bài thơ trào
phúng - đây là đối tợng tìm hiểu chính của đề tài, nhng vẫn có thể tham chiếu,
đối sánh với những bài thơ trữ tình khi cần thiết.

1

Lại Nguyên ân, Tinh thần phục hng trong thơ Hồ Xuân Hơng, tạp chí văn học số 3-1991 (Bút danh Tam Vị)

4


Nghệ thuật trào phúng...

3. Phơng pháp nghiên cứu.

Trong đề tài này, chúng tôi dùng phơng pháp thống kê, phân loại, so
sánh, đối chiếu để làm sáng tỏ nội dung chính của đề tài. Thông qua đó,
chúng tôi dùng phơng pháp miêu tả và phân tích để hiểu rõ thêm đặc trng cơ
bản của những bài thơ Nôm trào phúng của Hồ Xuân Hơng. Từ đó khái quát
lại những vấn đề đã nêu trên những cứ liệu của sự phân tích.
Ngoài ra, việc tìm hiểu dựa trên hai quan điểm khoa học:
- Quan điểm duy vật lịch sử: Tức là đặt thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng trong mối quan hệ với văn học Trung đại và các tác giả thơ Nôm cùng
thời gian lịch sử
- Quan điểm duy vật biện chứng: Đặt những bài thơ Nôm trào phúng
của Hồ Xuân Hơng trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Đặc biệt là
đặt chúng trong chỉnh thể, cấu trúc nghệ thuật mà mỗi bài thơ là một yếu tố
tạo thành để thấy rõ đặc điểm nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật
Hồ Xuân Hơng.
4. Lịch sử vấn đề.
Những sách viết hoặc in trong thế kỷ XIX rất ít nhắc đến tên tuổi Hồ
Xuân Hơng. Những từng lớp Nho sĩ cùng thời lại tỏ ra không mến phục thơ
bà. Phải đến đầu thế kỷ XX thì thơ Nôm Đờng luật Hồ Xuân Hơng mới đợc
nhiều ngời chú ý.
Khi tiếp xúc với thơ Nôm Hồ Xuân Hơng, ngời ta dễ dàng phát hiện ra
tiếng cời và họ cứ cời sau đó mới hiểu xem đằng sau tiếng cời đó là vấn đề gì
mà tác giả gửi gắm.
Có thể nói, trong thơ Xuân Hơng tràn ngập tiếng cời. Nhng để tìm hiểu
xem tiếng cời trong thơ Hồ Xuân Hơng thuộc cấp độ nào của Cái hài? Bài nào
là hài hớc (u mua), bài nào là trào phúng hoặc đả kích, châm biếm thì không
phải là công việc giản đơn.
Về trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng, từ trớc tới nay có rất
nhiều công trình nghiên cứu. Bên cạnh đó còn nhiều ý kiến nằm lẫn trong các
5



Nghệ thuật trào phúng...
vấn đề khác, nhng vẫn cha tìm đợc tiếng nói chung thật sự. Do thực tế nghiên
cứu cũng nh do phạm vi giới hạn là một khoá luận nên chúng tôi chỉ giới thiệu
một số bài viết tiêu biêủ đề cập đến nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật đợc truyền tụng của Hồ Xuân Hơng .
Trong giáo trình Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế
kỷ XIX (Nxb GD, 1999) của tác giả Nguyễn Lộc; trong cuốn Hồ Xuân Hơng tác gia và tác phẩm (Nxb GD, HN, 2001) của Nguyễn Hữu Sơn, Vũ
Thanh, tuyển chọn và giới thiệu một số bài viết có liên quan đến nghệ thuật
trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng...
Trớc hết là tác giả Phạm Thế Ngũ trong Đặc sắc Hồ Xuân Hơng đã
nói: Một tính chất phổ biến và biểu hiện nữa của Hồ Xuân Hơng là tính chất
trào phúng. Mỗi khi và cầm bút để giễu cợt, phúng thích. Đi vào phân tích thi
tập của bà, ta thấy bà đã bắn mũi tên trào phúng vào đủ mọi hạng ngời trong
xã hội và từ đó tác giả đi đến kết luận thơ Nôm Hồ Xuân Hơng có cái cời
trào phúng.
Hoa Bằng cho in Hồ Xuân Hơng nhà thơ cách mạng. Ông đã nhiệt
liệt ca ngợi nữ sĩ Bà chẳng những là nhà đại thi hào, mà là nhà đại t tởng, đại
cách mạng và đề cao tinh thần phản kháng chống nam quyền (chơng VII),
chống phong kiến (chơng VIII), chống quan niệm kính trời của nhà Nho (chơng XI), chống thành kiến trọng nam khinh nữ của xã hội đơng thời (chơng
X), chống tăng lữ (chơng XI), chống những cái bấy lâu nay ngợc đãi ngời
chửa hoang (chơng XII) - Điều này cho thấy tác giả thừa nhận sự cách mạng
trong thơ của Hồ Xuân Hơng và đa ra những đối tợng trào phúng của bà thông
qua những thói h tật xấu trong xã hội phong kiến.
Cùng một ý kiến đó, Nguyễn Hồng Phong trong bài Nữ sĩ bình dân Hồ
Xuân Hơng đã khẳng định: Hồ Xuân Hơng là một thi sĩ châm biếm, trào
lộng và trữ tình mà châm biếm trào lộng là chủ yếu. Ngay trong lúc trữ tình
tha thiết nhất vẫn cời cợt mỉa mai.
Nguyễn Sĩ Tế trong Khảo và luận thơ Hồ Xuân Hơng lại có ý kiến
khác khi bàn về nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hơng: Chúng ta đã nói
khía cạnh tình cảm mới nhiều khía cạnh bao quát thơ bà. Chính vì đó mà cái
cời châm biếm của bà không mấy khi thuần chất. Mặc dù đả phá ngời đời bà

6


Nghệ thuật trào phúng...
vẫn để lộ cái cảm quan nghệ sĩ, nghĩa là nhẹ nhàng, dễ dãi, giàu tởng tợng, dễ
giận dỗi, nhng lại dễ quên hay hờn mát, tinh nghịch. Với bài viết này tác giả
đã thừa nhận mặt trữ tình và trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng.
Trơng Tửu trong Văn nghệ bình dân lại khái quát thơ Hồ Xuân Hơng
nh sau: Thơ Hồ Xuân Hơng trữ tình đến ai hoài trào phúng đến chua cay, huê
nguyệt đến dâm đãng và ông thừa nhận rằng Thơ Hồ Xuân Hơng là một
chuỗi ấm ức, oán hận, nguyền rủa, yếu vẫn không chịu thua, ngã vẫn không
chịu đầu hàng kỷ luật phong kiến. Điều này chứng tỏ những bài thơ trào
phúng của Hồ Xuân Hơng luôn xuất hiện hai yếu tố dâm và tục.
Phát triển mạch này, Nguyễn Lộc trong giáo trình văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX (trang 268) khẳng định cái trữ tình
và trào phúng trong con ngời Hồ Xuân Hơng, tác giả viết: Con ngời cời nhiều
mà cời sâu chẳng bao giờ là ngời bộc tuệch, trống rỗng, ruột để ngoài da mà là
ngời có nhiều suy nghĩ, nhiều cảm xúc. Trữ tình và trào phúng không đối lập
nhau cũng nh cảm xúc và trí tuệ; trí tuệ càng sáng suốt thì cảm xúc khoẻ
khoắn, càng phong phú. Và những nhà văn nhà thơ lớn hai mặt đó vẫn thờng
thống nhất để nói lên tính chất đa diện của cuộc sống cũng nh của tâm hồn tác
giả và ông đi đến khẳng định Hồ Xuân Hơng cũng là một trờng hợp nh thế.
Xuân Diệu trong Các nhà thơ cổ điển Việt Nam cũng đa ra ý kiến của
mình về hiện tợng trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hơng, ông viết: Trong xã
hội cũ, thơ của họ cũng là máu và nớc mắt mặc áo trào phúng đó thôi, Xuân
Diệu đi đến khẳng định: Hồ Xuân Hơng mợn cái cời để đánh cho đau vào cái
xã hội cũ những đời Nàng, trái tim Nàng, bị nghiến trong cái guồng oan
nghiệt của nó. Trào phúng của Hồ Xuân Hơng gắn chặt với trữ tình.
Trong quá trình tìm hiểu đề tài này, chúng tôi đã đợc tiếp cận với một
số hớng khai thác mới mẻ về thơ Hồ Xuân Hơng, cũng nh nghệ thuật trào

phúng trong thơ Nôm của bà. Nhà Việt Nam học ngời Nga N.I.Niculin trong
lời giới thiệu cuốn Thơ Hồ Xuân Hơng (Nxb, Matxcơva, 1968) đã vận dụng
phơng pháp luận mà M.Bakhtin đã sử dụng trong cuốn Sáng tác của F.Rabơle
và nền văn hoá phục hng châu âu để đi đến lý giải hiện tợng thơ Hồ Xuân Hơng, ông khởi xớng: Rõ ràng ở đây cần áp dụng một thuật ngữ do M.Bakhtin
đa ra tiếng cời lỡng trị - trong đó, có sự chửi mắng và khen ngợi, sự phủ
7


Nghệ thuật trào phúng...
định và khẳng định, sự chết đi và sự sinh thành đều hoà nhập vào nhau nh hai
mặt của một quá trình tái sinh thông qua sự hạ thấp [32;168].
ở hớng tiếp cận khác theo Xã hội học, Phân tâm học, Từ nguyên
lý hoá trang (Carnava les que). Đỗ Lai Thuý trong cuốn Hồ Xuân Hơng hoài
niệm phồn thực (Nxb, VHTT. 1999) đã tiếp cận theo hớng Văn hóa học với
lý luận thơ Hồ Xuân Hơng là thơ của triết lý phồn thực đồng thời khẳng
định Trào phúng của Hồ Xuân Hơng là trào phúng hoà đồng tiếng cời đa con
ngời trở lại cội nguồn soi sáng ý thức con ngời [32;185]...
Nhìn lại các hớng tiếp cận này, đặc biệt là ý kiến của học giả Niculin,
nghệ thuật trào phúng của Hồ Xuân Hơng đã đợc nhìn nhận ở một khía cạnh
mới mẻ, phản ánh đợc những giá trị nhân văn to lớn. Tuy nhiên, bản chất nghệ
thuật trào phúng này là gì thì vẫn cha khái quát lên đợc.
Tóm lại, trên đây là một số ý kiến về nghệ thuật trào phúng trong thơ
Nôm Đờng luật của Hồ Xuân Hơng mà trong điều kiện hạn chế của mình
chúng tôi đợc tiếp cận. Tựu trung lại, bàn về nghệ thuật trào phúng, các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra biểu hiện cụ thể của nó. Song về bản chất của hiện tợng
này thì cha có đợc một ý kiến thống nhất.
Xác định đợc nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng là
điều rất cần thiết. Từ việc xác định đúng bài nào thuộc thơ trào phúng, đâu là
đối tợng, mục đích chính của trào phúng. Ta có thể thấy; việc cha xác định
thống nhất nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hơng bắt nguồn từ lý do

sau:
- Cha xác định rõ khái niệm cái hài và các cấp độ của nó.
- Cha làm rõ đợc hai khái niệm trào phúng và trữ tình. Vì vậy, mà cha
hiểu đợc đối tợng chính của nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hơng
chỉ nhằm để gây cời, để trào phúng, để châm biếm đả kích hay để trữ tình?
Điều này có thể gây ra sự tranh cãi trong việc xác định bản chất của nghệ
thuật trào phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng.
- Cha có một điểm nhìn đúng đắn xuất phát từ một quan điểm nghệ
thuật khi nghiên cứu. Từ đó, dẫn đến ý kiến cho rằng: Thơ Hồ Xuân Hơng đả
kích tầng lớp vua, quan, hiền nhân, quân tử và đi đến kết luận nghệ thuật trào
phúng Hồ Xuân Hơng là tiếng cời đả kích châm biếm.
8


Nghệ thuật trào phúng...
Ngoài ra cha xem xét toàn bộ mảng thơ Nôm truyền tụng của bà để xác
định rõ bài nào thuộc thơ trào phúng, bài nào chỉ là hài hớc, trào lộng. Vì vậy,
dẫn đến cái nhìn phiến diện khi xem xét nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm
Hồ Xuân Hơng.
Từ những vấn đề trên, luận văn của chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục một
phần hạn chế này của những ngời đi trớc để góp thêm tiếng nói của mình vào
những điều đã nhiều ngời nói, đang tiếp tục nói, tiếp tục đợc đề cập và sẽ còn
bàn tới rất nhiều trong tơng lai.

9


Nghệ thuật trào phúng...

B. Phần Nội Dung.

Chơng 1. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật
1.1. Giới thuyết về nghệ thuật trào phúng.
1.1.1. Khái niệm về Cái hài.
Xã hội loài ngời vơng quốc của cái hài. ở đâu có cuộc đấu tranh giữa
cái đẹp và cái xấu thì ở đó có cái hài xuất hiện. Mâu thuẫn xã hội, sự tan rã
của kỷ cơng, sự thống trị của quyền lực kinh tế là những nguyên nhân sâu xa
làm xuất hiện cái hài trong cuộc sống.
ở nớc ta vào khoảng thế kỷ XVIII đến hết thể kỷ XIX cái hài nảy nở rất
đa dạng. Nó vạch trần bọn quan lại tham lam, bọn Nho sĩ dốt nát thích khoe
chữ và hám danh, nó tố cáo mọi bất công của xã hội chiết toả cuộc sống con
ngời, nó chỉ ra sự suy vi rờng cột của chế độ phong kiến phản dân hại nớc.
ở mỗi hình thái xã hội Cái hài thờng nở rộ để giã từ quá khứ một cách
vui vẻ [8;21]. Vào đầu mỗi thời kỳ đang lên, mọi sự vụng về bỡ ngỡ cũng tạo
nên cái hài. Tuy vậy, tính chất hài hớc của hiện tợng cũ và mới, tiến bộ và lạc
hậu có các cấp độ khác nhau. Không một chế độ nào là hoàn hảo, không một
ngời nào là không có chỗ yếu, mọi cái đều đợc nổi bạt lên tiếng cời. Vì vậy,
trong cuộc sống ngời ta xác định sáu cấp độ khác nhau của cái hài.
- Hài hớc: Bông đùa, bông lơn.
- Sự cời nhạo: Chỉ bảo, gợi mở.
- Trào lộng: Hình thức sắc sảo của cái hài.
- Trào phúng: Khoan trúng, đánh sâu vào điểm yếu.
- Châm biếm: Kết án cái xấu, phủ định trên mọi cơng lĩnh lý tởng.
- Đả kích: Đánh mạnh và trực diện.
Vậy cái hài là một phạm trù mỹ học phản ánh một hiện tợng phổ biến
của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra tiếng cời ở những cung bậc sắc
thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự không tơng xứng mà ngời ta có thể
cảm nhận đợc về phơng diện xã hội - thẩm mỹ. Trong đó, hoặc là chính bản
thân mâu thuẫn là một trong những mặt của nó đối lập với thế giới thẩm mỹ
cao đẹp [23;35].
10



Nghệ thuật trào phúng...
Từ thời cổ đại, Arixtốt đã đề cập đến cái hài. Tiếp đến là hài kịch của
Sêchxpia, Môlie thời phục hng và tiếng cời ra nớc mắt vì đồng tiền táng tận lơng tâm của Gôgôn, của T.Sêkhốp... Do đó, ta thấy đợc cái hài có nhiều cấp
độ khác nhau và trào phúng chỉ là một trong những cấp độ của cái hài. Từ đây
ta có thể thấy một điều rằng: Nếu chỉ đơn thuần khẳng định nghệ thuật trào
phúng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hơng là tiếng cời trào phúng hay trào phúng
để châm biếm, đả kích đối tợng thì cha thật chính xác. Vì thơ trào phúng của
Hồ Xuân Hơng mới ở cấp độ thứ t của cái hài nghĩa là khoan trúng đánh sâu
vào điểm yếu của đối tợng. Vậy từ đây ta sẽ tìm hiểu về khái niệm trào phúng.
1.1.2. Đôi nét về trào phúng và đối tợng của trào phúng.
Trào phúng là một vấn đề phức tạp, cha có đợc ý kiến xác đáng đánh
giá thống nhất trong giới nghiên cứu văn học. Có ngời xem trào phúng nh một
loại hình văn học, có ngời cho trào phúng thuộc thể loại hoặc nh một nguyên
tắc đặc biệt phản ánh hiện thực.
Vậy, trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học đồng thời
cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cời
mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trơng chỉ trích, tố cáo, phản
kháng...những tiêu cực xâu xa, lỗi thời độc ác trong xã hội.
Trào phúng theo từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cời nhạo,
mỉa mai kẻ khác. Song trong lĩnh vực văn học trào phúng gắn liền với phạm
trù mỹ học và cái hài với các cung bậc hài hớc, u mua, châm biếm. Văn học
trào phúng bao hàm một lĩnh vực rộng lớn với các cung bậc của cái hài khác
nhau, từ chuyện cời tiếu lâm đến tiểu thuyết, từ các vở hài kịch đến những bài
thơ trào phúng châm biếm [23;306].
Nói nh vậy, theo nghĩa hẹp trào phúng thuộc cung bậc thứ t của cái hài,
còn nghĩa rộng thì văn học trào phúng xuất hiện ở các cấp độ khác nhau tuỳ
theo đối tợng và mức độ trào phúng nh thế nào để đạt đợc mục đích.
Đối tợng mà văn học hớng tới là con ngời. Tuy nhiên, do tính chất đặc

thù của nó, việc nhận thức đối tợng trào phúng trong văn học có ý nghĩa quan
trọng đặc biệt. Nhà văn châm biếm Nga Xatcốp-Sêdrin nói: Muốn cho văn
học châm biếm thực sự trở thành văn học châm biếm và đạt đợc mục đích của
11


Nghệ thuật trào phúng...
nó... thì nó phải nhận thức đợc một cách rõ ràng đối tợng mà chính mình chĩa
mũi nhọn vào [22;199].
Không xác định đợc chính xác đối tợng trào phúng tiếng cời rất dễ trở
nên lạc điệu, thậm chí độc ác. Điều này thuộc về t tởng của nhà văn. Bởi một
nhà văn chân chính bao giờ cũng là một nhà nhân đạo chủ nghĩa sâu sắc, bao
giờ cũng có cái nhìn chính xác trớc hiện tợng cuộc sống, phân biệt rõ ràng
chính và tà, biết nâng niu trân trọng cái chân - thiện - mỹ và căm giận trớc
những cái giả dối rỗng tuếch những xấu xa độc ác huỷ hoại nhân tính. Gôgôn
từng nói: Nghệ thuật chân chính không dạy ngời ta cời cái mũi bị vẹo mà dạy
ngời ta cời một tâm hồn lệch lạc [6;144].
Nghệ thuật trào phúng thực hiện sự phê phán bằng một cảm xúc thẩm
mỹ đặc biệt, tấn công vào cái xấu, nhng không phải bất cứ cái xấu nào cũng là
đối tợng của văn học trào phúng. Đó là những cái xấu tiêu cực về đạo đức, về
nhân cách, về lối sống, về những cái không phù hợp với hoàn cảnh tự nhiên
bình thờng xung quanh, lại đợc che đậy bởi một vỏ bọc tởng là tốt đẹp, có ý
nghĩa. Cái hài bao giờ cũng là kết quả của sự mâu thuẫn, đối lập, sự không tơng xứng, hài hoà giữa thực chất bên trong và vẻ bề ngoài mà hiện tợng ấy
muốn có hoặc giả vờ. Tiếng cời bong ra khi bất ngờ chủ thể nhận thức đợc
mâu thuẫn chứa đựng trong đối tợng, nói cách khác là nhận thức đợc bản chất
của đối tợng.
Văn học trào phúng có thể hớng tiếng cời vào nhiều đối tợng khác nhau.
Mọi hiện tợng của đời sống đều trở thành đối tợng của văn học trào phúng khi
bản thân nó chứa đựng mâu thuẫn nh đã nêu. Ta thấy trong văn học trào phúng
có hai đối tợng đó là: Đối tợng trào phúng khách thể - tức là đối tợng trào

phúng hiện thực khách quan ngoài bản thân tác giả và đối tợng trào phúng chủ
thể - tức là đối tợng trào phúng ngay trong bản thân tác giả (tác giả là đối tợng
chính của trào phúng - hiện tợng tự trào).
Văn học trào phúng xuất hiện và phát triển khi có cái hài tơng ứng trong
hiện thực xã hội. Có thể nói, hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam là mảnh
đất tốt cho văn học trào phúng nảy mầm và phát triển.

12


Nghệ thuật trào phúng...
Một nền văn học muốn trở nên chân chính, tiến bộ, có đóng góp cho đời
sống xã hội giúp con ngời ngày càng hoàn thiện mình theo hớng chân - thiện mỹ thì không thể không có văn học trào phúng.
1.1.3. Mối quan hệ giữa trào phúng và trữ tình.
Nh chúng tôi đã trình bày, khái niệm trào phúng và đối tợng của trào
phúng là gì. Vậy muốn biết mối quan hệ giữa trào phúng và trữ tình ra sao trớc
hết xin đa ra một ví dụ điển hình.
Trong thơ của Nguyễn Khuyến, ta bắt gặp nhiều lần hình ảnh của ngọn
núi An Lão. Nhng khi thì xuất hiện với dáng vẻ đáng yêu mang nhiều tâm sự
của tác giả.
Ngẩng trông núi An Lão lòng những lan man
Đỉnh chót vót lạnh lùng nghĩ thật đáng thơng
Cỏ xanh đua nhau lấp đôi ba tấc
Hoa vàng còn thấy nở một vài cành.
(Trông núi An Lão - dịch nghĩa)
Nhng có khi lại xuất hiện qua tiếng cời nhng không phải là tiếng cời
sảng khoái mà mang tâm sự trớc thế sự, trớc cuộc đời.
Mặt nớc mênh mông nổi một hòn
Núi già nhng tiếng vẫn còn non
Mảnh cây tha thớt đầy nh trọc

Ghềnh đá long lanh ngấn chửa mòn.
(Vịnh núi An Lão)
Qua hai bài thơ này, ta dễ dàng nhận thấy nguồn cảm hứng trào phúng
chẳng qua cũng là nguồn cảm hứng trữ tình. Vì nếu nh thơ trào phúng: Dùng
tiếng cời để xác định t tởng, tình cảm cho con ngời chống lại cái xấu xa lạc
hậu, thoái hoá rởm đời hoặc để vạch mặt kẻ thù, đánh vào những t tởng, hành
động mang bản chất thù địch với con ngời [23;269]. Thì trữ tình là một trong
ba phơng thức thể hiện đời sống làm cơ sở cho việc phân chia loại hình tác
phẩm văn học (...) Trữ tình phản ánh cuộc sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý
thức của con ngời, nghĩa là con ngời tự cảm thấy mình qua những ấn tợng ý
nghĩa, cảm xúc chủ quan của mình đối thế giới và nhân sinh. Thơ trữ tình thuộc
13


Nghệ thuật trào phúng...
loại hình trữ tình trong đó những cảm xúc và suy t của nhà thơ hoặc nhân vật
trữ tình trớc các hiện tợng đời sống đợc thể hiện trực tiếp [23;369].
Vì thế có thể khẳng định trào phúng là một dạng trữ tình, một cách bộc
lộ tình cảm đặc biệt. ở trào phúng tình cảm mà tác giả thể hiện là tình cảm phê
phán phủ nhận cái xấu để hớng tới khẳng định cái đẹp thống qua tiếng cời.
Tiếng cời đó bao giờ cũng đợc xuất phát từ một lý tởng tiến bộ. Trào phúng và
trữ tình luôn có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và tác động lẫn nhau, cái
này là nền tảng của cái kia. Nh vậy, có thể khẳng định trào phúng chỉ là cái vỏ
che đậy bên ngoài còn hạt nhân bên trong của nó lại là trữ tình.
1.2. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật.
1.2.1. Tình hình chung về thơ Nôm Đờng luật.
Lịch sử hình thành và phát triển của văn học dân tộc Việt Nam, thơ
Nôm Đờng luật có vị trí quan trọng. Vì nó có đóng góp hết sức to lớn, làm
phong phú thêm cho thể loại văn học ở cả hai phơng diện đó là: Thực tiễn sáng
tác và ý nghĩa lý luận. Vì thế, thơ Nôm Đờng luật đợc xem nh là một hiện tợng

tiêu biểu lại vừa độc đáo. Tiêu biểu ở chỗ nó phản ánh đợc những điều kiện,
bản chất quy luật của quá trình giao lu và tiếp nhận văn học. Độc đáo là vì thơ
Nôm Đờng luật lại là thơ mô phỏng theo thể thơ Đờng luật (Trung Quốc) nhng
nó lại có vị trí đáng kể bên cạnh những thể thơ dân tộc. Theo tác giả Lã Nhâm
Thìn (trong cuốn thơ Nôm Đờng luật, Nxb GD. 1997) cho rằng: Để có những
thành tựu này thơ Nôm Đờng luật phải dựa vào hai điều kiện.
- Điều kiện văn học.
- Điều kiện ngoài văn học.
Tác giả chứng minh các điều kiện văn học có sự gần gũi của ngôn ngữ
tiếng Việt và tiếng Hán, đó là sự tơng đồng ở phơng diện: Không biến hình,
đơn âm và tuyến tính. Ngoài ra còn có sự gần gũi về thanh điệu. Và thể thơ Đờng với kết cấu niêm luật chặt chẽ cũng có lợi khi tiếp xúc văn hoá. Với những
điều kiện ngoài văn học đó là điều kiện lịch sử đặc biệt của dân tộc ta từ thế kỷ
X và mối quan hệ giao lu, ảnh hởng của các t tởng văn hoá cũng có tác động
mạnh mẽ đến sự xuất hiện của thơ Nôm Đờng luật.
14


Nghệ thuật trào phúng...
Thơ Nôm Đờng luật đợc xác định là xuất hiện từ khoảng cuối thế kỷ
XIII (theo Đại Việt sử ký ghi lại: Năm nhâm Ngọ (Thiên Bảo) thứ t, năm 1282).
Tuy nhiên văn bản chữ viết đầu tiên còn giữ lại đợc là: Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi thế kỷ XV. Tiếp sau đó là: Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê
Thánh Tông, Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm... Đến giai
đoạn nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa thể kỷ XIX có Bà chúa thơ Nôm- Hồ
Xuân Hơng, bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, sau này xuất hiện hai
tác giả khá nổi tiếng là Nguyễn Khuyến và Tú Xơng.
Đề tài và chủ đề của thơ Nôm giai đoạn mời thế kỷ này có nhiều điểm
khác biệt. Nếu nh từ thế kỷ XVIII trở về trớc thơ Nôm Đờng luật thờng Nặng
mùi đạo, nhẹ mùi đời, thơ là để nói chí khí của nhà Nho Thi dĩ ngôn chí
hoặc Văn dĩ tải đạo. Dù đó là ý thức hệ Phật, Lão, hay Nho thì con ngời cũng

chỉ tự khẳng định mình một cách rất hạn chế. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII trở về
sau ta thấy nhu cầu của con ngời đợc khẳng định. Chữ thân, chữ tài đặc biệt
là chữ tình đã trở thành một khái niệm để con ngời tự ý thức về mình. Đặc
biệt với Hồ Xuân Hơng thơ Nôm Đờng luật phát triển với đỉnh cao và vợt qua
vòng cơng toả có ý thức hệ phong kiến. Thơ Hồ Xuân Hơng xuất hiện nh một
hiện tợng lạ, độc đáo và hết sức mới mẻ. Thơ của bà đã giải toả hoàn toàn giáo
điều phong kiến, là sự đoạn tuyệt khá triệt để với tinh thần đẳng cấp Nho giáo.
Với Hồ Xuân Hơng, thơ Nôm Đờng luật không còn ở địa vị đẳng cấp trên
trong hệ thống thể loại văn học Trung đại. Tác giả Đặng Thanh Lê trong cuốn
Hồ Xuân Hơng và dòng thơ Nôm Đờng luật (Tài liệu bồi dỡng Giáo viên,
theo sách giáo khoa văn 10 mới. ĐHSP Hà Nội. 1996) nhận xét: Với nhà thơ,
thể thơ Đờng luật đã xa phong cách trữ tình trang nghiêm cao quý để đi thẳng
vào cuộc sống đích thực không chỉ là dân tộc mà còn hết sức dân dã.
Thật vậy, với thơ Nôm Đờng luật của Hồ Xuân Hơng ta thấy thơ bà đã
chuyển sang con đờng dân chủ hoá đánh dấu một bớc phát triển vợt bậc, độc
đáo và riêng có của Hồ Xuân Hơng. Trong thơ Nữ sĩ đã có một sự cách tân,
sáng tạo đó là sự rút ngắn khoảng cách giữa ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ
đời sống.

15


Nghệ thuật trào phúng...
1.2.2. Các tác giả tiêu biểu viết về đề tài trào phúng trong thơ Nôm
Đờng luật.
Nh chúng ta đã biết, Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông
chính là sự tìm tòi mở hớng cho nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng
luật. Và đợc khẳng định rõ nét hơn ở thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - một nhà Nho,
một nhà đạo đức mực thớc, nhng đứng trớc thế thái nhân tình đào lộn, đạo đức
suy vi ông đã có những vần thơ phản ánh sự xuống cấp của xã hội.

- Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rợu hết ông tôi
- Đạo nọ nghĩa này trăm tiếng bớm
Nghe bui thinh thỉnh lại đồng tiền
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập)
Nhng đến Hồ Xuân Hơng, Đờng luật Nôm đã thực hiện một cuộc cách
tân đầy ý nghĩa. Thơ bà cuộc sống đời thờng, nguyên sơ, chất phát, dân dã, đã
trở thành đối tợng thẩm mỹ, là trung tâm của quá trình miêu tả cái bản năng tự
nhiên của con ngời, cái trần tục vốn xa lạ với phong cách trang trọng cao quý
của Đờng luật trở nên phù hợp với phong cách trào phúng của Nữ sĩ.
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
(Mắng học trò dốt)
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay
(Trách Chiêu Hổ)
Thật là thiếu sót khi cha nhắc đến các tác giả viết về đề tài trào phúng
trong thơ Nôm Đờng luật nh Nguyễn Công Trứ và sau này xuất hiện hai tác
giả cổ điển cuối cùng của văn học Trung đại là Nguyễn Khuyến và Tú Xơng.
Kể từ khi Hồ Xuân Hơng cho đến các tác giả sau này đã khẳng định chức
năng trào phúng to lớn của thơ Nôm Đờng luật.
1.2.3 Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật.
Nh trên đã giới thiệu qua về quá trình hình thành và phát triển của thơ
Nôm Đờng luật cùng với sự đóng góp to lớn của các tác giả tiêu biểu. Phần
16


Nghệ thuật trào phúng...
nào thấy đợc qua mời thế kỷ thơ Nôm Đờng luật xuất hiện và kết thúc có thể
nói là: Không có tuổi trẻ nhng cũng không biết đến tuổi già.

Những sáng tác của tác giả kể trên chủ yếu dựa trên ba quan điểm sau:
- Họ đứng trên lập trờng đạo đức phong kiến để trào phúng đả kích.
- Họ vạch ra cái xấu cần phê phán (đây đợc xem là một kiểu trào
phúng).
- Thể hiện sự khủng hoảng, bất lực, bế tắc của ý thức hệ phong kiến trớc
sự đổi thay của lịch sử (đôi khi ta thấy các nhà thơ này xuất hiện hiện tợng tự
trào trong văn chơng. Điều này nói lên bi kịch uất ức, bế tắc của các nhà Nho
lúc bấy giờ trớc xã hội nh Tú Xơng, Nguyễn Khuyến).
Nghệ thuật trào phúng không chỉ là đặc điểm của thơ Nôm Đờng luật
mà ở thời nào cũng có, cũng bộc lộ khi muốn vạch mâu thuẫn của sự vật, mâu
thuẫn giữa cái bên ngoài và cái bên trong để đa ngời đọc nhận thấy ý nghĩa
mỉa mai, trào lộng [23;269]. Nếu nh nghệ thuật trào phúng của văn học dân
gian thờng hay dựa vào các quy luật của tự nhiên để vạch ra cái trái tự nhiên
của đối tợng trào phúng. Ngợc lại trong văn học viết, hiện tợng trào phúng
trong các nhà Nho thờng dựa vào cơng thờng đạo lý của xã hội phong kiến để
vạch trần ra cái phi đạo lý - tiếng cời này thờng hết sức thâm thuý, hóm hỉnh.
Còn tiếng cời trong văn học dân gian là tiếng cời tự do thoải mái mang đậm
tính chất bình dân, trần tục đời thờng. Hồ Xuân Hơng cũng nằm trong mạch
nguồn tạo nên bởi sự hợp lu hai dòng chảy lớn: dòng chảy của văn học dân
gian và dòng chảy của văn chơng bác học.

Chơng 2. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm
Đờng luật Hồ Xuân Hơng.
17


Nghệ thuật trào phúng...
2.1. Những bài thơ trào phúng tiêu biểu của Hồ Xuân Hơng.
Nh chúng ta đã biết, thơ thơ Nôm trào phúng là dùng tiếng cời để xây
dựng t tởng, tình cảm cho con ngời, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hoá,

rởm đời, hoặc đả kích vạch mặt kẻ thù, đánh vào những t tởng, hành động
mang bản chất thù địch đối với con ngời.
Hơn nữa hiện tợng dùng thơ Đờng luật Nôm vào mục đích trào phúng
khôg phải là điều mới lạ. Nhng cái mới lạ ở đây là một giọng thơ trào phúng
bậc nhất lại kết phát nhằm đúng một ngời mà ít ai ngờ tới; một ngời đàn bà
chỉ đợc xã hội dành cho một chỗ ngồi nhỏ bé riêng trong gia đình: Hồ Xuân
Hơng [35;101].
Có thể xem, Hồ Xuân Hơng là nhà thơ nữ đầu tiên làm thơ diễu đời ở nớc ta. Nhng chúng ta đi sâu vào tìm hiểu thơ trào phúng của bà thì đối với việc
bà làm thơ loại đó không còn là một chuyện lạ nữa đối với bao sự lạ khác.
Trong khi khảo sát những bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hơng,
chúng tôi đã tham khảo một số sách nghiên cứu, chuyên luận, phê bình... về
vấn đề này.
Tác giả Trần Thanh Mại Thử bàn về vấn đề tục dâm trong thơ Hồ
Xuân Hơng (nghiên cứu văn học số 4. 1961) đã chia thơ Nữ sĩ ra làm ba loại:
Loại thứ nhất: Gồm những bài thơ có tính t tởng cao và phơng nghệ
thuật thanh nhã.
Loại thứ hai: Đó là những bài có yếu tố tục nhng những yếu tố tục
nhằm mục đích yêu cầu tiến bộ. Theo ông thì đó là những bài thơ dùng để đả
kích một từng lớp nào đó, hoặc một thói h tật xấu của con ngời, đồng thời lại
nói lên đợc ý chí vơn lên của họ.
Loại thứ ba: Gồm những bài có tính chất khiêu gợi, không lành mạnh,
những bài có yếu tố dâm [35;323].
Chia nh vậy, vô hình trung loại thứ hai đợc xem là thơ trào phúng. Tuy
nhiên xét ở một phơng diện nào đó cách chia này cũng quá rạch ròi. Bởi trong
hơ Nôm của Hồ Xuân Hơng, những bài thơ trữ tình cũng có đan cài giọng thơ
trào phúng và những bài tởng chừng chỉ dùng để trào phúng, đả kích châm
biếm hay u mua trào lộng lại cũng rất trữ tình và cả hai loại thơ này vẫn xuất
hiện những yếu tố mà ngời ta quen gọi là tục, dâm. Bởi thơ Hồ Xuân Hơng
18



Nghệ thuật trào phúng...
là sự kết hợp nhuần nhuỵ cả ba yếu tố ấy để tạo nên một thứ thơ - Thơ Hồ
Xuân Hơng.
Tác giả Nguyễn Lộc trong cuốn Thơ Hồ Xuân Hơng (Nxb Vh,
H.1982) lại lấy tiêu chí phong cách để phân chia, lựa chọn thơ bà. Tuy nhiên
tác giả mới chỉ đa ra những ý kiến xác đáng về phong cách chứ cha thật sự áp
dụng phơng pháp này vào thơ Hồ Xuân Hơng môt cach hợp lý đợc.
Đỗ Lai Thuý, Hồ Xuân Hơng - hoài niệm phồn thực (Nxb,vhtt. 1999)
đã đa ra một số cách tiếp cận thơ Hồ Xuân Hơng nh tiếp cận xã hội học,
tâm lý học hay từ nguyên lý hội hoá trang (Carnavalesque), tiếp cận
phân tâm học và bằng cả con đờng đờng đến nhân học văn hoá để tìm
hiểu thơ Hồ Xuân Hơng và ông đã có rất nhiều khám phá mới mẻ độc đáo.
Ông đã tôn vinh Hồ Xuân Hơng là nhà thơ Hoài niệm phồn thực.
Biết bao thế hệ yêu thích và tìm hiểu thơ bà. Con đờng của những kẻ
hậu sinh chúng tôi hành trình thì bắt gặp hai câu thơ của Tam Nguyên Yên
Đổ viết về bà Thơ thánh thơ tiên đời vẫn có/Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi
thay - Một lời khen tặng và nể phục! Còn Tản Đà cho rằng Thi trung hữu
quỷ nghĩa là trong thơ có ma, quỷ! Nếu chiết lọc bỏ qua mất cái đáng sợ
ấy, cái ma quỷ ấy thì sẽ mất luôn cả cái đẹp, cái riêng có trong thơ Hồ Xuân
Hơng.
Từ những ý kiến đó chúng tôi đi đến tìm hiểu khảo sát gàn 50 bài thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hơng xem bài thơ nào là đối tợng chính cần
quan tâm của chúng tôi. Ngoài việc dựa vào kinh nghiệm của những ngời đi
trớc; cùng các cấp độ của cái hài, xác định khái niệm trào phúng; thông qua sự
tìm hiểu và phân tích cụ thể để đa ra một số bài thơ đợc xem là trào phúng, bài
nào chỉ mức độ trào lộng, bông đùa. Dới đây là một số bài thơ trào phúng tiêu
biểu của Hồ Xuân Hơng:
- Mắng học trò dốt bài (1), (2).
- Trách Chiêu Hổ (Xớng hoạ với Chiêu Hổ) bài (1), (2), (3).

- Vịnh s(Cái kiếp tu hành, S bị ong châm, S hổ mang)
- Chùa Quán sứ.
- Bỡn bà lang khóc chồng.
- Dỗ ngời đàn bà chồng chết
19


Nghệ thuật trào phúng...
- Khóc tổng Cóc
- Không chồng mà chửa
Ngoài ra, còn một số bài thơ nh: Vịnh nữ vô âm, Vịnh cái quạt,
Đánh đu, Quả mít, Ông cử võ... có ngời cho rằng đây là những bài thơ
trào phúng. Nhng theo ý kiến của chúng tôi, những bài thơ này cha đến mức
khoan trúng, đánh sâu vào điểm yếu của đối tợng, mà nó chỉ thuộc phạm vi
hài hớc, trào lộng. Trong khi tìm hiểu, phân tích, đối sánh chúng tôi sẽ lý giải
sau.
2.2. Đặc điểm trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật của Hồ Xuân
Hơng.
Tìm hiểu đặc điểm trào phúng trong thơ Nôm Đờng luật của Hồ Xuân
Hơng càng cảm phục cái biệt tài độc đáo của Bà chúa thơ Nôm. Bên cạnh
những bài thơ trữ tình, yêu đời đến tha thiết thể hiện tình cảm, tâm hồn giàu
cảm xúc với con ngời, với thiên nhiên thì một tính chất phổ biến và thể hiện
nữa là tính chất trào phúng. Mỗi khi bà cất bút để giễu cợt phúng thích. Đi
vào phân tích thi tập của bà ta thấy bà đã bắn mũi tên trào phúng vào đủ mọi
hạng ngời trong xã hội [35; 114]. Vậy Hồ Xuân Hơng đã bắn mũi tên trào
phúng vào những đối tợng nào? Tại sao lại nhằm vào những đối tợng ấy?
Nếu nh đả kích, châm biếm là mức độ cao nhất của Cái hài. Thì trào
phúng mới là khoan trúng đánh sâu vào đối tợng. Nhng do yêu cầu và nhiệm
vụ của văn học trong từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử mà văn học lại mang chức
năng riêng - nhằm vạch mâu thuẫn của sự vật, hiện tợng. Mâu thuẫn giữa cái

bên ngoài và cái thực chất bên trong để cho ngời đọc thấy ý nghĩa mỉa mai,
trào lộng, do vậy ngời ta chia thơ trào phúng ra làm hai loại: Thơ châm biếm
và thơ đả kích.
- Thơ châm biếm nhằm mục đích giáo dục xã hội, giáo dục con ngời
bằng nụ cời nhẹ nhàng mà kín đáo, dí dỏm mà sâu sắc. Nụ cời đó bao hàm cả
việc phê phán lẫn tinh thần xây dựng.
- Thơ đả kích nhằm lột mặt nạ của kẻ thù bằng một nụ cời có sức công
phá quyết liệt. [23; 269].
20


Nghệ thuật trào phúng...
Nếu chỉ đem các cấp độ của cái hài trong mỹ học hoặc khái niệm về thơ
trào phúng để tìm hiểu về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hơng thì
cha thật thoả đáng khi cha chọn một trong hai cách trên. Do vậy, khi tìm hiểu
thơ trào phúng của Hồ Xuân Hơng chúng tôi sẽ cố gắng kết hợp hài hoà giữa
hai khái niệm cái hài và thơ trào phúng để phân loại các đối tợng trong thơ
trào phúng của nữ sĩ.
2.2.1. Đối với tầng lớp Nho sĩ (trí thức Nho học).
Xã hội Nho giáo thờng đề cao cơng thờng đạo lý cùng tôn giáo nh thờ
vua chúa, tôn trọng kẻ sĩ. Bởi Kẻ sĩ là trụ cột của xã hội phong kiến, họ phải là
những ngời có t tởng Trung quân ái quốc, họ phải là những ngời thấm nhuần
đạo thánh hiền, là những ngời thanh cao chỉ nghĩ đến sự nghiệp duy nhất là đợc học hành thành tài để giúp đời. Nếu không đợc phụng sự cái lý tởng ấy thì
lui về hái rau, uống nớc suối để ngâm thơ vịnh nguyệt qua ngày. Đấy
chính là kẻ sĩ mẫu mực và xã hội phong kiến cũng yêu cầu nh vậy đối với từng
lớp Nho sĩ.
Bản thân Hồ Xuân Hơng là một trí thức (đợc ăn học) chứ không phải là
một Nho sĩ (vì xã hội phong kiến không cho con gái theo học chữ Nho) - Nhng Hồ Xuân Hơng lại là một ngời trí thức của nhân dân, sống trong thời đại
của ý thức hệ phong kiến bị rạn nứt và đổ vỡ, vua, quan, hiền nhân, quân tử,
Nho sĩ... không còn là đối tng tôn thờ.

Trong xã hội Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XVIII nửa sau thế kỷ
XIX có nhiều cuộc biến thiên lớn. Xã hội phong kiến trên đờng suy thoái, vua
quan tranh chấp quyền bính, Trịnh - Nguyễn phân tranh dẫn đến cát cứ đằng
trong đằng ngoài nhân dân phiêu tán dắt díu nhau đi ăn xin đầy đờng1. Vì
vậy thời kỳ này có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Việc học hành cũng
không còn đợc chú trọng, trờng học mở ra nhiều, học trò không cần giỏi cũng
có thể đi thi. Bọn thống trị cần tiền sẵn sàng biến thi cử thành chuyện mua
bán. Chẳng hạn năm 1750 chúa Trịnh quy định trong kỳ thi Hơng, ai nộp ba
quan đợc miễn khảo hạch, coi nh đỗ Sinh đồ, vì vậy mà gọi là Sinh đồ ba
quan.
Sử quán triều Nguyễn. Việt sử thông giám cơng mục (bản dịch) Nxb VSĐ, HN.1960, tập XVIII, quyển 39,
trang 1756.
1

21


Nghệ thuật trào phúng...
Hồ Xuân Hơng là một trí thức bình dân nên thấy đợc quy luật vận động
tất yếu của lịch sử. Do đó, đối tợng trào phúng của Hồ Xuân Hơng rất phong
phú nhng trớc hết là tầng lớp trí thức phong kiến - Họ sẽ là rờng cột trong tơng
lai của xã hội, chứ cha phải là ngời quản lý xã hội. Vậy tri thức phong kiến ở
đây là những ai? Tại sao Hồ Xuân Hơng lại chĩa mũi nhọn trào phúng vào đối
tợng này?
Trí thức phong kiến trong thơ Hồ Xuân Hơng cũng thuộc tầng lớp dới.
Họ là học trò Nho học, là những thầy đồ (trí thức nhà trờng), là những nhà s
(trí thức nhà chùa). Vì họ là những ngời học chữ thánh hiền, tiếp thu hoặc ảnh
hởng của ý thức hệ phong kiến Nho học. Đối với học trò cụ Khổng, đây là
những ngời học chữ thánh hiền, thông hiểu luân lý đạo đức. Mục đích học của
họ không chỉ để hiểu biết, để mở mang kiến thức mà học đối với họ để thi cử

và làm quan, để có địa vị trong xã hội.
Từ cuối đời Trần trở đi, Nho học trở thành độc tôn. Lý trí với giáo điều
nghiêm khắc ngự trị xã hội. Nhng cũng từ giai đoạn này, bản năng thô lỗ
của đa số bình dân nớc Việt đã đợc rèn dũa rất nhiều. Sau buổi thịnh Lê, kỉ
luật mất dần, xã hội loạn lạc, không những dân chúng trở lại nếp xa mà ngay
cả Nho sĩ cũng bị xáo trộn. Hồ Xuân Hơng nhận thấy học trò lúc này thì dốt
nát, thầy đồ thì tha hoá biến chất, đạo đức giả. Tình hình học hành thi cử nh
vậy, chất lợng không đảm bảo nh trớc. Một số kẻ sĩ giàu có nhờ tiền mà đậu
đạt. Với kiểu học hành, thi cử nh vậy, Hồ Xuân Hơng đã vạch ra điểm yếu của
học trò qua hai bài thơ Mắng học trò dốt
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ,
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu tha.
Trong cuốn Hồ Xuân Hơng thơ và đời (Nxb Vh H. 1996) đặt tiêu đề
cho bài thơ là Lũ ngẩn ngơ. ý muốn nói, Hồ Xuân Hơng chê bọn học trò
ngốc nghếch, học thì dốt lại rủ nhau đi ghẹo gái còn tập tọng đua đòi vần vè,
ví von nên Hồ Xuân Hơng thấy khó chịu và viết bài này. Một số sách khác nh
của tác giả Đỗ Lai Thuý, của Xuân Diệu thì lấy tiêu đề là Mắng học trò
22


Nghệ thuật trào phúng...
dốt. Theo chúng tôi, các tiêu đề trên đều có thể chấp nhận đợc mà không ảnh
hởng gì đến nội dung trào phúng trong thơ Xuân Hơng.
Trong xã hội phong kiến, luôn luôn có thành kiến. Quan niệm trọng
nam khinh nữ Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô hay cho rằng đàn bà là
loại khó dạy bảo. Xã hội phân chia giai cấp, sự xuất hiện của đẳng cấp trên và
đẳng cấp dới, kẻ thống trị và ngời bị trị. Cho nên xã hội phongkiến ở phơng
đông nói chung xã hội Việt Nam nói riêng Nho giáo buộc ngời phụ nữ phải

sống dới quyền của đàn ông, luôn bị coi là cha trởng thành. Họ chỉ biết đến
Tam tòng tứ đức nhằm tô điểm cho đấng phu quân, Xuân Hơng bảo:
Không phải thế. Phải lật ngợc lại vấn đề... bắt đầu từ sự sống... ở đó nam nữ
bình đẳng [5;20].
Xã hội phong kiến Việt Nam với Nam tôn nữ ti, con trai thì đợc học
hành còn con gái thì không cần phải học, vì sớm muộn cũng phải lấy chồng.
Có học nhiều thì cũng chẳng nhờ đợc gì. Mà Nếu đợc nâng khăn sửa túi cho
đấng phu quân thì cần gì đến chữ nghĩa! Từ quan niệm này, đã làm thui chột,
o bế biết bao tài năng nhi nữ trong xã hội. Có phải vì thế mà Hồ Xuân Hơng
mới mắng bọn học trò dốt lại còn ba hoa, huênh hoang khoác loác và hợm đời,
cứ tởng mình biết vài chữ mà đã mang ra loè bịp thiên hạ - đừng tởng chị này
kém cỏi, không biết gì! Và biết đâu nàng đã có cái cời mỉm khinh bỉ! Đã vậy
chị sẽ cho một bài học nhớ đời. Không biết làm thơ thì đừng có tí tửng để
chị này dạy cho.
Nàng gọi bọn học trò, bọn Nho sĩ rởm đời là Lũ ngẩn ngơ, đã học chữ
thánh hiền sao không hiểu lễ nghĩa gì hết. Nàng cha trách cái văn mà trớc hết
là trách cái lễ kém. Bởi đối với những kẻ nay còn là anh khoá, cậu Nho nhng
mai kia Cửa vũ hoá rồng học sẽ là quan Cử, quan Nghè là cha mẹ dân, lại
phải để cho phận nữ nhi thờng tình dạy cho. Không dừng lại ở đó, nàng lại bồi
thêm cho mấy định ngữ mà mức độ khinh thị không biết để đâu cho hết. Nàng
gọi bọn Nho sĩ là ong non, là dê cỏn. Theo Xuân Diệu, Hồ Xuân Hơng
khinh ngời nh tát nớc đổ đi, mà chữ dùng thì sắc sảo đến chừng nào! Không
phải là dê nhỡ, dê bé, dê con, mà đích thực là dê cỏn! Những chữ chết tức ngời
ta! [3; 488]. Còn với Trần Khải Thanh Thuỷ thì cho rằng: Dê cỏn không
phải là dê con, cũng giống nh lợn tháu, gà choai, không phải là lợn con hoặc
23


Nghệ thuật trào phúng...
gà con [36; 24]. Dù có giải thích nh thế nào thì cũng chỉ lý giải đợc phần nào

về tài sử dụng ngôn ngữ của bà. Bà không những nói lên sự ngu dốt của học
trò mà còn chỉ ra cái lối sống bừa bãi, chỉ vì buồn sừng mà húc bừa,
châm bậy. Nhng cái sừng non mới nhú ấy chỉ húc vào dậu tha, châm vào
hoa rữa mà thôi.
ở bài hai, không còn là sự dạy bảo mà là sự chê trách. Bà không chịu đợc những chàng Nho sĩ không chịu lợng tài sức non nớt của mình, hễ đi đâu là
vẽ vời thơ phú đến đó. Phải chăng họ thích học đòi các thi nhân xa để lại dấu
ấn mỗi nơi mình tới? Xuân Hơng viết:
Dắt díu đa nhau đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên!
Ai về nhắn bảo phờng lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
Trớc hết, xin đợc giải thích về hai chữ Lòi tói mà Xuân Hơng dùng
(Nghĩa đen là dây sắt gồm nhiều vòng mắc vào nhau). Trong cách chấm thơ
văn xa thờng có khuyên và sổ. Song trong lúc đùa nghịch khuyên nhiều vòng
móc xích vào nhau. Vì thế mà gọi là khuyên lòi tói khi gặp những đoạn văn
viết bạt mạng, lăng nhăng. Sau này, nghĩa bóng để chỉ những kẻ viết chữ xấu.
Bài thơ này, Xuân Hơng muốn chê bọn học trò học chữ thánh hiền mà
viết chữ xấu. Ngời xa có câu nét chữ là nét ngời. Vì vậy mới có nghệ thuật
th pháp (nghệ thuật viết chữ đẹp). Cho nên khi nhìn những chữ loằng ngoằng
nh chi dây xích, chữ nọ ngoắt ngoéo, quàng xiên vào chữ kia Xuân Hơng có ý
chê sự kém cỏi, dốt nát của học trò.
Ngoài ra, Xuân Hơng còn trách đây là những kẻ vô văn hoá, nơi chùa
chiền thâm nghiêm lại đề thơ lung tung lên tờng của nhà chùa. Ca dao có câu
Xấu hay nói tốt, dốt hay khoe chữ là thế! Hồ Xuân Hơng phê phán và gọi
đích danh là phờng lòi tói và buộc họ khắc phục sửa chữa khuyết điểm của
mình bằng cách đem vôi quét trả đền.
Có thể nói, Hồ Xuân Hơng sống vào thời đại các nhà Nho chân chính.
Họ đều ý thức đợc tài năng hơn đời, hơn ngời của mình. Phan Ngọc nhận xét:
Đây là thời đại mà mọi ngời đều khoe tài, Nguyễn Du khoe tài, Hồ Xuân Hơng khoe tài, Nguyễn Công Trứ khoe tài và tìm chỗ dựa cho mình bằng tài
24



Nghệ thuật trào phúng...
năng cá nhân. Vì vậy, mà Hồ Xuân Hơng mới cho rằng cái xã hội phong kiến
lúc bấy giờ có khác nào Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông.
Cả hai bài thơ, Hồ Xuân Hơng không phải là hạ bệ, tẩy chay tầng lớp
Nho sĩ mà thi sĩ hạ bệ để nhắc nhở, để giáo dục, để phục thiện cho học trò. Do
đó cả hai bài thơ không mang tính chất thắng bại, phân biệt giai cấp.
Nếu nh trớc đây, nhiều ngời xem nội dung thơ trào phúng của Hồ Xuân
Hơng là đả kích, là châm biếm sâu cay vào đối tợng, nào là đanh đá, xách
mé... Theo chúng tôi thì không hẳn nh thế! Xuân Hơng cũng xuất phát từ một
tri thức bình dân góp tiếng nói phê phán vào những ngời cùng mang danh trí
thức. Ta có thể thấy nghệ thuật trào phúng của Hồ Xuân Hơng rất riêng, bà
đứng cao hơn hẳn đấng mày râu một bậc, xng chị mà còn đòi dạy bảo,
thật là điều hiếm thấy trong thơ văn Trung đại. Nếu nh văn học trong giai
đoạn này ngời ta tránh nói đến cái tôi cá nhân, cá thể, mà chỉ nói đến cái ta
chung, đề cao cộng đồng (phi ngã). Thì Hồ Xuân Hơng đã làm ngợc lại, thơ
bà phần nào khẳng định bản ngã, khẳng định cái tôi cá nhân và đa văn học
sang hớng dân chủ hoá.
Bên cạnh tầng lớp Nho sĩ thì với những ông đồ trong thơ bà suy cho
cùng cũng là hai đối tợng có cùng tên gọi - Đó là những trí thức trong nhà trờng phong kiến Nho học. Vì thế chúng tôi không tách ba bài Trách Chiêu
Hổ mà có sách chép là Xớng hoạ cùng Chiêu Hổ thành phần riêng để tiện
cho việc đối sánh và hiểu hơn về đối tợng trào phúng này.
Giai đoạn giữa Hồ Xuân Hơng và Chiêu Hổ là bạn thân cùng xớng
hoạ với nhau, hiện nay cha có một tài liệu nào cho biết ở giai đoạn nào thì Hồ
Xuân Hơng và Chiêu Hổ cùng xớng họa? Và liệu có một ông Chiêu Hổ thực
hay không? Có ngời cho rằng Chiêu Hổ chính là Phạm Đình Hổ (1768 1839). Nhng chúng tôi xin không bàn đến vấn đề này mà chỉ tìm hiểu nội
dung mang tính chất trào phúng của Hồ Xuân Hơng.
Với phận đàn bà liễu yếu đào tơ mà không chịu thua kém cánh mày
râu nh t tởng thông thờng. Bên cạnh đó Xuân Hơng tỏ ra là ngời phụ nữ đầy

bản lĩnh, rất vững vàng nhng không kém phần đanh đá, đối chọi với Chiêu
Hổ từng vần thơ đã đành mà còn chế diễu ngầm ẩn sâu xa thâm thuý. Điều
này cho thấy lần đầu tiên trong văn học Trung đại có một ngời phụ nữ giám b25


×