Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Lịch sử văn hoá dòng họ phan huy ở thạch châu thạch hà hà tĩnh từ thế kỷ XVI đến nay (2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.19 KB, 65 trang )

A. Dẫn luận
1. Lý do chọn đề tài

Những tởng rằng thời gian đi qua sẽ xóa nhoà tất cả những gì thuộc về
quá khứ nhng những gì là giá trị đích thực thì vẫn mãi mãi tồn tại và thách
thức cùng tháng năm. Lịch sử dân tộc Việt Nam trải qua bao thăng trầm biến
động với những cuộc thiên di đắp đổi vẫn sáng ngời những chiến tích âm
vang và đáng tự hào. Trong bản hùng ca chung ấy có cội nguồn của mỗi tên
đất, tên làng, có truyền thống của mỗi phong tục tập quán và đặc biệt có cả
lịch sử đi về của mỗi dòng họ, giống nòi.
Trong mạch nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam tồn đọng lâu dài và cơ
bản là ở văn hóa làng xã và văn hóa dòng họ. Trong đó văn hóa dòng họ vừa
có những nét chung của văn hóa dân tộc nhng cũng mang những nét riêng
biệt. Dòng họ cũng là một môi trờng văn hóa gìn giữ những phong tục, cúng
tế, lễ hội mang đậm những dấu ấn riêng của ngời Việt Nam. Nó tạo nên bộ
mặt riêng cho từng địa phơng dựng nên những di sản văn hóa vô giá cho văn
hóa dân tộc.
Vì vậy, việc nghiên cứu dòng họ vừa có ý nghĩa quan trọng trong việc
giữ gìn, tôn vinh, phát huy và giáo dục các truyền thống lịch sử địa phơng,
trở thành nguồn tài liệu để tìm hiểu lịch sử văn hóa dân tộc, vừa giúp chúng
ta hiểu thêm về thân thế, sự nghiệp và những đóng góp của các nhân vật lịch
sử .
Từ xa nhân dân ta đã có những câu Chim có tổ, ngời có tông, Uống
nớc nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Đó là truyền thống đạo lý của
ngời Việt Nam. Do vậy nghiên cứu tìm hiểu dòng họ là góp phần củng cố
nuôi dỡng ý thức về cội nguồn, tình yêu quê hơng, đất nớc, ý thức cộng đồng
của ngời Việt Nam. Đó là bản sắc văn hóa, đó là sức mạnh của truyền thống
Việt Nam đã giúp con ngời Việt Nam qua thử thách trong lịch sử và vững bớc đi vào tơng lai.
Hiện nay một xu hớng tìm về nguồn cội đang phát triển ngày càng
mạnh mẽ và đi vào chiều sâu. Trong các dòng họ, ngời ta chắp nối gia phả,
trùng tu lại từ đờng, Lăng mộ, bia kí và một số nghề truyền thống Từ đó đã


khơi dậy truyền thống dân tộc, gia phong dòng họ thể hiện lòng thành kính
biết ơn tổ tiên. Do đó, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, khoa học lịch
sử văn hóa dòng họ góp phần gợn đục khơi trong củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc.
Hà Tĩnh - mảnh đất địa linh nhân kiệt là nơi sinh cơ lập nghiệp của
biết bao dòng họ. Ngời ta từng biết đến những cái tên rất dễ khắc sâu nh
1


dòng họ Nguyễn - Trờng Lu, họ Lê - Trung Lễ, họ Nguyễn - Tiên Điền, họ
Nguỵ - Xuân Viên, họ Dơng - Mỹ Duệ, họ Lê - Hà Trung; họ Đặng ở Tùng
Lộc Đặt biệt, ngời ta từng biết đến dòng họ có bề dày lịch sử và truyền
thống và có nhiều cống hiến về mọi lĩnh vực cho đất nớc qua các thời kỳ: có
nhiều bậc tài cao, học rộng, có lòng yêu nớc thơng dân, là những danh nhân,
nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị lỗi lạc Đó là dòng họ Phan
Huy ở Thạch Châu Thạch Hà - Hà Tĩnh.
Dòng họ Phan Huy xa ở xã Ngọc Điền nay là xã Thạch Thợng- huyện
Thạch Hà. Tổ tiên dòng họ đến đây sớm nhất vào đầu thời Hậu Lê thế kỷ
XVI. Trải qua hơn 400 năm với 15 đời con cháu, dòng họ Phan Huy đã có
nhiều đóng góp đáng ghi nhận cho lịch sử dân tộc trong qúa trình dựng nớc
và giữ nớc.
Ngày 23 tháng 12 năm 1995 Bộ Văn hóa và Thông tin đã ra quyết
định công nhận nhà thờ họ Phan Huy ở xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, Hà
Tĩnh là di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đó không chỉ là vinh dự lớn lao
của con cháu dòng họ Phan Huy mà còn là niềm tự hào chung của nhân dân
Thạch Hà, nhân dân Hà Tĩnh.
Nghiên cứu về dòng họ Phan Huy giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về
gia tộc, cộng đồng, về mối quan hệ giữa các dòng họ. Từ đó duy trì, phát huy
khối đoàn kết tạo nên sức mạnh tinh thần và vật chất to lớn để đóng góp xây
dựng quê hơng ngày càng giàu đẹp. Cũng từ đó mà giữ vững gia phong phát

huy truyền thống tốt đẹp, đồng thời làm sáng ngời văn hóa gia tộc trong di
sản văn hóa dân tộc, góp phần hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hóa đất nớc, đa nớc ta hiên ngang sánh vai với các cờng quốc năm châu
nh Bác Hồ mong muốn.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu Lịch sử Văn hóa dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu - Thạch Hà - Hà Tĩnh từ thế kỷ
XVI đến nay (2005) để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Văn hóa dòng họ nằm trong khuôn khổ văn hóa làng xã, đất nớc. Nội
dung xây dựng văn hóa dòng họ thực chất là xây dựng con ngời có văn hóa
trên bớc đờng đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc theo định hớng
xã hội chủ nghiã. Chính vì vậy nghiên cứu về dòng họ là một đề tài hấp dẫn,
lý thú và thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu.
Với truyền thống uống nớc nhớ nguồn, hiện nay một số địa phơng đã
tổ chức các cuộc hội thảo về lịch sử - văn hóa dòng họ với những nhân vật
nổi tiếng, những con ngời u tú của dòng họ.
2


Dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu - Thạch Hà - Hà Tĩnh đã có một số
tác giả, tài liệu đề cập đến dới những khía cạnh khác nhau nhng cha có một
tác phẩm nào nghiên cứu cụ thể về lịch sử văn hóa dòng họ Phan Huy. Trong
quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi đã tiếp cận đợc một số tài liệu
nh sau:
Tác giả Thái Kim Đỉnh trong Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh do Sở
Văn hóa thông tin Hà Tĩnh ấn hành đã nói đến các nhà khoa bảng của dòng
họ Phan Huy nh Phan Huy Cận, Phan Huy Ôn, Phan Huy Tùng
- Tác giả Ngô Đức Thọ trong Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 1910) cũng đã nói đến các nhà khoa bảng của dòng họ Phan Huy nh Phan
Huy Cận, Phan Huy ích, Phan Huy Ôn, Phan Huy Tùng.
- Về chính sử có lịch sử triều hiến chơng loại chí tập 1 đã đề cập đến

nhân vật Phan Huy Cận; hay trong Đại Nam thực lục tập 7, 8, 9, 10, 11 có đề
cập đến Phan Huy Chú.
- KaTo ATSUFUMI Nhật Bản làm luận án tiến sỹ văn hóa học tại xã
Thạch Châu - Thạch Hà - Hà Tĩnh với Đề tài Tính cộng đồng nông thôn
miền trung trong thời kỳ đổi mới cũng đã nhắc đến làng Thu Hoạch nổi lên
bởi dòng họ Phan Huy.
- Trong cuốn Thạch Hà đất nớc, con ngời của Huyện uỷ, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Thạch Hà đã giới thiệu về mảnh đất và
con ngời Thạch Hà.
-Trong cuốn Danh nhân Hà Tĩnh tập 1 của nhà xuất bản văn hóa
thông tin Hà Tĩnh đã nói về tiểu sử và sự nghiệp của Phan Huy ích.
- Trong cuốn Lịch sử văn hóa những gơng mặt tri thức có viết về
Phan Huy Chú, Phan Huy ích trong lĩnh vực văn học.
Trong cuốn Các nhà giáo nổi tiếng trên đất Lam Hồng có đề cập đến
các thế hệ nhà giáo nối tiếp nhau của dòng họ Phan Huy từ Phan Huy Cận,
Phan Huy ích, Phan Huy Ôn, Phan Huy Chú
Ngoài các tác phẩm đã xuất bản, liên quan đến đề tài nghiên cứu của
chúng tôi còn có nhiều bài viết trên tạp chí, kỉ yếu hội thảo mà chúng tôi tiếp
cận đợc nh :
Bài Cuộc đời và sự nghiệp Phan Huy Chú của Giáo s sử học Phan
Huy Lê đã viết về tiểu sử, sự nghiệp của Phan Huy Chú khá đầy đủ.
- Hồ sơ khảo cứu nhà thờ họ Phan Huy của bảo tàng Hà Tĩnh lập năm
1995.
- Ngoài ra có cuốn Phan gia công phả do Nguyễn Ngọc Nhuận dịch và
chú thích, giáo s Phan Huy Lê hiệu định.
3


- Bài viết Đi tìm mộ Phan Huy Chú của giáo s Phan Huy Lê.
Về cơ bản, trong các tài liệu mà chúng tôi tiếp cận trên ít nhiều đã nói

đến một số vấn đề về truyền thống dòng họ Phan Huy, một số đóng góp của
dòng họ Phan Huy cho lịch sử dân tộc, cũng nh đóng góp của các nhân vật
và di tích của dòng họ Phan Huy. Nhìn chung, các bài viết đó còn mang tính
khái quát lẻ tẻ hoặc chỉ tập trung vào một cá nhân (nh Phan Huy Chú hay
Phan Huy ích) chứ cha đi sâu nghiên cứu tổng thể quá trình phát triển dòng
họ và những đóng góp của dòng họ Phan Huy đối với tiến trình phát triển
của lịch sử nớc nhà.
Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Thạch Hà, từ lâu tôi mong muốn đợc
đóng góp sức mình cho sự nghiệp phát triển của quê hơng và từ thực tế trên
cùng với mong muốn đóng góp cho quê hơng đã thôi thúc tôi đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống và toàn diện hơn về dòng họ Phan Huy để góp
phần giữ gìn và phát triển văn hóa địa phơng cũng nh văn hóa dân tộc.
3. Đối tợng nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu
Dựa vào nguồn tài liệu hiện có và khả năng của mình, chúng tôi chỉ nghiên
cứu tìm hiểu về lịch sử văn hóa dòng họ Phan Huy trên phạm vi ở xã Thạch Châu huyện Thạch Hà - Hà Tĩnh từ thế kỷ XVI đến nay (2005). Nhng trong quá trình
phát triển dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu có sự lan tỏa đi các nơi khác do đó
trong đề tài có thể đề cập tới những không gian có liên quan.
3.2. Nhiệm vụ.
Trớc hết, chúng tôi khái quát các điều kiện tự nhiên, vị trí chiến lợc
cũng nh con ngời Thạch Hà. Tìm hiểu về nguồn gốc và quá trình phát triển
trên của dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu, Thạch Hà.
Phần quan trọng của đề tài là truyền thống của dòng họ Phan Huy và
những đóng góp của dòng họ này cho lịch sử dân tộc (qua một số nhân vật
tiêu biểu). Chúng tôi đi trình tự qua các thế hệ để có một cái nhìn tổng quát và
hệ thống. Qua đó chúng ta có thể nhận thấy đợc sự tiếp nối những truyền thống
của dòng họ, sự phát huy cũng nh hạn chế của thế hệ sau. Đặc biệt là đánh giá
đúng những đóng góp lớn lao của dòng họ Phan Huy với quê hơng Thạch Hà,
đối với lịch sử dân tộc.

4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn t liệu.
4.1.1. Tài liệu gốc.
Trong luận văn chúng tôi tham khảo các bộ chính sử, gia phả của dòng
họ Phan Huy ở Thạch Châu-Thạch Hà; các đạo dụ, sắc phong, văn bia,
hoành phi, câu đối ở nhà thờ dòng họ; Ngoài ra luận văn còn tham khảo các
4


tác phẩm nh Lịch triều hiến chơng loại chí của Phan Huy Chú; Đại Nam thực
lục.
4.1.2. Tài liệu nghiên cứu .
Các loại tài liệu nghiên cứu mà chúng tôi tham khảo đợc đó là các tài
liệu nghiên cứu lịch sử, văn hóa cụ thể nh An tĩnh cổ lục của Hippolyte le
Bretin, lịch sử Việt Nam của Đào Duy Anh, D địa chí Hà Tĩnh trong d địa
chí các tỉnh
4.1.3. Tài liệu khác.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng các tài liệu nh: Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam của Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá Thế; Danh nhân Hà Tĩnh;
các nhà khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ chủ biên; Danh nhân đất
Việt tập II của Quỳnh C; Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh của tác giả Thái Kim
Đỉnh; Lịch sử văn hóa dòng họ Nguyễn Tiên Điền thế kỷ XVI, XVII đến nay
của Hồ Trà Giang (Luận văn tốt nghiệp đại học năm 2005).
Ngoài ra còn có các tài liệu kỉ yếu hội thảo khoa học, một số tài liệu
chép tay, một số báo, tạp chí
4.1.4. Tài liệu điền dã.
Để bổ sung t liệu cho đề tài chúng tôi còn tìm hiểu, khảo cứu, đi thực
tế tại nhà thờ họ Phan Huy. Đồng thời chúng tôi gặp gỡ trao đổi với một số
ngời trong dòng họ Phan Huy nh: Phan Huy Xơng, Phan Huy Hạo, Giáo s

Phan Huy Lê.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu.
4.2.1. Su tầm t liệu.
Để có đợc nguồn t liệu cần thiết phục vụ cho đề tài, chúng tôi đã tiến
hành su tầm, sao chép ở th viện tỉnh Hà Tĩnh, th viện Nghệ An nghiên cứu
thực địa, chụp ảnh các di tích, sử dụng phơng pháp phỏng vấn.
4.2.2. Xử lý t liệu.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng phơng pháp lịch sử,
phơng pháp so sánh và phơng pháp lôgíc để trình bày quá trình hình thành,
phát triển của dòng họ theo thời gian diễn biến của lịch sử. So sánh, đối
chiếu gia phả, bia ký với chính sự, từ đó phân tích đánh giá nêu lên mối quan
hệ chặt chẽ, tác động hai chiều của dòng họ Phan Huy với quê hơng đất nớc.
5. Đóng góp của đề tài.

Với sự cố gắng cao nhất của tác giả luận văn sẽ góp phần cung cấp
cho độc giả bức tranh toàn cảnh về quá trình hình thành và phát triển của
dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu với lịch sử hơn 400 năm với 15 đời con

5


cháu. Qua đó giáo dục t tởng hớng về cội nguồn, phát huy những truyền
thống quý báu của dòng họ.
- Tìm hiểu một số nhân vật tiêu biểu của dòng họ.
- Hoàn thành đề tài nghiên cứu góp phần làm giàu thêm nguồn t liệu,
phong phú hơn cho bộ sử địa phơng.
6. Bố cục luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn đợc trình bày ở 3 chơng:

Chơng 1: Quá trình phát triển của dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu Thạch Hà - Hà Tĩnh.
Chơng 2: Văn hóa truyền thống của dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu
- Thạch Hà - Hà Tĩnh.
Chơng 3: Đóng góp của dòng họ Phan Huy trong lịch sử dân tộc (Qua
một số nhân vật tiêu biểu).

6


B. Nội dung

Chơng 1: Quá trình phát triển của dòng họ Phan
Huy ở Thạch Châu - Thạch Hà - Hà Tĩnh
1.1.

Thạch Hà - Đất và ngời

1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý:
Thạch Hà ở vào quảng giữa năm huyện ven biển tỉnh Hà Tĩnh, trên toạ
độ 18,1003 đến 18,29 độ vĩ bắc, và 105,38 đến 106,20 độ kinh đông, Bắc
giáp Can Lộc, Nam giáp Cẩm Xuyên, phía Tây giáp Hơng Khê, phía Đông
giáp biển Đông, là vành đai nằm bao quanh tỉnh lỵ Hà Tĩnh.
Diện tích tự nhiên toàn huyện là 44.086 ha, trong đó đất nông nghiệp
có 16.943 ha; đất có khả năng trồng rừng trên 8000 ha; diện tích có khả năng
chăn nuôi thuỷ sản 2600 ha. Hiện nay mật độ dân số khoảng 230 ngời/km2.
Địa hình, khí hậu.
Từ một vùng biển thời xa xa đợc bồi lấp do phù sa núi và cát biển tạo
thành nhng do trải qua nhiều kỷ địa chất, mảnh đất này có nhiều biến thiên
lịch sử to lớn. Ngày nay chúng ta có một vùng sông rộng núi dài, dân c đông

đúc nhng lại nằm trong một dải đất hẹp, độ dốc lớn nhiều sông, ngòi, kênh,
lạch, địa hình chia cắt, tầng đất canh tác kém, đất bạc màu, nhiễm mặn
nhiều.
Phía Tây liền với núi Hơng Khê là cái dải đồi núi thấp, rìa ngoài của
Trờng Sơn Bắc - kéo dài 24km từ động Sơn Mao (Thạch Ngọc), đến ngọn
Bàu Đài (Thạch Lu), ngọn Nhật Lệ (Thạch Điền).
Mé biển, phía Đông bắc huyện có núi Bờng (Bằng Sơn, 213m), rú bể
(Nam giới - Quỳnh Sơn, 373m). Hai ngọn núi này cùng các núi đồi rải rác
trong vùng Đồng Bằng (rú Sò- Nghĩa Sơn, rú Nài - Cẩm Sơn, rú Tợng - Hà
Thanh; rú Đòi - Đội Sơn, hòn Mốc - Hữu Nam Giới) đều là những hòn đảo
trong vũng biển thủa trớc.
Đồng bằng Thạch Hà rộng khoảng 29.000 ha, trong đó khoảng 12.000
ha là đất thịt và khoảng 10.000 ha đất pha cát. Do cấu tạo bằng phà sa núi và
cát biển, đồn điền tơng đối bằng phẳng, nhng ít màu mỡ. Ven biển có
khoảng 6000 ha (12,5% diện tích) trong đó có khoảng 1000 ha là núi đá, còn
lại là cát biển.
Thạch Hà có mạng lới sông ngòi dày đặc, với tổng lu vực hứng nớc
còn là gần 800 km2. Bờ biển Thạch Hà dài 27 km, với tổng diện tích vùng
đặc quyền kinh tế là 3.310 km2. Cửa Sót là một cửa biển lớn ở Hà Tĩnh, nằm
trên 18,2754 độ vĩ bắc và 105,5530 độ kinh đông. Lu lợng nớc đổ qua đây
7


lúc lớn nhất (đĩnh lũ) lên tới 3800 m3/giây và lúc thấp nhất là 6 đến
7/m3/giây. Cách đây trên 200 năm, cửa biển còn đổ ra vùng Dơng Luật
(Thạch Bàn - Thạch Hải), phía Nam núi Nam giới, về sau bị bồi lấp, dòng
chảy mới vùng lên phía Bắc, đi qua Kim Đôi (Thạch Kim) nh hiện nay.
Về khí hậu:
Thạch Hà là nơi chuyển tiếp giữa hai vùng khí hậu Bắc Nam nên có
ma lớn, lợng ma trung bình là 2544 mm/năm và độ ẩm rất cao 77% đến

86%. Ba tháng 9, 10, 11 có ma lớn. Nhng hàng năm có 6 tháng ma to.
Ma đông kéo dài đến 95 ngày (từ đầu tháng 12 đến đầu tháng 3 năm
sau). Nhiệt độ trung bình trong mùa lạnh là 17 0C, khi thấp nhất xuống tới
80C, cá biệt có năm xuống tới 7,6. Nhiệt độ trung bình mùa nóng là 27,5 0C,
khi cao nhất lên tới 29,20C, cá biệt có năm lên tới 400C.
Địa danh Thạch Hà qua các thời kỳ lịch sử
Đất Thạch Hà ngày nay là mảnh đất lịch sử tồn tại từ thời dựng nớc,
thuộc địa bàn nớc Văn Lang thời Hùng Vơng, nớc Âu Lạc đời An Dơng Vơng. Trong thời bắc thuộc, vùng đất này thuộc Cửu Chân đời Triệu, huyện
Hàm Hoan đời Hàn, quận Cửu Đức thời Ngô, quận Nhật Nam đời Tùy, châu
Phúc Lộc đời Đờng. Địa danh Thạch Hà xuất hiện đầu tiên vào đời Hậu Lê
(980-1009) với đơn vị hành chính mang tên châu Thạch Hà. Đời Trần đổi tên
là châu Nhật Nam và huyện Thạch Hà tơng ứng với hai huyện Hà Hoàng,
Bàn Thạch. Thời thuộc Minh (1407-1427) thuộc châu Nam tỉnh phủ Nghệ
An. Sang thời Hậu Lê (1428-1527), huyện Thạch Hà thuộc phủ Hà Hoa, đạo
(còn đổi làm trấn) Nghệ An.
Đời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đặt tỉnh, huyện Thạch Hà
thuộc phủ Hà Hoa tỉnh Hà Tĩnh, lĩnh bảy tổng gồm 35 xã, thôn, trang, vạn
Năm Tự Đức thứ VI (1853) bỏ tỉnh đem phủ Đức Thọ lệ vào tỉnh Nghệ An.
Và phủ Hà Hoa (đổi làm Hà Thanh) lập thành đạo Hà Tĩnh. Huyện Thạch Hà
do đạo Hà Tĩnh kiêm lý (không có tri huyện), lĩnh bảy tổng gồm 51 xã thôn
trang vạn. Năm Tự Đức thứ 28 (1875) lập lại tỉnh Hà Tĩnh, Thạch Hà lại đặt
tri huyện, do phủ Hà Thanh thống hạt. Năm đầu Khải Định (1916), đổi
huyện làm phủ Thạch Hà đặt tri phủ, phủ trị đống tại xã Đại Nài. Năm Khải
Định thứ VI (1921) cắt tổng Đoài cho huyện Can Lộc và nhận của Can Lộc
hai tổng Canh Hoạch, Vĩnh Luật, phủ Thạch Hà lĩnh tám tổng gồm 85 xã,
thôn.
Năm 1945 cắt 6 xã, thôn cũ cho Can Lộc (là Bình Nguyên, Lộc
Nguyên nay là An Lộc, Vĩnh Hoà nay là xã Bình Lộc, Đô Hành, Phơng Mỹ

8



nay là xã Mỹ Lộc, Thái Hà nay là xã Sơn Lộc). Toàn huyện còn lại 79 đơn vị
xã, thôn cũ.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, phủ Thạch Hà lại đổi làm huyện
và huyện lỵ lại đổi dời về xã Thạch Thợng. Số đơn vị hành chính dới huyện
là xã.
Sau nhiều năm tiếp theo Thạch Hà lại có sự thay đổi về xã thôn. Cho
đến năm 1985, Thạch Hà lập thêm xã Bắc Sơn. Và thu lập thị trấn Càyhuyện lỵ. Đến lúc này, cả huyện có 49 đơn vị gồm 47 xã và hai thị trấn. Năm
1990, cắt 6 xã (Thạch Trung, Thạch Quỳ, Thạch Linh, Thạch Phú, Thạch
Hòa, Thạch Yên) chuyển về xã thị xã Hà Tĩnh. Nh vậy Thạch Hà hiện có 41
xã.
1.1.2. Truyền thống văn hóa, lịch sử.
Thạch Hà là vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa, truyền thống
yêu nớc và cách mạng, rất đáng trân trọng và tự hào.
Trên đất Thạch Hà, cuộc sống con ngời đã bắt đầu khá sớm. Các di chỉ
khảo cổ học cồn sò điệp Thạch Lạc, phía Nam Thạch Lâm, cồn lồi mốt
(Thạch Vĩnh, Thạch Đài) thuộc văn hóa hậu kỳ thời đại đồ đá mới, chứng
minh rằng ngời tiền sử đã từng sống trên đất Thạch Hà từ trên 4000 năm trớc. Những truyền thuyết về thời các Vua Hùng (Chử Đồng Tử tu tiên ở
Quỳnh Viên, Nam Giới, Vua Hùng đến rú Bồng trong truyện Trầu cau),
truyền thuyết về dân Mai Phụ làm nghề nấu muối (trong truyện vua Mai), và
những việc ghi chép trong sử sách (Lê Đại Hành sai Đỗ Tử An mở đờng bộ
từ Nam giới vào châu địa lý năm 992, Lý Thái Tôn sai lập chùa, dựng tháp
Cửu Diện ở núi Nghèn Khoảng 1031-1044, núi Nghèn lúc đó là đất Thạch
Hà) đều là chứng cứ của sự phát triển c dân vùng này.
Tuy nhiên, suốt trong đời cổ đại, c dân ở đây vẫn còn tha thớt. Hơn
nữa, Thạch Hà nằm trong miền biên viễn, chiến tranh, giặc giã, trộm cớp,
thiên tai, đói kém xảy ra triền miên, nên c dân phân tán, bị xáo trộn rất
mạnh. Những lớp ngời đầu tiên không để lại mấy dấu vết. Theo gia phả các
dòng họ lớn thì tổ tiên lớp ngời hiện nay đến đây sớm nhất là từ cuối Trần,

đầu Lê (thế kỷ XIII, XIV, XV). Nhng trong hơn 1000 năm lịch sử, lớp lớp c
dân Thạch Hà đã ra sức khai phá, mở mang những cánh đồng, nại muối, vác
rìu lên ngàn lấy gỗ, đóng thuyền ra biển đánh cá, dựng lên những xóm làng
đông vui, vun đắp cuộc sống ngày càng tốt đẹp.
Làm lụng cần cù, nhẫn nại chịu đựng gian khổ, chắt lọc trong đời
sống, khôn ngoan trong khi tính việc, nghĩa tình với làng nớc là những đức
tính quý báu của nhân dân Thạch Hà. Con ngời ở đây đã từng chứng kiến và
9


tham dự vào mọi biến cố xã hội từ thời Bắc thuộc Tuỳ, Đờng đến các cuộc
chống ngoại xâm Nguyên, Minh, Thanh, chịu đựng các cuộc nội chiếm đẩm
máu, Lê-Mạc, Trịnh - Nguyễn Gan Thạch Hà từ câu chuyện Võ Tá Sắt ở
Hà Hoàng càng đợc phát huy trong đấu tranh chống áp bức, chống xâm lợc
thời cổ, cận đại cho đến thời hiện đại. Đất này đã sản sinh ra bao danh nhân,
chiến sĩ, anh hùng, hào kiệt nh Mai Thúc Loan, Hồ Phi Chần, Võ Tá Sắt,
Phan Huy ích, Phan Huy Chú, Lý Tự Trọng
Từ đầu thế kỷ XVIII một ngời mẹ ở làng muối Mai Phụ đã sinh ra vị
vua anh hùng Mai Hắc Đế, ngời lãnh đoạ cuộc khởi binh chống quân xâm lợc nhà Đờng năm 772.
Khi quân Minh xâm lợc (đầu thế kỷ XV), có cuộc khởi nghĩa của viên
chi phủ Phan Lu quê ở xã Tôn Lỗ, và hai ngời Tôn Lỗ khác là cha con
Nguyễn Tất Vinh, Nguyễn Tất Đạt tham gia nghĩa quân Lam Sơn.
Tiếp đó nhiều ngời dân Thạch Hà nh Dơng Bá Học (ở Phong Phú) Hồ
Phi Chấn (ở Chỉ Châu) đã tham gia nghĩa quân Tây Sơn đánh giặc Thanh, Hồ
Phi Chấn đợc phong đến chức đô đốc.
Rồi từ khi Pháp xâm lợc, đánh chiếm thành Hà Nội (năm 1873) triều
đình Huế ký hoà ớc Giáp Tuất (năm 1874) nhờng 6 tỉnh Nam Kỳ cho
Pháp, Nguyễn Huy Điển thờng gọi là Tú Khanh (ở Nguỵ Dơng) hởng ứng
cuộc khởi nghĩa Cờ vàng của Trần Quang Cán (Hơng Sơn) Dới khẩu hiệu
đánh cả Tây lẫn Triều. Quân Cờ vàng đánh hạ đại thành Hà Tĩnh, giết 3

viên đạo thần.
Sau ngày thất thủ kinh đô Huế, quân Pháp kéo ra Nghệ Tĩnh
(1885). bá hộ Nguyễn Huy Thuận (ở Nguỵ Dơng) cử nhân Nguyễn Cao Đôn
(ở Phất Não) đứng lên tổ chức các đội nghĩa quân chống Pháp đợc đông đảo
sĩ phu (trong đó có các ấm sinh, con phó bảng Bùi Thế ở Phong Phú) và nhân
dân trong huyện hởng ứng. Các đội quân này phối hợp với đội quân Lê Minh
(Đức Thọ) đánh hạ thành Hà Tỉnh, rồi ra nhập nghĩa quân Đình Phùng và trở
thành lực lợng khá hùng mạnh của quân thứ Thạch Hà (Thạch Thứ).
Tinh thần yêu nớc, ý chí đấu tranh chống áp bức, chống xâm lợc liên
tục trong quá trình lịch sử cũng là điểm nổi bật của đất Thạch Hà.
Thạch Hà còn là một vùng văn hóa có nét riêng của Hà Tĩnh. Có thể
đây là địa bàn phát sinh điệu hát giặm và là một trong những vùng hát giặm
phổ biến ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với hàng loạt nghệ nhân xuất
sắc: Sợi Đờng, Tri Lơng, Nhiêu Ngọ, Nguyên Hạnh, Dái Kình, o Tộ , dì Tơng, chị Chơng, tin Hào

10


Về việc học ở Thạch Hà, ngời khai khoa là Hoàng Giáp Nguyễn Hộc,
ngời xã Cổ Kênh, đỗ khoa Nhâm Tuất (1442). Từ đó việc học ngày càng
thịnh đạt, ngời đỗ khoa hội, khoa hơng ngày càng đông. Tính trên địa bàn
Thạch Hà hiện nay thì đời Lê, Nguyễn có 24 ngời đỗ đại khoa (đời Lê 15 ngời) có hai Hoàng Giáp, 13 tiến sĩ không tính Nguyễn Tất Bột, ngời Tôn Lỗ,
nay thuộc Thạch Linh), đời Nguyễn chín ngời, có một thám hoa, năm tiến sĩ,
ba phó bảng.
ở Trờng Hơng, hàng chục sĩ tử Thạch Hà đỗ hơng cống (đời Lê) và 29
ngời đỗ cử nhân (đời Nguyễn). Ngoài ra, còn có nhiều ngời trúng sinh đỗ tú
tài.
Thạch Hà cũng là vùng có nhiều di tích thắng cảnh, tiêu tiểu là chùa
Nghĩa Sơn, Cảm Sơn, nổi bật là vùng danh làm thắng Quỳnh Viên với đền
Chiêu Trng, đến thành mẫu Nam Sơn và cửa biển Nam Giới, khi nớc ngọt

Hau Hau.
1.2. Sự phát triển của dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu từ thế kỷ
XVI đến nay.
Trong số các dòng họ ở nớc ta, họ Phan là một trong những dòng họ
có từ lâu đời (theo truyền thuyết từ thời các vua Hùng có công Phan Tây
Nhạc, quê gốc Hà Trung, Châu ái (Thanh Hoá) là bộ tớng của tản viên Sơn
Thánh, con rể của Hùng Duệ Vơng (Hùng Vơng thứ 18) có công đánh giặc
giữ nớc đợc thờ thành hoàng tại đình làng Thị Cấm và Hòe Thị thuộc xã
Xuân Phơng huyện Từ Liêm Hà Nội). Từ xa xa cùng với trăm họ, họ Phan
đã có những đóng góp tích cực trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc của cộng
đồng ngời Việt Nam.
Trên vùng đất cổ Hà Tĩnh, từ thời Lê Sơ, nh chúng ta đợc biết không
chỉ có dòng họ Phan ở Song Lộc, Can Lộc với 3 chi, mà còn có dòng họ
Phan gốc ở xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà.
Theo cuốn Phan gia công phả còn ghi lại: nghe nói trớc kia tiên tổ
dòng họ ta nguyên quán ở xã Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, thuộc ty Giáo phờng, quen nghề làm ruộng và am tờng âm nhạc. Đến niên hiệu Quang Thuận,
Hồng Đức đời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), phụng chỉ cho coi việc giáo
phờng làm phân trởng của đình ở huyện, lúc đó mới nhập tịch vào phía Tây
xứ Trằm Vịt, thôn Chi Bồng (sau đổi là Hữu Phơng) xã Thu Hoạch, huyện
Thiên Lộc cho nên ngời trong ấp thờng gọi tiên tổ họ ta là ông Trằm, mụ
Trằm (tờ 7a). Có thể nói ông Trằm là ông tổ đầu tiên của họ Phan ở Thạch
Châu, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Vào đời Lê Sơ, tổ tiên dòng họ Phan vốn có nghề

11


làm ruộng lại giỏi âm nhạc do ty giáo phờng quản lý và đợc phân về giữ đình
(đình Môn) các xã trong huyện.
Tổ tiên họ Phan vốn ở xã Ngọc Điền huyện Thạch Hà, do quy định
trên đã phụng chỉ chuyển về thôn chi Bồng, sau đổi là thôn Hữu Phơng, xã

Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà,
tĩnh Hà Tĩnh) . Thạch Châu nguyên xa là thuộc làng chi Bồng xã Thu Hoạch
tổng Canh Hoạch huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang. Nơi đây là một
miền đất khai phá từ lâu. Đến năm Khải Định thứ 6 (1021) chia tổng đoàn
vào huyện Can Lộc và huyện ấy lại tách hai tổng Vĩnh Luật và Canh Hoạch
về Thạch Hà cho đến đời thứ 10 trong dòng họ Phan có ngời là Trùm huyện
là chức sắc trong giáo phờng, một tổ chức của hát ca từ thời phong kiến ở nớc ta.
Từ Ngọc Điền chuyển về thôn chi Bồng tức Hữu Phơng, vào đời thứ
bảy, họ Phan phân làm hai chi phái: Đại Tôn ở thôn Gia Thiệu và Tiểu Tôn ở
Hữu Phơng, nay đều thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Với lịch sử hơn 400 năm qua 15 thế hệ con cháu (tính từ cụ tổ) Dòng
họ Phan Huy ở Thạch Châu Thạch Hà - Hà Tĩnh đã lan tỏa ra nhiều huyện
trên đất Hà Tĩnh, nhiều tỉnh thành trong cả nớc và thậm chí đang có số ít
sinh sống ở nớc ngoài. Đến đời cụ Phan Huy Cận dòng họ Phan Huy có một
nhánh ra dòng họ Thuỵ Khê (Hà Tây). Riêng ở Thạch Châu, Thạch Hà, Hà
Tĩnh dòng họ Phan Huy đã rất phát triển.
Theo cuốn Phan Gia công phả cả phần dịch và chữ Hán dày 308
trang do Nguyễn Ngọc Nhuận dịch và giáo s Phan Huy Lê hiệu đính, từ thế
kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX trải qua 13 đời nh sau:
Đời 1: Tiên tổ khảo, tên Thụy là Đôn Dụ phủ quan.
Đời trớc có nói rằng: Cao cao tổ tên là ông Trằm, Cao cao tổ tên là mụ
Trằm (vào mùa thu năm Mậu Thân niên hiệu Bảo Thái đời Lê (1728), tăng
quận công cùng các vị Quý Tần về bản quán có đặt đàn, bày lễ, truy tiến các
vị gia tiên đã ghi nh vậy).
Đời 2: Phan Lệnh Công tên Thuỵ là trang chiêu phủ quân, tên huý là
Phan Văn Lâu.
Đời 3: Phan Lệnh Công, tên thuỵ là thuần mục phủ quân tên, huý là
Phan Văn Đài .
Đời 4: Phan Văn Nguyên: Ông là con trởng của cụ Thuần Mục Công,
vào năm Nguyên Hòa đời vua Lê Trang Tông (1533 - 1548) lúc đầu đi theo

viên quân nhiều lần đợc thăng quan cơ cai làm vũ huân tớng quân, phong tớc
hầu, sau khi đánh giặc có công, đợc tấn phong tớc quận công. Ngày tháng 3
12


niên hiệu Khải Định thứ 2 (1917) đợc gia phong Quang ý trung đẳng thần.
Niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) đợc gia tặng là trắc vĩ thợng đẳng thần.
Đời 5: Cụ Phan Văn Lan:con trởng của cụ Phan Văn Nguyên. Vào
niên hiệu Quang Hng (1578 - 1599) thời Lê Thế Tôn (1573 1600), ông
làm cai cơ dần dần thăng tả thăng đốc, đợc phong tớc hầu.
Đời 6: Cụ Phan Văn Kính: con đầu cụ Phan Văn Lan, vào niên hiệu
cảnh trị đời Lê Huyền Tôn (1663 - 1671) ông theo nghiệp binh làm cai cơ,
sau dần dần đợc thăng chiêu nghị tớng quân, đô đốc đồng tri, đến đời Lê
Cảnh Hng năm thứ 47 (1786) đợc phong tặng là Trấn quốc thợng tớng quân,
Hữu đô đốc vinh lộc hầu trụ quốc thợng liệt. Tháng 5 Thành Thái thứ 6
(1894), triều Nguyễn, ông đợc phong Đoan túc bảo trung hng tôn thần,
chuẩn cho hai thôn phụng thờ. Ngày tháng 10 năm Duy Tân thứ 3 (1909) lại
đợc gia phong, Chuẩn cho hai thôn phụng thờ. Năm Khải Định thứ IX (1924)
đợc gia tăng Quang ý trung đẳng tôn thần.
Đời thứ 7: Dòng họ chia ra thành Đại tôn và Tiểu tôn.
Trởng là Vũ Tờng Hầu (Phan Văn Canh) thuộc đại tôn, nhập tịch ở
Gia Thiện.
Thứ là Tăng Quận Công (Phan Văn Tĩnh), thuộc tiểu tôn vẫn ở Hữu
Phơng.
Từ đây gia phả chép các thế thứ theo hai dòng đại tôn và tiểu tôn.
Đại tôn:
Đời thứ 7: Phan Văn Canh: Tên tự là Nh Thành, tên Thuỵ là Thuần
hậu phủ quân. tuổi Đinh Mùi (1667) thọ 65 tuổi sinh đợc hai ngời con trai
(trởng là Côn Thọ Bá, thứ hai là Văn Kiều) .
Đời thứ 8: Chánh ngũ phẩm giữ chức thiêm sự tại sự viện, Côn Thọ

Bá Phan Quý Công, tên tự là Nh Phơng, tên Thuỵ là Thanh Trực. Con trởng
cụ Phan Văn Canh, sinh năm Quý Dậu (1693), thọ 68 tuổi.
Sinh hạ đợc 6 con trai là: (Châu, Điền, Tuyên, Gia, Điền).
Đời thứ 9: Phan Huy Châu: Là chánh ngũ phẩm giữ chức thiên sự tại
thiên sự viện là con trởng của Côn Thọ Bá. Ông sinh năm Nhâm Thìn (1712),
thọ 59 tuổi.
Sinh hạ 4 con trai (trởng Bĩnh, thứ hai là Quan, thứ ba là Điền, thứ t là
Tôn).
Đời thứ 10: Phan Văn Bỉnh là con trởng của cụ thu lộc hầu Phan Văn
Châu, sinh năm Kỷ mão (1959), thọ 60 tuổi. Ông là quan viên tử kiêm trùm
huyện tức là ngời đứng đầu ty giáo phờng cấp huyện.
13


Sinh hạ đợc 4 con trai là: Xán, án, Đồng, Lơng.
Đời thứ 11: Phan Văn Xán là con trởng cụ trùm huyện Phan Văn
Bỉnh, ông sinh năm Kỷ Mão, thọ 60 tuổi. Ông là quan viên tôn kiêm tớng sĩ
lang giữ chức tri sự thừa hoa điện.
Sinh hạ đợc 2 con trai con trởng là Vĩ, con thứ là Minh.
Đời thứ 12: Phan Văn Vĩ tên chữ là Mân, là con trởng cụ tri sự Phan
Văn Xán, ông thọ 70 tuổi.
Sinh hạ đợc 3 ngời con trai: Con trởng là Lãng, con thứ hai là Phổ, con
thứ ba là Tiến.
Đời thứ 13: Ông trởng là Phan Văn Lãng. Sinh hạ đợc một con trai,
mất sớm.
Ông thứ hai là Phan Văn Phổ. Sinh hạ đợc một con trai.
Ông thứ ba là Phan Văn Tiến.
Tiểu tôn:
Đời 7: Phan Văn Tĩnh sinh năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị thời Lê
(1671), con thứ cụ Phan Văn Kính và bà á thất là Phạm Đặng lệnh nhân. Vào

ngày mùng 5 tháng 9 năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ ba (1734) ông
mất khi đơng chức, thọ 64 tuổi.
Sinh hạ đợc 9 ngời con trai (Công, Diễn, Đính, Hạo, Đôn, Cận, Vị,
Kiêm, Trì), 10 ngời con gái, chỉ biết hai ngời là thị Chỉnh, thị Đang, còn lại
không rõ.
Đời thứ 8:
- Phan Huy Công con trởng cụ Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Diễn con thứ hai cụ quận công Phan Văn Tĩnh, sinh hạ đợc một ngời con gái.
- Phan Huy Đình con thứ ba cụ Phan Văn Tĩnh. Sinh hạ đợc một ngời
con trai tên là Trị hai ngời con gái là thị Hán, thị Bình.
- Phan Huy Hạo con thứ 4 cụ Phan Văn Tĩnh. Sinh hạ đợc 1 ngời con
trai là Kiển.
- Phan Huy Đôn là con thứ 5 cụ Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Cận Con thứ 6 cụ Phan Văn Tĩnh.Ông Sinh giờ Thìn mồng
2 tháng 2 năm Nhâm Dần, niên hiệu Bảo Thái Triều Lê năm thứ 3 (1722),
mẹ là Tự Phu Nhân. Lúc đầu đợc nuôi ở nhà nhũ mẫu thôn Cầu Trì, khi 6
tuổi đợc Tu Nghi nuôi trong phủ Nhân Vơng. Vơng yêu quí vì thông minh
dĩnh ngộ, cho hầu trong nội cung. Đến khi cụ Quận Công (Phan Văn Tĩnh)
vào Trấn thủ ở Nghệ An, ông tối quân thứ hầu hạ, đựơc thụ nghiệp tiến sĩ
Nguyễn Tuấn. Năm Giáp Dần (1734), khi đã xong việc tang cụ Phan Văn
14


Tĩnh, lại đến kinh theo học Tiến sĩ Nghiêm Bá Đĩnh. Khoa Qúy Hợi (1743),
ông phải c tang, cùng Vũ Công Trấn (Tiến sĩ), Đỗ Huy Kỳ (Thám Hoa) giao
du, về lý số, từ nguyên, ông đã đạt đến chỗ tinh túy. Đến khoa Đinh Mão
(1747), niên hiệu Cảnh Hng, khi đó 26 tuổi, thi Hơng trúng giải nguyên, năm
Giáp Tuất (1754) thi hội trúng hội nguyên, vào Điện thì đợc ban Đồng Tiến
sĩ đệ tứ.
Sinh đợc 5 ngơì con trai là: ích ,Thự , Ôn, Sảng, Tân; 4 con gái: Anh,

Trân, Uyển, Toại.
- Phan Huy Vị con thứ 7 cụ Quận Công Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Kiêm con thứ 8 cụ Phan Văn Tĩnh.
- Phan Huy Trì con thứ 9 cụ Phan Văn Tĩnh.
Đời thứ 9: Lấy con của Phan Huy Cận làm đại diện.
- Phan Huy ích :Ông sinh giờ thìn, ngày 12 tháng 12 năm Canh Ngọ, niên
hiệu Cảnh Hng thứ 11 (1750), là con đầu cụ Bình Chơng (Phan Huy Cận),
lúc nhỏ rất thông minh dĩnh ngộ.
Khoa Tân Mão (1771) ông thi Hơng đậu giải nguyên, khi đó ông 22
tuổi. Năm Nhâm Thìn (1772), khảo khoa 4 kỳ đều u cả, đến mùa đông năm
đó thi Hội 4 trờng đều có phân số. Năm Quý Tỵ (1773) đợc nghị thởng một
bậc, cho làm Thừa Ty Sơn Nam, không bao lâu ông xin về. Năm Giáp Ngọ
(1774) phụng mệnh khảo hạch tuyển chọn học trò huyện Đông Quan. Khoa
thi hội năm ất Mùi (1775), ông đỗ hội nguyên, đợc ban cho là Thiếu Tuấn
khoa đồng Tiến sĩ đệ thất. Tháng 2 mùa xuân, ông lên kinh ứng khảo, đặc
phê ứng chế đệ nhất, đợc thởng 10 quan thanh tiền, đợc trao chức Hàn Lâm
hiệu Thảo, sau đó giữ chức Thị giám sát Ngự Sử tỉnh Thanh Hoá. Ông đã
có nhiều đóng góp cho triều Tây Sơn, ông mất vào giờ Tuất ngày 20 tháng 3
năm Nhâm Ngọ (1822) niên hiệu Minh Mệnh, thọ 73 tuổi.
Sinh hạ 6 con trai là: Quỳnh, Thực, Chú,Thanh, Ly, Mãn; 8 ngời con
gái là: Bích, Ngôn, Điền, Xuân, Thiều, Quán, Đại, Lơng.
- Phan Huy Thự: Là con thứ hai cụ Bình Chơng (Phan Huy Cận), sinh
năm Quy Dậu niên hiệu Cảnh Hng thời Lê (1753). Khoa Tân Mão (1771)
đậu hơng cống, lúc đó 19 tuổi, năm Kỷ Hợi (1779) thi hội trúng tam trờng.
Lúc đầu ông giữ chức tự thừa, đến năm Đinh Mùi (1787) đợc cử làm Hiến
sát phó sứ. Mùa hạ năm Tân Hợi (1791) thời Tây Sơn ông về trú xã Bảo
Triện Kinh Bắc, bị kẻ cớp giết hại (ông mất lúc 39 tuổi).
Sinh hạ đợc hai con trai là: Phái, Điền; hai con gai là: ái, Tuyên.

15



- Phan Huy Ôn: con thứ 3 cụ Bình Chơng (Phan Huy Cận), sinh năm
ất Hợi niên hiệu Cảnh Hng (1755) , mất tháng 11 năm Bính Ngọ (1786), thọ
32 tuổi.
Sinh hạ đợc 2 trai là: Đạm, Hoàn ; 3 gái là: Hoãn, Lịch, Viên.
- Phan Huy Sảng là con thứ t cụ Bình Chơng (Phan Huy Cận) sinh năm
Giáp Thân (1764). Khoa Kỷ hợi (1779) đậu Hơng Cống (năm 16 tuổi), thi
hội nhiều lần trúng tam trờng. Lúc đầu ông giữ chức tự thừa, đến thời Tây
Sơn đợc triệu ra bổ chức Hiệu lý Viện Hàn Lâm; phái Lộc Bá. Mùa thu năm
Mậu Ngọ (1798) ông lĩnh chức Hữu quản lý huyện Thạch Thất. Sau đó đổi
tên Giám, tự là Thúc Minh, rồi về Cổ Nhuế dạy học, đặt niên hiệu là phục
Am Công. Ông mất ngày 24 tháng Giêng năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia
Long, thọ 48 tuổi. Sinh đợc 1 con gái là: Cự.
- Phan Huy Tân sinh năm Giáp Thân (1764), con thứ 5 cụ Bình Chơng
(Phan Huy Cận). Khi trẻ giỏi võ nghệ, đợc theo cụ Bình Chơng đi trấn thủ ở
Động Hải, đợc làm võ úy quân đội Hữu Chấn, Tể võ bá. Nhà Lê mất, ông
không chịu làm tôi nhà Tây Sơn đã nổi quân chống lại nhng bị thua phải đi
trốn, đến năm Quý Sửu (1793) niên hiệu Quang Trung, ông bị Trấn Quan bắt
đợc rồi giết chết, thọ 30 tuổi. Bà vợ sinh đợc một con trai là:Thẩm.
Đời thứ 10: Lấy con của Phan Huy ích làm đại diện gồm:
- Phan Huy Quýnh hiệu Tố Am, sinh giờ Mão ngày 19 tháng 6 năm ất
Mùi (1775) là con trởng của cụ Dụ Am Hầu (Phan Huy ích), ở nhà dạy học.
Ông mất ngày 17 tháng 5, thọ 70 tuổi. Có 3 ngời con trai là: Khiết, Phơng,
Trừng, và 1 ngời con gái.
- Phan Huy Thực là con thứ hai cụ Phan Huy ích, sinh giờ tý, ngày 5
tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hng thứ 39 (1778) ông mất vào giờ
dần ngày 11 tháng 2 năm Giáp Thìn (1844) thọ 67 tuổi, Có hai con trai là:
Vịnh và Lãm, hai ngời con gái.
- Phan Huy Chú, sinh năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hng (1782), con

thứ 3 cụ Phan Huy ích. Khoa Đinh Mão (1807) Kỷ Mão (1819) đời Gia
Long đều đậu tú tài, tháng giêng năm 2 niên hiệu vua Minh Mạng (1821)
ông đợc bổ. Hàn lâm viện biên tu, rồi làm phủ Thừa Thiên, Hiệp Trấn tĩnh
Quảng Nam. Hai lần phụng mệnh đi sứ phơng Bắc, sau đó bị khiển trách,
đến năm 15 (1834) đợc phục hồi làm công bộ t vụ, bị đau chân xin về nghỉ
hu, dạy học. Sau phụng mệnh đi sứ, thăng thị giảng sung sứ bộ. Ông mất
năm Minh Mạng thứ 21 (1840), thọ 59 tuổi. Có 5 ngời con trai là: Uyên,
Chuẩn, Triệt, Hàm, Nhuận, một con gái là Cơ.

16


- Phan Huy Thanh con thứ 4 cụ Phan Huy ích. Ông sinh giờ Dần ngày
15 tháng 9 năm Bính Ngọ (1786), mất ngày 22 tháng 4, thọ 54 tuổi. Có 3 con
trai là : Trạm, Tiệm, Thúc; 3 con gái là: Thành, Hoàn, C.
- Phan Huy Lý con thứ 5 cụ Dụ Am Phan Huy ích, ông sinh năm Tân
Dậu (1801), sinh hạ đợc 2 con trai là: Nghi, Đàm; 2 con gái.
- Phan Huy Mãn: Ông sinh năm Nhâm Tuất (1802), là con thứ 6 cụ
Phan Huy ích theo thợng th Khuê nhạc công( Phan Huy Thực) đi sứ sang
Trung Quốc, làm quan đến thông phán, mất ngày 19 tháng 8 năm Minh
Mạng thứ 17 (1836) lúc đó ông 35 tuổi, có 1 con trai là Diên.
Đời thứ 11:
Lấy con của Phan Huy Thực làm đại diện gồm 2 ngời con trai nhng
nổi bật lên là Phan Huy Vịnh.
Phan Huy Vịnh sinh giờ hợi, ngày 25 tháng Giêng năm Tân Dậu, niên
hiệu Cảnh Thịnh (1801). Ông đậu cử nhân khoa Mậu Tý năm thứ 9 niên hiệu
Minh Mạng (1828), năm Tự Đức thứ 6 (1853) đợc bổ thị Lang, làm chánh sứ
sang Thanh, vì đờng khó đi phải ở lại 3 năm, đến lúc về đợc thăng Hữu tham
tri bộ hình và ban cho 8 bài Ngự thi (1 bài thất ngôn, 7 bài ngũ ngôn), một
kim khánh (có 4 chữ Cần Lao Khả Lục nghĩa là: chuyên cần lao động đáng

ghi nhận), sau thăng về bộ thợng th trởng lễ bộ, kiêm trởng Quốc sử quán
tổng tài, bộ hình. Năm Canh Ngọ (niên hiệu Tự Đức) thứ 23 (1870), giáng
làm tham tri, cho về hu, ban cho lụa sâm các loại. Ông mất giờ Sửu ngày 22
tháng 8 năm Tân Mùi (niên hiệu Tự Đức) thứ 24 (1871), thọ 71 tuổi. Có 7
con trai là: Nguyên, Tảo, Lạc, Tuân, Kỳ, Trăn, Tấu; 4 ngời con gái là: Hàm,
Trù, Ôn, Bình.
Đời thứ 12.
Lấy con của Phan Huy Vịnh làm đại diện gồm:
- Phan Huy Nguyên con trởng cụ Phan Huy Vịnh, sinh giờ Mão ngày
mồng 1 tháng 9 năm ất Dậu niên hiệu Minh Mạng (1825), năm Nhâm Tuất
(1862) niên hiệu Tự Đức đi lính đợc thởng hàm chánh bát phẩm, tháng 7 dẫn
khâm phái thu hồi đuợc phủ thành Quốc Oai, giặc Yên đợc thởng trao hàm
thị giảng. Năm Bính Dần (1866), về kinh bổ thụ chức viên ngoại lang, năm
Đinh Mão (1867), sung làm Đề điệu trờng thi Nam Định, nhân bệnh xin cáo
quan về, giỗ ngày mồng 8 tháng 7, thọ 44 tuổi. Có 2 con trai là Đồng, Mai; 1
con gái.
- Phan Huy Tảo là con thứ 2 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Đinh Dậu
(1837), giỗ ngày 18 tháng 4, thọ 47 thuổi. Có 1 con trai là Huyền, 2 con gái
là : Thị Anh, Thị Hởng.
17


- Phan Huy Lạc là con thứ 3 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Đinh Mùi
(1847), ấm thụ cửu phẩm, làm hậu bổ tỉnh Hng Hoà, năm ất Dậu niên hiệu
Đồng Khánh quyền kinh lịch ở tỉnh, năm Bính Tuất (1886) nhiếp huyện. Có
1 con trai là Kỳ; 3 ngời con gái.
- Phan Huy Tuân là con thứ t cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Kỷ Dậu
(1849), tòng tỉnh ấm sinh, năm Giáp Thân niên hiệu Kiến Phúc (1884) làm
bang tá phủ vụ. Có 4 con trai là: Tiếp, Thiêm, Tấn, Cán; 2 xon gái là: Thị
Nhĩ, Thị Thám.

- Phan Huy Kỳ là con thứ 3 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Kỷ Mùi
(1859), đợc tặng nghi nhân hàmTòng ngũ phẩm. Mất ngày 14 tháng 3, thọ
27 tuổi. Có 1 con trai là Cầm.
- Phan Huy Trăn là con thứ 6 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm Canh Ngọ
(1870). Năm Nhâm Thìn niên hiệu Thành Thái (1892) đợc ấm lệ vào học
Quốc Tử Giám, khoa Giáp Ngọ niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1894), ông đỗ
cử nhân xếp thứ 14. Năm ất Mùi (1895) theo khâm phái đợc binh bổ đi hậu
bố tỉnh Nghệ An, năm Giáp Thìn (1904) đợc bổ thụ tri huyện Nghi Lộc, năm
ất Tỵ (1905) đợc thăng thụ tri phủ phủ Quỳ Châu. Sau đó ông bị giáng rồi đợc bổ dụng làm đến T vu Binh bộ Ty, kinh lịch thông phán tỉnh Khánh Hoà.
Khi về hu đợc trao thị giảng học sĩ, hu trí vào năm Khải Định thứ 9 (1924).
Nhân tiết mừng thọ nhà vua vừa 40 tuổi, ông đợc cải thụ Quang Lộc tự thiếu
khanh. Có 2 con trai là Thung, Đăng; 3 con gái là: Thị Cúc, Thị Liên, Thị
Quỳ.
- Phan Huy Tấu là con thứ 7 cụ Phan Huy Vịnh, sinh năm ất Mùi (1871).
Từ đời 13 đến nay tất cả các chi họ đều phát triển mạnh sinh sống ở
nhiều tỉnh trong cả nớc và cả ở nớc ngoài, con cháu học rộng, tài cao và ngày
càng có nhiều cống hiến quan trọng cho đất nớc.
Trải qua hơn 400 năm lịch sử, kể từ đời cụ tổ nhập tịch vào phía Tây xứ
Trằm Vịt thôn Chi Bồng (sao đổi là Hữu Phơng) xã thu hoạch, huyện Thiêu
Lộc nay Thạch Châu- Thạch Hà- Hà Tĩnh , dòng họ Phan Huy đã trở thành
một dòng họ lớn có truyền thống hiếu học, yêu nớc và con cháu dòng họ
đang ngày càng tô điểm thêm truyền thống văn hoá tốt đẹp đó của cha ông.

18


19


Chơng 2: Văn hoá truyền thống của dòng họ

Phan Huy ở Thạch Châu - Thạch Hà - Hà Tĩnh
2.1. Gia phong của dòng họ Phan Huy

Đất nớc đổi mới, dân giàu nớc mạnh là niềm hạnh phúc chung cho
toàn dân. Nhng ngày nay, nền kinh tế thị trờng đang cuốn mỗi con ngời vào
vòng xoáy đầy những vội vã, bon chen, kéo theo nó là sự thay đổi nhiều của
những thang giá trị, những chuẩn mực. Trong đó có đạo lý đối với ngời thân
trong gia đình. Đã có không ít những trang sách, bài báo nói về tình trạng gia
đình hiện nay.
Chúng ta đang ra sức đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm
đa nớc ta trở thành một nớc giàu mạnh văn minh. Nhng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá không chỉ đơn giản là sự tăng trởng của kinh tế và sự thay đổi
công nghệ mà còn là một thách thức về xã hội, văn hoá, đạo đức, lối sống,
tình cảm, tâm lý. Tất cả những cái đó đều nằm trong gia đình cho nên cũng
phải cũng cố và xây dựng gia đình lành mạnh có văn hoá thế nhng cha đủ mà
phải làm sao cho các gia đình có gia phong, chỉ khi nào gia đình có gia
phong thì mới phát triển bền vững, mới thật sự ngăn chặn đợc các tệ nạn xã
hội xâm nhập vào gia đình.
Khi tìm hiểu về dòng họ Phan Huy chúng tôi nhận thấy điều ngạc
nhiên thú vị trong cách giáo dục gia phong và giáo dục con cháu về truyền
thống của dòng họ.
Cụ thể chúng tôi xin nêu lên một số nét tiêu biểu về việc hình thành
và bảo vệ gia phong của dòng họ Phan Huy (Qua lời kể của thầy Phan Huy
Xơng và một số ngời trong dòng họ).
Dòng họ Phan Huy luôn luôn coi trọng động viên các thành viên của
mình sẵn sàng tham gia đánh giặc giữ nớc. Trong 3 đời đầu do nghèo khổ
cho nên cha có đóng góp gì mấy. Nhng từ đời thứ t cụ Phan Văn Nguyên bắt
đầu đi làm nghề quân sự và đợc phong tớc Quận Công; Cụ Phan Văn Lan
(đời thứ 5) đợc phong tài Lơng Hầu; Cụ Phan Văn Kính (đời thứ 6) đợc
phong chức Vịnh Lộc Hầu, phong Thợng Tớng Quân.

Về sau trong các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
rất đông đảo các con em họ Phan Huy đã tham gia quân đội, nhiều ngời anh
dũng hy sinh nh liệt sĩ Phan Huy Chinh, Phan Huy Dần, Phan Huy Đệ, Phan
Huy Tấn. Có nhiều gia đình có hai liệt sỹ.
Có đợc kết quả đó ngoài truyền thống chung của dân tộc, sự giáo dục
lãnh đạo của Đảng thì dòng họ đã có tác động rất lớn cho con em đó là:
20


- Luôn giữ gìn, trân trọng các chiến phẩm của dòng họ nh mũ tớng, các
đạo sắc của vua phong thởng đợc để ở vị trí trang trọng trong nhà thờ (hiện
nay dòng họ Phan Huy con giữ đợc nguyên vẹn 21 đạo sắc ) đến việc lập
các bia tởng niệm.
- Luôn động viên những thành viên trong dòng họ phát huy tinh thần
yêu nớc và luôn giữ vững ý chí chiến đấu.
Để có một lịch sử hào hùng nh dân tộc ta trong việc chiến đấu giữ nớc
chống giặc giữ nớc, có lẽ nét tiêu biểu của nhiều dòng họ, gia đình địa phơng
là giáo dục con cháu lòng yêu nớc, chí căm thù giặc, dám xả thân hy sinh vì
nghĩa nớc. Tuy vậy cách làm của mỗi nơi lại khác. Việc nghiên cứu tổng hợp
vấn đề này sẽ rút ra đợc nhiều điều bổ ích.
Một nét gia phong đáng qúy và trân trọng của dòng họ Phan Huy là
truyền thống hiếu học, coi trọng mục đích và hiệu quả sự học hành.
Có lẽ từ những đời trớc, các bậc tiền bối đã thấy rõ ý nghĩa vai trò của
sự học, của kiến thức nên đã quan tâm đến việc học hành của con em trong
dòng họ.Vì vậy, tuy một chi họ nhỏ nhng từ xa đến nay dòng họ Phan Huy
luôn đi đầu trong việc chăm lo học hành, trau dồi học vấn, lấy sự học làm
trọng. Kết quả đó thể hiện qua các thời kỳ.
Thời kỳ phong kiến Việt Nam nhiều con em dòng họ Phan Huy nổ lực
cao trong học tập và dành đợc nhiều vị trí về khoa bảng. Có nhiều ngời đậu
tiến sĩ, cử nhân, tú tài, tam tớng. Tiêu biểu là Phan Huy Cận cùng với hai con

trai là Phan Huy ích và Phan Huy Ôn đều đậu tiến sĩ, "anh em đồng khoa,
cha con đồng triều ". Nối tiếp truyền thống cha ông năm 1913 Phan Huy
Tùng cũng đậu tiến sĩ.
Về sau việc học hành lại càng đợc coi trọng, mặc dù là một vùng quê
nghèo nhng con em dòng họ Phan Huy rất chăm học, học giỏi và thành đạt
nhiều. Ta kể đến nh giáo s Phan Huy Lê, giáo s Phan Huy Xu, tiến sĩ Phan
Huy Thuần, tiến sĩ Phan Huy Tiến, tiến sĩ Phan Huy Dục và trong dòng họ
có đến hàng trăm con cháu học đại học, có nhà có ba đến bốn con học đại
học. Hiện nay dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu vẫn luôn khuyến khích động
viên con em học tập. Đây cũng là dòng họ đi đầu trong các dòng họ ở Hà
Tĩnh về phong trào khuyến học.
Dòng họ Phan Huy luôn coi trọng việc xây dựng nếp sống, kính
thuận, lẽ phép, thuỷ chung, trọng hiếu nghĩa.
Mặc dù qua các thời kỳ, nội dung, định chế cho nét gia phong này có
thay đổi, nhng có một sự bền vững xuyên xuốt các thời kỳ là truyền thống
giáo dục, xây dựng và bảo tồn một phong cách sống có màu sắc riêng của
21


dòng họ mà hầu hết dân vùng đó ai cũng thừa nhận là con cháu họ Phan Huy
lễ phép, nho nhã, kính thuận, thuỷ chung.
Con cháu họ Phan Huy luôn đỗ đạt cao đứng vào hàng áo mũ hay có
tài năng đợc bổ nhiệm thì cũng sống khiêm nhờng giản dị. Trong gia đình
chi họ ông cha rất chú ý giáo dục đạo hiếu, báo hiếu với cha mẹ bằng việc
giữ vững gia phong. Nuôi dỡng báo đáp khi già yếu, lo yên ổn mồ mả tổ tiên
khi cha mẹ qua đời.
Trong đạo nghĩa vợ chồng họ Phan Huy chú ý giáo dục tình thuỷ
chung, trọng tình nghĩa cho nên rất ít có hiện tợng đa thê, tái giá.Theo lời kể
của cụ Phan Huy Xơng thì dòng họ có 6 bà là tiết phụ, chồng mất ở vậy thờ
chồng nuôi con và đợc nhà vua phong tặng. Tiêu biểu nh bà Chánh thất là Lê

Thị Hoè, con gái thứ cụ tú tài song khoa Lê Trọng Thuy thôn Vĩnh Hoà. Bà
sinh năm ất Mùi niên hiệu Tự Đức thứ 18 (1865), mới 8 tuổi về hầu ông
Phần Khê phả quận, 19 tuổi chồng mất bà trinh tâm tiết hạnh, dạy con làm
nên (là tiến sĩ Mộng Đình Phan Huy Tùng). Năm thứ 16 niên hiệu Thành
Thái (1904) gặp lễ mừng thọ Hoàng Thái Hậu 50 tuổi có thông lục trong
ngoài ai là hiếu tử, thuận tôn, nghĩa phụ, tiết phụ, cho phép quan địa phơng
tâu lên để xem xét biểu dơng, lúc đó thừa lệnh quan Tỉnh tâu đầy đủ lên,
trong bản tâu ghi: thuỷ chung thủ tiết nuôi con học hành đỗ đạt (lúc đó tiến
sĩ Mộng Đình mới trúng tú tài). Đến tháng giêng năm ất Tỵ (1905) phục
chuẩn khâm từ ban cho tấm biển tiên khắc:"Sắc từ tiết hạnh khả phong"
(nghĩa là tiết hạnh đáng giá gơng mẫu) đợc sơn son thiếp vàng, lại phong cho
là: "Tòng tử phẩm nhân cung". Năm Canh Ngọ niên hiệu Bảo Đại thứ 5
(1930) lại đợc chuẩn thởng tấm kim bôi hạnh nhì (một bên khắc "Quỳnh
giao vĩnh bảo ", một bên khắc "Bảo đại niên tạo"(nghĩa là Ngọc Quỳnh giao
mãi mãi tốt đẹp và làm năm Bảo Đại) và đợc treo bức thuỷ anh huyền bội,
nội dung ghi "Quả c trợ tử hiền hạnh khả gia"(nghĩa là: ở vậy nuôi con, đức
hạnh đáng đợc thởng. Để khuyến khích đức hạnh tốt đẹp).
Từ việc tìm hiểu gia phong của dòng họ Phan Huy ở Thạch Châu
chúng ta nhận thấy rằng cha ông ngày xa rất công phu, có bài bản trong việc
xây dựng, bảo tồn và phát huy gia phong cũng nh bản sắc văn hoá gia tộc,
trong đó có nhiều trờng hợp đã đợc thao tác hoá, hành động hoá. Do vậy, dẫu
"qua nhiều cuộc bể dâu" nhng dòng họ Phan Huy vẫn giữ cho mình đợc một
bản sắc riêng. Tuy nhiên họ cũng có nhiều đổi mới để phù hợp với yêu cầu
mới, song vẫn giữ vững những gì có ý nghĩa vĩnh hằng nh sống trọng tình
nghĩa, sống có đạo lý , yêu nớc, hiếu học.
2.2. Dòng họ Phan Huy với truyền thống khoa bảng.

22



Hà Tĩnh nói chung và Thạch Hà nói riêng từ lâu đã có tiếng là đất học,
là quê hơng của nhiều nhà nho văn hay chữ tốt, hào hoa, phong nhã và cũng
là nơi có truyền thống khoa bảng.Tiêu biểu nh: Phan Viên (Bàn Thạch) đậu
tam giáp đồng tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại -Bảo thứ 3 (1442), Lê
Trực (Bàn Thạch) 25 tuổi đậu tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Dậu niên hiệu
Thái - Hoà thứ 11 (1453), Nguyễn Nhân Hiếu (Đan Liên) 26 tuổi đậu đồng
tiến sĩ khoa ất Sửu niên hiệu Đoan Khánh thứ 1 (1505), Trơng Quang Trạch
(Tống- Lỗ) 30 tuổi đậu đồng tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Chính-CảnhTrị thứ 8 (1670)..
Ngày nay Thạch Hà tiếp tục là quê hơng của nhiều nhà khoa học, nhà
báo, nhà giáo nổi tiếng mà đợc cả trong nớc và thế giới biết đến nh giáo s sử
học Phan Huy Lê, giáo s Phan Huy Xu, nhà báo Phan Huy Hiền.
Khoa bảng đợc coi là một niềm tự hào của nhiều dòng họ ở nớc ta,
trong đó có dòng họ Phan Huy là dòng họ có truyền thống hiếu học và đỗ đạt
cao. Từ cụ tổ đến nay đã có 15 đời con cháu, 6 đời trớc những ông cụ là võ
quan đời đời đức dày đã giữ chức tể tớng, quận công trong triều. Đến cụ
Phan Huy Cận là ngời mở đầu cho sự nghiệp khoa bảng của dòng họ, từ đó
các thế hệ sau lại nối tiếp truyền thống đó góp phần làm rạng rỡ thêm lịch sử
khoa cử Viêt Nam.
Ngời đỗ đạt đầu tiên của dòng họ Phan Huy là Phan Huy Cận, ông
sinh ngày 7 tháng 2 năm Nhâm Dần, niên hiệu Dụ Tôn Bảo Thái thứ 3
(1722) trong một gia đình quan võ, là con thứ 6 của cụ Phan Văn Tĩnh. Năm
26 tuổi thi hơng đỗ giải nguyên. Năm 33 tuổi đỗ hội nguyên khoa Giáp Tuất
năm Cảnh Hng thứ 15 (1754) thi đình đỗ Đồng Tiến sĩ ông là một ngời có
nhân cách giữ mình ngay thẳng không xu phu kẻ quyền yếu [3,312], ông
làm quan đã đến chức nhập thị bồi tụng; Hữu thị lang bộ công kiêm thị giảng
Quốc Tử Giám, năm Bính - Ngọ (1786) ông 65 tuổi, đợc về trí sĩ. Trớc khi
về, đợc thăng chức thị lang bộ công, tớc Khuê - Phong bá. Về trí sĩ đợc ít
lâu, lại có chiếu khởi dụng, lãnh chức Bình chơng sự, nhập thị kinh diên,
nhập thị bồi tụng, Thăng Khuê - Phong Hầu. Thời gian trở lại triều làm việc,
từng giữ chức tả thị lang bộ binh, bộ binh và bộ lễ, kiêm tổng tài quốc sử

quán, trớc sau ông làm việc ở triều hơn 30 năm.
Phan Huy Cận là thân phụ của Phan Huy ích và Phan Huy Ôn cũng là
những ngời đậu đạt, kế tục sự nghiệp của cha mình.
Phan Huy ích là con trai trởng cụ Bình Chơng hiệu là Dụ Am, sinh
ngày 12/12 năm Canh Ngọ (1750). Khi còn học ở quê nhà Phan Huy ích nổi
tiếng thông minh. Ông thi hơng đỗ Giải nguyên, 26 tuổi đỗ Hội nguyên, Đệ
23


tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa ất Mùi niên hiệu cảnh hng 36 (1775)
đời Lê Thiển Tông. Sau khi đỗ đợc bổ chức Hàn Lâm thừa chỉ, về sau đợc
điều đi giữ chức tham chính xứ Sơn Nam. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc, ông đến
yết kiến, đợc Nguyễn Huệ tin dùng, trao chức Tả thị lang bộ binh, tớc thuỵ
Nham Hầu. Năm 1790, ông đợc cử làm chánh sứ đa Giã Vơng sang nhà
Thanh. Năm 1792, đợc thăng chức Thị trung ngự sử. Triều Tây Sơn thất bại,
ông và nhiều nhân vật khác bị bắt, sau đó đợc tha về, ông về quê dạy học.
Sau khi Phan Huy ích đậu tiến sĩ một năm thì em ông là Phan Huy ôn
(1755 1786) cũng đậu tiến sĩ năm Canh Tý (1780). Trớc đó ông thi hơng
đỗ giải nguyên. Sau khi thi đỗ đợc bổ chức đốc đồng Sơn Tây, thăng hàn lâm
thị chế, tham đồng đê lĩnh, thiên sai tri công phiên, tớc mỹ xuyên bá. Sau khi
mất đợc tặng chức hàn lâm thị giảng, tớc Mỹ xuyên hầu.
Phan Huy Thự là con thứ hai cụ Bình Chơng (Phan Huy Cận) khoa
Tân Mão (1771) đậu Hơng cống, lúc đó ông mới 19 tuổi (đỗ cùng ngời anh
trai cả), năm Kỷ Hợi (1779) thi hội trúng Tam trờng.
Phan Huy Sảng là con thứ t cụ Phan Huy Cận khoa thi hội (1779) đậu
Hơng cống lúc 16 tuổi, thi hội nhiều lần trúng Tam trờng.
Ngoài các nhân vật đó trong dòng họ Phan Huy còn có nhiều bậc danh
tài kế tục nh Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh, Phạm Huy Thực, Phan Huy
Dũng, Phan Huy Tùng làm rạng rỡ thêm cho dòng dõi tổ tiên ông cha.
Trong những ngời này phải kể đến Phan Huy Chú, ông là con trai thứ ba

trong 6 ngời con của cụ Phan Huy ích, sinh ra trong một gia đình ông nội,
cha, chú, anh em nhiều ngời học rộng tài cao, thi cử đỗ đạt, Phan Huy Chú
thi không đỗ cử nhân, tiến sĩ mà hai lần đậu tú tài (nên thờng gọi là kép
thầy). Nhng ông là ngời thông minh, hiếu học biết nhiều, biết rộng nên đợc
bổ làm Biện Tu ở Viện hàn lâm triều Nguyễn.
Đến Phan Huy Vịnh, tự là Hàm Phủ, đỗ cử nhân khoa Mậu Tý, Minh
Mạng thứ 10 (1828), Phan Huy Dũng sinh ngày 24 tháng 3 năm Nhâm Dần
niên hiệu Thiệu Trị (1842), ông đỗ tú tài khoa Giáp Tuất (1874) đỗ Giải
Nguyên, từng ba lần làm tri huyện, thờng vụ tỉnh Sơn Tây, đợc vài năm ông
giữ chức án sát sứ tỉnh Sơn Tây.
Tiếp đến là Phan Huy Tùng sinh năm Mậu Dần, đậu cử nhân khoa
Bính Ngọ (1906), 36 tuổi đỗ hội Nguyên đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa Quý Sửu niên hiệu Duy Tân 7 (1913). Trớc khi thi đỗ làm Huấn đạo
huyện Đông Sơn, sau khi thi đỗ đợc bổ chức Thị lang trung bộ hình.
Nối tiếp truyền thống khoa bảng của cha ông, trong những thời kỳ sau
con cháu của dòng họ Phan Huy có rất nhiều ngời kết quả cao trong thi cử.
24


Tiêu biểu nh giáo s Phan Huy Lê (giáo s Sử học, là một chuyên gia hàng đầu
về lịch sử Việt Nam), giáo s Phan Huy Xu, tiến sĩ Phan Huy Thuần, tiến sĩ
Phan Huy Tiến, tiến sĩ Phan Huy Dục, cả ba ngời con gái của giáo s Phan
Huy Lê là Phan Thị Liên, Phan Thị Thảo, Phan Thị Linh đều là tiến sĩ trên
các lĩnh vực nh Hoá học quân sự, sử học, khoa học.
Ngoài ra con cháu của dòng họ hiện nay có nhiều ngời là đại tá quân
đội, là kỹ s, giáo viên giảng dạy ở các trờng Đại học, cao đẳng, nhiều ngời là
nhà báo nh nhà báo Phan Huy Hiền làm phó vụ trởng vụ báo nhân dân.
Trong dòng họ có hàng trăm ngời có trình độ Đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, có những gia đình có 3-4 con đậu Đại học.
Nh vậy, với truyền thống khổ học, hiếu học, học giỏi các thế hệ con

cháu của dòng họ Phan Huy đã ngày càng vun đắp thêm, tô thắm truyền
thống khoa bảng hiển vinh của ông cha để lại cũng nh làm rạng rỡ thêm
truyền thống khoa bảng của dân tộc Việt Nam.
2.3. Sự nghiệp trớc tác của dòng họ Phan Huy.

Mỗi tác phẩm, mỗi công trình nghiên cứu chính là sản phẩm tinh thần,
là kết tinh sức lao động của trí tuệ, trái tim những con ngời sáng tạo ra nó.
Đó là di sản thiêng liêng, là cầu nối giữa hiện tại và tơng lai. Từ những tác
phẩm ấy ta hiểu hơn tâm hồn của những con ngời và thời đại họ sống, ta
thêm hiểu bề dày tri thức của ông cha tích luỹ qua từng chặng đờng lịch sử,
ta thêm hiểu, thêm trân trọng những ớc vọng của cha ông để sống tốt hơn,
đẹp hơn với cuộc sống xung quanh mình.
2.3.1. Sự nghiệp thơ văn của dòng họ.
Nếu nh dòng họ Võ Tá xã Hà Hoàng lừng danh về võ, với nhiều quân
công, tạo sĩ (tiến sĩ võ) đời Lê thì dòng họ Phan Huy lại để lại dấu tích chói
ngời trong những sự nghiệp văn chơng kỳ tài tiếp tiếp từ thế hệ này sang thế
hệ khác, từ đời này sang đời khác. Những di phẩm kiệt xuất mà lớp lớp dòng
họ này để lại đã góp một phần vào tiếng nói hào hùng của hồn thiêng sông
núi, làm rạng rỡ diện mạo văn hoá dân tộc.
Dòng họ Phan Huy sáu đời đầu chủ yếu là quan võ, phải đến đời thứ
bảy mới phát văn. Từ đời thứ 8, Phan Huy Cận theo gia phả của dòng họ ghi
chép: lúc bấy giờ các văn thân đều xu nịnh hót, chỉ có ông không khuất phục
cho nên bị phu gian bãi chức ở nhà 8 năm, ông đã mở trờng dạy học và làm
thơ. Tuy nhiên những tác phẩm đó không thấy các tài liệu nhắc đến.
Đến Phan Huy ích là ngời mở đầu cho dòng văn chơng nổi tiếng của
dòng họ Phan Huy. Ông viết nhiều, để lại một khối lợng tác phẩm đặc biệt là
về thơ ca, ông có các tập nh Nam Trình Tạp Vịnh, Vân Sơn Khiển Hng, Cẩm
25



×