Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Khu di tích lịch sử văn hóa đền bà triệu với hoạt động di lịch ở thanh hóa luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.08 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

KHU DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
ĐỀN BÀ TRIỆU VỚI HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH Ở THANH HÓA

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện

VINH – 2011

: ThS. Phan Hoàng Minh
: Lê Thị Nguyện


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài em đã hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp đại học. Đây cũng là kết quả phấn đấu trong suốt 4 năm
học tập và rèn luyện dưới giảng đường đại học của em và công sức giảng dạy
của biết bao thầy cô trong suốt thời gian qua.
Để có được kết quả và những thành công đó em xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới giảng viên – Thạc sĩ Phan Hoàng Minh giảng
viên trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này cùng các thầy cô
trong khoa Lịch Sử. Thầy cô đã luôn tận tâm dạy dỗ, đem hết tri thức và khả
năng của mình ra để truyền thụ cho những thế hệ sinh viên như chúng em.
Tiếp theo em xin gửi lời cảm ơn đến các cán bộ nhân viên của Sở văn
hóa thể thao và du lịch Thanh Hóa đã giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình


tìm hiểu và tổng hợp tư liệu
Em xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè và người thân những người đã luôn
giúp đỡ và động viên em trong suốt thời gian qua.
Và lời cảm ơn cuối cùng em muốn dành cho ba mẹ những người đã có
công sinh thành, nuôi dưỡng và giúp em có được những thành quả như hôm
nay.

2


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU....................................................................................................1
E. PHỤ LỤC.........................................................................................................................69


A. MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI - du lịch trở thành một ngành kinh tế quan
trọng của nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng
thời hoạt động du lịch đã trở thành nhu cầu của đông đảo người dân. Du lịch
được định hướng là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia và đã đóng
góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Du lịch không chỉ đơn
thuần mang lại lợi ích kinh tế mà còn đem lại cả lợi ích chính trị - văn hóa xã hội, là phương tiện mở rộng sự giao lưu văn hóa và xã hội giữa các vùng
trong cả nước và giữa các nước với nhau. Du lịch còn tạo ra sự tiến bộ xã hội,
tình hữu nghị, hòa bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giải quyết
công ăn việc làm và làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của những vùng có
tiềm năng du lịch. Tuy nhiên ngành du lịch cũng đang đứng trước nhiều thời
cơ cũng như thách thức mới. Để có thể đáp ứng và bắt kịp được những vấn đề
đang đặt ra trước mắt cần có nhiều sự đổi mới về cả chất và lượng, trong đó

vấn đề đưa việc khai thác các điểm di tích lịch sử - văn hoá vào phát triển du
lịch là vấn đề đáng được quan tâm. Tuy nhiên phát triển phải đi đôi với giữ
gìn và phát huy những giá trị vốn có của nó. Thời gian gần đây Khu di tích
lịch sử - văn hoá đền Bà Triệu (thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá) đang
thu hút khá nhiều sự quan tâm, chú ý của các ban nghành chức năng. Khu di
tích này không chỉ nổi tiếng bởi những giá trị chứa đựng bên trong, mà còn
hấp dẫn du khách bởi nhiều cảnh đẹp cùng với vị trí địa lý thuận lợi...Nghiên
cứu, tìm hiểu về Khu di tích này giúp chúng ta thấy được thực trạng phát triển
du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng... Đồng thời qua sự nghiên
cứu có thể đề ra những giải pháp thích hợp nhằm dần thay đổi, cải thiện và
khắc phục tình trạng hiện tại của Khu di tích. Bên cạnh đó còn góp phần phát

1


triển du lịch ở Khu di tích này, mang lại nguồn lợi cho tỉnh Thanh Hoá nói
riêng và đất nước nói chung. Là sinh viên Việt Nam học (chuyên ngành Du
lịch) chúng tôi chọn đề tài: “Khu di tích lịch sử - văn hoá đền Bà Triệu với
hoạt động du lịch ở Thanh Hoá” làm đề tài nghiên cứu của mình, và hi
vọng qua đó có thể góp một phần công sức trong việc giữ gìn và phát huy giá
trị văn hoá của di tích cũng như cho sự phát triển của ngành du lịch trong
tương lai của quê hương, đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Về việc khai thác các Khu di tích lịch sử - văn hóa nói chung, ở Thanh
Hóa nói riêng, trong đó có Khu di tích lịch sử - văn hóa Đền Bà Triệu vào
hoạt động du lịch đã được nhiều học giả quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu và
cho ra nhiều công trình, nhiều ấn phẩm có giá trị. Trong những công trình, ấn
phẩm đó, các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều nội dung khác nhau
thuộc các giá trị văn hóa Việt Nam, trong đó có văn hóa tâm linh của cư dân
Việt, thông qua việc tôn vinh các vị anh hùng dân tộc qua các triều đại. Xin

đơn cử một số công trình sau:
- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb TP.Hồ Chí Minh,
Khoa Lịch Sử trường ĐHSP TP.Hồ Chí Minh, tái bản, 1992. Trong đó, tác
giả đề cập đến những giá trị văn hóa Việt Nam.
- Phạm Văn Đồng, Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1994. Trong đó tác giả đưa ra những vấn đề có tính phương pháp luận cho
việc nghiên cứu văn hoá.
- Đinh Gia Khánh, Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá
Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. Tác giả đã đề cập đến
những giá trị mang bản sắc riêng của văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập hiện nay.

2


- Đinh Gia Khánh, Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã
hội Việt nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. Tác giả đã đề cập đến vai
trò của văn hóa dân gian Việt Nam đối với sự phát triển của xã hội.
- Hồ Đức Thọ, Trần Triều Hưng Đạo Đại vương trong tâm thức dân tộc
Việt, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2006. Tác giả đề cập đến lòng tôn kính
của nhân dân Việt Nam đối với vị anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, đã được
tôn vinh thành vị Thánh
- Lê Trung Vũ (Chủ biên), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội 1992. Trong đó, tác giả đã làm rõ những nét đặc sắc của các lễ hội cổ
truyền Việt Nam và một số lễ hội tiêu biểu.
- Trần Quốc Vượng (Chủ biên), Văn hoá học đại cương và cơ sở văn
hoá Việt nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1996. Đây được coi là cuốn giáo
trình cơ bản về văn hoá học và cơ sở văn hoá việt Nam, trong đó tác giả có
phân tích những giá trị của văn hoá lễ hội ở Việt Nam.
Về lễ hội đền ở Thanh Hóa cũng đã có một số ấn phẩm được lưu hành như:

- Mai Thị Loan, Lệ Hải Bà Vương và Đền Thờ Bà Triệu, NXB Thanh Hóa
2008. Đây là cuốn sách trình bày được những nét cơ bản nhất về cuộc đời, sự
nghiệp của Bà Triệu cũng như kiến trúc và lễ hội truyền thống Đền Bà Triệu.
- Hoàng Tiến Tựu, Địa Chí Hậu Lộc, Nxb KHXH, năm 1990. Tác giả đã
khái quát các vấn đề liên quan tới huyện Hậu Lộc, trong đó có Khu di tích
lịch sử - văn hóa Đền Bà Triệu.
- Nhữ Bá Sĩ, Thanh Hóa Tỉnh Chí, Nxb Thanh Hóa, Thế kỷ XVIII…
- Ngoài ra còn nhiều bài viết có liên quan đăng tải trên các tạp chí Du
lịch và các trang Website.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các học giả đi trước, chúng tôi đi sâu
nghiên cứu các giá trị về văn hóa – lịch sử, tư tưởng của Khu di tích Đền Bà
Triệu và việc khai thác Khu di tích đó vào hoạt động du lịch ở tỉnh Thanh

3


Hóa. Qua đó chúng tôi muốn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của việc khai thác Khu di tích này vào hoạt động du lịch.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan tới Khu di tích lịch
sử - văn hoá đền Bà Triệu, bao gồm: đền Bà Triệu, Lăng Bà Triệu, đình làng
Phú Điền và các di tích có liên quan khác vào mục đích phát triển du lịch.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các di tích ở huyện Hậu Lôc, tỉnh
Thanh Hoá lien quan đến Đền Bà Triệu.
4. Nhiệm vụ của khóa luận
Khóa luận khái quát được những giá trị lớn mà Khu di tích chứa đựng.
Đánh giá thực trạng khai thác Khu di tích vào hoạt động du lịch ở Thanh Hóa.

Bên cạnh đó, khoá luận cho thấy thực trạng hết sức cấp bách về vấn đề đầu tư
phát triển du lịch ở Khu di tích lịch sử - văn hoá đền Bà Triệu. Đồng thời đề ra
các phương hướng, giải pháp và đề xuất mang tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả trong việc tổ chức khai thác Khu di tích vào hoạt động du lịch.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng những nguồn tài
liệu cơ bản sau đây:
- Các sách giáo trình về văn hóa du lịch được dùng giảng dạy, học tập
trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam.
- Các sách chuyên khảo về văn hóa, du lịch, về đời sống tâm linh, về lễ
hội đền ở Việt Nam.
- Các bài nghiên cứu về lễ hội đền nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng
được công bố trên các tạp chí Văn hóa – Thể thao – Du lịch.
- Các bài viết có liên quan trên các trang website.

4


- Một số luận văn cao học thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học có liên
quan đến vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này thuộc lĩnh vực khoa học thực nghiệm, nên chúng tôi sử dụng
chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp logic.
+ Phương pháp lịch sử.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
+ Phương pháp thu thập, xử lí thông tin.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
+ Phương pháp thống kê.

6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
Khóa luận sẽ tạo dựng một bức tranh tổng thể về các giá trị của Khu di
tích lịch sử - văn hóa Đền Bà Triệu và thực tiễn hoạt động du lịch ở Khu di
tích này trong thời gian qua, từ đó mà đưa ra một số đề xuất về các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đưa Khu di tích vào hoạt động Du lịch ở
Thanh Hóa. Đồng thời, hi vọng khóa luận sẽ cung cấp chút ít tư liệu cho
những người quan tâm.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được trình bày qua ba chương:
Chương 1. Những nét cơ bản về Khu di tích lịch sử - văn hoá đền
Bà Triệu.
Chương 2. Giá trị và thực trạng khai thác của Khu di tích lịch sử văn hoá đền Bà Triệu đối với hoạt động du lịch.
Chương 3. Giải pháp và đề xuất nhằm thu hút khách du lịch đến
với Khu di tích lịch Sử - văn hoá đền Bà Triệu.

5


B. NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ KHU DI TÍCH
LỊCH SỬ - VĂN HÓA ĐỀN BÀ TRIỆU
1.1. Quá trình xây dựng, trùng tu, tôn tạo Khu di tích lịch sử-văn
hóa Đền Bà Triệu
1.1.1. Truyền thống tôn vinh các vị anh hùng dân tộc của người
Việt Nam
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sinh
ra những con người kiệt xuất, có những đóng góp to lớn trong công cuộc bảo
vệ độc lập dân tộc, xây dựng đất nước, tài năng và đạo đức của họ được nhân
dân quý trọng, đời đời tôn kính. Những con người kiệt xuất đó, tên tuổi của

họ được lưu truyền từ đời này qua đời khác, được các thế hệ tiếp nối nhau thờ
kính và noi gương, họ trở thành những vị Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn
hóa Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của các bậc vĩ nhân ấy không chỉ phản
ánh tinh thần của dân tộc, hơi thở của thời đại, khát vọng và ý chí của nhân
dân, mà còn là những dấu son sáng ngời đã trở thành những giá trị tinh thần to
lớn của dân tộc.
Qua quá trình lao động và trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, nhân
dân ta đã chống lại ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt, lập nên bao chiến công
hiển hách, những trang sử vẻ vang, nhiều câu ca dao, tục ngữ thấm nhuần
nhiều đạo lí làm người. Chính đặc điểm lịch sử đó đã tạo nên một truyền
thống tốt đẹp và quý báu của dân tộc, đó là đạo lý "uống nước nhớ nguồn" thể
hiện lòng biết ơn đối với những ai đã tạo nên thành quả to lớn để lại cho thế
hệ mai sau. Đất nước Việt Nam xưa đã có những vị anh hùng lịch sử, từ Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đến Phan Bội Châu,Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Họ đã giúp giải phóng đất nước thoát khỏi chiến tranh cũng như

6


duy trì nền hoà bình dân tộc bền vững và đồng thời giúp đất nước ta tiến bộ,
bắt nhịp theo thời đại. Họ là người có công với đất nước, góp phần xây dựng
đất nước giàu mạnh, văn minh. Anh hùng dân tộc càng có công lớn đối với
đất nước thì càng được toàn dân kính mến và có nhiều địa phương lập đền
thờ. Ngay cả những vị anh dân tộc liều mình vì nước chiến đấu chống giặc
nhưng không thành công cũng có đền thờ và danh tính của họ cũng được đặt
tên cho các đường phố, công viên, trường học và công sở khác. Đây là trường
hợp của Bà Trưng, Bà Triệu, Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Lâm
Quang Ky, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Hữu Huân, Mai Xuân Thưởng, Phan
Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến,
Trịnh Văn Cấn, Nguyễn Thái Học, v.v... Những vị anh hùng dân tộc không

thành công trong đại cuộc đánh đuổi quân xâm lăng mà dân ta còn tôn vinh và
lập đền thờ như vậy, thì tất nhiên là đối với những vị đại anh hùng đã thành
công trong đại cuộc đành đuổi quân thù xâm lược ra khỏi lãnh thổ, giành lại
chủ quyền cho đất nước, đem lại vinh quang vẻ vang cho dân tộc, dân ta càng
phải tôn vinh nhiều hơn, lập đền thờ lớn hơn để tôn vinh và thờ cúng các
Ngài với mục đích ghi ơn các Ngài. Đây là nếp sống văn hóa của dân tộc Việt
Nam và cũng là những bài học lịch sử để cho con cháu hay các thế hệ kế tiếp
nhớ đến công ơn của các Ngài.
Thanh Hóa là vùng đất có nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh nổi tiếng, phù hợp với nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như tắm
biển, vui chơi giải trí, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, thể thao mạo hiểm, tham
quan rừng biển…Thanh Hóa còn tự hào là nơi phát tích của nhiều triều đại
như Tiền Lê, Hậu Lê… là vùng đất đã sinh ra nhiều anh hùng tuấn kiệt, danh
nho, võ tướng, trong đó có nữ tướng anh hùng Triệu Thị Trinh (Bà Triệu). Có
thể nói, Bà Triệu đã đi vào tâm thức dân gian như một nhân vật huyền thoại
với sự tôn thờ và ngưỡng mộ.

7


1.1.2. Những nét chung về việc xây dựng đền, đình, lăng ở Thanh Hóa
“Đền” là những công trình kiến trúc nghệ thuật, thờ các vị nhân thần,
thiên thần, những danh nhân, anh hùng dân tộc. Đền có lịch sử phát triển gắn
liền với lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, đây là một loại di tích lịch sử
văn hóa có lịch sử phát triển lâu đời nhất ở nước ta, thường được xây dựng ở
những nơi diễn ra các sự kiện lịch sử, nơi sinh hoặc mất của các thần điện.
Đền có các mảng điêu khắc, các nhang án, đồ tế tự, tượng, hoành phi thường
được sơn son thiếp vàng có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật, các công trình kiến
trúc thường gắn liền với các truyền thuyết, các lễ hội để tôn vinh các thần
điện hoặc danh nhân, các anh hùng dân tộc.

“Đình” là một trung tâm tín ngưỡng của nông dân Việt Nam, là một
trung tâm sinh hoạt chính trị - xã hội của làng. Đình còn như là trung tâm văn
hóa cộng đồng của thôn xã. Đình ở nông thôn Việt Nam là nơi thờ Thành
Hoàng, vị thần bảo hộ của mỗi làng, là trụ sở chính của xã thôn – nơi họp hội
đồng kỳ mục để bổ bán binh dịch, phân chia công điền, công thổ, đặt khoán
ước, giải quyết công vụ và tranh chấp, nơi thu thuế, thu sưu... Nơi tiến hành
phạt vạ cũng như ăn khao. Vào dịp hội làng (ngày giỗ của Thành Hoàng),
đình trở thành trung tâm văn hóa của làng. Tất cả kho tàng văn hóa dân gian
được tích lũy từ đời này qua đời khác được biểu hiện ở đây, với sự tham gia
nhiệt tình của tất cả mọi thành viên trong làng.
“Lăng” là những công trình được nhân dân xây dựng nhằm tưởng niệm
các vị nhân thần, thiên thần, những danh nhân, anh hùng dân tộc...
Thanh Hóa là một tỉnh lớn ở phía bắc của miền Trung, nơi lãnh thổ
Việt Nam bắt đầu hẹp lại, có diện tích 11.168km 2, số dân là 3.400.239 người
(2009). Thanh Hóa có 20 huyện, một thành phố, 2 thị xã. Nhiệt độ trung bình
của tỉnh là 23,70c, lượng mưa trung bình năm từ 1.500mm - 1.800mm. Thanh
Hóa có địa hình đa dạng: nhiều núi đá vôi, trung du và đồng bằng, diện tích

8


rừng nguyên sinh khá lớn. Tỉnh có đường bờ biển dài 100km, có 6 cửa lạch
thuận tiện cho thuyền và tàu nhỏ ra vào, có nhiều bãi biển đẹp và nhiều bãi cá
với nhiều loại hải sản quý. Thanh Hóa có tới 20 con sông, lớn nhất là sông
Mã chảy trong địa phận tỉnh dài 382km.
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có tới 20 dân tộc sinh sống, nhiều nhất là
người Kinh, người Mường. Các dân tộc ở đây còn lưu giữ nhiều di tích văn
hóa, phong tục tập quán phong phú. Đây là một trong những địa bàn cư trú
của người Việt Cổ, nơi có nền văn hóa Đông Sơn.
Thanh Hóa còn là vùng đất có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại

xâm, Vì vậy mà thanh hóa có rất nhiều các công trình kiến trúc đền đài, miếu
mạo… nhằm tôn vinh các vị anh hùng của dân tộc, những người có công
trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta.
Chính nhờ những yếu tố trên mà Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng rất lớn
về du lịch.Với sự khẳng định và gia tăng vị thế, xứ Thanh đang là một trong
những điểm đến ấn tượng, hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Cùng
với các di tích lịch sử đã được xếp hạng quốc gia như Khu di tích lịch sử Lam
Kinh, quần thể di tích đền Bà Triệu, Thành Nhà Hồ, Cầu Hàm Rồng...Tỉnh
còn có nhiều danh lam thắng cảnh hấp dẫn du khách cũng đã được xếp hạng
quốc gia đó là bãi biển Sầm Sơn với hòn Trống Mái, đền Cô Tiên, Suối cá
thần Cẩm Lương, hang Con Moong, động Trường Lâm, động Tiên Sơn, Vườn
quốc gia Bến En, động Từ Thức, Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, Pù Hu,
rừng già Hà Trung...Với việc khai thác hiệu quả nhiều loại hình du lịch, đã
góp phần làm đa dạng dịch vụ và sản phẩm du lịch xứ Thanh. Đây cũng là
yếu tố tăng số ngày lưu trú của khách du lịch mỗi khi đến với mảnh đất này
tham quan, nghỉ dưỡng, đồng thời hứa hẹn lượng khách du lịch trở lại nhiều
hơn sau mỗi lần đến đây. Nếu như, giai đoạn 2001 - 2005, nghành du lịch tỉnh
đón được 3.409.269 lượt khách, doanh thu đạt khoảng 774.825 triệu đồng,

9


nộp ngân sách Nhà nước 45.271 triệu đồng thì bước sang giai đoạn 20062010, toàn tỉnh ước đón được 10,445 triệu lượt khách, gấp 2,74 lần so với giai
đoạn 2001-2005; doanh thu đạt khoảng 3.683.500 triệu đồng, gấp 4,29 lần so
với giai đoạn 2001 - 2005, nộp ngân sách Nhà nước 127.326 triệu đồng. Du
lịch đã mở ra cho tỉnh khá nhiều nghề, tạo việc làm cho hàng vạn lao động, đời
sống của người dân cùng từ đó mà được nâng cao. Nhờ vậy, những năm vừa
qua các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế du lịch luôn đạt khá cao, trở thành nghành
kinh tế có những đóng góp quan trọng vào tổng thu nhập GDP của tỉnh.
1.1.3. Vị trí địa lý, cảnh quan của Khu di tích

Khu di tích lịch sử - văn hóa đền Bà Triệu nằm ở:
Vĩ độ 19054’00” đến 19059’00”
Kinh độ 105045’30” đến 105052’30”.
trên địa phận xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cách Hà Nội
khoảng 150km về phía Bắc và cách thành phố Thanh Hóa 15km về phía Nam,
ngay sát quốc lộ 1A, trên đường thiên lý Bắc Nam.
Để tỏ lòng biết ơn và tôn vinh Bà Triệu, nhân dân ta đã xây dựng đền
Bà Triệu ở trên núi Gai, Lăng của Bà ở núi Tùng và đình làng Bà Triệu ở làng
Phú Điền, tạo thành một tam giác nằm trong khu văn hóa bao gồm: đình,
lăng, đền, nơi ghi dấu ấn lịch sử của cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Ngô
do bà khởi xướng và lãnh đạo.
Hậu Lộc nơi có Khu di tích lịch sử - văn hóa Đền Bà Triệu là một
huyện đồng bằng ven biển, nằm phía Đông Bắc tỉnh Thanh Hóa. Từ lâu Hậu
Lộc đã nổi tiếng với nền văn hóa Hoa Lộc và cửa biển Lạch Trường là trung
tâm buôn bán có tính chất hương cảng thời đầu dựng nước. Duy Tinh - Chợ
Phủ là quận lỵ (tỉnh lỵ) Thanh Hóa suốt thời Lý Trần. Vùng này còn lưu giữ
được ngôi chùa cổ xây dựng từ thời Lý (chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh). Hậu
Lộc còn có lễ hội Cầu Ngư (làng Diên Phố) đã được Bộ văn hóa – Thông tin

10


bảo lưu di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Phía Tây huyện Hậu Lộc đồi
núi như bát úp, những xóm làng nhỏ xinh xắn nép mình ven đồi. Đường ô tô,
đường xe lửa chạy giữa các triền núi, trông thật đẹp.
Khu di tích Bà Triệu là chứng tích về một người con gái trong trắng,
quả cảm ngoan cường, người nữ anh hùng dân tộc siêu Việt quyết nối chí Bà
Trưng giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ.
1.1.4. Lịch sử hình thành và phát triển
Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu tuy thất bại, nhưng đã để lại một dấu son

sáng ngời trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Dân tộc ta nói
chung, tỉnh Thanh Hóa nói riêng tự hào đã sinh ra vị nữ anh hùng đã làm nên
những chiến công rạng rỡ cho dân tộc. Tinh thần yêu nước, chí khí quật
cường cùng sự hi sinh lẫm liệt của Bà Triệu không chỉ làm cho kẻ thù khiếp
sợ mà còn là nguồn cổ vũ lớn lao đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự
chủ của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
(thơ ca dân gian)
Đền thờ Bà Triệu có lịch sử đã lâu đời, lúc mới khởi dựng chỉ có 3
gian gỗ lợp bằng tranh, bên trong có một bệ thờ Bà Triệu. Đến thời tiền Lý
(549 – 602) Vua Lý Nam Đế trong một lần kéo quân vào Nam trừng trị bọn
phong kiến Lâm Ấp, quấy rối bờ cõi nước ta đã dừng chân tại làng Bình Lâm
(xã Hà Lâm, huyện Hà Trung bây giờ). Theo truyền thuyết khi trời tối nhà
vua cho quân lính nghỉ tạm bên Đền, về khuya Ông thấy có ánh hào quang
vụt qua. Thấy lạ, vua cho gọi dân làng đến hỏi, khi biết đây là đền thờ Bà
Triệu, nhà vua làm lễ cầu xin Bà đánh thắng giặc. Khi chiến thắng trở về, Vua
Lý đã phong Bà làm thần và cấp tiền cho dân làng Bồ Điền sửa sang ngôi đền
tranh cũ.

11


Năm Canh Thìn 1820, đời Minh Mệnh đã cho tu sửa ngôi Hậu cung
theo kiến trúc đền thờ cuốn tò vò, phần mái không sử dụng hiện vật gỗ để
tránh sự phá hoại của mối mọt do môi trường núi đất, đá sinh ra. Đồng thời
trang trí cung thứ 2.
Năm Canh Ngọ - Bảo Đại năm thứ 5 (1930) tiến hành tu sửa năm gian
Bái Đường (4 hàng cột đá có câu đối được triều đình Huế và nhân dân công
đức). Theo số liệu của quan chức cai tổng, lý trưởng xã Triệu Lộc ghi năm

1935 và 1942 thì Đền Bà Triệu đến thời điểm đó đã tu sửa 14 lần.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại Miền Bắc của không lực Hoa Kỳ đã
nhiều lần trút bom đạn xuống ngôi Đền. Đến năm 1970, Ty văn hóa Thanh
Hóa đã tôn tạo, sửa chữa lại ngôi Đền. Đến năm 1971và năm 1972 Mỹ lại
đánh phá, năm 1973 Ty văn hóa Thanh Hóa lại cho tu sửa ngôi Đền lần thứ 2
và xây tường hoa xung quanh hồ sen.
Năm 2005, được sự quan tâm đầu tư của Bộ Văn hóa thông tin của
UBND tỉnh Thanh Hóa và bằng nguồn kinh phí từ phát hành sổ số kiến thiết
do Trung ương hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động để trùng tu, tôn tạo
đền chính.
Khu di tích lịch sử - văn hóa Đền Bà Triệu đã được nhà nước công
nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia ( Đền thờ và Lăng tháp được
công nhận theo Quyết định số 54/ QĐ-BVHTT ngày 29/04/1979, Đình làng
Phú Điền được công nhận theo Quyết định số 310/ QĐ-BV ngày 13/02/1996)
1.1.5. Kiểu dáng kiến trúc và cách bài trí
Cách Hà Nội khoảng 150km dọc theo quốc lộ 1A về phía Nam chúng
ta bắt gặp một ngôi làng nhỏ đó là làng Phú Điền thuộc huyện Hậu Lộc tỉnh
Thanh Hóa. Ngôi làng xưa kia vốn nhỏ bé ấy giờ đã được du khách bốn
phương biết đến bởi ở đó có đền thờ một vị nữ tướng kiên trung, một danh
nhân đất Việt: “Đền thờ Bà Triệu”. Khu di tích được xây dựng theo hình thức

12


kiến trúc truyền thống vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ, theo kiểu “Nội công
ngoại quốc”. Với diện tích khu vực Đền là 3,83 ha.
Thưở xưa, theo lời kể dân gian truyền lại, lúc ban đầu đền Bà Triệu
được làm bằng tre nứa, cột kèo bằng luồng, vách đất, mãi đến thời Lý Nam
Đế mới xây lại bằng gạch, có đá làm móng. Do phong hóa của thiên nhiên
nên đền phải trùng tu và sửa chữa nhiều lần. Cấu trúc của đền có 3 cung mà

ngày nay vẫn lưu giữ được dấu tích (hậu cung, cung đệ nhị và cung đệ tam)
các cung đều bố trí có bài bản theo cách thức tín ngưỡng tâm linh thờ Bà
Triệu và những người có công trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Ngô. Nghi
thức bài trí có tượng Bà, có cờ nghĩa, bát hương, đại tự, lộng... nhằm làm cho
linh thiêng, hào khí trở nên sống động như thuở ấy Bà cưỡi voi đánh giặc.
Ngày nay đền Bà Triệu được xây dựng theo lối kiến trúc “Nội công
Ngoại quốc”. Đền, Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là kiểu đền, chùa có hai
hành lang dài nối nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là
nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao
quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác
ở giữa. Bố cục mặt bằng của đền có dạng phía trong hình chữ Công, còn phía
ngoài có khung bao quanh hình chữ Khẩu hay như chữ Quốc. Du khách đến
thăm đền Bà Triệu chắc hẳn ai cũng có thể cảm nhận được cái giản dị mà
cũng rất trang nghiêm của một khu di tích đã được công nhận là khu di tích
lịch sử văn hóa cấp quốc gia này.
Cổng ngoại của ngôi đền có kiến trúc cổng tứ trụ chất liệu bằng đá
khối, có tường trạm nổi hình voi ở hai bên. Các ô hộc ở trụ cổng và tứ trụ
trạm hình long, ly, quy, phượng, bốn mặt liền khối đá thân trụ, hình thức
chạm bong âm vào thân cột. Trang trí đầu trụ bằng phượng và nghê.
Qua cổng ngoại là hồ nước, trên cơ sở hiện trạng hồ nước hình chữ nhật
cũ, lan can, bậc lên xuống hồ và sân đường bao quanh đã được tôn tạo, Lan

13


can có hình kiến trúc trụ, tường chất liệu đá, sân đường lát bằng đá tảng.
Bình Phong có kiến trúc hình cuốn thư, trang trí phù điêu, phượng và
vân mây, chất liệu băng đá khối.
Miếu thờ được trang trí đăng đối trên đường thần đạo, trước cổng nội,
sau cổng trung, kết cấu gạch mái bê tông cốt thép, dán ngói mũi hài, nền lát

gạch bát truyền thống. Diện tích mỗi miếu là 6,25m2.
Cổng nội (cổng tam quan), được xây bằng gạch, hai tầng ở cửa giữa,
một tầng ở hai cửa bên, hai tầng mái, mỗi của 8 mái, mái cuốn vòm, dán ngói
âm dương. Trang trí đầu trụ bằng 4 con phượng đa tụ, hai đầu trụ hình con
nghê. Diện tích xây dựng là 62,5m2. Trước cổng đặt hai tượng nghê đá cổ, bậc
thềm cao 4,86m, rộng 7,41m bằng đá tảng.
Tiếp theo là một khoảng sân gạch khá rộng là sân tiền đường (sân thiên
tĩnh), hai bên có hai voi đá quỳ chầu, có kích thước dài 1,586m, cao 1,29m,
rộng 0,9m. Ở giữa hai voi chầu có lư hương đá khá to.Voi là vật nuôi có vai
trò lớn trong cuộc sống, nên con voi gắn với các di tích từ thời tiền sơ sử đến
thời cổ trung đại, đăc biệt là các di tích đền đài, lăng tẩm, cung miếu...Voi
làm nên nét văn hóa độc đáo của xứ Thanh với những truyền thuyết hấp dẫn,
kỳ bí. Lịch sử dân tộc đã từng nhắc đến chuyện bà Triệu đã khuất phục một
con voi trắng một ngà rất hung dữ trở thành bạn chiến đấu tung hoành trận
mạc quét sạch lũ giặc.
Thôn Cẩm thuộc xã Định Công có truyền thuyết “Đá biết nói” như sau:
Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá phách mùa
màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây
bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu Chầy ngày xưa còn lầy lội) rồi
dũng cảm nhảy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi
hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của
Bà Triệu. Nghĩa quân Bà Triệu những ngày đầu tụ nghĩa, đã đục núi Quân

14


Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao:
Có bà Triệu tướng,
Vâng lệnh trời ta.
Trị voi một ngà,

Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Nhờ đó cả vùng đã đồn ầm lên rằng núi Quân Yên biết nói, báo hiệu
cho dân chúng biết Bà Triệu là “thiên tướng giáng trần” giúp dân, cứu nước.
Cuộc khởi nghĩa của bà Triệu năm 248 chống lại quân xâm lược Ngô
đã gây chấn động Giao Châu. Khoảng 100 năm sau, sách sử Trung Quốc nhắc
đến bà Triệu như một nhân vật thần kỳ của nước Nam. Sách “Việt Điện U
Linh” của Lý Tế Xuyên đầu thế kỷ XIII miêu tả bà Triệu khi ra trận như sau:
“Vú vắt sau vai dùng lụa quấn chặt, mặc áo vàng, đi guốc ngà đứng trên đầu
voi, thanh thế ầm ầm chẳng có kẻ nào dám chống lại, trong quân đặt tên là
Nhụy Kiều tướng quân”. Qua nét vẽ từ tranh dân gian Đông Hồ, bà Triệu hiện
lên như một nàng tiên cưỡi trên con voi trắng. Là nữ tướng nhưng trong tranh
không thấy Bà cầm gươm giáo mà hai tay chỉ cầm hai dải áo. Tranh còn vẽ
cặp vú dài nữ tính của Bà, nó lắt lẻo theo nhịp đi của chú voi. Người dân xứ
Thanh còn lưu truyền nhiều câu truyện đẹp về bà Triệu cưỡi voi xung trận với
tiếng cồng, tiếng chiêng thúc giục ba quân xông lên giết giặc. Đền Bà Triệu là
ngôi đền có cảnh quan đẹp, kiến trúc bề thế với tượng voi chầu ở cổng, trước
sân đền, và hai bức tranh bà Triệu cưỡi voi trắng được trang trí hai bên tả hữu
của chính điện.
Tượng voi đá trong đền Bà Triệu được làm từ đá của xứ Thanh, trong
các di sản tượng đá, tượng voi đá có số lượng nhiều nhất. Các di tích đều có
voi đá nằm chầu phục. Đặc biệt voi đá xứ Thanh nói chung và voi đá quỳ

15


chầu ở đền Bà Triệu nói riêng được tô đẹp, tôn tạo nét uy nghiêm cho các di
tích lịch sử- văn hóa, vẽ nên câu chuyện huyền thoại không phai mờ theo thời
gian, năm tháng.

Hai bên nối với khoảng sân là tả vu và hữu vu là nơi để tiếp khách và
giành cho mọi người sửa soạn đồ lễ, là dãy nhà 5 gian, thu hồi bít đốc, hai mái
tường gạch bao che ba mặt, vì hai hàng chân theo kiểu chồng giường giá
chiêng, nền lát gạch bát cổ truyền. Diện tích xây dựng hai nhà là 127,22m2.
Trên cơ sở bảo tồn các cột đá có câu đối cổ và nếp gỗ cũ, Tiền Đường
có kiến trúc kiểu thu hồi bít đốc, tường gạch bao che ba mặt và một phần phía
trước. Có hai cửa hậu đi vào sân trung đường. Hệ khung cột đá vuông phía
trước. Kết cấu vì kiểu cột kèo, kẻ liền bẩy. Mái lợp ngói mũi hài, nền lát gạch
bát cổ truyền, bậc thềm bằng đá tảng. Diện tích xây dựng 126,1m 2. Toàn bộ
các con giống kìm nóc, đỉnh nóc được giữ lại.
Trung đường hay còn gọi là Cung giữa có kiến trúc 2 tầng, 8 mái, 5
gian, 6 hàng chân cột, tường gạch bao che ba mặt và một phần phía trước. Kết
cấu vì theo kiểu chồng giường, cột trốn, kẻ liền bẩy. Mái lợp ngói mũi hài,
nền lát gạch bát cổ truyền, bậc thềm bằng đá tảng.
Hậu cung hay cung cấm có kiến trúc 2 tầng 8 mái, 3 gian, 4 hàng chân
gạch bao che 3 mặt và một phần phía trước. Kết cấu vì theo kiểu chồng
giường, cột trốn, kẻ liền bẩy. Mái lợp ngói mũi hài, nền lát gạch bát cổ truyền,
có 9 bậc thềm bằng đá tảng, trước gian giữa có hai con rồng đá, bậc thềm diện
tích xây dựng là 90,55m2, giữa hai bậc thềm có bể nước, non bộ bằng đá
ngâm thủy (đá tự nhiên).
Tường bao quanh khuôn viên khu đền xây bằng gạch, mặt trước và đoạn
phía Tây trang trí gạch hoa đất nung dài 537,73m. Tường chắn đất hai bên cổng
tam quan, tiền đường, trung đường, hậu cung xây bằng gạch trang trí.
Các chân tảng cột cái, cột con, cột hiên, cột góc bằng đá hình hoa sen,

16


đường kính chân tảng cột cái là 0,81m, cột con là 0,63m, cột hiên 0,45m.
Toàn bộ gỗ của công trình được xử lý phòng mối mọt. Hậu cung và trung

đường làm bằng cửa bức bàn. Tất cả các con giống ở khu Đền Bà Triệu, đặc
biệt các đầu đao đều được tham khảo ý kiến của các chuyên gia đầu nghành
như Giáo sư - Tiến sĩ Trần Lâm Biền.
Đây là một di tích được tu bổ, phục hồi hoành tráng và đầy đủ, cảnh
quan thiên nhiên môi trường sinh thái không bị ảnh hưởng nhiều. Một số cây
cổ thụ vẫn được bảo tồn, một số cây của các vị cấp cao Nhà nước trồng kỷ
niệm đang ngày càng tươi tốt. Công trình được bàn giao quản lý và phát huy
di tích ngày 29 tháng 3 năm 2007. Hiện nay Đền Bà Triệu có một tổ chuyên
trách thuộc Ban quản lý và danh thắng huyện Hậu Lộc trực tiếp ngày đêm bảo
vệ, quản lý, hướng dân nhân dân dâng hương, tham quan vãn cảnh.
Đi xuống cuối sân lên 13 bậc chính là 3 gian hậu cung. Chính giữa
phía trên Đền có bốn chữ: “Triệu Nữ Vương từ”. Cột đền bằng đá có nhiều
câu đối nêu công đức của bà Triệu. Tại đền hiện nay còn lưu giữ hơn 10 bài
thơ khắc đá. Trong đó có thơ của Lý Thánh Tông, Nhữ Bá Sĩ...
Toàn bộ khu đền trông về hướng Tây, dựa lưng vào núi vững chãi và
uy nghi. Đền có chiều dài 50m, chiều rộng 15m, Đền đã bị hư hại nhiều theo
những thăng trầm lịch sử. Hiện nay Đền đã được Nhà nước xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa. Đền nằm ngay quốc lộ 1A nên bất cứ ai đi qua đều có thể
dừng chân vào viếng đền, thắp nén nhang tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc đối với vị anh hùng dân tộc. Đây cũng chính là một điểm thuận lợi
của Đền có thể thu hút được lượng lớn khách du lịch và dễ dàng thành lập các
tour, tuyến du lịch.
Hệ thống thờ cúng trong Khu Đền Bà Triệu rất trang nghiêm, theo quy
luật thờ nhân vật anh hùng dân tộc. Hậu cung ở giữa thờ Bà Triệu, hai bên tả
thờ thân phụ Vua Bà, bên hữu thờ thân mẫu Vua Bà. Bên trong Trung Đường,

17


ở giữa thờ tướng quân Triệu Quốc Đạt, bên tả là bàn thờ hội đồng quan võ và

ba viên tướng họ Lý, bên hữu là bàn thờ hội đồng quan văn. Bên trong Tiền
Đường thờ thánh tổ và bách gia trăm họ.
Phần nội thất đồ thờ đã có thiết kế mỹ thuật tổng thể, một số đồ thờ cổ
được giữ nguyên, một số phải bổ sung mới để phù hợp với kiến trúc hiện tại.
Các đồ thờ bổ sung mới được tập thể cá nhân công đức. Đặc biệt Đền có một
số đồ thờ bằng đồng có giá trị: Chuông đồng, trống đồng, chiêng đồng, bộ
ngũ sự, tam sự, bức đại tự…
Du khách sau khi dâng hương cung cấm (nơi linh thiêng thờ Bà Triệu
chỉ khi cần mới mở cửa) và cung Giữa thì có thể ra phía hông hai cung này để
được chiêm ngưỡng những mái đao xếp chồng lên nhau tựa như một tóa Sen
và sau đó lại trước cửa cung Bái đường để được đọc và nghe hướng dẫn một
số câu đối cổ khắc trên một cột đá đục vuông cạnh:
Nữ thù huy qua, danh chấn cổ
Tượng đầu trước kích, tích lưu kim.
(Tay gái vung gươm lên nổi trước
Đầu voi đạp guốc, dấu còn nay)
Thiên tượng tinh anh, vạn nhân thanh sơn hiển thánh
Nữ trung hào kiệt, thiên thu bạch tượng truyền thần.
(Tinh anh ở trên trời vạn bậc non xanh hiển thánh
Hào kiệt trong nữ giới nghìn thu voi trắng truyền thần.)
Nhất tộc phùng từ, Na Lĩnh căn cơ kim tượng lĩnh
Thiên thu thắng tích, Phú Điền phong cảnh cổ Bồ Điền.
(Một họ Phụng từ, Na Lĩnh ngày xưa giờ Tượng lĩnh
Ngàn thù thắng cảnh, Phú Điền hiện tại trước Bồ Điền.)

18


Na Lĩnh tức núi Nưa (huyện Nông Cống) nơi Bà Triệu hội quân.
Tượng Lĩnh là núi Tượng hình giống con voi, núi này thuộc dãy Bần Sơn

(còn gọi là Hồi sơn, hay núi Gai) nơi dựng Đền Bà Triệu ngày nay.
- Phích tích đương niên, chính khí phôi thai tiền Lý Đế
Triệu nhân tư thổ, thân cao đối Trĩ nhị Trưng Vương.
(dịch là: Dựng đền ngày nay đó, anh linh dạy tiếng sánh Trưng
Vương.)
Ngoài ra tại Đền còn lưu giữ những chuyện thơ như:
- Trông Bành Voi, Ngô cũng lắc đầu sợ uy. Lệ Hải Bà
Vương, những muốn bon chân về Bắc Quốc.
Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ
tướng, có chăng thẹn mặt đấng nam nhi.
Đây là mở đầu câu chuyện kể bằng thơ về Bà Triệu đánh giặc Ngô của
người nữ tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam là Nguyễn Thị Duệ - con gái làng Kiệt
Đạt, huyện Chí Linh, Trấn Hải Dương.
Làng Phú Điền nổi lên như một con cá Chép đang bơi giữa biển lúa
mênh mông, xa xa thấp thoáng là lũy tre xanh hiền hòa.
1.2. Quần thể các di tích liên quan đến Đền Bà Triệu.
Ngoài di tích đền Bà Triệu xây dựng trên núi Gai, trong khu di tích lịch
sử - văn hóa này còn có các di tích liên quan khác:
1.2.1. Lăng Bà Triệu
Tùng Sơn phong cảnh hữu tình, nơi đây thật là hùng vĩ. Người con gái
trinh trắng đã hi sinh hiến trọn tuổi thanh xuân cho đất nước, chọn gửi gắm
thân xác tại đỉnh non xanh này, để lại cho người đời một tâm tưởng hoài niện
khôn cùng. Núi Tùng giống như một cây thông, trên đỉnh là Lăng Bà Triệu
được bao phong thành mộ nổi, có tường hoa bao quanh theo đồ án hình
vuông. Ngọn tháp cao bên cạnh mộ và một cây cổ thụ nghiêng mình soi bóng

19


mát đứng cạnh tháp tạo thành một bức tranh tuyệt đẹp; riêng có mái tháp tam

cấp vút cao, bốn mái uốn cong. Trong lăng có bàn thờ và bát hương lớn. Tại
lăng có câu đối khắc vào đá:
Giang sơn hữu chủ
Phong nguyệt vô biên.
Nghĩa là:
Núi sông có chủ
Trăng gió vô cùng.
Cuối lăng có một tảng đá lớn, khắc hai chữ “ Mộ chí” bằng chữ Hán.
Lăng và tháp không lớn, nhưng thật dung dị trong một không gian tinh khiết,
trong lành. Đứng trên đỉnh núi du khách có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn núi
non, làng mạc, đườn xe, đồng ruộng...
Dưới chân núi Tùng có một cái giếng nhỏ tự nhiên, nước từ núi chảy ra
rất trong và không bao giờ cạn. Cạnh giếng, bên cạnh một phiến đá có khắc
chữ Hán nhưng nay đã bị mờ không thể đọc được, cạnh chân núi cá 3 ngôi mộ
của anh em họ Lý. Bên cạnh là tấm bia kỉ niệm dựng năm Mậu Tý (1928) cao
1m20, rộng 0,70m, dày 0,12m. Một mặt chữ có trang trí rồng chầu. Bia do Kỷ
Lão chức sắc Lý hào, bình dân làng Phú Điền dựng ca ngợi công đức Bà
Triệu. Văn bia kết thúc bằng một bài thơ chữ Hán :
Trương Việt Bình Ngô binh chiến trường
Ngặt kim di tích thượng lưu phương
Giang sơn bất tử anh hùng nữ
Sử sách do tồn Lệ Hải Vương
Tiêu kính lăng văn tiêu chính khí
Thạch nham trạm nhật lẫn minh dương
Sơn bang nhân vật thiên thu vọng
Tùng lĩnh phong cao mã thủy trường.

20



Dịch thơ:
Chiến trận xưa vung búa diệt Ngô
Tới nay di tích vẫn nên thờ
Giang sông chẳng mất anh hùng gái
Sử sách còn truyền Lệ Hải Vua
Dốc thẳm mây vờn nên chính khí
Sơn non nắng nhuộm động trời mưa
Vùng đây người vật ngàn thu vọng
Sông Mã, Tùng Sơn lộng gió lùa.
Phía Bắc chân núi Tùng vào nhà máy giấy Châu Lộc là con đường mới
mở từ Quốc lộ 1A rất thuận lợi cho du khách đến thăm viếng thắng cảnh Hàn
Sơn.
1.2.2. Đình làng Phú Điền
“Ai qua Hậu Lộc Phú Điền
Nhớ đây Bà Triệu trận tiền tiến binh”
Phú Điền là ngôi đình nằm trong quần thể di tích Đền Bà Triệu. Theo
các cụ trong làng, trước kia ngôi đình cũ xây dựng ở rìa làng, sau đó thì di
chuyển vào vị trí hiện nay. Toàn bộ cảnh quan của đình Phú Điền được xây
dựng trên một nền đất cao được xem là tụ linh, tụ phúc của làng. Phía trước
đình bên cây đa cổ thụ là bến nước ao đình, xa hơn một chút là đỉnh Tùng
Sơn. Đình được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chuôi vồ (J). Nhìn tổng thể
kiến trúc và cách trang trí có thể biết ngôi đình xuất hiện từ thế kỉ XVII. Phần
Hậu Cung (chuôi vồ) được bổ sung khoảng nửa cuối thế kỉ XIX. Dòng chữ
Hán ở thượng lương đình hiện nay cho biết đình được tu sửa năm Mậu Dần,
đời Tự Đức thứ 31 (năm 1878).
Phía trước cột đình là hai cột nanh to với hình khối vuông cạnh thẳng
đứng. Trên đỉnh cột nanh là hai tượng sấu hướng mặt vào nhau. Bộ mái được

21



lợp bằng ngói mũi hài, trên bờ nóc hai bên là đôi rồng chạy dài với thế lưỡng
long chầu nguyệt.
Phía trong đình là 6 vì kèo chạy suốt ra tận mái hiên. Kiến trúc theo
kiểu chồng rường kẻ bẩy. Tất cả có 5 hàng cột chiều ngang và 6 hàng cột
chiều dọc. Đình làng Phú Điền cũng là điểm nổi bật của văn hóa truyền thống.
Đề tài trang trí trên các kẻ bẩy, vỉ ruồi và các xà ngưỡng, ván bưng đều được
trạm khắc công phu gồm các linh vật, thú vật được linh thiêng hóa. Phổ biến
nhất là rồng: miệng Sói, tai thú, trán Lạc Đà, sừng Nai, cổ Rắn, vẩy cá Chép,
chân Cá Sấu, móng chim Ưng hóa thân trong vân mây. Ngoài ra còn trạm
khắc các linh vật khác: Phượng, Hạc, các loài chim; thú: Lân, Rùa, Hưu,
Ngựa, Voi và các loài cây hoa: Tùng, Trúc, Mai, Sen. Nét đặc biệt của ngôi
đình là trong các bức trạm khắc có xuất hiện cả hình người phụ nữ được tạo
tác dưới dạng nhạc công.
Hậu cung là nơi thờ tự Bà Triệu, các tướng lĩnh của Bà Triệu và một số
thần linh được làng Phú Điền tôn thờ. Hậu Cung gồm 3 gian, 16 cột, 3 bộ cửa
bức bàn nối giữa Hậu cung và đình chính là hàng cột đá vững chắc.
Ngôi đình làng Phú Điền là mảng bổ sung hoàn chỉnh cho Khu di tích
Bà Triệu và khẳng định giá trị tinh thần độc đáo của dân tộc ta, nhắc nhở mọi
người nhớ về cuội nguồn truyền thống. Thông qua kiến trúc và nghệ thuật
trang trí, điình Phú Điền đã phản ánh rõ tiếng nói đương thời của đời sống
làng quê dân dã. Giờ đây ngôi đình còn là nơi hành tự để du khách tới du
xuân ngắm cảnh và tìm gặp lại những bàn tay tài hoa khéo léo, tinh tế của cá
nghệ nhân xưa.
1.2.3. Các di tích khác
“An Nông, Phủ Tía, Núi Nưa
Am Tiêm, Tế Lợi sớm trưa luyện rèn”.
Bên cạnh các di tích kể trên còn có các địa danh liên quan đến cuộc

22



×